- Cuộc đời và sự nghiệp
của HT. Tuyên Hóa
- Thích Hằng Đạt
- Chương I
- Thời Niên Thiếu
Ngài chào đời vào tháng năm năm
1910, trong một thôn xóm nghèo, huyện Song Thành, tỉnh Kiết Lâm, Trung Quốc.
Cha tên là Bạch Phú Hải, vốn làm nghề nông. Mẹ là Hồ Thị. Lúc sắp
sanh ra Ngài, Bà cảm giác có điềm chi kỳ dị. Số là trong đêm chuyển dạ
lâm bồn, Bà mơ thấy một điềm rất lạ kỳ. Trong mộng, Bà thấy Phật
A Di Đà hiển hiện; từ đôi mắt Phật phóng ra luồng hào quang vàng, chói
lòa khắp thế gian. Lúc ấy, trời đất đều chấn động. Mục kích cảnh
tượng này, thân tâm Bà thanh tịnh an lạc vô ngần. Ngay khi đó, Bà chợt
giật mình tỉnh giấc, rồi xoay đầu nhìn khắp mọi nơi, mới biết được
đó chỉ là một giấc mơ kỳ lạ, nên khiến không khỏi buồn đôi chút.
Tuy nhiên, có một việc không phải mộng mị là Bà ngửi được hương
thơm lạ kỳ bay tràn khắp hư không, hồi sau mới hết. Cả đời bà Hồ
Thị ăn chay niệm Phật. Đối với cảnh mộng đó, thật là một điềm lành
may mắn. Vì vậy, Bà lại càng niệm Phật rõ tiếng hơn. Chẳng bao lâu,
Bà hạ sanh được một bé trai khác thường. Bé trai đó tên là An Từ, tự
Độ Luân, tức là đại lão hòa thượng Tuyên Hóa. Tuy nhiên, Ngài vừa
chào đời thì khóc suốt cả ba ngày liền, khiến cha mẹ đều phải bó
tay.
Ngài tự thuật: Vùng đông bắc nước
Tàu (Mãn Châu) có rặng núi nổi tiếng là Trường Bạch. Tại sao gọi là
Trường Bạch? Vì tuyết phủ quanh năm. Dưới rặng núi đó có huyện Song
Thành. Trong huyện có hai thị trấn lớn tại phía đông và phía tây. Nhà
tôi ở trên rặng núi đó. Trước khi đi vào rặng núi, đầu tiên sẽ gặp
một ngọn núi nổi tiếng là Thiệu Đạt Tử, cũng thuộc huyện Song Thành.
Trình độ văn hóa tại huyện Song Thành tương đối cao hơn những nơi khác.
Nơi đây, vài thế kỶ vừa qua, đã xuất hiện khoảng hơn hai mươi đại
quan và đại tướng. Hồng y Vu Bình cũng xuất thân từ huyện Song Thành.
Tôi còn nhớ những việc xa xưa mà
bà mẹ thường kể, nhưng hầu hết đều không thật, nên không muốn nói
đến.
Từ lúc mới sanh ra, tôi có tật xấu
là thích khóc suốt cả mấy ngày. Làm việc mệt nhọc cả ngày, mà ban đêm
không ngủ được vì nghe tiếng tôi khóc, nên khiến mọi người trong gia
đình rất bực bội. Cuối cùng, tôi ngưng khóc, chắc có lẽ là đã chán
sau khi khóc cả mấy ngày. Gia đình bên nội tôi có năm chú bác trai, còn
đối với gia đình bên ngoại, tôi không biết là bao nhiêu. Cha mẹ tôi có
năm trai và ba gái. Vì là con trai út, được cha mẹ cưng chiều, nên tôi trở
thành thằng bé kỳ quặc. Tôi thích ngồi cả ngày mà không nói năng chi hết
và cũng không thích tán gẫu về chuyện của những người khác, hay nói những
chuyện nhảm nhí. Nếu việc không thật, tôi không muốn nói.
Nhà tôi thuộc xóm nghèo. Mặc dầu
nền văn hóa tại quê nhà, tức thị trấn Lạp Lâm, huyện Song Thành, tỉnh
Hợp Nhĩ Tân, tương đối cao so với những nơi khác, nhưng tôi rất ngu si
vì thất học. Nhà tôi vốn là căn nhà tranh cũ kỸ rách rưới, cách xa những
căn nhà khác khoảng trăm bước. Sống trong môi trường đó, tôi đã từng
thấy những em bé mới sanh, nhưng chưa từng thấy người chết.
