- Đại sư Tông Khách Ba
(1357-1419)
- Thích Hằng Đạt
- Chương IV
- Nhà Cách Mạng Tôn Giáo Vĩ
Đại ở Tây Tạng
- A. Đề xướng việc nghiêm trì
giới luật của ba thừa
- (Tiểu Thừa, Bồ Tát Thừa, Mật
Thừa) thanh tịnh
Vào mùa đông năm 1396, Đại Sư đến
chùa Sắc Kỳ Băng Ba (Gser-phyi 'bum-pa) phía đông của Niếp Địa, cử hành
pháp hội cúng dường. Trong kỳ pháp hội này, Đại Sư vì tăng chúng mà
giảng thuyết giới tỳ kheo, khiến họ an trụ nơi luật nghi. Bấy giờ, bổn
tôn Bồ Tát Văn Thù hiện thân bảo:
- Từ nay, lúc giáo hóa chúng sanh,
phải lấy giới luật làm điều trọng yếu. Nơi tất cả oai nghi, cho đến
các việc nhỏ nhặt, đều phải y theo giới luật mà hành.
Nghe qua, Đại Sư bèn hỏi:
- Chúng sanh đời mạt pháp phước
bạc huệ kém, ái dục nặng nề. Nếu chỉ hoằng dương giới luật, thì e
rằng tổn phí sức lực. Chúng sanh khó mà lãnh hội giáo nghĩa, còn nói
gì đến việc tôn thủ giới pháp thanh tịnh!
Bổn tôn Bồ Tát Văn Thù trịnh trọng
răn dạy:
- Dẫu là vậy, nhưng nếu không y
theo giới luật, thì thật chẳng làm được lợi ích gì cho chúng sanh. Nếu
chân thật muốn trụ trì thánh giáo, nhất định phải ân cần tôn trọng
và hành trì giới luật.
Lời răn dạy của Bồ Tát Văn Thù
thật phù hợp với bổn ý chế định giới luật cho chư vị tỳ kheo của
đức Phật. Lúc chế giới, đức Phật đưa ra mười lợi ích của việc
trì giới: 1/ Nhiếp thủ chư tăng, 2/ Khiến chư tăng được hoan hỶ, 3/ Khiến
chư tăng được an lạc, 4/ Khiến người chưa tin sẽ tin, 5/ Khiến người
đã tin, lại tăng thêm lòng tin tưởng, 6/ Người khó điều phục, khiến
được điều phục, 7/ Khiến người có tâm hổ thẹn được an lạc, 8/
Khiến đoạn được các hữu lậu trong hiện tại, 9/ Khiến đoạn các hữu
lậu trong đời vị lai, 10/ Khiến chánh pháp được trường tồn mãi mãi.
Nghĩa là, nếu chư tỳ kheo luôn
tôn hành giới pháp, thì có thể tự đoạn trừ các hữu lậu trong hiện tại
và vị lai, có thể khiến người có tâm hổ thẹn được an vui, có thể
điều phục được những kẻ khó điều phục, có thể khiến cho mọi người
đều sanh tín tâm nơi Tam Bảo. Giới luật của tăng đoàn nếu được kiện
toàn thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ khiến cho những người chưa tin tưởng
Phật pháp sẽ sanh khởi tín tâm. Những người đã tin tưởng quy y Phật
pháp sẽ được tín tâm kiên cố. Tăng đoàn được thanh tịnh thì tín
chúng sẽ thêm nhiều, và giáo pháp của đức Phật sẽ được ban truyền
khắp nơi, cùng chánh giáo sẽ mãi mãi trường tồn.
Do đó, thấy rõ rằng sự trọng yếu
của giới luật quan hệ với sự tu trì, sự hòa hợp của tăng đoàn, sự
tiếp thọ giáo pháp của thế nhân, và sự hưng vong của chánh pháp. Kinh
Di Giáo dạy:
- Tỳ kheo các ông! Sau khi Ta nhập
diệt, phải trân trọng tôn thủ Ba La Đề Mộc Xoa (giới pháp), như tối gặp
sáng, như người nghèo được của báu. Phải nên biết rằng giới chính
là bậc đạo sư của các ông, và cũng đồng như Ta trụ tại thế gian không
khác.
Đương thời, người tu học Phật
pháp ở Tây Tạng, do phế bỏ giới luật, nên xem việc chẳng giữ giới
là thường lệ, và cho việc giữ giới là câu chấp, khiến Phật giáo
ngày càng suy vi. Bồ Tát Văn Thù thấy việc này, nên sanh khởi lòng thương
xót mà răn dạy đại sư Tông Khách Ba rằng nếu chân thật muốn làm lợi
ích chúng sanh, trụ trì chánh pháp, nhất định phải đề xướng giới luật
tỳ kheo thanh tịnh.
Từ đó, Đại Sư luôn y theo lời dạy
của Bổn Tôn. Nơi mỗi cử chỉ hành động, đi đứng nằm ngồi, ăn uống
ngủ nghỉ, cùng làm những việc nhỏ nhặt, đều hành theo quy định của
giới luật. Đồ chúng thấy vậy, nên cũng hành theo Đại Sư, khiến trở
thành gia phong của phái Cách Lỗ (Hoàng Giáo). Phái này thường dùng thân
tâm nghiêm thủ giới luật, tuyên dương tịnh giới tỳ kheo.
Mùa xuân năm bốn mươi bốn tuổi
(1400), Đại Sư đến chùa Cát Ngõa Đống (1).
Bấy giờ, Đại Sư nghĩ đến việc
nhiều tăng sĩ tu hành hời hợt, buông lung vọng niệm; tuy họ tự cho là
hành pháp Đại Thừa, nhưng lại không nghiêm mật tha thiết hành trì giới
luật Bồ Tát (con đường dẫn đến chứng quả vị Bồ Đề vô thượng),
nên lạc vào Đại Thừa hư danh trống rỗng. Lại nữa, những người tu học
Mật pháp chỉ cầu đại pháp quán đảnh, mà chẳng y theo các bậc tôn sư,
cùng chẳng hộ trì giới châu tam muội. Tuy muốn thăng, nhưng lại bị đọa
lạc. Thật đáng thương thay!
Vì vậy, trong các đại pháp hội
giảng thuyết, Đại Sư tuyên thuyết Bồ Tát Giới Phẩm, năm mươi Pháp Tụng
Của Bậc Thượng Sư, Mười Bốn Căn Bổn Đọa Của Mật Tông, v.v... Đại
Sư lại trước tác chú giải, tinh tường xiển dương.
Bồ Tát Giới Phẩm là phẩm thứ
nhất trong Bồ Tát Địa của luận Du Già Sư Địa. Đây là bộ giới luật
căn bản cho tăng sĩ cùng tín đồ tu Hiển-Mật giáo. Tổng quát, bộ giới
luật này có ba phẩm, gọi là tam tụ tịnh giới, tức là nhiếp luật nghi
giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.
Nhiếp luật nghi giới nghĩa là đình
chỉ tất cả việc ác. Bàn về nghĩa hẹp, nhiếp luật nghi giới chỉ cho
việc nghiêm trì bảy loại giới biệt giải thoát như giới tỳ kheo, tỳ
kheo ny, sa di, sa di ni, thức xoa ma noa, ưu bà tắc, ưu bà di. Nhiếp luật
nghi giới là nền tảng căn bản cho "nhiếp thiện pháp giới", và
"nhiêu ích hữu tình giới". Người tu học Phật pháp, nếu không
thể nhiếp hộ luật nghi giới thì không thể sanh khởi "nhiếp thiện
pháp giới" cùng "nhiêu ích hữu tình giới". Do đó, dẫu thọ
giới gì đi nữa, quyết phải kiên cố hộ trì "nhiếp luật nghi giới".
Nhiếp thiện pháp giới nghĩa là
khi thọ giới xong, người tu đạo phải luôn hướng về đạo Bồ Đề. Nhờ
thân khẩu ý tích tụ bao loại thiện pháp, nên mới có thể nhiếp thọ
được thiện giới pháp. Nhờ tu học nhiếp thọ giới pháp mà mau chóng
viên mãn tất cả giáo pháp, thành tựu đại trí huệ.
Nhiêu ích hữu tình giới nghĩa là
nếu gặp việc nào thật sự mang lại lợi ích cho chúng sanh, quyết hành
trì chứ chẳng để mất cơ hội. Người nên chiết phục phải chiết phục.
Người nên nhiếp thọ phải nhiếp thọ. Hành được như thế thì đối với
tất cả loài hữu tình, mau chóng thành tựu viên mãn tâm đại từ bi, cùng
đạt được phước đức vô biên. Dĩ nhiên, không thể làm lợi ích cho người
khác, thì chẳng thể hoàn mãn nhiêu ích hữu tình giới. Lúc chưa có thể
làm lợi ích cho người khác được trọn vẹn, không thể phạm giới. Thật
vậy, khi chưa đạt thành tựu viên mãn thì không có cách nào chân thật
làm lợi ích cho chúng sanh.
Giới Bồ Tát tuy phân làm ba phẩm,
nhưng phải hành trì tất cả trong cùng một lúc. Thọ giới xong và lại
tinh tấn tu hành thì nhất định sẽ mau chóng thành tựu viên mãn đạo Bồ
Đề vô thượng.
