- Đại sư Tông Khách Ba
(1357-1419)
- Thích Hằng Đạt
- Chương VI
- Phái Hoàng Giáo (Gelugpa, Cách Lỗ)
Hoằng Pháp Khắp Nơi
Trên thế gian, dẫu là tôn giáo, y
thuật, hoặc sự nghiệp, chẳng phải chỉ do công sức của vị sáng lập
ra, mà các đồ đệ của vị đó cũng phải tiếp tục kế thừa không dừng,
thì mới được lưu truyền rộng rãi.
Nhờ công sức, trí huệ, và oai đức
của Đại Sư mà nền Phật giáo Tây Tạng được chấn hưng. Giáo nghĩa mà
Đại Sư hoằng dương, hoàn toàn xuất phát từ ba tạng giáo điển và yếu
chỉ căn bản của Bồ Tát Long Thọ, Vô Trước, cùng các đại luận sư
ở Ấn Độ và Tây Tạng. Đại Sư dùng ba loại giới luật (1) làm căn bản
để hành trì và hoằng pháp. Lại nữa, nhờ việc tu trì theo thứ lớp,
nên Đại Sư định đặt được sự truyền thừa lâu dài.
Sở dĩ giáo pháp của Đại Sư được
thâm nhập vào nhân tâm thuở bấy giờ, và được truyền thừa hơn sáu trăm
năm, cùng được lưu truyền khắp nơi trên thế giới vào hiện thời, tất
cả đều nhờ công lao tinh tấn tu hành và hoằng bá của đồ chúng cùng
chư đệ tử của Đại Sư trong bao đời.
Chư đại đức hoằng truyền giáo
pháp đó, đều đã quán triệt hiểu rõ tinh thần giáo nghĩa của Đại
Sư. Họ biết rõ rằng nền tảng căn bản của mọi công đức đều y nơi
giới luật. Vì vậy, họ đều dùng giới luật thanh tịnh làm nền tảng căn
bản cho sự hành trì. Nơi kinh luận, không chấp vào một bên hay những phần
tiểu tiết. Nơi toàn bộ kinh điển Hiển-Mật giáo, do lực văn và tư, đoạn
trừ những vọng chấp tăng ích và tổn hoại. Sau khi tiếp thọ giáo lý
xong, đều y theo pháp mà tu hành; hiểu rõ tất cả lời dạy của chư thánh,
không làm trái ngược chút nào; nơi các chi phần Bổ Trì Ca La thành Phật
cùng các trợ duyên đều thọ trì viên mãn, chân thật tu hành. Thường trụ
nơi chánh tri chánh niệm, tu tập tâm xuất ly, tâm Bồ Đề, đạt chánh tri
kiến; nương nơi Bổn Tôn chính và hoàn toàn y theo lời dạy của bốn bộ
mật kinh. Dùng phương tiện thần thông chỉ vì muốn hoằng pháp lợi sanh.
Những vị đại đức đó, tiếp nối thừa thọ giáo pháp Hiển-Mật dung
thông của Đại Sư. Đó là đặc điểm riêng biệt của giáo phái Hoàng
Giáo.
Đồ chúng của Đại Sư đa số đều
là những vị quán thông ba tạng giáo điển, hành suốt ba môn học vô lậu,
chuyên tu đạo của ba thừa, y theo thứ lớp sanh khởi viên mãn. Trong số
đó, những vị đa văn xuất sắc nhất và thành tựu sự nghiệp hoằng dương
Phật pháp tột bậc nhất là Đạt Mã Nhân Cần, Khắc Chủ Kiệt, Trát Ba
Kiên Tham, Ráng Dương Kiếp Kiết, Ráng Khâm Kiếp Kiết (Đại Từ Pháp Vương),
La Truy Tăng Cách (Huệ Sư Tử), Căn Đôn Chủ Ba, v.v... Đạt Mã Nhân Cần
và Khắc Chủ Kiệt kế tiếp trụ trì chùa Cách Đăng, thừa thọ ngôi
pháp vị của Đại Sư, định đặt nền tảng căn bản cho phái Hoàng
Giáo, nên có công lớn lao đối với sự hoằng truyền giáo nghĩa của Đại
Sư (Hoàng Giáo). Người sau xưng tụng Đại Sư, Đạt Mã Nhân Cần, Khắc
Chủ Kiệt là "Sư Đồ Tam Tôn (ba vị thầy trò)".
A. Sự truyền thừa
của chùa Cách Đăng (Ganden).
Chùa Cách Đăng là đạo tràng hoằng
pháp chính yếu của Đại Sư. Do đó, trụ trì ngôi chùa này, tức là làm
vị pháp vương của phái Hoàng Giáo. Danh xưng trụ trì chùa Cách Đăng vốn
là Cách Đăng Trì Ba. Lúc vị trụ trì đi vắng thì có người thay thế giảng
thuyết, lên đàn dâng hương. Lúc ra ngoài, vị trụ trì được người cầm
dù màu vàng để che. Tại Tây Tạng, trừ Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt
Ma, cùng Tát Ca Pháp Vương, chỉ riêng chùa Cách Đăng là có gia phong như thế.
Ngôi pháp tòa trong chùa, do pháp vương Diêm La dùng tay nâng đỡ; người
chưa chân thật thành tựu thì không có cách nào lên ngồi được.
Trụ trì thứ nhất của chùa Cách
Đăng là Đạt Mã Nhân Cần. Đạt Mã Nhân Cần (Gyaltsab Dharma Rinchen,
1364-1432) lúc đầu xuất gia theo phái Tát Ca, và thân cận các thiện tri thức
như ngài Nhân Đạt Ngõa, v.v... để tu học kinh luận. Thầy là một trong số
đại đệ tử của ngài Nhân Đạt Ngõa, và là vị biện luận tài giỏi
nhất.
Về sau, Đạt Mã Nhân Cần đến Tiền
Tạng, đi chu du khắp các đại tùng lâm, và y theo mười bộ đại luận để
lập tông đáp biện. Lúc đầu, nghe qua danh đức của Đại Sư, Thầy không
màng để ý đến. Vào mùa hạ năm 1397, nghe Đại Sư đang an cư tại chùa
Nhiêu Chủng (Rob-grong) ở Niếp Địa, Thầy bèn tìm đến để biện luận
pháp nghĩa. Thầy vừa đến đó thì gặp lúc Đại Sư đang giảng kinh. Vì
muốn gấp gáp thách thức biện luận, nên Thầy hùng hổ xông thẳng vào
giảng đường. Thấy hành động ngông cuồng này, Đại Sư bèn ngưng giảng,
và nhượng cho pháp tòa tối cao, lại ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn,
rồi tiếp tục giảng kinh. Đạt Mã Nhân Cần như đi vào chốn không người,
tự thị bước lên ngồi trên pháp tòa cao. Bấy giờ, lắng nghe những lời
pháp nghĩa thâm sâu của Đại Sư, Đạt Mã Nhân Cần từ từ cảm thấy từng
câu từng chữ đều nhập vào tâm tạng, mà xưa kia chưa ai có thể khai mở
những kiến giải đó cho Thầy. Vì vậy, Thầy bất chợt phát khởi tín
tâm vô hạn đối với Đại Sư, mà mở mũ ra, bước xuống tòa lễ bái, rồi
ngồi vào hàng thính chúng, cung kính nghe giảng giải. Về sau, Thầy phát
nguyện vĩnh viễn làm đệ tử thân cận Đại Sư.
Trong suốt mười hai năm, Đạt Mã
Nhân Cần theo Đại Sư học tập tất cả pháp nghĩa Hiển-Mật, và là đệ
tử thượng thủ trong tăng chúng. Sau khi Đại Sư viên tịch, Thầy tiếp thừa
pháp vị, nên mọi người đều tôn xưng là "Cổ Tào Kiệt, Đạt Mã
Nhân Cần" (1).
Lúc sắp viên tịch, Đại Sư ban
truyền mật ý và chiếc mũ màu vàng cho Thầy. Sau khi Đại Sư viên tịch,
do trì luật Trát Ba Kiên Tham và chư thiện tri thức ân cần khẩn thỉnh
thêm một lần nữa, Thầy mới chấp thuận ở lại trụ trì chùa Cách
Đăng, kế thừa pháp tọa của Đại Sư. Vừa kế thừa mạch pháp, Thầy vẫn
tôn chiếu theo pháp thức của Đại Sư, tức là lấy giới luật làm căn bản,
và hoằng truyền Tập Lượng Luận, Câu Xá Luận, Thích Lượng Luận, Hiện
Quán Trang Nghiêm Luận, Nhập Trung Luận, v.v... Tất cả mọi kiến giải đặc
thù của Đại Sư, Thầy đều tận lực hoằng dương. Trong mười ba năm ngồi
trên pháp tòa, Thầy là người được các đệ tử của Đại Sư tôn kính
như bậc tôn sư; mỗi khi có những nghi vấn nào về giáo nghĩa, họ đều
đến thỉnh hỏi nơi Thầy.
Khắc Chủ Kiệt tiếp nối Đạt Mã
Nhân Cần trụ trì chùa Cách Đăng. Khắc Chủ Kiệt (Losang Chokyi Gyelten) vốn
tên là Cách Lôi Bạt Tang (Chogyel Pelden Sangpo, 1385-1438) là vị Ban Thiền Lạt
Ma đời thứ nhất. Vị này đầu tiên xuất gia theo phái Tát Ca, và thường
thân cận ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa cùng đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần;
vị này thường dùng mười bộ luận lớn để lập tông.
Mùa xuân năm 1407, lúc Đại Sư đến
chùa Sắc Nhạ Kiếp Đảnh (2), Khắc Chủ Kiệt mang lá thơ giới thiệu của
ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa đến tham bái.