Lần nọ, vào năm mười hai tuổi,
lúc đang chơi đùa với chúng bạn, tôi chợt thấy một em bé mắt nhắm,
miệng ngậm, thân bị bó trong một chiếc chiếu rơm. Điều này thật lạ
lùng đối với tôi. Vì nghĩ rằng em bé đang ngủ nên tôi chạy đến và
kêu em ra chơi đùa, nhưng chúng bạn liền bảo:
- Nó đã chết rồi! Gọi nó làm
gì?
Mặc dầu đã mười hai tuổi,
nhưng tôi không hiểu nghĩa chữ chếtlà gì. Không dám cật vấn chúng bạn
vì mắc cở, thế rồi tôi chạy về nhà hỏi mẹ:
- Vừa rồi, con thấy một em bé nằm
quấn trong một mảnh chiếu rơm và đang ngủ ngoài đồng. Khi con hỏi thì
chúng bạn bảo là đứa bé kia đã chết. Thưa mẹ, chết nghĩa là gì? Tại
sao em phải chết?
Quý vị thấy không, tôi thật ngu
si, không hiểu nghĩa của chữ chết là gì. Việc này chứng minh rằng tôi
rất ít quan tâm đến những người khác.
Mẹ tôi trả lời:
- Ai ai cũng đều sẽ chết. Có người
chết sớm, chết khi tuổi già, chết lúc trẻ, chết vì bịnh tật, và chết
nhiều cách khác.
Tôi hỏi:
- Thưa mẹ! Nếu tất cả mọi người
đều phải chết, vậy sống có ích gì? Làm sao để khỏi chết?
Mẹ tôi không biết trả lời như
thế nào. Riêng tôi, cảm thấy sự sống chết thật là vô ý nghĩa. Lúc
ấy, có người bà con là ông Lý Lâm vừa đến viếng thăm gia đình tôi;
nghe qua câu hỏi của tôi, ông ta liền đáp:
- Cháu không muốn chết phải
không? Dễ dàng lắm.
Tôi hỏi:
- Thưa bác! Dễ như thế nào?
- Chỉ có cách là cháu phải xuất
gia tu đạo, trở thành tăng sĩ Phật giáo, để tu hành chứng quả Phật,
hay làm đạo sĩ để tu luyện thành tiên nhân.
Nghe vậy, tôi cầu xin mẹ mình cho
phép được xuất gia tu đạo. Bà bảo:
- Đi tu là việc tốt, mẹ không ngăn
cản. Tuy nhiên, con đừng vội xuất gia, vì mẹ vẫn còn sống, nên hãy
nán lại ở nhà, đợi đến lúc mẹ qua đời rồi thì con cứ tự tiện.
Tôi đồng ý ở lại nhà, chờ đợi.
Hạt giống Bồ Đề trong đất tâm
của Ngài, ngày một đâm sâu. Tuy nhỏ tuổi, nhưng Ngài đã biết bắt đầu
hồi quang phản chiếu (xoay trở lại tâm tánh sáng suốt).
Ngài tự thuật: Lúc nhỏ, tôi
không thích chơi đùa với những đứa trẻ đồng trang lứa. Tôi không
thích nói năng hay màng đến lời của người khác mà chỉ câm nín như khúc
gỗ. Tôi có tật xấu rất tệ hại là thích khóc lóc. Nếu có ai chọc giận,
tôi sẽ khóc sướt mướt. Một khi đã khóc rồi thì khóc mãi như mưa mà
không thèm ăn uống, để cha mẹ bó tay xuống nước chiều chuộng. Lần nọ,
trước khi biết đi, tôi bò đua với một đứa bé khác. Vì bò không kịp
tôi, đứa bé này cắn vào gót chân của tôi, khiến tôi rất đau nhức, nên
tôi khóc rống lên. Đáng lẽ phải trả thù, nhưng tôi nào biết đến việc
đó, nên chỉ lo khóc thôi.
Vào thuở nhỏ, tánh tình tôi rất
can cường. Thấy vật gì, tôi cũng muốn đập phá tan hoang. Khi khoảng bảy
tám tuổi, tôi muốn làm vua. Chơi với những đứa bé đồng trang lứa, tôi
thường đắp một gò đất cao, rồi bảo chúng lạy mình và xưng hô:
Hoàng Đế Vạn Tuế!
