- Đại sư Tông Khách Ba
(1357-1419)
- Thích Hằng Đạt
- Chương VII
- Lược Thuật về Những Tông
Phái Chính của Phật Giáo Tây Tạng
Ngoài phái Ca Đương (Kadampa) và
Cách Lỗ (Gelugpa) ra, ở Tây Tạng còn có ba tông phái chính:
A. Phái Ninh Mã
(Nyingma; Hồng giáo)
Phái Ninh Mã (1) cũng được gọi là
Cựu Phái hoặc Đại Cứu Cánh Phái. Đây là Tiền Truyền Mật Thừa vào
thời đại sĩ Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), cộng thêm Hậu Truyền Mật Thừa,
hợp nhất thành một danh xưng. Đây cũng là phái hỗn hợp cách tu trì của
Mật Giáo và Bổng giáo, nên tăng sĩ xem nhẹ giới luật và thường có vợ
con. Phái này cho rằng chỉ chuyên trì mật chú, dùng Vô Thượng Du Già làm
pháp cứu cánh, thì tự nhiên sẽ hiển hiện trí huệ thanh tịnh, khế hợp
lý Không mà đạt giải thoát.
Sự truyền thừa của phái này bắt
đầu từ đại sĩ Liên Hoa Sanh người Ấn Độ. Do sự thỉnh cầu của vua
Xích Tùng Đức Tán (755-797), đại sĩ Liên Hoa Sanh đến Tây Tạng vào năm
747. Hợp tác với ngài Tịch Hộ (Shantarakashita), đại sĩ Liên Hoa Sanh cho
xây chùa Tam Diệp (2) cách Lạp Tát (Lhasa) khoảng ba mươi dặm; nơi đây trở
thành trung tâm tu học và phiên dịch kinh điển đầu tiên từ tiếng Phạn
sang tiếng Tây Tạng. Đại sĩ Liên Hoa Sanh ban truyền mật thừa Vô Thượng
Du Già cho quần chúng Phật tử, mà đặc biệt là hai mươi lăm vị đại
đệ tử. Họ là những vị đại sĩ Tây Tạng đầu tiên đạt đại thành
tựu. Điển hình, Ngưỡng Nhật Quang (Namkhe Nyingpo) có thể bay trên không
trung trong nháy mắt; Da Hy Thố Cổ (Khandro Yeshe Tsogyal) cứu người chết sống
trở lại; Trát Ba Thần Thông Nhiên (Kawa Peltseg) đọc được tâm niệm của
những người khác (3), v.v...
Đương thời cũng có các ngài Vô Cấu
Hữu (Vimalamitra), Phật Mật (Buddhaguhya, hay Buddha Gupta), v.v... sang Tây Tạng
hoằng truyền Mật pháp. Bấy giờ, dẫu Nhân Minh học và giáo lý đạo Phật
chưa được thạnh hành, nhưng sự tu trì Mật pháp (4) rất được chú trọng.
Điển hình, ngài Pháp Xưng y theo pháp quán đảnh Kim Cang Giới Đại Mạn
Trà La, mà truyền Mật pháp Du Già Bộ. Ngài Phật Mật truyền mật pháp Sự
Bộ và Hành Bộ. Ba bộ Mật pháp đó (5) không khác với ba bộ Mật pháp của
Hậu Truyền Phật giáo, và không những truyền cho phái Ninh Mã mà còn truyền
cho các phái khác. Ngài Vô Cấu Hữu truyền Mật pháp Huyễn Biến Mật Tạng
và Tâm Bộ. Đại sĩ Liên Hoa Sanh truyền Kim Cang Quyết Pháp, Mã Đầu Pháp
Vương, cùng các pháp hộ thần khác. Ngài Tĩnh Tạng (Shantipa) truyền pháp
Văn Thù; ngài Hồng Ca La (Nyag Jnana Kumara) truyền pháp Chân Thật Loại;
ngài Mặc Na La Khất Đa (Dhana-rakhitd) truyền pháp Tập Kinh. Những bộ Mật
pháp Vô Thượng Du Già chính là Mật pháp đặc biệt của phái Ninh Mã,
nên sự truyền thừa vẫn còn nằm trong phạm vi bí mật.