Đêm trước đó, Khắc Chủ Kiệt mộng
thấy đang đi lạc lối; bốn bề hoàn toàn u tối, nên tâm sanh sợ hãi vô
vàn, mà không biết phải đi về hướng nào. Bấy giờ, bỗng nhiên ở
phía đông xuất hiện một luồng hào quang. Trong ánh hào quang có cả trăm
lưỡi kiếm sắc bén bao thành một vòng kiếm sắt. Các đuôi kiếm đều
hướng vào vòng trong, và các lưỡi kiếm đều hướng ra ngoài. Mỗi thanh
kiếm được trang sức bằng cả trăm vầng mặt trời. Trong vòng kiếm sắt,
có một mạng lưới chiếu tỏa năm màu sắc rực rỡ. Trong ánh hào quang
có Bồ Tát Văn Thù thân màu vàng hồng với tướng hảo thanh tịnh oai nghiêm
thù diệu, như đồng tử mười sáu tuổi, và đang ngồi xếp bằng. Thân của
Bồ Tát được trang nghiêm bằng vô lượng trân báu. Tay phải cầm một
thanh kiếm; tay trái cầm một cành hoa Ô Ba Lạp. Kế bên cành hoa có một
cái tráp và một tấm kiếng trí huệ. Thấy Khắc Chủ Kiệt, Bồ Tát nở
một nụ cười từ bi, rồi từ từ bay tới, nhập vào thân của Khắc Chủ
Kiệt. Bấy giờ, những vầng mặt trời trên các thanh kiếm bỗng nhiên
phóng ra các luồng hào quang tỏa sáng cả muôn trượng, khiến cho tất cả
cảnh tối tăm u ám đều tan mất. Các luồng hào quang chiếu khắp mười
phương thế giới, bao trùm cả vũ trụ (3).
Hôm sau, vừa yết kiến Đại Sư,
Khắc Chủ Kiệt bèn sanh khởi thâm tâm kính tín, rồi đưa ra những vấn
đề khó khăn nhất trong rất nhiều bộ luận, cùng nói rõ về kiến giải
của mình; đối với những việc chưa có thể tự giải quyết, Khắc Chủ
Kiệt cũng ân cần chí thành thỉnh vấn. Đại Sư cũng hoan hỶ, giải đáp
hết tất cả những vấn nạn, rồi hỏi:
- Làm sao ông đắc được những kiến
giải và tìm thấy những vấn đề khó khăn như thế?
Khắc Chủ Kiệt thưa:
- Con vốn tu học rất nhiều thánh
giáo, rộng cầu đa văn, cùng ân cần khẩn thỉnh chư tôn sư, Bổn Tôn,
nên mới được trí huệ như vầy!
Đại Sư gật đầu tán thán:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Ta cũng đắc
được lợi ích như thế. Ta vừa được Bổn Tôn ban truyền giáo thọ tối
thắng, nay sẽ truyền lại cho ông.
Nghe qua những lời giáo huấn của
Đại Sư xong, Khắc Chủ Kiệt bèn thuật lại điềm mộng tối hôm trước.
Đại Sư bảo:
- Gặp được tôn sư cũng giống
như yết kiến Bổn Tôn. Đây là điều thật quý hóa. Điềm mộng này đủ
chứng minh rằng ông là bậc thượng căn tu học Mật pháp, vậy hãy nên
vui mừng!
Đại Sư lại bảo tiếp:
- Người có túc duyên thâm hậu,
cùng đầy đủ tâm thâm tín, thì mới đạt đến cảnh giới này. Nếu là
người khác, khó mà cảm mộng lành được. Điềm mộng này, biểu thị rằng
trong tương lai, ông sẽ hoằng dương chánh pháp rộng khắp; dùng trí huệ
vô cấu nhiễm mà tiêu trừ ngu si mê ám cho chúng sanh, khiến họ an nhiên vượt
khỏi biển khổ sanh tử.
Hôm đó, Đại Sư truyền trao pháp
quán đảnh cho Khắc Chủ Kiệt. Từ đó, Khắc Chủ Kiệt chuyên nương vào
Bổn Tôn bất cộng.
Dẫu chỉ mới gặp lần đầu, Khắc
Chủ Kiệt thật sự là pháp tử ưu ái nhất trong tâm của Đại Sư. Sau
khi Đại Sư viên tịch, Thầy trở về Hậu Tạng hoằng dương giáo nghĩa
Hiển-Mật của Đại Sư. Vài năm sau, Đạt Mã Nhân Cần thỉnh mời Thầy
trở về chùa Cách Đăng, kế thừa pháp vị. Trong tám năm trụ trì, Khắc
Chủ Kiệt cũng y theo phương thức hoằng dương chánh pháp của Đạt Mã
Nhân Cần. Lúc giảng thuyết, Thầy luôn y theo giáo nghĩa của Đại Sư, mà
không thêm vào kiến giải của mình hay của người khác.
Từ nhỏ, Thầy vốn có biện tài
vô ngại. Do đó, trong thời gian ngồi trên pháp tọa, Thầy đã từng chiết
phục những sự vấn nạn công kích của ngoại đạo, cũng như loại trừ
những đệ tử tu hành và thuyết giảng không phù hợp với lời dạy của
Đại Sư. Chân nghĩa giáo huấn của Đại Sư được lưu truyền phần lớn
đều nhờ công lao của Thầy.
Tại Tây Tạng, từ Tây Tự A Lý Đông
đến Tây Khương, khắp nơi đều cung thỉnh Thầy đến những vùng đó để
hoằng pháp. Song, trước sau Thầy vẫn lấy việc trụ trì chánh pháp ở
Trung Tạng làm sự hệ trọng, nên đều từ chối không đi. Thầy sợ rằng
Mật pháp của Đại Sư để lại sẽ bị đoạn tuyệt, nên không tiếc
sanh mạng mà giảng thuyết và trước thuật. Tất cả sự tích tiểu sử của
Đại Sư, đều do Thầy ghi lại tường tận.
Ngõa Thiện Tràng là vị trụ trì
thứ ba của chùa Cách Đăng. Ngõa Thiện Tràng cũng là một trong những đại
đệ tử của Đại Sư. Đối với tất cả giáo pháp Hiển-Mật, Thầy đều
tinh thông tường tận; Thầy đặc biệt chú trọng sự hành trì, nên chứng
đắc đại tự tại, được kế thừa ngôi pháp vị.
Huệ Pháp Hộ là vị trụ trì thứ
tư. Thầy thông suốt thiện xảo hết tất cả mật bộ, lại chuyên tu trì
Thời Luân Kim Cang, và bổ xung cho quyển sớ sao về Thời Luân Kim Cang của
Khắc Chủ Kiệt.
Pháp Tràng là vị trụ trì thứ năm.
Pháp Tràng là em của Khắc Chủ Kiệt. Đại Sư có khẩu truyền một bộ Mật
pháp là "Cách Đăng Biến Hóa Hàm". Đây là Mật pháp chính do Bồ
Tát Văn Thù ban truyền, và là giáo pháp bí yếu cho sự tu hành. Đại Sư
chỉ truyền bộ Mật pháp này cho hai người: Khắc Chủ Kiệt được một
phần nhỏ; Diệu Kiết Tường Hải được toàn bộ. Pháp Tràng vốn là vị
có pháp khí Mật Thừa bất cộng. Về sau, Thầy y theo Khắc Chủ Kiệt và
Diệu Kiết Tường Hải mà đắc được toàn bộ, và thành chủ nhân của
quyển Mật pháp đó.
Pháp Tràng truyền lại cho Pháp Kim
Cang, Kiết Tường Kim Cang, và Bảo Kim Cang. Lúc truyền pháp, Thầy phó
chúc:
- Chỉ nên truyền bộ Mật pháp
này cho một ít người chân chánh có tâm cầu xuất ly sanh tử. Đối với
những người khác, tuyệt đối không được thố lộ một điểm nào. Phải
y theo Bổn Tôn, Không Hành, Hộ Pháp để được ấn chứng.
Người đương thời xưng tán Pháp
Kim Cang, Kiết Tường Kim Cang, Bảo Kim Cang là "Kim Cang Côn Trung". Ba
vị thầy đó, về sau đắc được thành tựu thượng phẩm, và thành tựu
thân kim cang.
Pháp Tràng có tạo quyển "Tu
Trung Quán Kiến Pháp, Thời Luân Nhị Thứ Đệ Tu Pháp", và được lưu
hành tại Tây Tạng.
Kiên Huệ là vị trụ trì thứ
sáu. Kiên Huệ sáng lập chùa Đạt Bạc Trát Thương, hoằng dương chánh
pháp học hành (tu học và hành trì) của Đại Sư.
Nguyện Kiết Tường là vị trụ
trì thứ bảy. Tuy không được Đại Sư trực tiếp chỉ dạy, nhưng nhờ tín
tâm kiên cố, nên cảm được Đại Sư hiện tướng thuyết pháp. Do đó,
Thầy cũng được xem là đệ tử của Đại Sư. Thầy có viết quyển
"Thích Lượng Luận Sớ", và được lưu hành ở Tây Tạng.
Từ Đạt Mã Nhân Cần đến Nguyện
Kiết Tường đều là những vị hoằng pháp ở Hậu Tạng, nên được
xưng là "Bảy đời Văn Thù ở Hậu Tạng", nghĩa là bảy vị thầy
đó vốn do Bồ Tát Văn Thù hóa thân. Ngôi pháp vị tại chùa Cách Đăng
được triển chuyển truyền thừa, cho đến ngày nay là chín mươi bảy đời.
Chùa Cách Đăng có hai chi nhánh là Ráng Đôn (Jangtsey) và Hạ Đôn
(Shartsey). Chùa có thể chứa khoảng ba ngàn ba trăm tăng sĩ.
B. Sự truyền thừa
của chùa Triết Bang (Drepung).
Ráng Dương Kiếp Kết (1) là vị trụ
trì thứ nhất. Ráng Dương Kiếp Kết có pháp danh là Trát Tây Cụ Đôn
(Bkra-shs dpal-ldan), và là một trong số đệ tử thượng thủ của Đại
Sư. Thầy có trí nhớ rất thâm sâu. Thầy có viết bút ký về mỗi bộ
kinh như kinh Đại Bát Nhã, kinh Bảo Tích, kinh Hoa Nghiêm, và thọ trì một
trăm lẻ tám kinh luận Hiển-Mật. Lúc giảng giải, không cần cầm kinh luận,
mà trực tiếp đọc tụng ra. Trong các đệ tử của Đại Sư, Thầy là vị
đa văn bậc nhất.
Năm 1415, một ngày nọ, trong lúc giảng
kinh tại chùa Trát HỶ Đóa Đường, Đại Sư thọ ký cho Ráng Dương Kiếp
Kết:
- Đạo tràng mà ông xây cất sau
này sẽ được hưng thịnh và viên mãn hơn chùa Cách Đăng cùng các chùa
khác do huynh đệ của ông đã kiến lập.
Nói xong, Đại Sư trao cho Ráng Dương
Kiếp Kết một pháp loa (vào lúc kiến lập chùa Cách Đăng, Đại Sư tìm lại
được chiếc pháp loa này), để làm điềm lành cho chánh duyên hoằng
pháp.
Tiếp nhận pháp loa xong, Ráng Dương
Kiếp Kết nhủ thầm: "Căn bản thành tựu tất cả Mật pháp là phải
hết lòng cung kính Tôn Sư. Vì vậy, Ta phải kính cẩn y chiếu theo lời
phó chúc của Tôn Sư mà nỗ lực phụng hành".