Năm mươi kệ tụng của Thượng
Sư vốn do ngài Đại Ban Trí Đạt Bạt Duy Đế Ngõa ở Ấn Độ y chiếu
theo kinh điển thanh tịnh của Phật thuyết giảng, và chọn lọc ra những
phần trọng yếu, mà viết theo thể kệ tụng, để độ cho người mẹ. Nào
ngờ, đây là học thuyết căn bản của Kim Cang Mật Thừa, và đối với các
tông phái Hiển-Mật rất là quan trọng. Người tu học Mật pháp và Tác
pháp, nếu không học những pháp dự bị căn bản quan trọng hoặc không
ghi nhớ trong tâm, thì sẽ khiến chính mình cùng người khác mãi lưu chuyển
trong biển khổ sanh tử, thậm chí đọa lạc vào địa ngục kim cang. Cẩn
thận y chiếu theo pháp này mà tu học, thì nhất định sẽ mau chóng thành
tựu đạo quả.
Mười bốn giới căn bản của Mật
Tông tức là tu học tất cả giới luật ứng cúng chủ yếu của Mật
pháp. Tiếng Phạn gọi là Ni Thọ Tất Lê Đức Tam Muội Da, dịch nghĩa là
giới "Căn Đoạn" hoặc "Căn Đọa". Người tu học Mật Tông
nếu không tôn thủ một trong những điều giới luật, thì nền tảng căn
bản học Mật giáo bị đoạn đứt. Người làm đoạn đứt căn bản tu học
Mật Tông, giống như dây diều bị đứt, thì không thể thành tựu đạo
nghiệp. Người phá hủy mười bốn giới căn bản của Mật Tông thì
không những hiện tại sẽ bị bao tai nạn bức bách, mà sau khi chết sẽ bị
đọa lạc vào địa ngục kim cang. Do đó gọi là "Căn Đọa Giới".
Ba loại giới luật Đại Thừa này
chính là nền tảng căn bản cho tất cả phước báu và công đức của pháp
thế gian và xuất thế gian. Nhận rõ việc này, nên suốt cuộc đời Đại
Sư nỗ lực tuyên dương giới luật. Ngày nay, giới luật Đại Thừa (ở Tây
Tạng) còn được thịnh hành bất diệt, hoàn toàn nhờ công lao của Đại
Sư.
Mùa xuân năm 1401, thể theo lời
giao ước với pháp vương Kiếp Kiết Kết Bố (Chos-kyi rgyal-po) trụ trì
chùa Chỉ Công, Đại Sư đến đó để giảng kinh, và cùng với vị pháp vương
này tu học mật pháp "Na Nhã Lục Pháp".
Cuối mùa xuân, Đại Sư trở lại
chùa Nhạ Trân, cùng với ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa đến chùa Tư Đảnh
(2), gặp lại pháp vương Cổ Kiều Cụ Tang cùng tăng chúng tại các tự viện
nổi tiếng để cùng nhau an cư kết hạ.
Bấy giờ, Đại Sư, ngài Kết Tôn
Nhân Đạt Ngõa, pháp vương Cổ Kiều Cụ Tang thấy giới tăng sĩ ở Tây Tạng
vào đương thời tu hành thật rất hỗn loạn, và dần dần xa rời những
giới luật tỳ kheo do đức Thế Tôn chế định, thậm chí có kẻ chấp giữ
tà kiến, nhận lầm việc tu học Mật pháp là chỉ cần thọ giới Kim Cang
chứ không cần thọ giới luật tỳ kheo. Vì vậy, để chấn hưng Phật giáo,
ba vị pháp vương này đã cùng nhau quyết tâm loại trừ những kẻ vô tri,
tà kiến si mê, giải đãi, nghi hoặc cấu uế ra khỏi tăng đoàn và nhất
quyết làm sống lại giới luật tỳ kheo thanh tịnh.
Dẫu tu học Hiển giáo hay Mật
giáo, nếu muốn đoạn trừ phiền não, cắt đứt sanh tử, cho đến khi thành
Phật, hoàn toàn phải nương vào "Giới Hạnh Thanh Tịnh". Giới hạnh
nếu bị khiếm khuyết chút nào, thì người tu hành sẽ bị trầm luân. Ví
như kẻ ôm chiếc phao bị lủng đang chìm nổi trên sóng biển; họ đang chờ
chết vì hết hy vọng vào được đến bờ. Vì vậy, đức Thế Tôn răn dạy
chư tỳ kheo trong đời mạt pháp phải tôn kính giới như đạo sư. Phật dạy:
- Giới là nền tảng căn bản của
con đường chân chánh và thuận lợi cho việc giải thoát. Nhờ y theo giới
mà hành giả đạt được các loại thiền định cùng trí huệ diệt khổ
đau. Do đó, chư tỳ kheo phải hành trì giới luật thanh tịnh, chớ để
khiếm khuyết.
Đức Phật định chế giới pháp;
phân lập càng cao thì giới pháp càng nghiêm mật. Vì vậy khi tu trì giới
luật, phải hiểu từ thô đến tế, từ cạn đến sâu, thì mới có thể
hành trì kiên cố viên mãn. Đối với người xuất gia, phải thọ giới
theo thứ lớp từ thấp lên cao: Giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát,
giới Kim Cang. Nghĩa là khi thọ trì giới Sa Di, tức là nhập vào thứ lớp
và phương diện của giới Tỳ Kheo; thọ giới Tỳ Kheo tức là nhập vào
thứ lớp và phương diện của giới Bồ Tát và giới Kim Cang. Bàn về nội
dung của giới pháp, giới Sa Di vốn là nền tảng của giới Tỳ Kheo; giới
Tỳ Kheo là nền tảng của giới Bồ Tát; giới Bồ Tát cũng là nền tảng
của giới Kim Cang. Bàn rộng hơn, nếu người xuất gia không trì giới Sa
Di thanh tịnh, thì không có cách nào tiến lên học giới pháp của Tỳ
Kheo; không thể thọ trì giới Tỳ Kheo thanh tịnh thì cũng không thể tấn
học giới Bồ Tát cho đến giới Kim Cang. Nếu không đi theo thứ lớp như
vậy thì việc thọ giới chỉ là hư danh thiếu chân thật.
Giới luật tuy có phân Hiển-Mật
Đại-Tiểu (Thừa), nhưng căn bản nhất và chủ yếu nhất là giới Tỳ
Kheo. Tỳ Kheo đứng đầu trong bảy chúng xuất gia, và là một trong ba ngôi
Tam Bảo. Do đó, giới Tỳ Kheo thật rất thù thắng. So với giới Bồ Tát
và giới Kim Cang thì giới Tỳ Kheo đầy đủ tánh cách trọng yếu đặc sắc
hơn cả. Giới Tỳ Kheo vốn là màng lưới của Phật pháp. Nhờ giới luật
này mà nhiếp thọ tăng chúng. Nhờ tăng chúng thanh tịnh nên khiến Phật
pháp được trụ mãi ở thế gian. Đó là bổn ý định chế giới Tỳ Kheo
của đức Phật. Kinh dạy:
- Lúc nào giới luật Tỳ Kheo còn
thanh tịnh viên mãn, thì còn có Phật pháp. Khi giới đức của chúng xuất
gia không còn thì Phật pháp cũng chẳng có.
Vì vậy có câu: "Trong tất cả
kinh luật, giới kinh là tối thượng bậc nhất".
Để chấn chỉnh hàng ngũ tăng già
và chấn hưng Phật giáo, ba vị pháp vương vì đại chúng mà tuyên thuyết
giới luật Tỳ Kheo trong các đại pháp hội. Đồng thời, các ngài cũng giảng
giải tường tận về những biệt tướng của các tội trạng trong luật
nghi cùng cách thức và quy chế Hoàn Tịnh.
Điển hình, Đại Sư đặc biệt vì
đại chúng mà giảng Điều Phục Kinh Căn Bổn Tụng, và giải thích về
danh tướng của các tội trạng trong Thập Thất Sự, cùng quy thức Hoàn Tịnh.
Chư đại đức nghe thế, mỗi vị đều quay lại quán chiếu thân tâm, và
hành trì theo giới luật, khiến cho giới pháp thanh tịnh của đức Phật từ
đó được trùng hưng. Đây là sự nghiệp hoằng dương Phật pháp tối
quan trọng.
Trước đó, tại các đại tùng
lâm, rất nhiều tăng sĩ không biết bình bát tọa cụ là vật gì, và cách
trì giới ra sao. Đại pháp hội hoằng dương giới pháp vào lần này đã
khiến cho Phật giáo Tây Tạng đang sắp bị nguy ngập, lại được trùng
quang phát triển hưng thịnh. Quy củ thanh tịnh của đức Phật nhờ đó
mà được phục hưng. Ngày nay, tại các đạo tràng lớn nhỏ ở Tây Tạng,
tăng chúng đều an trụ nơi tịnh giới. Ba y, bình bát, và tích trượng không
rời thân. Đối với những giới luật nhỏ nhặt cũng không dám phạm.