Mật điển căn bản của phái Ninh
Mã có mười tám bộ: 1/ Đại Viên Mãn Bồ Đề Tâm Biến Tác Vương; 2/
Kim Cang Trang Nghiêm Tích Giáo Mật Ý Tập; 3/ Nhất Thiết Như Lai Đại Mật
Tạng Mãnh Điển Luân Tích; 4/ Nhất Thiết Như Lai Biến Tập Minh Kinh Du Già
Thành Tựu Tích; 5/ Thắng Mật Tạng Quyết Định; 6/ Thích Tích Huyễn Võng
Mật Kính; 7/ Quyết Định Bí Mật Chân Thật Tánh; 8/ Thánh Phương Tiện La
Tác Liên Hoa Mạn; 9/ Huyễn Võng Thiên Nữ Tích; 10/ Bí Mật Tạng Tích; 11/
Văn Thù Luân Bí Mật Tích; 12/ Hậu Tích; 13/ Thắng Mã Du Hý Tích; 14/ Đại
Bi Du Hý Tích; 15/ Cam Lồ; 16/ Không Hành Mẫu Diệm Nhiên Tích; 17/ Mãnh Chú
Tập Kim Cang Căn Bổn Tích; 18/ Thế Gian Cộng Tán Tu Hành Căn Bổn Tích.
Mười tám bộ này còn tồn tại
trong bộ Bí Mật của đại tạng kinh Tây Tạng. Song, phái Ninh Mã thường
dùng tám bộ như: 1/ Văn Thù Thân; 2/ Liên Hoa Ngữ; 3/ Chân Thật Ý; 4/ Cam Lồ
Công Đức; 5/ Quyết Sự Nghiệp; năm bộ này gọi là xuất thế gian pháp.
6/ Sai Khiển Phi Nhân; 7/ Mãnh Chú Chú Trớ, 8/ Thế Gian Cung Tán; ba bộ này
thuộc về thế gian pháp.
Trong đó, Văn Thù Thân là Tỳ Lô
Giá Na Bộ; Liên Hoa Ngữ là Di Đà Bộ; Chân Thật Ý là Bất Động Bộ;
Cam Lồ Công Đức là Bảo Sanh Bộ; Quyết Sự Nghiệp là Bất Không Thành Tựu
Bộ. Sau khi hàng phục quỶ thần ở Tây Tạng xong, đại sĩ Liên Hoa Sanh
bèn truyền ba bộ thế gian pháp như Sai Khiển Phi Nhân, Mãnh Chú Chú Trớ,
Thế Gian Cung Tán để bảo hộ chánh pháp, nên có người cho rằng đây là
Mật pháp của Tây Tạng.
Trong phái Ninh Mã, giáo pháp trọng
yếu nhất là Đại Viên Mãn giáo thọ, và được phân làm ba bộ: 1/ Tâm Bộ
(sems-sde); 2/ Lũng Bộ (klon-sde); 3/ Giáo Thọ Bộ (man-nag sde). Tâm Bộ có mười
tám bộ kinh; ngài Biến Chiếu Hộ (Vairocana raksita) truyền năm bộ; ngài
Vô Cấu Hữu (Vimala-mitra) truyền mười ba bộ. Lũng Bộ do ngài Biến Chiếu
Hộ truyền. Giáo Thọ Bộ được phân làm hai phần: 1/ Thậm Thâm Ninh Đề
(Snin-thig), do ngài Vô Cấu Hữu truyền; 2/ Không Hành Ninh Đề, do đại sĩ
Liên Hoa Sanh truyền. Y theo sự truyền thừa của các Mật pháp đó, mà tạo
thành phái Ninh Mã.
Phái này phân Phật pháp ra làm
chín thừa: 1/ Thanh Văn Thừa; 2/ Độc Giác Thừa; 3/ Bồ Tát Thừa; 4/ Tác
Du Già Thừa (Sự Bộ); 5/ Phương Tiện Du Già Thừa (Hành Bộ); 6/ Du Già Thừa;
7/ Đại Du Già Thừa (Sanh Khởi Đại Du Già); 8/ Tùy Du Già Thừa (Giáo A Nậu
Du Già); 9/ Vô Thượng Du Già Thừa (Đại Viên Mãn A Để Du Già).