Ai ngờ được, người như tôi mà
tin tưởng Phật pháp. Lại nữa, lúc trẻ con trong xóm chơi đùa, tôi muốn
làm thủ lãnh của chúng. Nếu không chịu nghe lời, tôi sẽ đánh cho đến
khi chúng chịu nghe. Tôi cũng muốn làm Robin Hood. Bất kỳ lúc nào thấy những
đứa trẻ ở làng trên hay xóm dưới, bị bắt nạt hay bị đối xử bất
công, tôi đều vì chúng mà tranh cãi, đánh đấm cho đến cùng, không tiếc
thân mạng. Tôi nghĩ rằng rất vinh hạnh để hy sinh vì bạn. Do đó, bất
cứ khi nào thấy những việc bất bình, tôi đều xen vào. Lắm khi tranh
cãi đúng lý nhưng vẫn có vài đứa không thích tôi, nên chúng thường gây
chuyện.
Vì tính khí nóng nảy, tôi thường
thích đánh lộn với những đứa trẻ lớn tuổi hơn mình. Tuy nhỏ nhưng tôi
đánh lộn rất hăng say. Lúc mười tuổi, tôi có thể vật nhau với những
đứa khoảng hai mươi tuổi với vóc hình to lớn. Vì không sợ chết, đánh
lộn mãi cho đến khi mình mẩy tay chân đều chảy máu mà cũng không màng,
chỉ muốn đánh bại đối phương. Nếu ngày nào không đánh lộn thì ngày
đó khỏi ăn cơm.
Lại nữa, tôi rất thích dùng thức
ăn ngon. Nhìn thấy ai có thức ăn ngon, cho dầu ở trong nhà hay ngoài đường,
tôi sẽ giựt lấy. Tánh tình rất tham lam, ích kỶ, nên luôn mong cầu và
thường nói láo.
Tôi cũng rất ngỗ nghịch và không
vâng lời cha mẹ. Bên ngoài, tôi làm những điều kỳ quái, khiến cho người
khác thường đến mắng vốn cha mẹ tôi, nên ông bà rất buồn phiền.
Tôi thật là đứa con bất hiếu. Những việc này xảy ra liên tục, cho đến
khi tôi được mười hai tuổi. Ngày nọ, tôi chợt nhận ra rằng mọi việc
làm của mình trong quá khứ đều sai lầm như có những hành vi thô lỗ, sỗ
sàng, ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, không đối xử tốt với bà
con, bạn bè, sống đời vô ý nghĩa, nên vô cùng hổ thẹn. Thế rồi, tôi
tự nhủ rằng mình phải sửa tánh nết xấu xa, cải ác hướng thiện. Lúc
đó, tôi hoàn toàn không biết giới luật nhà Phật như chỉ ác phòng phi
(ngừng làm việc ác, phòng ngừa việc xấu).
Tôi hiểu rằng nếu muốn tu hành
thì phải bồi công lập đức, bằng không thì sẽ bị ma chướng, và nếu
muốn trở thành người lương thiện thì khởi đầu là phải hiếu kính
cha mẹ. Tôi nghe tại huyện Song Thành có đại sư Thường Nhân, được
xưng tán là Vương Hiếu Tử, vì Ngài là vị có hiếu đức. Do cảm kích
oai đức của Ngài, nên tôi phát nguyện học theo (sau này, tôi thâm tín Phật
giáo, quy y Tam Bảo, thân cận đại sư Thường Nhân, và được Ngài dạy
những lời rất hợp với căn cơ. Lúc người mẹ vừa qua đời, tôi liền
dựng am nơi phần mộ, thế phát xuất gia). Để báo đáp công ân cha mẹ
và sám hối tội xưa, không ai dạy bảo, tôi đến trước cha mẹ nhận hết
lỗi lầm xấu xa, lễ bái cầu xin tha thứ. Tôi vừa lễ lạy thì ông bà
giật mình bảo:
- Con làm gì vậy? Hôm nay không phải
là ngày đầu năm, cũng không có lễ lộc, vậy thì lạy cha mẹ làm gì?
Tôi đáp:
- Thưa cha mẹ! Cha mẹ đã sanh
thành dưỡng dục con hơn mười hai năm liền. Trước kia, con bất hiếu ngỗ
nghịch làm cho cha mẹ phải buồn rầu lo lắng ưu phiền. Trong những năm
đó, con chưa từng nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, chỉ tự làm theo tính
ngu ngốc của mình. Từ đây về sau, con sẽ sửa đổi tánh tình ngu si, lì
lợm, để luôn hiếu thảo với cha mẹ.
Nghe thế, cha mẹ tôi rơi lệ. Tôi
thưa tiếp:
- Xin cha mẹ đừng khóc. Từ nay,
con sẽ lễ lạy cha mẹ mỗi ngày.