Đêm hôm đó, Ráng Dương Kiếp Kết
mộng thấy dòng nước trên một con sông lớn chảy rất xiết. Trên bờ
sông có vô số chúng sanh. Họ muốn vượt sông, mà không có cách nào lội
qua được. Ráng Dương Kiếp Kết khởi tâm từ bi thương xót vô cùng, nên
dùng thân hình và hai tay vói lấy bờ bên kia với dạng trạng như chiếc cầu.
Chúng sanh nhờ bước lên thân mình của Ráng Dương Kiếp Kiết mà qua được
đến bờ bên đây (2).
Hôm sau tỉnh dậy, Ráng Dương Kiếp
Kết biết điềm mộng lành biểu thị cho việc phải cất chùa để hoằng
dương chánh pháp, thì mới làm lợi ích cho chúng sanh, nên rất vui mừng,
bèn lập tức phác họa công tác kiếp lập tự viện, cùng đi khắp nơi để
hóa duyên. Năm 1416, công tác xây chùa Triết Bang được tiến hành. Đại
Sư tự thân đến vùng đất đó chú nguyện gia trì. Vật liệu xây cất chủ
yếu do thí chủ là quan Nam Khách Tham Bố cung cấp.
Theo lời phó chúc của Đại Sư, Thầy
xây cất ngôi chùa này vào năm 1416. Triết Bang nghĩa là Mễ Tụ. Lúc trụ
trì, Thầy giảng Hiện Quán Trang Nghiêm, Thích Lượng Luận, Trung Quán Luận,
và đều y cứ theo pháp nghĩa của Đại Sư truyền lại. Thầy có rất nhiều
đệ tử thượng thủ như tre trúc trên mặt đất và tinh sao trong mùa thu.
Những nhân tài đó đều là các bậc long tượng trong tông môn.
Thầy phái bảy đại đệ tử đi
đến các nơi để làm giảng sư A Xà Lê, tuyên dương chánh pháp. Do đó, họ
lập ra bảy ngôi chùa lớn là Đa Môn, Minh Huệ Châu, Quảng Lạc, Hà Khuyếch,
Văn Tư Châu, Điều Phục, Mật Chú. Về sau, vì thời thế thay đổi, nên hợp
thành bốn đại tùng lâm Đa Môn, Minh Huệ Châu, Quảng Lạc, Mật Chú.
Chùa Triết Bang là một ngôi đại tùng lâm lớn nhất ở Tây Tạng. Chùa
có thể chứa khoảng bảy ngàn bảy trăm tăng sĩ. Lắm khi có đến cả mười
ngàn tăng sĩ đồng trú trong chùa.
Sau khi Ráng Dương Kiếp Kiết viên
tịch, Kiết Tường Sư Tử kế tiếp nhậm chức trụ trì. Tôn giả Hà
Ngõa Nhật Ba là một trong tám mươi bốn vị đại thành tựu ở Ấn Độ;
vị này đã từng đến Tây Tạng, ban truyền bốn Mật pháp Tý Ma Cáp Két
Lạp cho Kiết Tường Sư Tử.
Trụ trì thứ ba là Huệ Bồ Đề.
Trụ trì thứ tư là Thiện Huệ Nhật. Trụ Trì thứ năm là Thiện Huệ Xưng.
Trụ trì thứ sáu là Thích Ca Tràng. Trụ Trì thứ bảy là Nguyện Kiết Tường.
Trụ trì thứ tám là Diệu Âm Thiện Pháp Viên Mãn. Diệu Âm Thiện Pháp
Viên Mãn không những có trí huệ thâm sâu mà hành trì rất mực tinh tấn.
Ngày nọ, Bồ Tát Văn Thù Hiện thân tán thán:
- Người có trí huệ như ông, thật
khiến ai ai cũng đều hoan hỶ!
Do đó, người đều xưng tán Thầy
là Diệu Âm Hoan HỶ Huệ. Thầy có trước tác quyển Đại Thừa Trang Nghiêm
Kinh Luận Sớ, Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Sớ, Trung Luận Sớ, Nhân Minh Sớ,
Nhập Trung Luận Sớ. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ hai vốn là đồ đệ của
Diệu Âm Hoan HỶ Huệ.
Trụ trì thứ chín là Công Đức Hải.
Trụ trì thứ mười là Tăng Hải. Trụ trì thứ mười một là Phước
Xưng. Về sau, Phước Xưng cũng kế thừa ngôi pháp vị của Đại Sư tại
chùa Cách Đăng, và là giáo thọ sư của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ
ba. Sự nghiệp của Phước Xưng rất to lớn, và có trước tác giảng giải
năm bộ đại luận, để làm nền tảng căn bản của sự tu tập cho chùa
Huệ Châu. Ngoài ra, Phước Xưng còn trước tác quyển mật điển Tập Mật
Lưỡng Chủng Thứ Đệ, và được lưu truyền ở Tây Tạng. Đó là một
trước tác rất giá trị, mà hiện nay vẫn còn được xem là một pháp bảo
vô thượng.
Trụ trì thứ mười hai là Phước
Hải. Trụ trì thứ mười ba là Vinh Đơn Gia Mục Thố (1589-1616,
Yon-tam-rgya-mtsho), vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ tư. Trụ trì thứ mười bốn
là La Tang Khước Tiếp (1567-1662, Blo-bjan chos-kyi, rgyal-mtshan), vị Ban Thiền
Lạt Ma đời thứ tư. Trụ trì thứ mười lăm là A Vượng La Bốc Tạng
Gia Mục Thố (1617-1682, Nagdban blo-bzan rgya mtsho), vị Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ năm. Vị Đạt Lai Lạt Ma này ngay từ lúc nhỏ đã được tôn giả A
Để Sa và Đại Sư hiện thân gia trì. Khi vị Đạt Lai Lạt Ma này được
sáu tuổi, Ban Thiền Lạt Ma La Tang Khước Tiếp dẫn chư đại đức cao
tăng của ba đại tự viện cùng vua Phước Pháp Tăng, theo lễ nghi mà cung
thỉnh lên ngôi pháp vị ở chùa Triết Bang.
Năm 1641, vua Mông Cổ là Cố Thủy
Hãn bắt vua Tây Tạng giao toàn bộ chính quyền cho Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ năm (3). Sau đó, trên núi Hồng Sơn ở Lạp Tát, vị Đạt Lai Lạt Ma
này cho xây cung điện Bố Đạt Lạp (Potala) rất trang nghiêm hùng vĩ, để
làm nơi trấn tích trượng trị nước. Vào năm 1653, vua Thanh Thuận Trị
ban pháp hiệu cho Đạt Lai Lạt Ma là "Tứ Thiên Đại Thiện Tự Tại
Phật, Sở Lãnh Thiên Hạ Thích Giáo, Phổ Thông Ngõa Điệc Lạt Đát Lạt,
Đạt Lai Lạt Ma", cùng ban cho ấn tín. Về sau, vua Thuận Trị lễ bái
Đạt Lai Lạt Ma làm Quốc Sư. Trong Quyển Giáo Pháp Thọ Ký có ghi:
"Trong đời mạt pháp, Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân với hình tỳ kheo
vương tướng, để hộ trì Tây Tạng".
Vì tin tưởng đức Đạt Lai Lạt
Ma là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, nên từ đó cho đến hiện tại,
toàn bộ quyền chánh trị và tôn giáo đều do các đức Đạt Lai Lạt Ma
chuyển sanh chấp chưởng.
Đạt Lai Lạt Ma A Vượng La Bốc Tạng
Gia Mục Thố hoằng dương chánh pháp rộng lớn, kiến lập mười ba đại
tự viện. Đối với tất cả tông phái, chùa miếu, đều quy định tăng
chế nghiêm cẩn, cùng khuyến khích sự tu học chân thật. Để giúp cho người
tại gia được sống an lạc, Ngài dạy họ trì tụng sáu câu thần chú
(4). Ngài lại dạy tăng chúng tu trì "Dược Sư Bát Phật Nghi", và
pháp cúng dường mười sáu vị thánh giả. Lại nữa, để giúp chánh pháp
mãi trụ thế, Ngài gom nhiếp hết tất cả bí yếu của kinh luận mà trước
tác quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận Giảng Nghĩa. Nói chung, sự
nghiệp hoằng pháp của Đạt Lai Lạt Ma A Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố
vô cùng to lớn, và công đức vô lượng vô biên, không thể ghi chép hết.
Từ đó, chùa Triết Bang đều do các
vị Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp trụ trì.
C. Sự truyền thừa
của chùa Sắc Nhạ (Sera)
Thích Ca Dã Hiệp (1) là một trong
tám đại đệ tử thanh tịnh của Đại Sư, cũng là vị có phước đức và
học vấn bậc nhất. Năm 1414, Thích Ca Dã Hiệp đại diện Đại Sư đến
kinh đô Trung Quốc. Năm 1416, Thích Ca Dã Hiệp từ Trung Quốc trở về Tây
Tạng, mang theo những phẩm vật do vua Vĩnh Lạc ban tặng như kinh điển,
tượng Phật, vải lụa, các bảo khí bằng vàng bạc, ngọc thạch, v.v... rồi
cúng dường toàn bộ các phẩm vật đó lên Đại Sư.
Năm 1418, y theo lời phó chúc của
Đại Sư, Thích Ca Dã Hiệp xây chùa Sắc Nhạ (tức Đại Thừa Châu) tại
vùng Sắc Nhạ Kiếp Đảnh, cách Lạp Tát khoảng tám dặm về phía bắc.
Tên Sắc Nhạ có hai cách giải thích. Một là Bạc Tử (mưa đá), vì lúc
xây chùa thì có mưa đá rơi xuống. Hai là chỉ cho nơi sanh ra rau dại 'sắc
vi". Nghĩa thứ nhất thì được phổ biến hơn. Đầu tiên, chùa Sắc
Nhạ có năm đại viện, nhưng về sau hợp thành ba đại viện như Kết Ba,
Mai Ba, A Ba. Sau này, Thích Ca Dã Hiệp tiếp tục xây cất hạ viện chùa Sắc
Nhạ là chùa Hòa Kiết. Chùa có thể chứa năm ngàn năm trăm tăng chúng.
Ngôi chùa này là đại tự viện thứ hai của phái Hoàng Giáo.
Về sau, vua Tây Tạng là Đại Tại
cũng xây thêm chùa Nga Quả (2) để làm chánh điện cho chùa Sắc Nhạ,
cùng cung thỉnh tất cả tăng chúng tại chùa Thê Nhượng (3) dời về đó.