Trong quyển Tín Tâm Tân Lương, viết:
"Hiện tại, do nghe mà suy gẫm. Lúc nỗ lực nghe và suy gẫm, đối với
học xứ của luật nghi, cũng phải tôn trọng. Đặc biệt là chư vị trì
tụng ba tạng giáo điển, phải tinh tấn tu hành, phải cẩn trọng tránh vi
phạm những lỗi như uống rượu, ăn phi thời; các lỗi nhỏ khác, cũng phải
khởi tâm hổ thẹn thâm sâu. Trước kia, tăng sĩ chẳng biết tọa cụ, y bát
là những dụng phẩm nhu yếu của người xuất gia; các loại điều y (3)
cũng chưa từng nghe đến. Hiện tại, các nơi đều có chư sa môn hành
pháp thanh tịnh. Việc đoạn trừ uống rượu, ăn quá giờ ngọ, v.v... và
các nghi thức thọ trai, được phổ biến các nơi, đều do ân đức dạy bảo
của Đại Sư cả".
Thật vậy, trước đó một số tu
sĩ ở Tây Tạng không chịu giữ gìn giới luật. Ví dụ, đối với giới
cấm uống rượu, họ cho rằng đó là giới luật Tiểu Thừa vì người tu
học theo Đại Thừa và đã thấy rõ chân tánh mà còn câu chấp giới luật
thì còn bị trói buộc. Hạng người này chẳng những không tự cảm thấy
xấu hổ vì đã phạm giới, mà còn tùy tiện xả bỏ ba y ca sa, phá hoại
luật nghi thanh tịnh, khiến cho thánh giáo thanh tịnh của đức Như Lai ngày
càng mai một, chỉ còn trên hình thức.
Đại Sư không khỏi đau lòng khi thấy
tình trạng suy vi của Phật giáo. Để chấn hưng cũng như để chánh pháp
trụ mãi trên thế gian, Đại Sư chủ xướng: Chư tăng phải tu học và
nghiêm thủ giới luật. Đối với những giới luật chi tiết, Đại Sư
cũng không dám xem thường. Đồng thời, Đại Sư cũng yêu cầu các đệ tử
phải cung hành theo giới luật. Khi tu Mật pháp, Đại Sư cùng đồ chúng đều
y theo lời dạy của Mật kinh "bên ngoài hộ trì hạnh Thanh Văn; bên
trong an vui tu tập nơi mật nghĩa" mà tu trì hai loại Du Già theo thứ lớp.
Ngoài ra, phải y theo luật nghi của Bồ Tát Thừa và Kim Cang Thừa mà thủ
hộ và giữ gìn như giữ tròng con mắt. Thật vậy, giới luật Tỳ Kheo
thanh tịnh chính là pháp bảo độc đắc khiến chánh pháp trụ mãi ở thế
gian, và là nền tảng cho sự thành tựu đạo Bồ Đề.
Những ngôn từ thiết tha khẩn
thành răn nhắc trì giới luật của ba vị pháp vương, khiến rất nhiều
tăng chúng cảm động rơi lệ, khởi tâm sám hối về việc phạm những giới
luật thuở xưa, rồi cùng nhau phát nguyện rằng trong mọi sinh hoạt đều
sẽ hành trì và y chiếu theo giới luật.
Đại đức Đả Thương Ba lập mười
tám câu hỏi để chất vấn về những quyển trước tác của Đại Sư.
Tuy nhiên, khi thấy Đại Sư hành trì giới luật thanh tịnh, bèn khởi tâm
kính tín và viết kệ tán thán:
"Kẻ trì luật chê người tu mật
pháp
Kẻ tu mật pháp chê người trì luật
Liễu đạt lời Phật dạy không
trái ngược
Trước người tu trì hay thường kính
lễ
Học Hiển giáo cho Mật là pháp
tham
Trì Mật-giáo cho Hiển là lời rỗng
Hiển-Mật không toàn vẹn khó
thành Phật
Trước người liễu đạt hay thường
lễ kính".
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm
cũng tán thán Đại Sư:
"Thành tựu hy hữu thanh tịnh
luật
Đại trí thệ tu Bồ Đề hạnh
Trong đủ thứ lớp lạc không hai hạnh
Nguyện gặp Thiện Huệ thắng giáo
pháp".
Tóm lại, tăng sĩ Tây Tạng còn
tôn thủ giới luật nghiêm mật cho đến ngày nay, hoàn toàn do công lao của
Đại Sư. Sự kiện chấn chỉnh hàng ngũ tăng già và xiển dương giới luật
tỳ kheo, hiện tại còn ghi lại trong những trước tác của Đại Sư.
B. Cải cách và xiển
dương đường hướng tu học Phật pháp bằng cách hợp nhất mọi giáo nghĩa
Luật giáo Hiển giáo Mật giáo của tất cả tông phái ở Ấn Độ và Tây
Tạng về nơi biển Phật pháp.
Xưa kia, vào năm ba mươi hai tuổi
(1388), tại chùa Sát Tự, Đại Sư bắt đầu hệ thống hóa tất cả lời
chú giải của hai mươi mốt vị luận sư Ấn Độ, mà trước tác quyển
"Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Sư Tử Hiền Thích Tường Sớ" (1).
Trong hai năm liền, Đại Sư mới hoàn tất viết quyển luận này tại chùa
Đệ Ngõa Cẩn.
Bấy giờ, có một vị dịch giả Lạt
Ma rất cống cao ngã mạn, và thường tranh biện với Đại Sư. Nhưng, vừa
xem qua quyển luận do Đại Sư trước tác, tâm ngã mạn của vị Lạt Ma đó
bèn bị đốn đoạn, giống như một luồng giông tố thổi bứt gốc cây cổ
thụ, khiến vị đó phải tán thán:
- Tuy thuộc lứa tuổi tráng niên
mà mặt trời trí huệ của Đại Sư đã tỏa sáng, khiến cho tâm ngã mạn
của con từ đây bị chặt đốn.
Mùa thu năm 1400, ngài Kết Tôn Nhân
Đạt Ngõa vừa đến Lạp Tát, Đại Sư bèn cung thỉnh vị này đến chùa
Cát Ngõa Đống. Trong pháp hội mùa thu, cả hai thầy trò cùng nhau chuyển
pháp luân, thuyết giảng cho hơn bốn trăm năm mươi tăng chúng.
Gần chùa Cát Ngõa Đống có một tự
viện cổ xưa, tên là chùa Nhạ Trân (Reting). Nơi đây, bốn phía có rừng
cây ao hồ vây quanh, cành lá che phủ mặt hồ, có lắm hoa rừng cỏ dại
và cây cối. Cảnh vật rất thanh tịnh tao nhã; ngôi chùa cách Lạp Táp về
hướng bắc khoảng ba ngày đường. Ngôi chùa này do sơ tổ của phái Ca
Đương là ngài Chủng Đôn Nhân Ba Thiết ('Brom-ston, 1005-1064) xây cất vào
năm 1056. Lúc trú tại Ca Đương Lôi Bang, tôn giả A Để Sa đã từng xưng
tán và ghi chép về nơi thắng địa này. Từ đó, chùa Nhạ Trân trở
thành đạo tràng chính của phái Ca Đương, và có rất nhiều chư đại thiện
tri thức trú ngụ nơi ấy. Thuở đó, chư đệ tử của phái nầy có cả
ngàn người, khiến giáo pháp cực thạnh một thời. Giáo Thọ của phái Ca
Đương ảnh hưởng rất lớn đối với giới Phật giáo vào đương thời
và hậu lai. Tất cả học thuyết của các giáo phái ở Tây Tạng đều
được ảnh hưởng và tiếp thọ giáo nghĩa của phái này.
Đại Sư cùng với ngài Kết Tôn
Nhân Đạt Ngõa, vừa đi lễ bái các thánh tích, và vừa dẫn rất nhiều
đệ tử tài ba đến chùa Nhạ Trân. Mùa đông, ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa
vì đại chúng giảng "Lục Thập Như Lý Luận" và "Tập Mật
Ngũ Thứ Đệ", v.v... Đại Sư cũng vì đại chúng mà giảng Đại Thừa
Trang Nghiêm Luận, Biện Trung Biên Luận, Tập Lượng Luận, cùng Du Già Sư
Địa Luận (Thanh Văn Địa). Ngoài ra, Đại Sư còn giảng giải những thuyết
minh của Bồ Tát Địa về pháp tu Xa Ma Tha, khiến cho chư đệ tử y theo pháp
mà tu hành, đạt được thiền định thâm sâu.
Trong kỳ pháp hội, Đại Sư vì
ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa mà đặc biệt giảng giải về Tập Mật Nguyệt
Xưng Thích và Trung Quán Luận. Ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa cũng vì Đại
Sư mà giảng Trung Quán Nguyệt Xưng Thích của kiến giải Trung Quán cùng
các pháp thức tu hành thâm sâu vi tế.
Mùa thu năm 1401, Đại Sư và pháp vương
Cổ Kiều Cụ Tang cùng rất nhiều tăng chúng vẫn trú tại chùa Nhạ Trân.
Nơi đó, pháp vương Cổ Kiều Cụ Tang giảng Trung Quán cùng các bộ luận
khác. Đại Sư giảng thuyết Bồ Đề Đạo Thứ Đệ của phái Ca Đương.
Vì là đạo tràng của phái Ca
Đương, trong chùa có an trí phụng thờ thánh tượng của tổ sư A Để Sa.