Cha tôi bảo:
- Con không cần lễ lạy, chỉ việc
biết nghe lời là đủ rồi. Cha mẹ không thích con lễ lạy như vậy.
Mặc dầu cha mẹ không cho lễ lạy,
tôi vẫn ương ngạnh làm vì không ai có thể ngăn trở ý muốn của mình.
Do đó, tôi lễ lạy cha mẹ mỗi người ba lạy mỗi ngày.
Lạy một thời gian, tôi nghĩ rằng
ngoài cha mẹ ra còn có nhiều người trên thế gian này đối xử với mình
rất tốt như chúa trời, chúa đất, vị nguyên thủ quốc gia, các bậc
tôn sư. Đây là năm nguồn ân huệ lớn nhất trong cuộc đời. Sống trên
thế gian, được trời che đất chở, nên tôi lễ trời và đất sáu lạy
để đền ơn. Từ chế độ quân chủ cho đến thời cộng hòa, người Tàu
luôn mang ơn vua chúa hay vị nguyên thủ quốc gia. Vì vậy, tôi lễ họ ba lạy.
Vì không được đi học hay tu đạo, tôi không có thầy bạn. Tuy vậy, tôi
biết rằng nếu mình tu đạo thì phải cần có vị tôn sư, còn nếu đến
trường thì cần phải có thầy cô giáo. Do đó, tôi lễ ba lạy các bậc
tôn sư và thầy cô tương lai. Quý vị có tưởng tượng được rằng có
người lạy thầy mình trước khi gặp không? Lại nữa, kể từ đó, tôi
không bao giờ dám khởi tâm giận hờn đối với những người lớn hơn mình,
dầu họ đúng hay sai, đối xử tốt hay xấu. (Hiện tại tôi đang chịu quả
báo: Do tôi thiếu đức độ và vì không thể dùng quyền thế lấn áp kẻ
khác, khiến các người đệ tử thường giận dỗi tôi suốt ngày, nên
tôi phải lễ lạy họ vì không còn cách nào khác.)
Thời gian sau, tôi vẫn cảm thấy
chưa đủ, nên bắt đầu lạy chư vị thánh hiền đạo cao đức trọng
trong đời quá khứ hiện tại, vì biết rằng các ngài rất anh minh sáng suốt,
luôn làm việc lành, và làm lợi ích cho nhân loại. Trong danh sách lễ lạy,
tôi cộng thêm các vị trung thần, hiếu thảo, hiền sĩ, anh hùng, vĩ nhân,
tiết trinh, danh nhân cổ kim. Nói chung, tôi lễ lạy để tỏ lòng tri ơn tất
cả hiền nhân trên thế gian, vì nhờ gương sáng của họ chiếu soi mà
tôi tránh làm những việc ác để làm những điều lành, khiến mình mau
chóng trở thành người chánh nhân quân tử.
Kế đến, tôi cũng lạy và hồi hướng
mọi công đức lành cho những kẻ gian ác, vì mong rằng họ sẽ bỏ ác hướng
thiện, phát tâm Bồ Đề, sớm tu hành chứng quả vị Phật. Những người
khác thường lễ chư Phật chư Bồ Tát, nhưng tôi lại ngu si đi lạy những
kẻ gian ác xấu xa. Tôi thiết nghĩ, họ là những người đáng thương vì
thường bị luân chuyển trong ba đường ác cùng luôn xa cách đạo Phật.
Sau này, tôi nghĩ rằng phải nên
tôn kính lễ lạy tất cả chúng sanh, bao gồm kiến muỗi trùng dế, vì đời
quá khứ tôi có thể đã từng giết hại chúng. Ngày nay được làm người,
tôi sám hối những hành vi tệ bạc của mình xưa kia. Hơn mười năm, vì
không muốn ai biết, mỗi buổi sáng tinh sương trước khi mọi người thức
giấc, cùng đêm khuya hiu quạnh lúc người người đều ngủ say, tôi ra
ngoài sân liên tiếp lễ những lạy mê tín mà bất kể thời tiết mưa gió
bão bùng, sương rơi tuyết lạnh. Tổng cộng là 833 lạy, mất cả hai tiếng
rưỡi. Tại sao tôi lại ngu si lễ lạy như thế? Vì để biểu thị lòng
thành kính ngu muội của mình.