Hiện tại, chùa Nga Quả là viện Mật Tông của chùa Sắc Nhạ.
Trong chùa Sắc Nhạ có rất nhiều
pháp bảo. Trong chánh điện, có tượng Quán Thế Âm do tỳ kheo ny Mã Ba Ma
(4) cúng dường. Thánh tượng này rất linh hiển.
Ngoài ra, hạ viện của chùa Sắc
Nhạ cũng thờ phụng một tôn tượng giới hương Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chùa Sắc Nhạ thờ phụng một tôn tượng Mã Đầu Minh Vương biết nói.
Viện Mật Tông thờ phụng thánh tượng tôn giả Duyên Lạp Nhung (5) biết
nói. Trong chùa cũng có chứa một trăm ngàn quyển kinh của đại tạng kinh
Cam Châu và Đơn Châu. Xây cất chùa Sắc Nhạ vào năm 1419 xong, Thích Ca Dã
Hiệp lại vào kinh đô Trung Quốc, làm quốc sư trong hai đời vua Minh Vĩnh
Lạc và Minh Tuyên Đức. Lúc lâm chung, Thích Ca Dã Hiệp truyền trao ngôi
pháp vị cho Cát Cụ Ba (6) Thịnh Quảng Hiền.
Trụ trì thứ ba là Công Như Tràng
Hiền. Ban đầu, tuy gần gũi Đại Sư mà Công Như Tràng Hiền chưa hiểu
được pháp nghĩa chân chánh, nên thường bị Khắc Chủ Kiệt quở trách.
Sau này, nhờ tinh tấn dũng mãnh, chuyên tâm nghiên cứu tu tập pháp nghĩa của
Đại Sư, Công Như Tràng Hiền đắc được đại thành tựu.
Trụ trì thứ tư là Nhiêu Ráng Sắc.
Trụ trì thứ năm là Huệ Bảo Sư Tử. Trụ trì thứ sáu là Nội Đôn Sắc.
Trụ trì thứ bảy là Lập Phác Pháp Vương. Trụ trì thứ tám là Bạt
Giác Luân Chủ; Thầy đã từng biện luận thắng Thích Ca Ba của phái Tát
Ca, và chiết phục sự ngã mạn cùng phá tà thuyết của vị thầy đó; Thầy
cũng trước tác quyển Biện Liễu Nghĩa Bất Liễu Nghĩa Luận Thích Nạn.
Trụ trì thứ chín là Kiết Tường
Huệ, Trụ trì thứ mười là Diệu Âm Bất Không Kiết Tường. Trụ trì thứ
mười một là Căn Đôn Gia Mục Thố (1476-1543, Dge-gdun-rya-mtsho), vị Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ hai. Trụ trì thứ mười hai là Kết Tôn Pháp Tràng;
trí huệ của Thầy rộng sâu như biển cả; năm bộ đại luận do Thầy chú
thích, làm nền tảng căn bản cho sự tu học ở viện Kết Ba thuộc chùa Sắc
Nhạ.
Trụ trì thứ mười ba là Phước
Xưng. Trụ trì thứ mười bốn là Pháp Xưng Hiền. Trụ trì thứ mười
lăm là Tỏa Lãng Gia Mục Thố (1543-1588, Bsod-nams-rgya-mtsho), vị Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ ba. Trụ trì thứ mười sáu là Đông Khuyếch Công Đức Hải.
Trụ trì thứ mười bảy là Vinh Đơn Gia Mục Thố (1589-1616,
Yon-tam-rgya-mtsho), vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ tư. Trụ trì thứ mười tám
là La Tang Khước Tiếp, vị Ban Thiền Lạt Ma đời thứ tư. Trụ trì thứ
mười chín là A Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố, vị Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ năm. Từ đó về sau, các vị Đạt Lai Lạt Ma chuyển thế liên tiếp
trụ trì.
Chùa Cách Đăng, chùa Triết Bang,
chùa Sắc Nhạ, được xưng tán là ba đại tùng lâm lớn ở Tây Tạng.
Các ngôi chùa này, không những là nơi Đại Sư đã từng hoằng dương Phật
pháp, mà còn là trung tâm văn hóa của toàn nước Tây Tạng suốt hơn sáu
trăm năm.
D. Sự truyền thừa
ở chùa Trát Thập Luân Bố (TashiLhupo).
Trụ trì thứ nhất là Căn Đôn Chủ
Ba; vị này vốn là một trong đại đệ tử nhỏ tuổi nhất của Đại
Sư. Căn Đôn Chủ Ba (1), sanh gần chùa Tát Ca. Vào đêm vị này mới giáng
sanh thì có một bọn cướp xông vào nhà cướp bóc. Vì không kịp mang
theo, nên người mẹ đành dấu vị này dưới gầm đá. Sáng hôm sau, lúc mọi
người trở về, họ thấy chim ưng đứng canh giữ vị này, không cho độc
trùng và dã thú đến nhiễu hại. Thấy điềm lành này, mọi người đều
cho là việc không thể nghĩ bàn, nên bảo nhau rằng Căn Đôn Chủ Ba nhất
định là một vị Bồ Tát hóa sanh.
Từ thuở nhỏ, oai nghi hành tướng
của Căn Đôn Chủ Ba rất mực đoan nghiêm, chẳng thích chơi giỡn cùng với
các đứa trẻ đồng lứa. Vì gia đình bị cướp bóc, nên cuộc sống rất
khó khăn chật vật. Do đó, lúc nhỏ Căn Đôn Chủ Ba phải giúp cha mẹ, ra
đồng chăn dê. Lần nọ, Căn Đôn Chủ Ba đã tự tay sao chép kinh Dược
Sư để hồi hướng công đức cho thân sinh vừa mới tạ thế. Năm mười
lăm tuổi, Căn Đôn Chủ Ba xuất gia, đảnh lễ trụ trì chùa Nõa Đường
làm thầy, tu học các loại kinh luận và Mật pháp. Năm hai mươi lăm tuổi,
Căn Đôn Chủ Ba một mình đến Tiền Tạng, theo trụ trì chùa Trà Chủ là
Cổn Tang Ba Nhân Ba Thiết học tập Nhân Minh và Trung Luận. Lúc theo ngài Cổn
Tang Ba Nhân Ba Thiết đến tham bái Đại Sư, Căn Đôn Chủ Ba thỉnh hỏi về
những điều nghi vấn trong luận Thích Lượng, và nghe Đại Sư giảng về
Biện Liễu Bất Liễu Nghĩa Luận, Trung Luận Sớ, Thượng Sư Ngũ Thập Pháp
Tụng Sớ, Mật Tông Giới Sớ, cùng những bộ luận thâm sâu bất cộng
nghĩa. Do có trí huệ thông minh lanh lợi, nên Căn Đôn Chủ Ba rất được
Đại Sư khen ngợi. Vì biết Căn Đôn Chủ Ba có nhân duyên hoằng dương giới
luật, nên Đại Sư tặng cho vị này một tấm y ca sa năm điều. Để thọ
trì giới luật thanh tịnh, Căn Đôn Chủ Ba sang chùa Trát Ca học giới luật.
Lúc lên đường, Căn Đôn Chủ Ba được Đại Sư tặng một thỏi vàng để
làm thuận duyên cho việc cầu học, và được Đại Sư tán thán:
- Ông dùng tâm nguyện hành trì mà
đi cầu học giới luật. Đây thật là điều rất hy hữu. Từ nay, ông
hãy nên nỗ lực hoằng dương thánh giáo, để Phật pháp được lan truyền
khắp nơi.
Sau này, Căn Đôn Chủ Ba thân cận,
và được Đại Sư ban truyền giáo pháp bất cộng. Sau khi Đại Sư viên tịch,
Căn Đôn Chủ Ba thân cận Khắc Chủ Kiệt qua nhiều năm. Căn Đôn Chủ Ba
có trước tác quyển Giới Kinh Sớ, Nhân Duyên Tập, Chánh Lý Trang Nghiêm
Luận, Thích Lượng Luận Sớ, v.v... được lưu truyền cho đến ngày nay.
Sau này, Thầy theo La Truy Tăng Khách (Huệ Sư Tử) đến Hậu Tạng hoằng pháp.
Ngày nọ, đang lúc nhập thất tịnh tu trong núi Hưởng Đóa Cách Bồi, Thầy
mộng thấy Đại Sư ngồi trên một đỉnh núi cao ngất; thầy Huệ Mật ngồi
giữa lưng chừng núi, còn Thầy thì ngồi dưới chân núi. Bấy giờ Thầy
nghe Huệ Mật bảo:
- Xưa kia, đại sư Tông Khách Ba có
thọ ký cho chúng ta rất nhiều việc...
Huệ Mật càng nói thì âm thanh
càng nhỏ dần, khiến cho Căn Đôn Chủ Ba không thể hiểu rõ ý nghĩa của
câu đó. Đang nghi ngờ, bỗng nhiên có người bảo:
- Này Căn Đôn Chủ Ba! Vì có duyên
lành, trong tương lai ông nên hoằng dương "Thích Lượng Luận" tại
nơi này.
Căn Đôn Chủ Ba nghe lời này rất
rõ ràng. Buổi sáng nọ, lúc Thầy trú tại vùng Bạc Đống, một bà lão từ
xa đi đến, nói:
- Nơi đây có chùa của Thầy. Có
chùa tức có chúng sanh...
Thầy bèn hỏi bà ta về tên của
ngôi chùa, và việc hoằng pháp ra sao. Bà ta bèn chấp tay như búp hoa sen trước
ngực, nói:
- Chùa phải như thế, và tên là Hữu
Võng (2).
Nói xong, bà ta liền biến mất. Thầy
biết đây là lời thọ ký của Không Hành Mẫu, nên rất vui mừng.
Pháp vương La Truy Tăng Cách thường
qua lại chùa Tang Chủ Đảnh ở Na Đường. Mỗi lần đi qua vùng mà người
sau gọi là "Trát Thập Luân Bố", thì La Truy Tăng Cách chỉ tay bảo:
"Tâm của Ta thường cảm thấy Căn Đôn Chủ Ba thuyết pháp tại nơi
đây!"
Vào năm 1447, y theo những nhân
duyên lành đó, Căn Đôn Chủ Ba khởi công kiến lập chùa tại nơi mà La
Truy Tăng Cách đã chỉ bảo (tức vùng phụ cận của Nhật Khách Tắc); đại
thần Cùng Kết Ba và Ban Giác Tang Bố làm thí chủ cúng dường tịnh tài
và vật liệu. Buổi sáng nọ, đang lúc xây chùa, Căn Đôn Chủ Ba lại nghe
tiếng của người đàn bà khi xưa, bảo:
- Ngôi chùa này, phải đặt tên là
Trát Thập Luân Bố (3).