1, 2,3 thuộc về Hiển giáo, do hóa
thân Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết, được gọi là Cộng Tam Thừa. 4, 5, 6 thuộc
về Mật giáo, do báo thân Phật Kim Cang Tát Đỏa và Đại Nhật Như Lai
thuyết, được gọi là Mật Chú Ngoại Tam Thừa. 7, 8, 9 do pháp thân Phật
Phổ Hiền thuyết, được gọi là Vô Thượng Nội Tam Thừa. Sáu thừa đầu
tiên được lưu hành trong các tông phái khác. Ba thừa cuối chỉ được
truyền trong phái Ninh Mã. Ngoài ra, phái này phân Mật giáo làm Ngoại Tích
Bộ và Nội Tích Bộ. Ngoại Tích Bộ có Sự Bộ (Kriya tantra), Hành Bộ
(Carya tantra), Du Già Bộ (Yoga tantra).
Sự Bộ do Phật Thích Ca thuyết,
và cũng gọi là Tác Mật, vốn tu vô tướng Du Già; tuy có kết đàn tràng,
nhưng quan trọng hóa về việc thiết cúng dường, tụng chú, kết ấn, và
chú trọng nơi sự tướng của việc thực hành chánh hạnh chánh mạng
chánh ngữ để thanh tịnh thân tâm, và hành chút ít quán tưởng.
Hành Bộ và Du Già Bộ do Phật Tỳ
Lô Giá Na thuyết. Hành Bộ cũng được gọi là Tu Mật; bộ này chú trọng
vào việc phát triển các căn nội ngoại để thành tựu hợp nhất với
thiền định.
Du Già Bộ chú trọng việc phát triển
nội tâm, và y theo lời dạy của Bổn Tôn Phật Tỳ Lô Giá Na.
Nội Vô Thượng Tích Bộ là do
ngài Kim Cang Trì thuyết. Tâm của mỗi người vốn hợp nhất với chư Phật
(tức tâm tức Phật), nhưng vì vô minh và si mê, nên bị rơi vào lưới võng
tham sân si mà chẳng thể tự cứu. Do đó, giai đoạn thứ nhất là phải
dùng pháp suy tư quán tưởng, tức từ trong ý thức phát sanh ra một hình tượng
hộ pháp, rồi hợp nhất với vị đó (6), biến bất tịnh thành thanh khiết,
dẹp bỏ tri thức bình thường và chấp trước. Giai đoạn thứ hai là
pháp Annuyoga (A Nộ Du Già), tức dùng thân kim cang để đạt đến sơ tỉnh
thức. Giai đoạn thứ ba là pháp Atiyoga (A Đề Du Già), tức loại bỏ tánh
chất của hai giai đoạn trước, chuyên chú nhận thức tư duy chân chánh
(7), đạt đến quả vị siêu thoát tối thắng của Vô Thượng Thừa Pháp.
Chi hệ của phái này như phái Lạp
Tôn (Lhlatsun-pa), phái Cát Nhĩ Thát (Kartok-pa), phái Na Đạt (Na-dak-pa), phái
Mẫn Châu Lâm (Mindollin-pa), phái Đa Kiết Trát (Dorje-tak-pa). Tên của các hệ
phái này xuất phát từ tên của các vị sáng lập hay từ tự viện của họ.
Điển hình, phái Lạp Tôn và phái Cát Nhĩ Thát đều lấy tên của người
sáng lập; phái Mẫn Châu Lâm và phái Kiết Trát lấy tên của chùa mà lập
danh.
Chùa viện chủ yếu của phái Ninh
Mã (hay Hồng giáo) là chùa Minh La Lăng (Mindroling, xây năm 1676), chùa Đa
Nhĩ Tể Lạp Khắc (Dorje Drag, xây vào năm 1659); tại Tây Khương và các nơi
khác có chùa Tạp Thát Cách (Kathok, xây năm 1159), chùa Ba Tả Lặc (Palyul,
xây vào năm 1665), chùa Tảo Khắc Tần (Dzongchen, xây vào năm 1685), và chùa
Hy Tần (Zhenchen, xây vào năm 1735).