Cuối cùng, để dành thời giờ
làm những việc khác, tôi giảm xuống còn năm lạy. Ba lạy đầu, tôi đảnh
lễ tận hư không, khắp pháp giới, mười phương ba đời tất cả Phật
Pháp Tăng, Tam Bảo. Lễ thứ tư, tôi lạy tận hư không, khắp pháp giới mười
phương ba đời tất cả chúng sanh cùng các bậc đại Thánh Hiền, đại hiếu,
đại thiện nhân, đại anh hùng, đại vĩ nhân, đại hiền sĩ, thậm chí
cho đến những kẻ đại gian ác, xấu xa cùng cực, hay loài vật nhỏ nhít
như kiến, muỗI, trùng, dế. Hiện tại, tôi thường nói đùa với mọi người
rằng hôm nay quý vị lạy tôi, nhưng thực ra tôi đã từng lạy quý vị
trong đời quá khứ. Tuy tri thức không biết nhưng tâm thức lại cảm nhận.
Do đó, quý vị chỉ đáp lễ lại thôi, nên tôi không thể chấp nhận hay
phủ nhận lễ lạy của quý vị.
Lễ thứ năm, tôi lạy tận hư không,
khắp pháp giới, mười phương ba đời, tất cả giới luật Ba La Đề Mộc
Xoa của chư Phật. Nhờ có giới luật Phật chế, tôi mới y chiếu theo đó
mà tu hành. Ân đức của giới luật thật vô lượng vô biên.
Đây là cách lễ lạy ngu xuẩn của
tôi. Thầm nghĩ rằng chắc trên thế gian, không có ai ngu ngốc bằng mình,
vì mọi người đều thông minh sáng suốt. Không những người tại gia,
ngay cả những người xuất gia cũng đều khinh rẻ và tránh xa tôi. Nếu
tin tôi, quý vị sẽ bị thiệt thòi rất nhiều. Tuy nhiên, nếu muốn hành
hạnh khiêm nhường nhã nhặn và tạo duyên lành với mọi loài, chắc rằng
không đến nỗi thiệt thòi mấy.
Vào năm mười hai tuổi, đêm mười
chín tháng hai, Ngài mộng thấy một giấc mơ kỳ dị. Trong mộng, Ngài thấy
mình đi lạc vào một cánh đồng vắng hoang vu, cỏ lao mọc um tùm rậm rạp.
Nhìn lên không thấy trời xanh. Cúi xuống không thấy dấu chân người.
Đường đi gồ ghề lởm chởm, xung quanh toàn là hố to hố nhỏ, sâu cạn
không đồng. Hang hố lớn nhất giống như cái bàn, vừa rộng vừa sâu,
nhìn xuống không thấu đáy. Nếu chẳng may mà trợt chân xuống, e rằng
không sống nổi. Hang hố vây bủa khắp nơi, nên tiến cũng không được,
lùi cũng không xong. Vì vậy, Ngài đâm ra kinh hoàng hoảng sợ; nhìn xem bốn
bề không một bóng người để kêu cầu cứu. Ngài chợt nghĩ rằng đang lúc
ước muốn tu hành và ý nguyện phụng dưỡng cha mẹ chưa thành, nếu rủi
lỡ xảy ra những việc không may thì sao! Nghĩ đến đó, tâm can Ngài đau
như đứt ruột, nên bất chợt rơi lệ. Khi ấy, một bà lão với diện mạo
từ bi nhân hậu, đột nhiên xuất hiện trước mặt Ngài. Ngửng đầu lên,
Ngài thấy bà lão mặc y ca sa, tay cầm gậy trúc, chân mang đôi giày trưởng
giả, tâm tư trầm mặc, đôi mắt sáng quắt, miệng từ bi mỉm cười, bảo:
- Này bé! Sao con lại khóc?
Ngài lau nước mắt, rồi kể lại
việc mình đi lạc đường, đến đồng hoang hang hố. Bà lão bảo:
- Con đừng sợ. Hãy theo bước chân
của Ta thì sẽ trở về nhà. Đường xa vạn dặm, nên trong lúc đi phải
chú ý, chớ để bị trợt té.
Nói xong, bà lão đi trước, Ngài lần
bước theo sau. Đi một đỗi thì thoát khỏi hiểm lộ, rồi đến một con
đường lớn bằng phẳng. Nhìn phía trước, thấy nhà mình không xa, Ngài
vui mừng thầm nghĩ: A! Cuối cùng mình đã về đến nhà rồi!