Xây cất xong, Căn Đôn Chủ Ba y
theo lời thọ ký của Không Hành Mẫu mà đặt tên chùa là Trát Thập Luân
Bố.
Ngày nọ, đang lúc đứng đối diện
với cổng chùa làm lễ độ chúng xuất gia ở bãi cỏ trong sân chùa, Căn
Đôn Chủ Ba vô tình xoay đầu lại nhìn về phía sau chùa, thì thấy cảnh
tượng thật giống như cảnh mộng trong lúc tu hành tại núi Hưởng Đóa
Cách Bồi, nên biết rõ rằng trong tương lai, Phật pháp tại ngôi chùa này
sẽ được phát triển hưng thịnh.
Năm 1450, đại chúng ở chùa Cách
Đăng phái người đến cung thỉnh Căn Đôn Chủ Ba trở về kế nhậm pháp
vị. Song, Căn Đôn Chủ Ba từ chối, bảo:
- Tôi không thể đi được. Vừa xây
xong ngôi chùa này mà bỏ đi thì e rằng sẽ không ổn. Vì Phật pháp nên
tôi đã từng tạo dựng sự nghiệp ở đây. Từ nay, tôi sẽ nhắm vào mục
tiêu hoằng dương giáo pháp của Đại Sư, nên cần phải ở lại nơi đây.
Pháp Tràng (4) là vị có công đức và giáo chứng đều viên mãn, cũng là
vị rất tương xứng kế thừa ngôi pháp vị. Các ông hãy mau trở về cầu
thỉnh vị đó!
Căn Đôn Chủ Ba từ chối lời ngưỡng
thỉnh, mà tiếp tục trụ trì ngôi chùa đó suốt ba mươi tám năm, làm lợi
ích cho dân chúng vùng Hậu Tạng rất nhiều, và đào tạo không ít nhân
tài cho Phật giáo.
Chùa Trát Thập Luân Bố là ngôi đại
tự viện lớn nhất tại vùng Hậu Tạng, và là đại tùng lâm thứ tư của
phái Hoàng Giáo. Kiến trúc của ngôi chùa này rất quy mô. Chùa có ba đại
viện lớn là Kiết Khương, Hạ Tư, Thỏa Tang Lâm. Về sau, các vị Ban Thiền
Lạt Ma xây thêm mật viện A Ba. Chùa có thể chứa khoảng bốn ngàn bốn
trăm vị tăng. Các nhân tài xuất hiện tại ngôi chùa này được sánh bằng
những nhân tài tại ba đại tự viện ở Tiền Tạng.
Trụ trì thứ hai là Hiền Kiết Tường.
Trụ trì thứ ba là Giáo Lý Hải. Trụ trì thứ tư là Trí Đảnh. Trụ trì
thứ năm là Căn Đôn Gia Mục Thố, vị Đạt Lại Lạt Ma đời thứ hai. Trụ
trì thứ sáu là Thánh Giáo Nhật. Trụ Trì thứ bảy là Huệ Tràng. Trụ
trì thứ tám là Bất Không Hải. Trụ trì thứ chín là La Trác Lỗi Tang; Thầy
trước tác và chú giải rất nhiều kinh luận để làm căn bản giáo lý
cho sự nghiên cứu tu học của tăng chúng ở chùa Trát Thập Luân Bố.
Trụ trì thứ mười là Pháp Tràng.
Trụ trì thứ mười một là Pháp Tường Hải. Trụ trì thứ mười hai là
Phước Tràng. Trụ trì thứ mười ba là Tang Chủ Bạt Tang. Trụ trì thứ mười
bốn là Chánh Hải Tăng Trưởng. Trụ trì thứ mười lăm là Thiên Vương
Huệ. Trụ trí thứ mười sáu là La Tang Khước Tiếp, vị Ban Thiền Lạt
Ma đời thứ tư. Từ đó, trải qua bao đờI chuyển sanh, các vị Ban Thiền
Lạt Ma kế tục trụ trì.
Ban đầu, phái Hoàng Giáo có bốn
đại tự viện (Cách Đăng, Sắc Nhạ, Triết Bang, Trát Thập Luân Bố) làm
cơ sở chính cho sự hoằng pháp. Về sau, bốn đại tự viện đó ngày
càng phát triển hưng thịnh, và các chùa chiền của những tông phái khác
cũng đua nhau chuyển y theo phái Hoàng Giáo. Do đó, giáo pháp của Đại Sư
từ từ được lưu truyền khắp Tây Tạng và Mông Cổ.
E. Sự hoằng pháp
tại vùng A Lý
Vùng đất phía tây của Tây Tạng
là A Lý. Người hoằng truyền giáo nghĩa của Đại Sư ở vùng đó vào buổi
ban đầu là HỶ Nhiêu Tang Bố (Stod se-rab bzan-po), vị đại đệ tử của
Đại Sư.
HỶ Nhiêu Tang Bố (Stod se-rab
bzan-po, hay Thượng HỶ Nhiêu Tang Bố) vốn là người vùng A Lý. Sau khi theo
Đại Sư tu học Phật pháp hoàn tất xong, Thầy trở về vùng A Lý ở Hậu
Tạng, và xây cất chùa Đạt Ma (Stag-mo) tại Mang Vực (Man-yul). Người cháu
của Thầy là HỶ Nhiêu Ba (Ses-rab-pa) xây chùa Sắc Sắc tại A Lý. Về sau,
các ngôi chùa thuộc phái "Thượng Lạc Hoằng Pháp" trước kia như
chùa Tang Cát, Cao Đằng Kim Điện, Chỉ Đôn, La Đông, Quân Lục Tích đều
được đổi thành các đạo tràng của phái Hoàng Giáo, và nỗ lực hoằng
dương giáo pháp của Đại Sư. Những ngôi chùa này, cho đến ngày nay vẫn
còn hưng thạnh. Đương thời, các quan lại trong vùng đều lễ bái và tôn
Thượng HỶ Nhiêu Tang Bố là bậc Tôn Sư.
Khắc Chủ Kiệt có một đại đệ
tử, tên là Thiên Vương Huệ. Vừa đến vùng A Lý, Thầy bèn sửa sang
chùa Bắc Đồ, tu bổ chùa Ba Gia Hòa Lập Căn. Từ đó, các tự viện thuộc
phái Hoàng Giáo, hoặc là mới xây cất, hoặc là những ngôi chùa cũ được
sửa sang lại mỗi ngày một tăng, khiến giáo pháp của Đại Sư lưu bố
khắp vùng A Lý.
G. Sự hoằng truyền
tại vùng Từ Thị Châu ở Xương Đô.
Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố (Smad ses-rab
bzan-po, hay Hòa Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố) là người Tây Khương. Ban đầu, Thầy
tu học giáo pháp của Đại Sư ở chùa Sắc Nhạ. Lúc Thịnh Quảng Hiền
nhận chức trụ trì, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố là phó giảng A Xà Lê.
Đương thời, rất nhiều tăng chúng
trong các đại tự viện đều y theo quy thức giáo chế của Đại Sư, nghiêm
thủ giới luật, hạnh giải đồng tu, thiết thật hành trì. Do đó, chư
tăng và kẻ tục đều tán thán không ngớt. Ngày nọ, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố
tự nhủ: "Lúc trở về Tây Khương, Ta cũng lấy giới luật làm nền tảng,
hoằng dương giáo pháp chánh kiến thanh tịnh vô cấu, để làm lợi ích
cho chúng sanh".
Bấy giờ, ngài Bồ Đề Ý dùng thần
thông, biết rõ tâm nguyện của Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố, nên thỉnh mời vị
này đến gian phòng riêng, cúng dường cúng phẩm thượng diệu, và tặng
cho một xấp lụa, cùng một chiếc mũ vàng, rồi bảo:
- Vì được biết Thầy muốn sớm
trở lại Tây Khương để hoằng pháp nên hôm nay tôi mời Thầy đến không
ngoài mục đích muốn tiễn đưa Thầy. Về sau, chánh pháp ở Tây Khương,
sẽ do Thầy trụ trì.
Nghe lời này, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố
lấy làm kỳ lạ nên thầm nghĩ: "Ta chưa hề thổ lộ ý định sớm trở
về Tây Khương, nhưng tại sao ngài Bồ Đề Y lại biết và chỉ dạy như
thế? Phải chăng Ta không thể ở đây lâu dài chăng? Thôi thì Ta phải trở
về trình hết tự sự cho ngài Khắc Chủ Kiệt biết để Ngài dạy bảo!"
Do đó, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố gấp
rút trở về chùa Cách Đăng yết kiến Khắc Chủ Kiệt, và kể rõ tự sự.
Khắc Chủ Kiệt chẳng những không giữ Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố lại, mà
còn thọ ký:
- Hôm nay duyên lành của ông trở về
Tây Khương đã đến. Tây Khương có một ngọn núi tên là Nhật Oa. Đó
là nơi mà ông nên hóa độ chúng sanh. Trong tương lai, sự nghiệp hoằng
dương Phật pháp của ông tại nơi ấy sẽ rất lớn lao!
Nói xong, Khắc Chủ Kiệt tặng cho
Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố rất nhiều lễ vật và thúc giục đi sớm.
Vừa trở về Xương Đô ở Tây Khương,
vào năm 1437, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố xây chùa Từ Thị Châu (1), diễn giảng
năm bộ đại luận cho hơn ba ngàn người nghe khiến thính chúng đạt được
sự ích lợi lớn lao. Bấy giờ, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố mới nhận thấy lời
tiên tri thuở xưa của ngài Bồ Đề Ý thật là linh ứng.
Về sau, Hạ HỶ Nhiêu Tang Bố giáo
hóa rất đông đồ chúng, và đa số họ đều là những bậc long tượng
trong tông môn; các vị đó thường phân tán đi khắp vùng Tây Khương mà
xây cất chùa chiền cùng hoằng dương chánh pháp, khiến giáo nghĩa của Đại
Sư được lưu bố rộng rãi khắp nơi.
H. Sự hoằng pháp
tại vùng A Đa.
A Đa là vùng phụ cận của Tây
Ninh (hiện tại là vùng Cam Túc và Thanh Hải). Vùng này vốn là chốn hoang
vu. Sau này, do nhiều vị đại đức đến đó xây cất chùa chiền, nên số
lượng tăng chúng tu học đông đảo không thua gì những đại tùng lâm ở
Tiền Tạng.