Thánh tượng của tôn giả A Để Sa được tạc rất mỸ thuật, dáng cao bằng
hình người, tướng mạo trang nghiêm đầy bao nét sống động. Ngưỡng mộ
đức nghiệp sâu dầy của tôn giả A Để Sa, nên Đại Sư đến đó để
chiêm bái.
Trước thánh tượng A Để Sa, Đại
Sư trần thiết lễ vật cúng dường, và ân cần khấn nguyện:
- Cầu xin Tôn Giả mở lòng từ bi
gia hộ, khiến chánh pháp Hiển-Mật mãi mãi sáng lạn hưng long, rạng rỡ
như vầng thái dương, chiếu khắp đại địa, cứu độ chúng sanh thoát biển
khổ sanh tử, chứng đắc đạo Bồ Đề vô thượng.
Đại Sư vừa khấn nguyện xong thì
đột nhiên thấy trên hư không có đức Như Lai, và bên dưới có các tổ
sư truyền thừa phái Ca Đương hiện thân thuyết pháp, xoa đảnh đầu Đại
Sư mà an ủi.
Từ đó, suốt hơn một tháng, ngày
ngày đều có chư vị tôn sư truyền thừa phái Ca Đương như tôn giả A Để
Sa (Atisa), Chủng Đôn Nhân Ba Thiết (Dromtonpa), Bác Đóa Ngõa (Potawa), Hà Nhạ
Ngõa (Shapawa), v.v... liên tiếp hiện thân truyền dạy cho Đại Sư vô lượng
giáo pháp và giáo huấn.
Ngày pháp hội vừa viên mãn, chư tôn
sư như Bác Đóa Ngõa, Chủng Đôn Nhân Ba Thiết, Hà Nhạ Ngõa, v.v... biến
thành một luồng ánh sáng màu hồng, nhập vào thân của tôn giả A Để
Sa. Bấy giờ hiện thân của tôn giả A Để Sa lại đến xoa đầu Đại
Sư mà an ủi:
- Này Hiền Huệ! Ông chớ quá ưu sầu
lo lắng. Từ nay hãy hết lòng vì thánh giáo mà làm Phật sự lớn, tu hạnh
Bồ Đề, khiến lợi ích chúng sanh. Ta sẽ thường hộ trì cho ông!
Nói xong, Tôn Giả liền ẩn biến.
Trong kỳ pháp hội đó, nhờ sự gia trì của chư tôn sư phái Ca Đương, nên
sự giảng giải về luận Bồ Đề Đạo Thứ Đệ của Đại Sư lại càng
thâm thúy sâu sắc hơn những lần trước. Nghe những lời giảng giải tường
tận của Đại Sư, thính chúng đều vô cùng hoan hỶ. Các vị tôn sư của
phái Ca Đương gom góp lại tất cả những lời giảng dạy từ trong kinh
điển, hợp nhất thành pháp nghĩa tu đạo theo thứ lớp, tức là Bồ Đề
Đạo Thứ Đệ, mang ý nghĩa tu một pháp cũng đồng với tu tất cả pháp.
Nhờ chuyên ý tinh cần tu học giáo
thọ Bồ Đề Đạo Thứ Đệ, nên Đại Sư liễu đạt những lời chú giải
về luận Hiện Quán Trang Nghiêm, vốn là giáo lý nhập thánh siêu phàm.
Ngoài ra, lúc duyệt lại luận Nhân Minh, năm bộ luận của Bồ Tát Di Lặc,
các bộ luận Trung Quán, bốn bộ giáo điển của Mật Tông, Đại Sư biết
rõ rằng mỗi mỗi đều là giáo pháp tu hành chứng đạo. Do đó, đối với
sự tu hành thứ lớp của đạo Bồ Đề, Đại Sư càng sanh tâm kính tín
thắng giải.
Bấy giờ, pháp vương Cổ Kiều Cụ
Tang, pháp vương Kiếp Kiết Kết Bố, cùng rất nhiều chư đại thiện tri
thức tại các đại tùng lâm tự viện ở Tây Tạng đồng ân cần cầu thỉnh
Đại Sư chú giải quyển luận Bồ Đề Đạo Thứ Đệ (2).
Đại Sư cảm thấy rằng bên trong
tự thân được chư Phật và chư Bồ Tát gia trì, còn bên ngoài thì có chư
đại thiện tri thức ân cần thỉnh cầu, tức nhân duyên trong ngoài đều
thuận lợi, nên chính là cơ hội tốt nhất để tạo luận. Do đó, vào năm
1402, Đại Sư dùng pháp nghĩa Bồ Đề Đạo Thứ Đệ của giáo phái Giáo
Thọ và Giáo Điển thuộc phái Ca Đương, cùng giáo pháp Thánh Giáo Thứ Đệ
(3), mà trước tác ra quyển "Bồ Đề Đạo Thứ Quảng Luận" (4).
Đại Sư viết theo thứ lớp từ
căn bản, hạ sĩ đạo (hạ căn), trung sĩ đạo (trung căn), thượng sĩ đạo
(thượng căn). Lúc viết luận về thiền Xa Ma Tha xong, Đại Sư tự nhủ:
"Tỳ Bà Xá Na (5) thật quá thâm sâu, nay đến hồi kết thúc; tuy Ta đã
viết xong, nhưng chưa hẳn đã làm được gì lợi ích cho chúng sanh!"
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù hiện
thân bảo:
- Dầu sao đi nữa, Ông hãy cố gắng
viết thật rõ về Tỳ Bà Xá Na, để chúng sanh đời sau nhờ xem quyển này
mà đạt được lợi ích trung đẳng (6).
Nghe lời dạy của Bồ Tát Văn Thù,
Đại Sư tiếp tục viết về Tỳ Bà Xá Na. Vừa viết, Đại Sư vừa suy gẫm
về lý của tánh Không. Trong khoảnh khắc, trên hư không xuất hiện mười
hai loại chữ Không trong kinh Đại Bát Nhã. Từng chữ nổi rõ màu bạch
ngân, uyển chuyển như được viết.
Ngày nọ, các vị thiện thần, hộ
pháp, và sơn thần ở vùng đó đồng hiện thân khẩn cầu:
- Chúng con vốn đã từng thừa sự
theo đại sĩ Liên Hoa Sanh và tôn giả A Để Sa. Từ nay, chúng con xin nguyện
thừa sự theo Đại Sư. Kính xin Đại Sư từ bi nhiếp thọ.
Đại Sư vui lòng chấp thuận. Viết
bộ luận xong, Đại Sư cũng đề kệ hồi hướng công đức cho họ.
Quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng
Luận do Đại Sư trước tác có năm điểm thù thắng. Thứ nhất là sở
duyên thù thắng. Bộ luận này dùng ba điểm trọng yếu mà Bồ Tát Văn Thù
thường hiện thân chỉ dạy Đại Sư (tức là tâm xuất ly, tâm Bồ Đề,
tri kiến thanh tịnh) làm nền tảng, và dùng ba thứ lớp của đạo do tôn
giả A Để Sa hiện thân chỉ dạy (tức là đạo của người hạ căn,
trung căn, thượng căn) để trang nghiêm. Đạo của ba bậc hạ căn, trung
căn, thượng căn cũng được ví như trụ cột của căn nhà.
Thứ hai là năng duyên thù thắng.
Để thanh tịnh chánh đạo, đóng bít những lối rẽ, Đại Sư định lập
thể tánh chân chánh. Từ sơ phát tâm đến khi thành Phật, ngay nơi tất cả
giai đoạn địa vị trên đường tu, không thể đi vòng vòng, cũng không thể
nhảy cấp bậc, mà phải theo thứ lớp. Bàn về sự giải nghĩa và cách tu
hành, quyển luận này vốn là bản đồ giúp người tu học hành theo tuần
tự thứ lớp, cho đến khi thành Phật.
Thứ ba là người thỉnh thù thắng.
Bộ luận này do pháp vương Cổ Kiều Cụ Tang (7), pháp vương Kiếp Kiết Kết
Bố (8), cùng rất nhiều vị đại đức thông suốt ba tạng giáo điển, đồng
nhau ân cần cầu thỉnh Đại Sư trước tác.
Thứ tư là xứ sở thù thắng. Nơi
tạo ra quyển luận này là chùa Nhạ Trân, đạo tràng căn bản của phái
Ca Đương.
Thứ năm là quyến thuộc thù thắng.
Đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần (9) cùng chư đại đệ tử một lòng thừa
thọ quyển luận này.
Quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng
Luận bao hàm khái quát toàn bộ pháp nghĩa Hiển giáo. Nếu đọc tụng thành
thục bộ luận này, có thể hiểu khái quát hoàn toàn về pháp nghĩa Hiển
giáo trong ba tạng kinh điển. Hiện nay, tăng sĩ lẫn cư sĩ ở Tây Tạng thường
đọc tụng quyển luận này.
Khắc Chủ Kiệt tán thán quyển luận
này:
- Những trước tác của chư vị đại
thiện tri thức (10), không kể là phái Giáo Điển hay phái Giáo Thọ (11) đều
rất thù thắng thâm sâu; đây chính là kim chỉ nam dẫn dắt chúng sanh tu
hành thành Phật. Song, nếu so sánh với quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng
Luận của đại sư Tông Khách Ba thì những trước tác đó còn thua xa. Bộ
luận này y theo giáo nghĩa của hầu hết kinh luận để dẫn chúng sanh đến
nơi viên thành Phật quả (12). Vì vậy người tu đạo có thể y chiếu theo
đây mà hành trì. Bộ luận này thuộc về diệu pháp vô thượng. Hiện tại
ở Tây Tạng không thể tìm ra quyển luận thứ hai tương xứng với quyển
luận này.