Các tín đồ của giáo phái này thường
đọc tụng mật chú, và thường hành lễ cúng dường vào mồng mười và
ngày hai mươi lăm trong tháng giêng. Họ cũng thường nhập thất tịnh tu một
mình hay cùng với nhiều người trong ba năm ba tháng.
- B. Phái Ca Nhĩ Cư
- (Kagyudpa, Cát Cử, hay phái Bạch
Giáo)
Môn đồ của phái này phần nhiều
là những vị Du Già Sư tu hành khổ hạnh. Ca (Ka, hay bkah) nghĩa âm tiếng
Tây Tạng là "Cội nguồn của sự phát âm", vì do từ kim khẩu của
Phật thuyết ra. Nhĩ Cư (Gyud hay brgyud) là khẩu truyền trực tiếp từ các
sư trưởng xuống đến chư đệ tử. Vì vậy, phái này chú trọng sự truyền
thừa bằng khẩu truyền. Ngoài ra, Ca Nhĩ Cư còn có nghĩa là Bạch Truyền,
vì chư tổ sư của phái này như Mã Nhĩ Ba, Mật Lặc Nhật Ba, v.v... thường
mặc y màu trắng. Thế nên, phái này được gọi là Bạch Giáo.
Người sáng lập ra phái Ca Nhĩ Cư
(hay Cát Cử, Bkah-brgyud-pa) là Mã Nhĩ Ba (1), đã từng sang Ấn Độ ba lần,
và cầu pháp dưới tòa của tôn giả A Để Sa, và cũng là đệ tử thọ Mật
Thừa cuối cùng của ngài Na Lộ Ba (2), đắc được Mật Thừa chân truyền
từ ngài Kim Cang Tát Đỏa, Sa La Ha, Long Thọ. Ngài Mã Nhĩ Ba cũng thọ pháp
Đại Thủ Ấn từ ngài Di Lặc Đế (Maitri).
Mã Nhĩ Ba truyền pháp cho ngài Mật
Lặc Nhật Ba (Mi-la-ras-pa, 1052-1135). Mật Lặc Nhật Ba có rất nhiều đệ tử,
mà người đạt đại thành tựu có đến hai mươi lăm vị. Trong đó, cao
đệ của Mật Lặc Nhật Ba là Đạt Bảo Cáp Giải (3), một nhân tài kiệt
xuất như vầng thái dương, và là sơ tổ của các chi phái trong phái Cát Cử.
Về sau, do phái này hoằng truyền rộng rãi, khiến sự truyền thừa Mật
pháp ngày càng sai biệt phức tạp, nên lại phân ra chín hệ phái nhỏ:
1/ Đạt Bảo Cáp Giải tự thành lập
phái Đạt Bố.
2/ Đệ tử của Đạt Bảo Cáp Giải
là Cầu Tùng Khẳng Ba (Dus-gsum-mkhyen-pa, hay Dusum Khyenpa) khai sáng phái Ca Nhĩ
Mã (Karma-bkah-brgyud-pa), và dùng chùa Ca Nhĩ Mã làm đạo tràng chính. Cầu
Tùng Khẳng Ba mất, lại chuyển thế tái sanh, làm tổ thứ hai của phái đó.
Về sau, hậu thế tôn theo quy chế chuyển thế tái sanh. Chế độ chuyển
thế của Phật sống (Hoạt Phật) do phái này khai sáng. Phái này rất được
thạnh hành ở nước Tàu vào đời Minh. Tổ sư đời thứ tư của phái
này vốn là pháp hữu của vua Minh Vĩnh Lạc, và thu đại sư Tông Khách Ba
làm đệ tử. Vào thời ấy, phái này chịu sự ảnh hưởng của phái Ninh
Mã mạnh mẽ.
3/ Bát Kết Mộc Cửu Ba
(Phags-mo-gru-pa) khai sáng phái Bát Kết Ca Nhĩ Cư (Phags-gruhi-Bkah-brgyua-pa).
4/ Lạp Mã Tân (Bla-ma shan) khai sáng
phái Tân Tra Nhi (Shan-tshal-pa).