Chùa Tháp Nhĩ (Cổ Bổn) là một
trong những đại tùng lâm của phái Hoàng Giáo, nằm trong thị trấn Lỗ Sa
Nhĩ, huyện Hoàng Trung, tỉnh Thanh Hải, cách chợ Tây Ninh khoảng hai mươi
bốn dặm về phía tây nam. Ngôi chùa này là nơi mà mẹ Đại Sư để chiếc
y quấn thai nhi thuở trước. Vì nhớ thương con đã vào Tây Tạng mà không
thấy trở về nên mẹ Đại Sư cho xây một ngôi tháp nhỏ ngay nơi đó. Để
tưởng nhớ công lao chấn hưng Phật giáo Tây Tạng của Đại Sư, người
sau xây một ngôi tháp lớn bằng bạc, cao mười một thước, ngay trên nền
móng của ngôi tháp cũ. Về sau, ngôi tháp nầy lại trở thành ngôi chùa
Tháp Nhĩ.
Năm 1560, ngài Nhân Khâm Tông Triết
Kiên Tham lại cho xây thêm chùa Cổ Bổn Gia Ba Lâm trước mặt tiền của
ngôi tháp.
Năm 1577, ngài Nhân Khâm Tông Triết
Kiên Kham lại xây thêm một ngôi chánh điện Bồ Tát Di Lặc. Năm 1583, trên
đường vào kinh đô Trung Quốc do vua Mông Cổ ngưỡng thỉnh, đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ ba (Tỏa Lãng Gia Mục Thố (Bsod-nams-rgya-mtsho),
1543-1588) khi đi ngang qua nơi đó, thì gặp và bảo vị trụ trì Tông Triết
Kiên Tham Tang Bố cùng các vị thí chủ, xây thêm và nới rộng ngôi chùa
đó ra. Nơi đó, vào mỗi tháng giêng, tăng chúng trong chùa đều cử hành
pháp hội cúng dường.
Trải qua bao đời truyền thừa, chùa
Tháp Nhĩ đã trở thành một đại tùng lâm sau khi xây xong bốn đại viện:
Viện Giảng Kinh, viện Mật Giáo, viện Y Học, và viện Thiên Văn.
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ tư (Vinh
Đơn Gia Mục Thố (Yon-tam-rgya-mtsho), 1589-1616) đã từng phái Bất Không
Pháp Hải xây cất chùa Từ Thị Châu tại vùng A Đa, để thuyết giảng
kinh luận, và hoằng dương pháp nghĩa Hiển-Mật. Về sau, Diệu Âm Tiếu
Kim Cang xây thêm viện Mật Tông ngay trong ngôi chùa đó. Do đó, chùa Từ Thị
Châu trở thành nơi có đủ hai pháp Hiển-Mật. Quốc sư triều Thanh là Cảnh
Gia Hoạt Phật và Độ Quan Hô Đồ Khắc Đồ, v.v... cũng xuất thân từ
ngôi chùa này.
Trụ trì thứ mười là Nghĩa Thành
Hải; vị này lại xây thêm đại tùng lâm Đổ Sử Viện Chánh Pháp Châu.
Ngôi chùa này cũng được phân thành bốn viện lớn. Nhân tài xuất sanh từ
ngôi chùa này rất nhiều.
Do lời cầu thỉnh của Nam Thân Vương
ở Hoàng Hà, ngài Diệu Âm Tiếu Kim Cang xây chùa Lạp Bốc Lăng tại huyện
Hạ Hà, tỉnh Cam Túc. Chùa phân thành bốn viện: Hiển giáo, Mật giáo, Thời
Luân, y học, và hoằng dương giáo nghĩa Hiển-Mật vô cấu của Đại Sư.
Sau khi ngài Diệu Âm Tiếu Kim Cang viên tịch, đệ tử Ngôn Tự Tại Kiết
Tường kế thừa ngôi pháp vị, rồi truyền lại cho Bảo Vô Úy Vương. Từ
đó về sau, chùa này do các vị Diệu Âm Tiếu Kim Cang chuyển thế trụ
trì.
Các bậc long tượng ở ngôi chùa
này có tài năng vượt bội hơn nhân tài ở những nơi khác. Trong chùa,
các tự viện lớn nhỏ cũng có hơn cả trăm ngôi. Hiện nay, tại vùng A
Đa, ngôi chùa này là trung tâm tu học và giảng kinh thuyết pháp.
Vào đời nhà Nguyên và nhà Minh, tại
vùng A Đa có chùa của hai phái Tát Ca và Cát Cử, nhưng đến đời nhà
Thanh thì tăng sĩ tu trong những chùa đó dần dần chuyển sang phái Hoàng
Giáo. Sự hưng thạnh của các tự viện ở vùng A Đa, dẫu về phương diện
nào, cũng không thua sút với những tự viện ở Lạp Tát. Lại nữa, tại
chùa Lạp Bốc Nghiêm các bản kinh đều có đầy đủ, và có rất nhiều bộ
trước tác của các vị đại đức; đó là pháp bảo dành cho sự tu học
Hiển-Mật giáo của Phật pháp. Do đó, người tu học Phật pháp tại Tứ
Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải, Mông Cổ đều đua nhau đổ dồn đến đó mà tu
học, không khác gì ba đại tự viện ở Tiền Tạng.
I. Sự hoằng pháp
ở Hậu Tạng.
Pháp vương La Truy Tăng Cách (Huệ Sư
Tử) sau khi hoằng pháp giảng giải quy thức tu Mật pháp ở Mông Cổ xong,
bèn dẫn Căn Đôn Chủ Ba trở lại Hậu Tạng.
Trên đường về Hậu Tạng có thầy
Huệ Mật (1) đến xin theo họ tu học giáo pháp Hiển-Mật. Ngoài ra, cũng có
rất nhiều các thiện tri thức khác đến xin cầu học dưới tòa của La
Truy Tăng Cách và Căn Đôn Chủ Ba. Tăng chúng và thính chúng hội tụ ngày
càng đông. Pháp Vương Thiện Tài tán thán:
- Lúc còn nhỏ, tôi đã từng cùng
với trì luật pháp vương Huệ Mật và rất nhiều tín chúng đến nghe pháp
vương La Truy Tăng Cách và Căn Đôn Chủ Ba giảng thuyết. Những pháp hội
đó giống như pháp hội giảng kinh của Phật Thích Ca trên núi Linh Sơn.
Thấy thính chúng tham dự những
pháp hội nghe giảng kinh ngày càng đông, La Truy Tăng Cách suy nghĩ:
"Xưa kia, trước pháp tòa của Đại Sư, Ta đã nguyện hoằng dương Mật
pháp. Nay thời cơ đã đến!"
Do đó, La Truy Tăng Cách vừa hoằng
dương Tập Mật vừa đi thuyết giảng khắp vùng Hậu Tạng. Ngày nọ, khi
La Truy Tăng Cách đến chùa Luân Bạc Đảnh dưới chân núi Luân Bạc Đảnh,
thì vị trụ trì tên là Thánh Quang Công Đức (vị này có chú thích quyển
"Nguyệt Xưng Tập Mật Thích", và cực lực hoằng truyền pháp Tập
Mật) dẫn đồ chúng ra nghinh đón và thỉnh cầu được ban pháp yếu. Nhớ
lời thọ ký của Đại Sư về quyển "Đại Oai Đức Du Già Hành Giả",
La Truy Tăng Cách bèn kiến lập đàn tràng tu Mật pháp của Đại Sư và giảng
nghi thức của Tập Mật, cùng đem mặt nạ Diêm La, cốt trượng, dây nhợ
do Đại Sư ban cho, để lại chùa Luân Bạc Đảnh hầu mong lưu niệm về
sau.
Thầy trò La Truy Tăng Cách lại tiếp
tục đến chùa Sư Tử Đảnh ở núi Sư Tử Đảnh. Nơi đây có một bà
huyện làm đại thí chủ, hỗ trợ pháp hội hoằng truyền Mật Bộ cùng
thiết lập nghi thức đàn tràng tại chùa Sư Tử Đảnh của La Truy Tăng Cách.
Bà huyện này không ai xa lạ, chính là Dạ Xoa Nữ mà năm xưa Đại Sư đã
từng thọ ký.
Lúc truyền pháp tại chùa Sư Tử
Đảnh, La Truy Tăng Cách quán sát thấy đồ đệ là Đô Nõa Ngõa vốn có
khả năng và có đủ cơ duyên hoằng dương Mật pháp.
Ngày nọ, La Truy Tăng Cách cùng Căn
Đôn Chủ Ba đến nhà một thí chủ để thọ trai. Ngồi phía bên phải của
Căn Đôn Chủ Ba là Đô Cách Ngõa. Ngồi bên trái của La Truy Tăng Cách là
Đô Nõa Ngõa. Bấy giờ, La Truy Tăng Cách hỏi Đô Nõa Ngõa:
- Này Đô Nõa Ngõa! Trong mười hai
con giáp, ông thuộc con nào?
Đô Nõa Ngõa đáp:
- Đệ tử thuộc con ngựa.
La Truy Tăng Cách cười bảo:
- Duyên này thật lành thay! Tục ngữ
có câu "nơi trâu chết, ngựa chạy". Vùng Nha HỶ (2), dân chúng nơi
đó có nhiều duyên lành với ông. Vậy hãy mau đến đó mà hoằng dương
chánh pháp.
Nói xong, La Truy Tăng Cách lấy ra
chiếc mũ của Đại Sư mà đưa cho Đô Nõa Ngõa. Đô Nõa Ngõa không dám nhận,
mà tác bạch:
- Thánh vật này đáng lý để ngài
Căn Đôn Chủ Ba nhận lãnh mới phải. Thỉnh Tôn Sư từ bi truyền trao cho
con pháp Tập Mật Thích của Đại Sư để lại!
La Truy Tăng Cách chấp thuận lời
thỉnh cầu, đưa cho Đô Nõa Ngõa quyển Tập Mật Thích do Đại Sư trước
tác. Thọ pháp xong, Đô Nõa Ngõa bèn y theo lời phó chúc của La Truy Tăng Cách
mà đến vùng Nha HỶ hoằng dương Mật pháp.
Mang bộ Tập Mật Thích do Đại Sư
trước tác, Đô Nõa Ngõa đến vùng Nha HỶ, kiến lập viện Mật giáo tại
chùa Đổ Sử Cung, hoằng truyền Mật pháp. Đó là vùng thượng Hậu Tạng
(3), nơi sáng lập viện Mật giáo đầu tiên của Đại Sư.