Mùa xuân năm 1403, vừa được quyển
Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận do Đại Sư trước tác, pháp vương Cổ
Kiều Cụ Tang cảm thấy như một thương gia vào biển cả tìm được châu
báu, bèn hoan hỶ cáo từ trở về Hậu Tạng.
Bấy giờ, Đại Sư vẫn trú tại
chùa Nhạ Trân để giảng quyển luận này cùng luận Hiện Quán Trang
Nghiêm và kinh Đại Bát Nhã. Ngày pháp hội được viên mãn, Đại Sư bảo
đại chúng:
- Giờ đây pháp hội đã viên mãn,
xin quý vị hãy chuẩn bị phẩm vật cúng dường (13)!
Nghe xong, các đệ tử đua nhau đi
vay mượn đèn dầu. Tăng chúng quá đông mà số đèn có hạn. Đến lượt
đại a xà lê Đạt Mã Nhân Cần thì không còn đèn để đốt, nên vị
này vội vàng lấy nén hương cắm vào một chén đồng để dâng cúng. Đại
Sư thấy vậy, liền bảo:
- Duyên này thật lành thay! Hãy đến
đây! Quý vị nên đổ dầu tô lạc của mình vào chén đồng của Đạt Mã
Nhân Cần!
Các đệ tử nghe thế, bèn cùng
nhau lấy dầu tô lạc của mình rót vào chén đồng của Đạt Mã Nhân Cần.
Trong phút chốc, chén dầu đã đầy ắp, nhưng không tràn ra ngoài, và ánh
sáng của ngọn đèn dầu đó rực rỡ lạ thường, tỏa sáng hơn những ngọn
đèn dầu khác.
Lần khác, Đại Sư giảng về luận
Hiện Quán Trang Nghiêm, lời lẽ thật tinh thâm, vốn phát ra từ nguồn tâm
vi diệu. So với việc tạo bộ luận Kim Man xưa kia, có nhiều chỗ rất
khác nhau (nghĩa lý của luận Kim Man hoàn toàn y chiếu theo chánh lý của chư
hiền thánh mà tạo ra. Văn nghĩa tuy chính xác, nhưng văn cú không có nhiều
kiến giải của Đại Sư).
Vì vậy, đại chúng thỉnh cầu Đại
Sư giảng lại luận Hiện Quán Trang Nghiêm. Đại Sư bảo Đạt Mã Nhân Cần:
- Lần này, vào lúc Ta giảng giải,
ông hãy chọn ra những điểm chính yếu, ghi chép thật đầy đủ, để sau
này chú giải lại bộ luận nầy (14).
Nghe lời phó chúc của Đại Sư, Đạt
Mã Nhân Cần viết quyển chú thích bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm, và gọi
tên là "Tâm Tạng Kinh Nghiêm Luận".
Tháng giêng năm 1404, tại chùa Nhạ
Trân, Đại Sư cử hành pháp hội cúng dường cầu nguyện. Kế đến, Đại
Sư qua chùa Lôi Phác (Lhas-phu) ở Lạp Tát diễn giảng bộ luận Thích Lượng
(15) cho các đại thiện tri thức nghe.
Bộ luận Thích Lượng tuy giải thích
về bộ luận Tập Lượng của Bồ Tát Vô Trước, mà không câu nệ vào ý
luận của Bồ Tát Trần Na, tức là có đưa thêm nhiều luận điểm khác,
cùng những lời phê phán. Đây là bộ luận về Nhân Minh Học chủ yếu nhất
của luận sư Pháp Xưng; bộ luận này cũng điều chỉnh lại học thuyết
Nhân Minh bằng nhiều điểm mới lạ. Dùng chánh lý Nhân Minh để thành lập
nghiệp quả tương tục, khiến chúng sanh chóng thành Phật quả. Ngoài ra, bộ
luận này còn bàn rộng về các loại tướng trạng Tứ Đế mà đức Phật
vốn tự thân chứng đắc, để hiển thị rõ ràng về con đường giải
thoát và đạt đến nhất thiết chủng trí. Nói tóm gọn, bộ luận Nhân
Minh này có đầy đủ ý nghĩa về cách thức tu hành được sắp xếp theo
thứ lớp.
Lúc trước tác quyển luận Thích Lượng,
luận sư Pháp Xưng đích thân tự chú thích phẩm thứ nhất "Tự TỶ Lượng";
ba phẩm còn lại, luận sư Pháp Xưng bảo đệ tử là Thiên Vương Huệ viết
chú sớ. Thiên Vương Huệ y chiếu theo văn cú trong quyển luận này mà giải
thích văn nghĩa; viết xong liền đem trình cho luận sư Pháp Xưng. Xem qua, luận
sư Pháp Xưng thấy Thiên Vương Huệ chưa hoàn toàn hiểu rõ nghĩa lý vi diệu
trong bộ luận đó, nên quăng xuống nước, rồi bảo hãy viết lại. Viết
lần thứ hai, Thiên Vương Huệ vẫn y trên văn cú mà giải thích. Do đó,
luận sư Pháp Xưng đem đốt đi quyển đó, rồi bảo hãy viết lại một
quyển khác. Tự biết thiện căn cạn cợt của mình, không thể thấu rõ
chân nghĩa của luận sư Pháp Xưng, nên viết chú giải lần thứ ba, Thiên
Vương Huệ đề thêm một bài kệ ở đằng sau:
"Chúng sanh không thiện căn
Thời gian không thể đợi
Phải tự tu tập lấy
Lược tạo luận khó này".
Viết xong, Thiên Vương Huệ cung kính
trình lên. Luận sư Pháp Xưng miễn cưỡng xem qua, rồi quát mắng:
- Viết cả ba lần trước sau vẫn
chưa thâm nhập vào nơi yếu chỉ của bộ luận này. Ông thật tình chỉ
tinh thông nơi văn nghĩa mà thôi.
Không còn cách gì, luận sư Pháp Xưng
đành lấy quyển luận chú thích của Thiên Vương Huệ (16).
Luận Nhân Minh vốn có ý nghĩa thâm
sâu mà người phàm phu không thể hiểu nổi. Thế nên, nơi phần đầu của
bộ luận Thích Lượng, luận sư Pháp Xưng viết thêm một bài kệ:
- "Đa số thích xem thế tục luận
- Do họ không có huệ Bát Nhã
- Không những chẳng cầu các lời hay
- Mà còn khởi sân si ghen ghét.
- Ta vô ý viết bộ luận này
- Thật ít làm lợi ích người khác
- Nhưng tâm hằng thích học thiện thuyết
- Nên nơi luận này sanh hoan hỶ".
Ý của luận sư Pháp Xưng bảo rằng
đa số người đời chỉ thích xem những bộ luận thế tục tầm thường,
vì họ thiếu trí huệ phân biệt việc đúng sai thiện ác. Vì vậy, chẳng
những không chịu tìm xem những nghĩa lý vi diệu thâm sâu, mà ngược lại
họ còn dùng tâm hoài nghi ganh ghét để phê bình mạt sát những nghĩa lý
thâm sâu quyết trạch của các luận gia. Do đó, Luận Sư viết bộ luận này
ra, không có lòng mong mỏi là người xem sẽ đạt được lợi ích. Tuy
nhiên, viết bộ luận này, trong tâm của Luận Sư cảm thấy hoàn toàn mãn
nguyện, vì suốt đời chỉ thích tầm cầu học hỏi những nghĩa lý thâm
sâu.
Bài kệ tụng cuối bộ luận này,
cũng có ý nghĩa như thế:
- "Người trí huệ không yếu kém kia
- Cũng không thông đạt tánh thậm thâm.
- Người tăng thượng hằng tinh tấn ấy
- Cũng không thể thấy tánh tối thắng.
- Tướng ngã bình đẳng trong chúng sanh
- Tích trì thiện thuyết không thể đắc.
- Như các dòng sông quy về biển
- Luận Ta ẩn một nơi tự thân".
Ý của bài kệ là trên thế gian
khó tìm ra người nào (17) hiểu rõ được nghĩa lý thâm sâu vi diệu về bộ
luận của Luận Sư.
Nói tóm lại, hiểu rõ bổn ý của
quyển luận này một cách chính xác, thật rất khó khăn. Trong kỳ pháp hội
đó, nhờ trí huệ siêu phàm, Đại Sư xiển minh nghĩa lý huyền diệu,
cùng đề xuất ra những yếu chỉ cứu cánh u ẩn khúc chiết của bộ luận
này. Nghe Đại Sư giảng giải rõ ràng về những nghĩa lý thâm sâu tinh mật,
đại chúng đều vui mừng tột bậc và đều tán thán việc chưa từng có.
Đạt Mã Nhân Cần chọn ra những
điểm tinh yếu mà Đại Sư giảng giải, rồi ghi chép để tạo thành một
bộ luận chú giải; quyển này hiện còn tồn tại trong những trước tác
của Đại Sư.