Từ ưu phiền sợ hãi, chuyển
thành mừng rỡ an vui. Lúc xoay đầu lại thì Ngài chợt thấy từ trong con
đường kinh hoàng đầy hang hố đó, có rất nhiều người bao gồm già trẻ,
gái trai, tăng ni, học giả đang nương theo dấu chân mình mà đi. Thấy việc
lạ kỳ, Ngài hỏi bà lão:
- Thưa Bà! Những người này, họ
đang đi đâu vậy?
- Họ là những người có duyên với
con và đang nương theo dấu chân của con để vượt ra khỏi đường lộ hiểm
trở.
Bà lão lại gằn giọng, nói thêm:
- Đường xa vạn dặm, con hãy hộ
trì giúp đỡ họ cẩn thận. Ta có chút việc phải đi nơi khác, chẳng bao
lâu sẽ trở về. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một ngày gần đây.
Nghe lời này, Ngài bèn hỏi địa
chỉ, tên tuổi của Bà. Bà lão đáp:
- Chúng ta là người đồng hương.
Khi trở về nhà thì con sẽ biết mọi chuyện.
Vừa dứt lời, bà liền biến mất.
Ngài cũng vẫn dẫn đường cho những người đang đi theo mình để trở về
nhà. Khi vừa đến nhà, Ngài liền giật mình tỉnh dậy.
Mộng thấy đi lạc vào con đường
đầy hang hố hiểm trở, Ngài như vừa trải qua một cơn sống chết. Nhờ
có bà lão kia dẫn dắt, nên mới thoát được hiểm nạn. Tỉnh dậy, Ngài
xúc động vô ngần vì biết đây không phải điềm mộng mị bình thường,
và hiểu rõ được lẽ vô thường của sanh tử. Ai biết được vận mệnh
của mình vào ngày mai! Một khi thân này mất rồi thì khó mà được lại.
Vì vậy, ý niệm xuất gia cầu pháp của Ngài ngày càng kiên cố. Ngài đem
việc này trình lên cho cha mẹ. Họ đồng ý, chấp thuận cho Ngài đi tìm
thầy học đạo, quy y Tam Bảo. Thế nên, Ngài tìm đến đảnh lễ đại lão
hòa thượng Thường Trí.
Vừa gặp đại lão hòa thượng
Thường Trí, Ngài cảm thấy rất mực thân thiết. Duyên xưa đã chín mùi,
nên nay mới gặp lại. Ngài thỉnh cầu đại lão hòa thượng Thường Trí
ban cho giáo pháp tu hành để cắt đứt dòng sanh tử. Đại lão hòa thượng
Thường Trí dạy:
- Phải chân thành tu hành với tâm
dài lâu; một lòng thuần hậu chất trực, thật tiễn hành trì. Pháp môn
không hai, chỉ hướng về một thừa.
Nghe xong, Ngài vui mừng, đảnh lễ
đại lão hòa thượng, thượng Thường hạ Trí làm thầy, chánh thức quy y
Tam Bảo.
Sau khi quy y với đại lão hòa thượng
Thường Trí, Ngài liền tu thiền tập định, rất mực tinh tấn. Đối với
bất kỳ kinh điển nào, Ngài cũng quý như trân bảo. Nghĩa lý văn sao, càng
đọc càng thông đạt. Năm mười sáu tuổi, Ngài bắt đầu giảng kinh Pháp
Bảo Đàn, Kim Cang, cùng các kinh điển khác. Tuy chỉ mới mười sáu tuổi,
Ngài vẫn có khả năng giảng kinh thuyết pháp. Thời ấy, có nhiều người
học Phật pháp mà khổ nỗi là không biết chữ. Vì thế, Ngài tự đảm
đương trách nhiệm giảng kinh cho người mù chữ.
Ngài tự thuật: Tôi cũng thích tham
gia hoạt động trong các hội Phật giáo nhằm phục vụ đạo pháp. Năm mười
sáu tuổi, tôi đến chùa làng giảng kinh Pháp Bảo Đàn. Đọc qua kinh này,
tôi liền viết kệ:
- Đốn tiệm tuy khác
- Thành công chỉ một
- Sao phân nam bắc
- Thánh phàm tạm khác
- Căn tánh đều đồng
- Chớ luận đông tây.
Đương thời tôi cũng giảng giải
những bộ kinh ngắn như kinh Kim Cang và kinh A Di Đà, cùng luận lý Phật
pháp. Mặc dầu không hiểu nhiều, nhưng tôi vẫn sẵn sàng thuyết giảng
kinh điển. Ở làng tôi, có rất nhiều người bị thất học. Nếu tôi
không giải thích về lý đạo thì e rằng họ khó hiểu rõ Phật pháp. Thế
nên, tuy mới có mười sáu tuổi, tôi tự nhận nhiệm vụ hoằng dương Phật
pháp. Nhờ nhiều năm thực hành, ngày nay tôi mới có thể biết cách giảng
kinh đôi chút.