Sự giảng truyền Mật giáo trong viện
Mật Tông, chủ yếu là bốn bộ sớ hợp giải về Tập Mật của Đại
Sư, cùng pháp nghĩa Kim Cang Đạo Tập của Đô Nõa Ngõa. Ngoài ra, còn giảng
truyền tám đại giáo nghĩa như Tập Mật Ngũ Thứ Đệ, Thắng Lạc Luân
La Linh Nhị Phái, Đại Oai Đức Tứ Thứ Đệ Du Già, Thời Luân Lục Gia Hạnh,
Đại Luân Kim Cang Thủ Tứ Gia Trì, Na Nhã Lục Pháp, Pha Ngõa Khai Kim Môn
Pháp, Hoan HỶ Kim Cang. Về sau, hai bộ luận cuối là Đại Luân và Pha Ngõa
không còn được giảng mà chỉ giảng sáu bộ luận trên. Trong viện Mật
Tông cũng truyền những tiểu giáo như Chủ Cụ Mã Pháp, Huyễn Luân Pháp,
Hộ Ma Pháp, Ma Cáp Két Lạp Đóa Cần Pháp, Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu.
Lại nữa, Tập Mật, Thắng Lạc, Đại Oai Đức, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Quảng Luận, cùng tất cả Hiển-Mật pháp cũng được ban truyền.
Viện Mật giáo từ Đô Nõa Ngõa
truyền xuống Diệu Âm Chúng Tăng, cho đến Bảo Tăng Thượng, trải qua hai
mươi mốt đời; trực tiếp truyền thừa là chín đời. Mỗi đời đều có
những đại thiện tri thức đạt được công đức thành tựu hai loại
sanh khởi và viên mãn thứ lớp.
Mai Ngữ Tự Tại Huệ và Diệu Âm
Trì Giáo (4) đến học pháp nghĩa dưới tòa của Bảo Tăng Thượng. Song, Bảo
Tăng Thượng cũng chưa truyền cho họ những Mật pháp quan trọng như pháp
quán đảnh của Tập Mật, cùng những phần bí yếu nhất trong Mật pháp.
Về sau, lúc tám mươi mốt tuổi Bảo
Tăng Thượng gặp những vị thượng căn của Mật Thừa như Diệu Âm Tiếu
Kim Cang, Cảnh Gia đời thứ nhất, Ngữ Tự Tại Hiền Huệ Cụ Xưng, Đường
Tát Ba Thành Tựu Hải, v.v... liền truyền hết mọi nơi bí yếu của Mật
pháp cho họ. Truyền pháp viên mãn xong, chẳng bao lâu Bảo Tăng Thượng viên
tịch.
Xưa kia, lúc phó chúc Đô Nõa Ngõa
đến Nha Hy hoằng dương Mật pháp xong, La Truy Tăng Cách trở lại vùng
phía đông của Tiền Tạng, sáng lập hạ viện Mật giáo (Gyumey) vào năm
1440 (5), tuyên giảng đại pháp Tập Mật và tám bộ giáo nghĩa của Mật
pháp.
Ngôi pháp vị ở hạ viện Mật
giáo về sau truyền cho Thí Tường Nhân Ba Thiết. Vị này có viết quyển
"Tập Mật Kinh Thích", và nỗ lực hoằng dương chánh pháp không ngừng.
Bấy giờ, trong chùa có một thiện tri thức, tên là Cống Cát Đốn Châu,
vị đã từng thân cận La Truy Tăng Cách tu học Mật pháp. Về sau, vị này
lại y theo Thí Tường Nhân Ba Thiết học kinh luận. Sau khi Thí Tường Nhân
Ba Thiết viên tịch, Cống Cát Đốn Châu thỉnh thánh tượng Ma Cáp Két Lạp
và đảnh cốt qua vùng phía tây của Tiền Tạng mà giảng pháp.
Thấy điềm lành về số tự và số
mục của tướng Bổn Tôn trong mật đàn, Cống Cát Đốn Châu biết đó
là thời cơ truyền pháp đã đến, nên khai giảng pháp Tập Mật, cùng
thành lập thượng viện Mật giáo vào năm 1474. Trong mười ba năm hoằng pháp,
dưới tòa của Cống Cát Đốn Châu có rất nhiều nhân tài.
Cuộc sống của tăng chúng trong thượng
hạ viện Mật giáo rất ư nghiêm cẩn, và luôn chú trọng chuyên cần tu khổ
hạnh. Mỗi ngày phải tham gia tụng kinh bốn lần. Thời khóa công phu đầu
tiên là vào lúc hai giờ sáng. Dẫu thời tiết lạnh hay nóng, đều phải
kiên trì ngồi tu hành. Thượng hạ viện Mật giáo là nơi hoàn thiện và
cao cấp nhất ở Tây Tạng. Chỉ có những tăng sĩ tu học Hiển-Mật giáo
tại ba đại tự viện thành tựu xong, mới có đủ tư cách để đến đó
tu tập. Các vị pháp vương của chùa Cách Đăng thuộc phái Hoàng Giáo, đều
xuất thân từ thượng hạ viện Mật giáo.
Về sau, các nơi trong nước Tây Tạng,
đua nhau xây thượng hạ viện Mật giáo, và nối tiếp nhau thành lập đạo
tràng hoằng dương Mật pháp của Đại Sư. Do đó, những bộ trước tác
chú thích của Đại Sư dần dần được lưu truyền khắp nơi.
Giáo pháp Hiển-Mật của đại sư
Tông Khách Ba thật là thù thắng. Vào thời vua Càn Long, một người Mông Cổ
thỉnh hỏi vị Ban Thiền Lạt Ma đời thứ năm rằng đời sau có được
sanh trở lại làm người không. Ban Thiền Lạt Ma đáp:
- Được!
Người đó hỏi tiếp:
- Con có thể được sanh vào vùng
có Phật pháp chăng?
- Có thể được.
- Con có thể gặp được giáo pháp
của đại sư Tông Khách Ba chăng?
Ban Thiền Lạt Ma trầm ngâm một
lát, rồi đáp:
- Việc này không thể dễ dàng.
Giáo pháp của Đại Sư là tâm yếu của Phật pháp; nơi ba phương diện kiến
giải, tu pháp, và hành trì đều rất thù thắng phi thường. Nghĩa là kiến
giải không lạc vào hai bên; pháp tu không đọa nơi hôn trầm trạo cử;
hành trì pháp Đại-Tiểu, Hiển-Mật viên mãn. Do đó, gặp được giáo
pháp của Đại Sư là một điều rất hy hữu.
Giáo pháp của Đại Sư thù thắng
như thế, nhưng có nhiều người cho rằng điểm nổi bật của phái Hoàng
Giáo là chỉ ở nơi biện luận, nghiên cứu kinh điển, và nghiêm trì giới
luật. Song, Đại Sư vốn là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù. Vì muốn trụ
trì chánh pháp, làm lợi ích cho loài hữu tình, nên lúc còn đi cầu học,
Đại Sư tu học hết tất cả giáo pháp Hiển-Mật. Về sau, nhờ sự giáo
hóa trực tiếp của bổn tôn Bồ Tát Văn Thù, Đại Sư chỉnh đốn những
chỗ sai lầm trong Mật pháp của các giáo phái ở Tây Tạng, rồi rút ra những
điểm tinh túy của các giáo phái đó và dung hợp làm một thể, để biên
thành Mật pháp thuần túy có hệ thống và thứ tự. Ngoài ra, tại các đại
tự viện, Đại Sư cho xây những viện Mật Giáo để giảng thuyết và ban
truyền pháp Mật Tông. Trải qua hơn sáu trăm năm, đời đời thầy trò đều
truyền nhau như thế. Do đó, giáo pháp Hiển-Mật của phái Hoàng Giáo là
Phật pháp chánh thống.
Nhờ các đệ tử đời đời nỗ lực
hoằng truyền, mà giáo pháp Hiển-Mật thù thắng của Đại Sư dần dần
được truyền từ Tây Tạng sang Tây Khương, Cam Túc, Thanh Hải, nội ngoại
Mông Cổ, các tỉnh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ni Bạc Nhĩ (Nepal), Bất Đan, MỸ
Quốc, Châu Âu, Châu Úc, Đài Loan, v.v... Sự hoằng truyền vĩ đại này,
chính nhờ bi nguyện và oai đức của đại sư Tông Khách Ba cảm chiêu!
L. Danh tánh của
các vị Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma.
i. Đạt Lai Lạt Ma
và hệ chuyển sanh.
Danh từ Đạt Lai (Dalai) vốn chẳng
phải là tiếng Tây Tạng mà xuất phát từ danh từ Gia Mục Thố (Rgyamt'so)
của Mông Cổ. Gia Mục Thố theo tiếng Tây Tạng có nghĩa là Hải (biển),
cũng là danh từ để tôn xưng các vị Lạt Ma đạo cao đức trọng, chứ
chẳng giới hạn dành riêng đức Đạt Lai Lạt Ma, nên trong pháp danh của
các vị đại Lạt Ma thường có danh từ Gia Mục Thố. Tổng cộng, Tây Tạng
có mười bốn vị Đạt Lai Lạt Ma.
Vào năm 1578, vua Mông Cổ là Thuận
Nghị Yêm Đáp Hãn (1) sai sứ thần là A Nhĩ Thản cung nghinh ngài Tỏa Lãng
Gia Mục Thố (Đạt Lai Lạt Ma đời thứ III) đến vùng Sát Bốc Tể Lặc
Nhã (ở Thanh Hải) và Mông Cổ hoằng pháp, cùng tôn xưng vị này là Đạt
Lai (2). Từ đó, Lạt Ma giáo của phái Hoàng giáo được lưu hành khắp nước
Mông Cổ. Đương thời, vua Yêm Đáp Hãn cũng ban hiệu cho vị Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ III là Đạt Lai Lạt Ma Kim Cang Chấp Trì (Vajra-dhara). Từ đó,
danh hiệu này được thông dụng khắp Mông Cổ và Trung Quốc, cùng khắp
toàn thế giới (trong hiện tại).
Người Tây Tạng vốn không xử dụng
danh từ Đạt Lai, mà chỉ dùng vào lúc ngoại giao. Bình thường dân Tây Tạng
tôn xưng Đạt Lai Lạt Ma là: 1/ Gia Mục Cung Lâm Bảo Gia
(Sky-ads-mgon-po-c,e), nghĩa là Cứu Hộ Tôn Giả; 2/ Cái Ngõa Lâm Bảo Gia
(Rgyal-ba-rin-po-c,e), nghĩa là Đắc Thắng Tôn Giả; 3/ Đạt Mục Tiền Kham
Ba (T'ams-Cad-mk'yeu-pa), nghĩa là bậc Nhất Thiết Trí. Tương truyền, những
vị Đạt Lai Lạt Ma vốn là hóa thân của Bồ Tát Quán Âm.