Vua Trát Ba Kiên Tham là một minh
quân tài ba. Kính ngưỡng đức học thâm sâu của Đại Sư, ông sai đại
thần Chuyên Trình đến cung thỉnh Đại Sư vào triều. Thấy sự ân cần của
nhà vua, vào mùa hạ năm 1404, từ chùa Nhạ Trân, Đại Sư đến chùa Đệ
Khâm Đảnh (Sde-chen-steng) cùng kết hạ an cư với cả trăm danh tăng vốn
thông suốt tam tạng kinh điển.
Lúc ấy, Đại Sư vì đại chúng
mà diễn giảng các bộ luận như Trung Quán, Nhân Minh, v.v... cùng ban truyền
giáo nghĩa Bồ Đề Đạo Thứ Đệ thâm sâu.
Đầu mùa thu, Đại Sư đến A Khách,
trụ tại chùa Ráng Ba Lãnh (Byang-pa gling), và giảng bộ Bồ Đề Đạo Thứ
Đệ Quảng Luận của mình cùng hai loại thứ lớp của Mật Tông (18) cho tăng
chúng tại đó.
Mùa đông, thầy trò đình chỉ tất
cả hoạt động bên ngoài, mà nhập thất tĩnh tu Mật pháp. Ngày nọ, Bổn
Tôn (Bồ Tát Văn Thù) hiện thân bảo:
- Để hỗ trợ cho việc hoằng
dương Phật pháp và làm lợi ích cho quần sanh, ông hãy y theo lời dạy của
Ta mà chú thích quyển "Kiến Lập Thứ Đệ" (là bộ luận giảng
trạch về Mật Tông) của Bồ Tát Long Trí.
Y theo lời dạy của Bổn Tôn, Đại
Sư lập tức chú thích quyển luận đó. Vừa hoàn tất, Đại Sư bèn đăng
tòa thuyết giảng cho đồ chúng nghe.
Năm bốn mươi chín tuổi (1405), Đại
Sư vẫn trú tại chùa Ráng Ba Lãnh. Bấy giờ, pháp vương Cổ Kiều Cụ
Tang cùng nhiều vị tam tạng pháp sư khẩn thỉnh Đại Sư trước tác yếu
chỉ tu đạo của bốn bộ Mật pháp. Pháp vương Phước Tràng (19) vì có
ý muốn hoằng dương Mật Thừa, nên thỉnh cầu Đại Sư chú thích sâu rộng
về Mật Thừa. Ngoài ra, Bổn Tôn (Bồ Tát Văn Thù) cũng có lời dạy bảo
như thế. Do các nhân duyên đó, Đại Sư tạo quyển luận "Mật Tông
Đạo Thứ Đệ Quảng Luận" (20).
Trong bộ luận này, đối với
nghĩa lý thứ lớp tu hành theo bốn bộ Mật Tông, không những Đại Sư y cứ
theo sự tương truyền giáo thọ trong bao đời, mà còn dung thông kinh luận
sớ sao mật tích, cùng các bộ luận của chư vị thánh giả đại thành tựu.
Đối với thể tướng (21) của đạo, thứ lớp (22), số lượng, cùng như
lý tu trì mà sanh phương pháp chứng đức, đoạn quá (23), trừ chướng, và
những phương pháp cuối cùng tu hành chứng quả, tất cả đều có thể đối
chiếu với giáo lý mà quyết trạch. Quyển luận này xuất hiện để đối
trị những kẻ tu học Mật pháp có tâm cao ngạo và thích nhảy cấp bậc.
Năm 1406, viết xong quyển luận đó,
Đại Sư bèn ban truyền cho đồ chúng và chư đại thiện tri thức. Bấy giờ
cung ma đột nhiên chấn động, khiến ma vương kinh hoàng. Rất nhiều phi
nhân yêu ma quỶ quái lập tức công kích tác quái trong kỳ pháp hội đó.
Nhiều vị đại thiện tri thức bị ma nạn mà viên tịch. Đại Sư tạm thời
đình chỉ việc ban truyền bộ luận này, rồi cùng đồ chúng nhập thất
chuyên tu Mật pháp để phá trừ ma chướng. Từ đó, yêu ma quỶ quái dần
dần bị hàng phục, không dám làm loạn, nên mọi việc đều bình an trở
lại. Bấy giờ, Đại Sư lại tạo Đại Oai Đức Kim Cang tu hành phương tiện,
cùng nghi thức hộ trì, gọi là "Thắng Ma".
Lúc trú tại Ba Nhạ Kiếp Đảnh,
Đại Sư vì đồ chúng giảng thuyết Tập Mật Ngũ Chủng Thứ Đệ và Thắng
Lạc Luân Viên Mãn Thứ Đệ. Về sau, do có nhiều học giả khẩn thỉnh,
Đại Sư trước tác quyển "Trung Quán Luận Quảng Thích" để giảng
trạch biện biệt tất cả vấn nạn và những vấn đề khó khăn về tánh
tông.
Lúc tạo luận, vì trong đó có những
lý lẽ nghi hoặc khó khăn, nên Đại Sư ân cần khấn nguyện bổn tôn Bồ
Tát Văn Thù. Vừa khấn nguyện xong, Đại Sư thấy trên hư không xuất hiện
hai mươi câu văn kinh chữ "Không" trong kinh Bát Nhã. Mỗi chữ đều
là màu vàng kim, tỏa sáng rực rỡ. Những nghi vấn của Đại Sư chợt
được khai thông, nên mới tạo thành tựu được bộ luận lấy tên là
"Chánh Lý Mẫu Luận".
Tại nơi đó, Đại Sư thọ ký rằng
một ngôi đại tùng lâm sẽ được xây cất và sẽ có rất nhiều bậc
thánh giả xuất thân. Về sau, đệ tử của Đại Sư là Ráng Khâm Kiếp Kết
(24) cho xây ngôi chùa Sắc Nhạ (Sera) tại nơi đó.
Một đời giáo hóa của Phật
Thích Ca, không ngoài hai loại giáo pháp và chứng pháp. Tất cả chánh pháp
của "Giáo" đều nằm trong ba tạng kinh luật luận. Tất cả chánh
pháp của "Chứng" đều nằm trong ba môn học vô lậu (giới, định,
huệ). Người tu học không thể đi ngược lại với kinh, luật, luận, và
hành trì phải phù hợp với giới, định, huệ. Đối với bậc đại học
giả, phải tu học đạo bi trí song toàn.
Xưa kia, tại Tây Tạng, có nhiều
người tu học Phật pháp vốn không chú trọng việc nghiên cứu học tập
ba tạng kinh điển, thậm chí lại còn chỉ trích phê bình và gọi những vị
tam tạng pháp sư là "Phân Biệt Sư" hay "Nhật Đôn Ba
(25)". Đa số đều bỏ qua việc đa văn, chuyên tu, cần cầu hiểu rõ bản
tâm tự tánh để đạt được giải thoát cùng chứng đắc đạo Bồ Đề
vô thượng.
Có một số người chấp cho việc
tu học một hoặc hai bộ kinh luận là đủ, mà không cần tu học thêm nữa.
Thật ra, những quan niệm này rất sai lầm, vì hoàn toàn không phù hợp với
chân nghĩa thánh giáo của đức Như Lai. Luận của kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm, viết: "Đầu tiên, phải cầu học đa văn, thì mới có thể y
theo như giáo lý mà phát tâm, rồi từ đó tu tập thành tựu trí huệ, đoạn
trừ phiền não, chứng quả giải thoát".
Vì vậy, người tu học Hiển-Mật
pháp phải nghiên cứu tinh tường ba tạng kinh điển, để đạt được đa
văn trí sâu, lập chánh tri kiến. Trường kỳ tu tập tam vô lậu học mà
thân tâm từ từ thanh tịnh, rồi đắc được giải thoát cùng nhất thiết
chủng trí.
Quy chế giáo nghĩa của Đại Sư lập
ra, nơi thù thắng nhất là cực lực chủ trương người tu học Hiển giáo
và Mật giáo phải nỗ lực nghiên cứu, đa văn tư duy thâm sâu nơi ba tạng
kinh, luật, luận, để phát khởi trí huệ, thông đạt thật tướng của các
pháp, rồi sau này mới tự thân chứng chân lý pháp tánh. Ngoài ra, đối với
"Tâm Bồ Đề", và "Hành Lục Độ" trong ba tạng giáo điển
của Đại Thừa, cùng chân lý "Vô Ngã" vi tế, Đại Sư đều chủ
trương rằng phải thiết thực tu hành qua các giai đoạn văn, tư, tu. Hiểu
rõ xong về nền tảng căn bản của giáo nghĩa Hiển-Mật rồi mới có thể
tu học Mật Thừa.
Do đó, giáo nghĩa của Đại Sư đều
tổng nhiếp tất cả chánh giáo của đức Như Lai, đặc biệt là dung hợp
được hai pháp Hiển-Mật trở thành một thể, và lại có khả năng hiển
bày nghĩa lý thù thắng về giáo pháp của Phật.
Vì vậy, phái Cảnh Gia Tông có bài
kệ:
- "Nếu ai có trí quyết định
- Nơi ba tạng các mật ý
- Thường trụ mà không trái ngược
- Đó gọi là Đại Tiên Giáo.