5/ Đệ tử của Bát Kết Mộc Cửu
Ba là Lâm Thanh (Rin-chen-dpal) khai sáng phái Địa Khang (Bdri-khun-pa), và kiến
lập chùa Địa Khang cách Lạp Tát về phía đông bắc hơn một trăm dặm vào
năm 1172.
6/ Kim Ba Nhật Ba (Stan-pa-rgya-ras-pa)
khai sáng phái Lộ Kiết (Hbrug-pa), dùng chùa Long Độc (Klun-rdol) làm đạo
tràng chính.
7/ Đại Kiết Long Đàn
(Stag-lun-dam-pa) khai sáng phái Đại Long (Stag-lun-bkah-brgyud-pa), kiến lập tịnh
xá Đại Long; phái này vẫn còn được truyền cho đến ngày nay.
8/ Đạt Nhĩ Mã Đằng
(Dharma-bdan-phyug) khai sáng phái Bột Long Ca (Hbad-ronbkah-brgyud-pa).
9/ Lâm Phổ Khởi Trá
(Rin-po-cne-rgya-tsha) khai sáng phái Đỗ Phổ (Khro-phu-bkah brgyud-pa). Đây là
chi phái được khai sáng cuối cùng.
Về sau, phái Bát Kiết Mộc Cửu Ba
và Ca Nhĩ Mã được hai triều Nguyên và Minh sắc phong, tiếp nối nhau nắm
giữ chính quyền địa phương. Sau này, phái Bát Kiết Mộc Cửu Ba lại
chia thành các phái như Chi Cống, Chủ Ba, Diệp Ba, v.v... Từ lúc phái Cách
Lỗ của Hoàng giáo có ưu thế thì phái Ca Nhĩ Cư chỉ còn bốn chi phái vẫn
giữ được thế lực như phái Chi Cống, Ca Nhĩ Mã, Đại Long, Chủ Ba.
Theo người Tây Tạng thì phân nửa
tăng chúng thường tu khổ hạnh vì noi gương ngài Mật Lặc Nhật Ba. Từ
phân nửa số người tu khổ hạnh lại xuất sanh ra các bậc thánh giả.
Đa phần, tăng chúng của phái này, một khi vào tu hành trong tự viện, thì
phải thực hành pháp tu khổ hạnh.
Về phương diện Hiển giáo thì sự
tu học của phái này không khác biệt gì mấy với các tông phái khác.
Song, về phương diện Mật Thừa, thì phái này đặc biệt sùng bái tôn thờ
Kim Cang Du Già Mẫu. Do việc này, nên các học giả ngày nay cho rằng phái
này thuộc về phái Cựu Hồng giáo (tức phái Ninh Mã).
Chùa chiền chủ yếu của phái này
có chùa Chỉ Cống ở Hắc Trúc Công Khải, chùa Bát Bang ở Tây Khang Đức
Cách.
Ngoài ra, phái Cát Nhĩ Cư còn có
chi phái Hương Ba Ca Nhĩ Cư, do ngài Quỳnh Ba Nam Giao lập ở chùa Hương Địa.
Vị này truyền pháp cho hơn 80.000 đồ đệ. Những vị Giáo Thọ Sư của
phái này đều từ Ấn Độ sang Tây Tạng truyền pháp, nên thành lập một
phái riêng biệt. Phái này cùng với phái Đạt Bố La Ca Nhĩ Cư vốn có sự
truyền thừa rộng lớn. Phái này chịu sự ảnh hưởng về giáo nghĩa của
phái Ca Đương và Tác Ca, dung hợp Hiển-Mật giáo để thành lập giáo đoàn
và giáo hóa tín đồ. Phái này y theo học thuyết Trung Quán của ngài Nguyệt
Xưng và pháp Đại Thủ Ấn. Lại nữa, phái này chẳng chú trọng văn tự,
chỉ đặc biệt xem trọng về sự tu chứng, thông đạt Đại Thủ Ấn. Phái
này cho rằng nhờ sự tu chứng mà hành giả mới có thể phát huy được
giáo nghĩa căn bản của Phật pháp. Thế nên, phái này lấy sự giác ngộ
làm mục đích cứu cánh.