Lúc ấy, tôi cũng biết tụng chú
Đại Bi. Lần đầu tiên biết đến chú Đại Bi, tôi vui mừng tột bậc.
Tôi bắt đầu đọc tụng lúc lên xe lửa. Trong ba mươi phút sau khi bước
xuống xe lửa, tôi có thể tụng thuộc bài chú này. Kế đến, tôi học
pháp Bốn Mươi Hai Tay Mắt. Sau đó, tôi thường dùng thần chú Đại Bi và
pháp Bốn Mươi Hai Tay Mắt để chữa bịnh tật cho dân chúng.
Lúc nhỏ, tôi không có cơ hội để
cắp sách đến trường. Trước lúc xuất gia, tôi đi tầm sư học đạo, hầu
mong được chỉ dạy cách cắt đứt dòng sanh tử. Tôi thường đến xem xét
rất nhiều ngoại đạo ở vùng đông bắc nước Tàu. Điển hình, có một
nhóm ngoại đạo tự xưng là Lý Môn; họ tụng đọc một câu kệ. Họ dựng
một đài cao, rồi sắp ba chiếc ghế trên đó, như làm lễ Phóng Diệm Khẩu.
Vị thủ lãnh ngồi chiếc ghế ở giữa, niệm thầm câu nam mô hắt la đát
na đa la dạ da, và thọ sự lễ bái của tín chúng, còn hai người ngồi
hai bên, được gọi là phó thủ lãnh. Những kẻ khác, đại diện họ truyền
pháp bí mật. Họ bảo các tín chúng mở lòng bàn tay ra, rồi viết năm chữ
Quán Thế Âm Bồ Tát lên đó. Viết xong, họ đóng ấn và bảo tín đồ hãy
niệm thầm, chứ không nên đọc ra tiếng. Họ lại cấm tuyệt việc truyền
pháp này cho người khác, ngay cả cha mẹ, vợ chồng, con cái. Họ gọi câu
này là năm chữ chân ngôn, bảo:
- Ngậm miệng dấu lưỡi
- Để lưỡi đầu niếu
- Tâm niệm liên tiếp
- Ý căn phát hiện.
Vừa nghe qua, tưởng như vi diệu thần
bí, nhưng thật rất tầm thường. Họ lại cấm hội viên hút thuốc và uống
rượu. Vì vậy, ngoại đạo này được gọi là đạo cấm hút thuốc và uống
rượu.
Tôi biết đến hầu hết những ngoại
đạo như thế. Tôi cũng đã từng tham dự những buổi thánh lễ Công Giáo
và lễ Sabbath của Thiên Chúa Giáo, và thường tìm hiểu học hỏi những
tôn giáo khác như Khổng giáo, Lão giáo, Hồi giáo.
Suốt cuộc đời, tôi chưa từng sợ
hãi điều gì, ngay cả thiên ma, địa ma, quỶ ma, thần ma, nhân ma. Tại
sao? Vì tôi không sợ chết. Tôi nhớ lại lúc khoảng mười bảy tuổi,
đang học tập Phật pháp, nghĩ rằng mình có đủ định lực, nên rất
kiêu căng ngã mạn mà tuyên bố lời sàm bậy:
- Mọi người đều sợ quỶ ma,
nhưng tôi thì không. Dẫu là thiên ma, địa ma, quỶ ma, thần ma, nhân ma,
tôi đều không sợ sệt.
Quý vị hãy đoán thử coi, việc
gì sẽ xảy ra? Ma bệnh tìm đến. Khi ma bệnh đến, tôi là kẻ sợ chứ
chẳng phải nó. Lúc đó, thân tôi không nghe theo mệnh lệnh của ý mình.
Tôi bảo nó đi, nhưng nó không động đậy, nên không thể đi đứng hay ngồi
dậy được, chỉ nằm trên giường từ sáng đến tối mà chẳng ăn uống
chi được. Tôi tự trách: Nói tầm xào thì hay lắm. Ma bệnh đến mà
không làm gì được!