Vào năm 1650, vua Mông Cổ Cố Thỉ
Hản (Gu-sri-khan) thuộc bộ lạc Hòa Thác Đặc giao trọn quyền về mặt Chánh
Trị và Tôn Giáo của xứ Tây Tạng cho vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V (A
Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố). Từ đó cho đến hiện tại, các vị Đạt
Lai Lạt Ma chuyển sanh không những là vị giáo chủ của Hoàng giáo, mà
còn là vị lãnh tụ tinh thần tối cao của toàn thể nước Tây Tạng về
các mặt chánh trị cũng như tôn giáo.
Những nhân viên cận vệ của Đạt
Lai Lạt Ma là Bố Cách (Sbugs, nghĩa là Đại Nội).
Dưới đây là pháp danh của mười
bốn vị Đạt Lai Lạt Ma.
1/ Căn Đôn Chủ Ba, (1391-1475,
Dge-vdun-grub-ba (Gedun Drunb), dịch là Tăng Thành) đại đệ tử của đại
sư Tông Khách Ba, sanh quán tại vùng Hiệp Đa Đạt Thác ở Hậu Tạng.
2/ Căn Đôn Gia Mục Thố (1475-1543,
Dge-gdun-rya-mtsho (Gedun Gyatso), dịch là Tăng Hải) sanh quán tại vùng Đạt
Na Sai Mễ ở Hậu Tạng.
3/ Tỏa Lãng Gia Mục Thố (1543-1588,
Bsod-nams-rgya-mtsho (Sonam Gyatso), dịch là Phước Hải) sanh quán tại vùng Trạch
Hát Khang Tắc Cống ở Đối Lũng.
4/ Vinh Đơn Gia Mục Thố (1588-1616,
Yon-tam-rgya-mtsho (Yonten Gyatso), dịch là Công Đức Hải) sanh quán tại vùng
Thổ Mặc Đặc Bộ ở nội Mông Cổ.
5/ A Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố
(1617-1682, Nagdban blo-bzan rgya mtsho (Ngawang Lobsang Gyatso), dịch là Thiện Huệ
Hải) sanh quán tại vùng Tần Ngõa Đạt Tắc ở Quỳnh Kiết.
6/ Thương Ương Gia Mục Thố
(1683-1706, Tshans-dbyans-rgya mtsho (Tsanyang Gyatso), dịch là Phạm Âm Hải) sanh
quán tại vùng Vực Tùng ở Môn Địa.
7/ Cách Tang Gia Mục Thố (1708-1758,
Skal-bzan-rgya-mtsho (Kelsang Gyatso), dịch là Hiền Kiếp Hải) sanh quán tại
vùng Lý Đường ở Tứ Xuyên.
8/ Khương Bạch Gia Mục Thố
(1758-1805, Hjam-dpal-rgya-mtsho (Jampal Gyatso), dịch là Diệu Kiết Hải) sanh
quán tại vùng Thác Gia Lạp Nhật Cương ở Tạng Đống.
9/ Long Đa Gia Mục Thố (1806-1816,
Lun-rtogs-rgya-mtsho (Lungtog Gyatso), dịch là Giáo Chứng Hải) sanh quán tại
vùng Đan Khước Khoa ở Đa Khang.
10/ Sở Xưng Gia Mục Thố (1816-1837,
Tshul-khrim-rgya-mtsho (Tsultrim Gyatso), dịch là Giới Hải) sanh quán tại vùng
Lý Đường ở Tứ Xuyên.
11/ Khải Châu Gia Mục Thố
(1838-1855, Mkhas-sgrub-rgya-mtsho (Khedrup Gyatso), dịch là Thiện Thành Hải) sanh
quán tại vùng Mộc Nha Tháp ở Đa Khang.
12/ Xưng Lặc Gia Mục Thố
(1856-1875, Sprin-las-rgya-mtsho (Trinlay Gyatso), dịch là Sự Nghiệp Hải) sanh
quán tại vùng Hát Chương Tế ở Nương Bố.
13/ Thổ Đan Gia Mục Thố (1876-1933,
Thubbstan-rgya-mtsho (Thubten Gyatso), dịch là Phật Giáo Hải) sanh quán tại
vùng Đạt Bố Lang Đôn.
14/ Lạp Mộc Đăng Châu Gia Mục Thố
(1935- ; Nag-dban blo bzan bstan hdsin rgya mtsho (Tenzin Gyatso), dịch là Trì Giáo Hải)
sanh quán tại vùng Hoàng Trung Kỳ Gia Xuyên ở Thanh Hải.
ii. Ban Thiền Lạt
Ma (hay Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Ni) và hệ chuyển sanh Ban Thiền Lạt Ma
Đời thứ nhất là Khắc Chủ Kiệt,
và là đại đệ tử của đại sư Tông Khách Ba. Qua nhiều đời, Ban Thiền
Lạt Ma và Đạt Lai Lạt Ma đều hỗ tương làm thầy trò. Vị Đạt Lai Lạt
Ma thứ năm thỉnh vị thầy là La Tang Khước Tiếp (Ban Thiền Lạt Ma đời
thứ IV) trụ trì chùa Trát Thập Luân Bố ở vùng Nhật Cách Tắc (Bkra'sis
lhum-po) ở Hậu Tạng. Vào năm 1645, vua Cố Thỉ Hản (1) thống trị hai vùng
Vệ và Tạng, tôn phong ngài La Tang Khước Tiếp làm Ban Thiền Bác Khắc Đa
(2). Nhân vị này trụ trì chùa Trát Thập Luân Bố, nên người ngoại quốc
gọi là Trát Thập Lạt Ma (Tshi-lama). Sau này hệ Ban Thiền Lạt Ma đều tiếp
nối truyền thừa trụ trì ngôi chùa đó.
Ban Thiền vốn là phiên âm của tiếng
Tàu, mà nguyên âm là Pan-dita, cũng là hợp âm của tiếng Phạn và Tây Tạng;
tiếng Phạn gọi là Ban Đệ Đạt (3); tiếng Tây Tạng gọi là Thiền Bảo
(4); kết hợp lại thì thành nghĩa Đại Phạm Ngữ Học Sư, hay nghĩa Bác Học
Quảng Đại, nên dịch là Đại Phật Học Sư; danh xưng Ban Thiền không phải
mới được gọi sau này; thật ra danh từ nầy từ xưa đã có mà điển hình
là vị Ban Thiền Thích Ca Sư Lợi.
Vị Ban Thiền Lạt Ma đời thứ
năm được triều Thanh phong tặng danh hiệu là Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức
Ni; Ngạch Nhĩ Đức Ni (Ertini hay Erdeni) là tiếng Mãn Châu, nghĩa là Trân Bảo
hoặc Như Ý Bảo Châu, vì Ngài là vị Đại Bảo Sư hoặc Đại Như Ý Bảo
Sư. Người Tây Tạng tin tưởng rằng Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của Phật
A Di Đà; các vị Ban Thiền Lạt Ma vốn có mối quan hệ thầy trò với các
vị Đại Lai Lạt Ma. Tuy có quyền thế, nhưng những vị Ban Thiền Lạt Ma
chuyển sanh chỉ làm cố vấn cho chính quyền địa phương, mà không có
toàn quyền như những vị Đạt Lai Lạt Ma chuyển sanh.
Hệ của Ban Thiền Lạt Ma có mười
vị như sau:
1/ Khắc Chủ Kiệt (1385-1438, hay Khải
Chu (Mkhas-grub-rje)), đại đệ tử của đại sư Tông Khách Ba, sanh quán tại
vùng Lạp Đa Đóa Hùng ở Hậu Tạng.
2/ Toản Lãng Tiếp Ngang (1439-1504,
Bsod nams phyogs-glan) sanh quán tại vùng Ân Tát ở Hậu Tạng.
3/ Ân Sư Ba (1505-1556, Dben-sa-pa) sanh
quán tại vùng Ân Tát ở Hậu Tạng.
4/ La Tang Khước Tiếp (1567-1662,
Blo-bjan chos-kyi, rgyal-mtshan) sanh quán tại vùng Lan Chu Giáp ở Tạng Đống.
5/ La Tang Ích Tây (1663-1737, Blo-bzan
Ye-ses) sanh quán tại vùng Thác Gia Trúc Luân ở Hậu Tạng.
6/ Ban Hựu Ích Hy (1738-1779, Dpal-ldan
ye-ses) sanh quán tại vùng Thác Tây Mục.
7/ Đăng Tất Ni Mã (1781-1852,
Blo-bjan bstan pahi ni-ma) sanh quán tại vùng Tát Nam Mộc Kiết Hùng ở Hậu Tạng.
8/ Đăng Tất Vượng Tu (1854-1882,
Chos kyi grags-pa bstan-pahi dban-phyug) sanh quán tại vùng Thác Gia ở Hậu Tạng.
9/ La Tang Khước Kinh (1883-1935,
Blo-bzan thub-bstan chos-kyini ma) sanh quán tại vùng Đạt Bố Hoài Ba.
10/ Cung Bảo Từ Đan (1938-1989, Blo-
bzan phrin-las lhun-grub) sanh quán tại vùng Tuần Hóa ở Thanh Hải.
Trừ Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền
Lạt Ma ra, Hô Tất Lặc Hãn (Tulku-lama) của Lạt Ma Hoàng giáo có Triết Bố
Tôn Đơn Ba (chấp chưởng ở ngoại Mông Cổ), Chương Gia (chấp chưởng
ở nội Mông Cổ).
Tóm lại, các tu sĩ Hồng giáo vốn
có vợ con, nên thường truyền ngôi pháp vị cho vợ con kế nhiệm. Để chấn
chỉnh đạo pháp, đại sư Tông Khách Ba cấm chỉ tăng sĩ có vợ con, mà lập
ra chế độ Hô Tất Lặc Hãn (5), để định người kế thừa ngôi pháp vị
Đại Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma. Nguyên nhân có chế độ này vì sợ
rằng nếu dùng chế độ tuyển chọn, thì tăng chúng sẽ phân quyền chia
bè phái, khiến cho Hoàng giáo bị phân tán và suy diệt. Sau này, để xác lập
địa vị Lạt Ma của các vị Lạt Ma đạo cao đức trọng, các giáo phái
khác ở Tây Tạng cũng dùng chế độ chuyển sanh mà kế thừa. Điển hình,
Hồng giáo (Nyingma) cũng bắt chước chế độ này mà truyền pháp.