C. Phái Tát Ca
(Sakyapa; hay phái Đa Sắc)
Bàn về cội nguồn, đại thần Cống
Ba Lặc Bảo Kỳ (Khonpalboche) của vua Xích Tùng Đức Thán (755-797) có người
con tên là Cống Lỗ Xích Vượng Bố Tùng (Kluvi dbang po srung), vốn là một
trong bảy vị tăng Tây Tạng đầu tiên của chùa Tam Diệp (Samye). Từ đó,
trải qua mười đời, gia thất họ Cống sanh ra những vị Lạt Ma trứ danh
của phái Hồng giáo (hay Ninh Mã, Nyingma).
Đến đời thứ mười hai, Cống
Khương Sở Khắc Trát Lặc Bố (Khonton Konchog Gyalbo, 1033-1102) vốn tinh
thông Hiển giáo và Mật giáo, được người anh khuyến khích sang nước Mạc
Cổ (Mugu), yết kiến và theo ngài Trát Di Thích Ca Trí (Drogmi Shakya Yeshe,
992-1074) tu học Mật Thừa.
Tu học thành tựu xong, Cống Khương
Sở Khắc Trát Lặc Bố trở về Tây Tạng, đến vùng Tát Ca (1) lập chùa
viện, vân tập đồ chúng, giảng kinh thuyết pháp, nên được xưng là
phái Tát Ca.
Dân Tây Tạng cũng thường gọi phái
Tát Ca là phái Đa Sắc vì trên vách tường của chùa Tát Ca thường có giăng
các tấm lụa ba màu như hồng, xanh da trời, trắng; những tấm vải lụa màu
này biểu thị cho ba vị Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi, Kim Cang Tát Đỏa, Quán
Thế Âm.
Tại Tây Tạng, trừ phái Ca Đương
chỉ chuyên sự giáo hóa, còn những phái khác thường cấu kết với hào tộc,
giao thiệp với chính trị, phát sanh sự lạm dụng thế lực. Phái Tát Ca
đã từng nắm chính quyền của Tây Tạng. Sự quan hệ giữa chính trị và
phái Tát Ca rất thâm sâu. Phái này lấy vợ con làm người kế thừa pháp
tự. Con của người khai sáng phái này là Cống Ca Ninh Bảo (Kunga Nyingpo,
1092-1158) học vấn rất uyên thâm, và là vị đại thành tựu, được ban
truyền tất cả Hiển giáo và Mật giáo của ngài Long Mãnh (tức Long Thọ).
Phái Tát Ca được phát triển và xiển dương rộng rãi phần lớn nhờ
công lao của vị này, nên tín đồ của phái này tôn xưng ông ta là Tát
Khâm (Sa chen), cũng là vị tổ thứ nhất của phái Tát Ca (Đa Sắc).
Người con thứ hai của vị này là
Tác Nam Tư Ma (Sonam Tsemo, 1142-1182) kế thừa ngôi pháp vị, chủ trì chùa
Tát Ca, làm vị tổ thứ hai. Về sau, người em của Tác Nam Tư Ma là Thát
Ba Kiên Tán (Drapa Gyaltshan, 1147-1216) kế thừa ngôi pháp vị, làm vị tổ thứ
ba. Cháu nội của Cống Ca Ninh Bảo là Tát Ban Bán Trạch Đa (2) là vị tổ
thứ tư, và cũng là người gieo mối quan hệ đầu tiên giữa Tây Tạng và
vương thất nhà Nguyên. Vào năm hai mươi ba tuổi, ngài Tát Ban Bán Trạch
Đa thọ giới tỳ kheo. Do đã từng sang Ấn Độ, Ni Bạc Nhĩ, Ca Thấp Di La
tu học Hiển-Mật pháp, y thuật, thiên văn học, luận lý học, nhân minh học,
v.v..., ngài Tát Ban Bán Trạch Đa trở thành tỳ kheo bác học đa văn, nên
được tôn xưng là vị Ban Trí Đạt. Về sau, ngài Tát Ban Bán Trạch Đa
được vua Nguyên thỉnh mời sang Mông Cổ hoằng pháp, và được tôn xưng
là Văn Thù Pháp Vương.