- Nếu trong các tông phái nào
- Ba học và các chánh hạnh
- Hay trụ mà không có lỗi lầm
- Đó gọi là Đại Thừa Giáo.
- Chánh kiến rời chấp hai bên
- Chỉ quán đều tu bình đẳng
- Hiển-Mật hành không trái ngược
- Là không vượt ngoài Thánh giáo".
Xưa kia, tại Tây Tạng, đối với
lý lẽ "Tánh Không", có một phái nọ gọi đó là "Không vô sở
hữu". Tuy họ cho rằng ngay nơi cái thấy cái nghe thường ngày vốn là
cái không tuyệt đối, nhưng lại phủ định lý nhân quả "làm lành
thì gặt quả lành và làm ác thì gặt quả xấu". Do đó, họ cho rằng
tu học Phật pháp, chỉ việc hiểu câu "muôn pháp đều không" là
đủ và có thể thành Phật. Môn phái này, một bên lại phủ nhận lý
nhân quả thiện ác, còn một bên thì thừa nhận là có khả năng giải thoát
(26). Loại học thuyết "không nhân mà có quả, và có nhân mà không quả"
thật tương đồng với những kiến chấp của ngoại đạo tà giáo, nên
không thể phù hợp với chánh pháp.
Ngoài ra, có một phái cho rằng
chân nghĩa của "Tánh Không" là chỉ cho nơi thế tục đế (lý tương
đối) thì không có, mà nơi thắng nghĩa đế (27) thì có. Đảo ngược lại
câu đó, (28) thì thể tánh của các pháp và mọi sự vật là thật có tồn
tại. Song, "ngoại cảnh" đều do tâm thức của chúng ta biến hiện
ra, nên tuyệt đối là không, và chẳng có tồn tại. Họ cho rằng cái
Không của thắng nghĩa đế (lý tuyệt đối), nếu không thật có thì chẳng
có cách nào để kiến lập sanh tử và Niết Bàn, cùng những nghiệp quả
tác thọ (29), nên trở thành đoạn kiến. Thế nên, họ chủ trương thắng
nghĩa đế là có, nên giống như kiến chấp "chư hành là thường, và
muôn pháp là có", mà lạc vào "Thường Kiến".
Những kiến chấp này, đối với sự
tồn tại của Phật pháp, thật rất nguy hiểm. Trung Luận nói: "Nếu nơi
tánh không mà khởi kiến chấp, thì không thể cứu được người này".
Bồ Tát Long Thọ bảo rằng đối với
những kẻ có tư tưởng chấp thường kiến đối đãi về "Nơi tánh
không mà khởi kiến chấp", thì không có cách nào đối trị được.
Đức Phật đã từng thọ ký cho Bồ
Tát Long Thọ, một vị sẽ đặt ra tiêu chuẩn về sự diễn thuyết liễu
nghĩa. Do đó, người tu học pháp Đại Thừa phải dùng những lời giảng
thuyết của Bồ Tát Long Thọ làm mực thước và tiêu chuẩn.
Có phái cho rằng muôn sự việc đều
là không, chứ chẳng phải là có, nên xem thường lý nhân quả thiện ác
và chểnh mãng việc nỗ lực tu học Phật pháp, thậm chí lại còn phá hoại
giới luật.
Có phái cho rằng nếu nhận là có
tức chấp nơi tướng, nhưng thật ra tất cả pháp đều là chẳng phải
có, và chẳng phải không. Vì vậy, họ chủ trương rằng lúc tu học, hoàn
toàn không tư duy "có ngã, vô ngã", "là không, chẳng phải
không; là có chẳng phải có", mà cho rằng "chẳng tác ý" vốn
là tu chân tánh, cùng lấy "bất kiến (chẳng thấy)" làm kiến chấp.
Loại học thuyết này cũng không phù hợp với giáo lý. Có và không, thường
và vô thường, thị và phi, một và khác, chính là những khái niệm tương
đối, tức còn thấy có hai. Tâm nếu giữ ý niệm "chẳng tác ý"
tức là đã tác ý; "bất kiến (chẳng thấy)" trở thành hai loại
kiến (thấy) và bất kiến (không thấy).
Ngoài ra, có một phái tự xưng là
tu hành thiền định. Họ cho rằng tất cả thiện hạnh phân biệt tính
toán đều là chưa rời được tâm tán loạn. Vì vậy, họ chủ trương rằng
chỉ cần chuyên tu thẩm sát về chân lý, mà không cần tu thiện hạnh. Họ
lại bảo rằng lúc tu chân lý, không cần dùng chánh lý để quán sát.
Những tông phái ở trên đều giải
thích sai lầm về "Tánh Không" mà chẳng biết nghĩa "Không"
tức chỉ cho nghĩa "Vô Tự Tánh". Kinh luận đều nói rõ rằng những
kẻ ác hạnh tà kiến đó sẽ chiêu cảm quả báo khổ. Ví như không biết
phương pháp bắt rắn độc, mà lại đi bắt rắn độc, tức sẽ bị rắn
cắn. Vì vậy, Phẩm Tứ Đế trong luận Trung Quán thuyết: "Không thể
quán sát chân chánh về Tánh Không, kẻ độn căn tự tổn hại. Ví như
người không khéo về chú thuật, thì không thể biết cách bắt rắn độc".
Đối với các loại tri kiến khác
biệt về giáo nghĩa của chư cổ đức ở Tây Tạng, Đại Sư vận dụng
trí huệ vô cấu nhiễm, trong những trước tác như Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Luận, Nhập Trung Luận Thiện Hiển Mật Ý Sớ, Trung Luận Thích, Biện Liễu
Nghĩa Bất Liễu Nghĩa Thiện Thuyết Tạng Luận, Duyên Khởi Tán, v.v... mỗi
mỗi đều phê phán giảng trạch. Tư tưởng của Đại Sư là kế thừa yếu
chỉ của thầy trò Bồ Tát Long Thọ. Bàn về lý luận căn bản, tất cả
pháp sanh tử và Niết Bàn, chỉ do y theo sự vật mà giả lập phân biệt,
nên không thể đạt được thắng nghĩa đế. Do nơi thắng nghĩa đế không
thể đạt được và nơi thế tục đế đã được thành lập, nên tất cả
pháp đều không có tự tánh. Chánh kiến này rất có tác dụng, tức là
dùng lý tánh Không, ngay nơi ngôn từ mà an lập nhân duyên nghiệp quả. Tuy
ngôn từ không có tự tánh chân thật, nhưng tác dụng của nhân quả khẳng
định là có.
Trọng tâm của luận Duyên Khởi,
Đại Sư viết: ''Do bổn tánh của tất cả pháp đều là không, nên nghiệp
quả và pháp duyên khởi mới sanh khởi. Nếu tự tánh chẳng phải không
thì chúng không thể sanh khởi. Lại nữa, do biết lực của các pháp duyên
khởi, nên mới biết tự tánh vốn không. Vì nghiệp quả và pháp duyên khởi
chờ đợi các duyên mới sanh khởi, nên tự tánh của chúng vốn là không.
Hiểu rõ lý duyên khởi cũng có thể thấy cái không của không tự tánh
cùng cái có của có duyên khởi; chúng chẳng những không trái ngược, mà
còn bổ túc cho nhauỢ.
Đại Sư y theo giáo thọ của Bồ
Tát Văn Thù; đối với chánh kiến Trung Quán của Bồ Tát Long Thọ, cũng
thông đạt như thật, cùng trước tác luận lý để xiển minh. Tìm được
một người như Đại Sư trong thời buổi đó thật là hiếm có.
Lại nữa, ở Tây Tạng vào thời xưa,
lúc Đại Sư chưa xuất thế, ít có vị học giả nào diễn đạt luận
thuyết rõ ràng về sắc của thể tướng cùng biến kế trong Duy Thức Học,
và an lập biến kế làm pháp nghĩa không tự tánh và vô ngã. Khắc Chủ Kiệt
chú thích về giáo nghĩa của tông Duy Thức: "Xưa kia, chưa ai có thể
hiển thị nơi mật ý thậm thâm. Nay Đại Sư đã khai mở bảo tạng, khiến
chúng sanh vui mừng".
Trong Văn Phát Nguyện, Đại Sư đã
từng viết: "Chúng sanh vì sợ nghĩa chân thật thậm thâm, nên vọng chấp
ít phần của cái không. Vì muốn mãi mãi xa rời những ác kiến đó, nên
con nguyện thông đạt các pháp vốn là không".
Nhờ quyết trạch về chánh kiến
và chứng ngộ về tánh Không, nên biết tâm vốn bao trùm khắp tất cả
pháp giới. Dẫu pháp vi tế nhỏ nhít, không thể tự tạo vọng chấp cùng
lầm ngộ ít phần của tánh Không. Do các pháp bổn tánh vốn không, nên nơi
tất cả loại trí huệ (30) đều phải thông đạt Tánh Không của không tự
tánh. Lại nữa, chỉ cần thông đạt được cái thấy về tánh Không đó,
rồi mới nghiên cứu các sự lý liễu nghĩa, tức sẽ có chánh kiến Trung
Quán thậm thâm viên mãn.