Năm 1205, Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm
nước Hạ Vương (Tangood, Đường Ngột). Từ đó, Tây Tạng thần phục
Mông Cổ. Về sau, Hốt Tất Liệt cung thỉnh Bát Tư Ba (3) vào kinh đô, làm
lễ quán đảnh, rồi tôn xưng vị này là Đế Sư, hiệu là Đại Bảo Pháp
Vương. Tại hoàng cung Bát Tư Ba đã từng thắng trong các cuộc tranh luận
với các đạo sĩ người Tàu và người Tây Phương trong hoàng cung. Hốt Tất
Liệt lại cung thỉnh Bát Tư Ba soạn viết mẫu tự Mông Cổ. Loại mẫu tự
này dựa vào mẫu tự của Phạn văn và Tây Tạng văn mà chế thành; tuy loại
mẫu tự này chưa được phổ biến, nhưng mẫu tự hiện tại của Mông Cổ
vốn y cứ vào mẫu tự do Bát Tư Ba chế ra. Hốt Tất Liệt thấy tài trí
của Bát Tư Ba như thế, bèn giao quyền thống trị Tây Tạng cho Bát Tư Ba,
và bắt tất cả thần dân Tây Tạng đều tín phụng theo phái Tát Ca. Thế
nên, Bát Tư Ba là vị Lạt Ma đầu tiên nắm quyền chánh trị và tôn giáo
ở Tây Tạng. Lúc Bát Tư Ba mất, ông được triều Nguyên ban hiệu: Hoàng
Thiên Chi Hạ, Nhất Nhất Chi Thượng (4), Nghị Văn Phụ Chánh, Đại Thánh
Chí Đức, Phổ Giác Chân Trí, Hữu Quốc Như Ý Đại Bảo Pháp Vương Tây
Thiên Phật Tử, Đại Nguyên Đế Sư.
Sau khi Bát Tư Ba tịch, người em lên
kế vị; tổng cộng, phái Tát Ca trị vì Tây Tạng hơn một trăm năm. Phái
Tát Ca thường dùng phương thức truyền pháp cho vợ con, nên rất gần với
thế tục.
Về phương diện Mật giáo, phái
này lại chia ra làm ba chi phái. Phái thứ nhất là Nga Nhĩ (Ngor), do Nga Nhĩ
Khâm Cống Cát Tang Ba (Ngorchen Vajradhara Kungah Zangpo 1382-1457) sáng lập vào năm
1429; vị này cũng đã từng xây chùa Vượng Mục Sở Đơn (Ewan Chodan), và
là bậc học giả của Mật giáo. Phái thứ hai là Cống Cát (Gong dkar) do Cống
Cát Nam Kiết (Kungah Namgyal, 1432-1469) sáng lập; vị này đã từng xây chùa
Cang Tạp Đa Kiết Đơn (Gangpah Doredan) tại vùng Cống Cát, nên người sau gọi
ngôi chùa đó là Cống Cát. Phái thứ ba là Trát Nhĩ (Tshar), do Trát Nhĩ Khâm
La Sai Gia Thác (Tshachen Losel Gyamtsho, 1494-1566) sáng lập.
Học thuyết của phái này dùng tư tưởng của
Trung Quán thuộc hệ ngài Thanh Biện, để giải thích về giáo nghĩa căn bản
của Mật Thừa. Phái này lại dùng năm địa vị của Bồ Tát (5) và bốn
bộ Mật Thừa (Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, Vô Thượng Du Già Bộ), đối
chiếu hợp nhất mà tu trì; dùng noãn, đảnh, nhẫn, tam muội da trong bốn
gia hạnh để đoạn sở thủ hoặc; dùng thế đệ nhất tam muội da để
đoạn năng thủ hoặc. Đồng thời, dùng bản tánh trí huệ sáng soi của Bồ
Tát mà nhập vào định đại lạc, tức là đạt đến cảnh giới Hiển-Mật
dung thông. Học thuyết này không xuất phát từ Ấn Độ mà thuộc về tư
tưởng của hệ phái Ban Thiền (Pan-c'en, nghĩa là Học Sư) Thích Ca Sư Lợi
ở nước Ca Thấp Di La.