Phương pháp tu tập thiền định
trong nhà Phật, được phân làm hai phần: Thứ nhất là tu Chỉ Trì. Thứ
hai là tu Quán Chiếu. Tu Chỉ Trì và tu Quán Chiếu hỗ tương xoay vần và
thúc đẩy lẫn nhau; đó là phương pháp tu tập chính xác. Người tu hành
thấu suốt được hai phương pháp này thì mới có thể đạt đến cảnh
giới chứng ngộ. Đại Sư đề xuất ra thuyết là phải y "Tu Tập Thứ
Đệ"; tu Chỉ Trì và tu Quán Chiếu ví như chim có hai đôi cánh, nên
không thể thiếu một. Lúc nên tu Chỉ Trì thì tu Chỉ Trì. Lúc nên tu Quán
Chiếu thì tu Quán Chiếu. Lúc nên tu Chỉ và Quán theo trình tự xoay chuyển
thay đổi thì phải tu Chỉ và Quán.
Đại Sư lại y theo các kinh luận
thâm mật, luận của Bồ Tát Di Lặc, cùng mật ý của các bộ luận Du
Già Sư Địa, mà tu hành đạt được giáo nghĩa tam ma địa chân chánh. Ban
đầu, phải chuẩn bị đầy đủ tư lương Chỉ và Quán, cùng nhận ra sự
khác biệt của các duyên; phân chiết cách tu Quán Chiếu và Chỉ Trì, cùng
có đầy đủ chín loại trụ tâm, tám loại đoạn hành; như lý tu tập
thì sau sẽ đắc được Chỉ Quán tùy thuận. Lại nữa, phải hiểu rõ
chân chánh về Chỉ Quán cùng sự hạn lượng và thứ lớp của Chỉ Quán.
Kế đến, phải nhận ra thể tánh và cách đối trị hai loại chướng ngại
trong khi tu Chỉ Quán là hôn trầm và trạo cử.
Đại Sư cũng đề xuất ra sự khác
biệt giữa chánh niệm và chánh tri. Tóm lại, Đại Sư y theo yếu chỉ các
bộ luận của Bồ Tát Long Thọ mà giảng trạch chính xác về các phương
pháp tu định. Trong quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận, Đại Sư viết rõ
về các phương pháp tu định, cùng những cảnh giới thiền định.
Một số người tu học Mật pháp vốn
hiểu sai lầm về kinh điển mật tích, cùng luận điển của các vị đại
thành tựu; họ cho rằng những kinh điển và luận điển đó chỉ là những
công cụ để trở thành bậc bác học đa văn cùng tăng trưởng tri kiến mà
thôi. Do đó, họ rất xem thường những bộ kinh luận đó. Ngược lại, họ
cho rằng những khẩu quyết nhỏ nhặt vốn là giáo nghĩa tối thượng và
thù thắng hơn các kinh luận của Phật tổ. Tuy nhiên, những khẩu quyết
nhỏ nhặt kia dĩ nhiên hoàn toàn không hợp lý và tương phản với Mật
kinh cùng luận điển của các bậc đại thành tựu.
Những người này thiếu sự đa
văn nơi chánh pháp quảng đại, và không có trí huệ biện biệt chánh tà,
nên ngộ nhận sai lầm về thật thể của đạo Mật Thừa viên mãn.
Có một số cho rằng sanh khởi thứ
lớp trong "Vô Thượng Mật Bộ" là pháp môn tất địa cộng đồng
tu tập, và là lời dạy của đức Phật dành cho những kẻ độn căn. Thật
ra, muốn đạt đến nơi thành tựu tối thượng, phải trực tiếp tu tập
thứ lớp cho viên mãn. Có người chấp về lời kinh: "Phải tu về trí
huệ tánh Không vốn thanh tịnh của các pháp", là nghĩa chân thật; tu
phá tà chấp phân biệt, chẳng phải là nhân để thành Phật. Thật ra, đức
Phật vẫn còn dùng sắc thân để làm lợi ích cho loài hữu tình. Nhờ có
phước đức đầy đủ nên mới có sắc thân đó. Vì vậy, chỉ cần liễu
đạt chánh kiến vô cấu, chuyên tu thứ lớp sanh khởi, thì sẽ có ngày
thành Phật.
Có người cho rằng ý nghĩa về sự
kết hợp giữa hai đế (thắng nghĩa đế và thế đế) của pháp quán đảnh
thứ tư, được gọi là tu tánh Không, cũng không cần suy tư hay tạo tác.
Tựu chung, những quan niệm sai lầm
đó, thật không hiểu rõ việc tu học Mật pháp. Trong cõi uế trược, một
đời có thể viên mãn hai loại tư lương, đoạn tận sở tri chướng, là
do lực câu sanh trí đại lạc, chóng chứng đắc tánh Không.
Song, tu Tánh Không trong Mật Thừa,
có những phái không đồng nhau như phái Trung Quán-Ứng Thành, phái Trung
Quán-Tự Tích, phái Duy Thức. Tuy nhiên, có căn khí khế cơ nhất đối với
sự tu trì Mật pháp, và hiểu rõ thâm sâu tinh tường về tánh không trong
luận Trung Quán là phái Trung Quán-Ứng Thành.
Người tu Mật pháp nếu dùng tánh
Không của cái "đều vô sở hữu, chẳng phải có chẳng phải không,
cái không kia thật có, bỏ không vô tri", mà cho là chánh kiến, thì
không thể tu tánh Không "Minh Thâm Vô Biệt (31)" của ba bộ Mật
giáo (32).
Kiến giải lầm lạc về tánh
Không như thế (33), khiến cách tu sanh khởi thứ lớp cùng viên mãn thứ lớp
không có nền tảng căn bản, giống như mạng căn không có thi thể. Thiếu
sót sự thành tựu lý pháp thân như thế, chẳng những không thể đạt đến
quả vị Phật, mà không có cách nào để cắt đứt cội gốc sanh tử.
Người tu Mật pháp có khả năng tự
thân thành Phật hay không, hoàn toàn quyết định nơi đời nay có khả năng
tu đắc huyễn thân được hay chăng. Đạo lý tu đắc huyễn thân quan trọng
đó, giữa chư đại đức của các tông phái ở Tây Tạng, không ai có kiến
giải và trình độ tu chứng như Đại Sư. Lại nữa, tâm yếu được giải
thích trong Vô Thượng Mật Bộ, chính là trí đại lạc câu sanh cùng huyễn
thân. Đối với hai pháp tu này chỉ có Đại Sư là vị có thể hành theo
kinh điển Mật Tích cũng như y theo giáo nghĩa được giải thích rõ ràng
trong các bộ trước tác của chư vị đại thành tựu. Do đó, Mật pháp của
Đại Sư thù thắng bậc nhất, và vượt xa các tông phái khác.
Vì làm lợi ích cho hàng hậu học,
Đại Sư y theo giáo nghĩa và lời thọ ký của Bồ Tát Văn Thù, đem pháp
quán đảnh và số lượng của Mật Bộ, tam muội da giới, cận tu, cùng mạn
đà la, phương diện thứ lớp mà giải thích tường tận. Những điều này
được Đại Sư viết trong quyển "Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận".
Xưa nay, tại Tây Tạng, sự truyền
thừa giới luật thượng lạc và hạ lạc, giảng thuyết, cùng tất cả
hành pháp, đều bắt nguồn từ ngài Khách Tể Ban Khâm, tôn giả A Để Sa
cùng chư đại đức phái Ca Đương truyền thừa quyển Bồ Đề Đạo Thứ
Đệ và Bồ Đề Tâm Giáo Nghĩa; thầy trò Nga Lạc Trát Ngõa truyền các bộ
đại luận Câu Xá, Hiện Quán Trang Nghiêm, Trung Luận, Nhân Minh; Mã Nhĩ Ba,
Khuyếch Khô Ba Lạp, Trí Túc, v.v... truyền Tập Mật; Nhạ, Trác, Hùng truyền
Thời Luân; thầy trò Tát Ca Ban Trí Đạt truyền Thắng Lạc và HỶ Kim
Cang; Lạt Ma Mã Cơ truyền Đại Luân Kim Cang Thủ; ba vị đại đức Nhạ,
Giác, Đương truyền Hồng, Hắc Đại Oai Đức Kim Cang, bốn bộ mạn đà
la quán đảnh, giảng giải ban truyền giáo nghĩa Mật Tông thậm thâm thứ
lớp sanh khởi và viên mãn.
Mã Nhĩ Ba cùng Đạt Bạc truyền Lạc
Không Đại Thủ Ấn, sáu pháp Na Nhã, sáu pháp Ni Cổ, năm chi Đại Thủ
Ấn, giáo nghĩa tâm tạng của phái Cát Cử.
Những giáo pháp thậm thâm như thế,
trong giáo nghĩa của Đại Sư đều đầy đủ không thiếu sót, và thắng
nghĩa bao hàm hết tất cả tông phái. Vì vậy, Hoàng Giáo không những là cốt
tủy của các tông phái, mà lại là giáo phái siêu xuất hơn hết tất cả.
Ngoài ra, nơi Nhân Minh, Y Phương
Minh, Công Xảo Minh, Thanh Minh, cùng văn chương, toán số, Đại Sư đều thâm
hiểu tinh tường. Vì vậy, giáo nghĩa của Đại Sư, chính là chánh pháp của
Phật Thích Ca lưu truyền lại, tức là giáo pháp Hiển-Mật hợp nhất vào
biển Phật pháp.