Tôi bệnh nặng đến đỗi mê man bất
tỉnh, gần kề với tử thần. Trong lúc hôn mê, đột nhiên tôi thấy cảnh
tượng lạ lùng như thấy có ba vị hiếu tử họ Vương; họ là tăng sĩ,
đạo sĩ, và cư sĩ già. Cả ba cùng đến và dẫn hồn tôi đi du ngoạn. Vừa
bước ra khỏi cửa thì thân mình vụt nhấc lên, rồi bay trên nóc nhà, và
dần dần cỡi mây lướt gió. Nhìn xuống dưới đất, tôi thấy nhà cửa
từ từ nhỏ lại với nhiều người đi qua lại. Chúng tôi bay đến nhiều
chốn danh lam thắng cảnh, chùa chiền miếu tự ở Tàu như núi Ngũ Đài,
núi Nga Mi, núi Cửu Hoa, núi Phổ Đà, v.v... Chúng tôi cũng bay ra nước ngoài,
và thấy nhiều người da trắng mắt xanh tóc vàng. Những cảnh tượng này,
gíống như màn ảnh truyền hình, từ cảnh này chuyển sang cảnh khác. Lúc
trở về, tôi mở cửa ra, thấy thân mình nằm trên giường, rồi tự nhủ:
Cảnh tượng này sao lạ quá!
Khi ấy, tôi cảm giác như có hai
thân mình vừa nhập lại làm một. Song thân đang ngồi bên cạnh giường
nhìn tôi. Khi thấy tôi bắt đầu thở trở lại, họ mừng quýnh la lên:
- Nó còn sống, vẫn chưa chết!
Tôi ngạc nhiên tự nhủ: Họ đang
nói gì?Kế đến, tôi thấy mình đang nằm trên giường, không thể động
đậy, rồi nhớ lại là mình bị bệnh nặng. Thấy tôi mê man trong bảy
ngày, ông bà tưởng rằng tôi đã chết. Qua kinh nghiệm này, tôi tự coi
mình như thây chết đang sống, nghĩa là vừa được hồi sinh. Từ đó,
tôi còn không dám nói năng cuồng vọng hàm hồ mà bảo rằng mình chẳng sợ
ma bệnh vì thần lực của nó quá mạnh mẽ, khó lòng khống chế. Hôm nay
tôi xin khuyến cáo các vị rằng chớ nói năng hàm hồ: Tôi không sợ chi hết.
Nếu dám bảo như thế thì tương
lai sẽ gặp những điều khiến mình phải kinh sợ. Trái lại, cũng không
nên nói rằng việc gì mình cũng sợ sệt. Tựu chung, đừng nói những lời
hàm hồ vô ích.
Tôi sanh vào một gia đình nông dân
nghèo khổ. Chúng tôi phải làm việc cả ngày để sinh sống. Thật là một
cuộc sống bần cùng giống như ăn xin. Thế nên, ngay từ lúc nhỏ, tôi tự
đặt tên mình là Khất Sĩ. Chúng tôi chỉ có một mảnh đất nhỏ, vừa
đủ để trồng trọt sinh sống qua ngày. Vì gia đình quá túng thiếu, nên
thuở nhỏ tôi không được cắp sách đến trường.
Lúc khoảng mười bốn tuổi, tôi
có thể cắt lúa mạ nhiều gấp đôi người anh, lớn hơn tôi năm tuổi. Ví
dụ, nếu anh ta cắt được ba hàng lúa thì tôi cắt được sáu hàng lúa.
Đối với vóc dáng nhỏ nhoi tuổi bé như tôi, việc cắt lúa rất khó khăn.
Tuy nhiên, tôi biết phương pháp gặt lúa bằng cách dùng sức lực đúng
cách. Lúa mạ tuy mọc rất cao, nhưng tôi dang tay rộng ra, ôm lấy bó lúa,
rồi cắt một đường. Không có người lớn nào cắt như tôi, và không ai
dạy phương pháp cắt như thế. Tuy có xem người khác cắt, nhưng tôi
không làm theo cách của họ, chỉ tự làm theo ý mình.
Tôi cũng đã từng làm việc thương
mãi. Lần nọ, tôi và hai người khác hùn vốn làm ăn buôn bán. Theo sự thỏa
thuận, mỗi người phải bỏ ra năm ngàn đồng; nhưng khi tôi đầu tư rồi
thì hai người kia lại không làm theo lời cam kết. Họ chỉ muốn lấy tiền,
nên dùng hết cả năm ngàn đồng của tôi. Nếu bị gạt gẫm, chắc ai ai
cũng sẽ đi thưa kiện, còn tôi thì không chấp nê, nên chẳng muốn tranh
cãi với họ. Ngày nay, tôi vẫn theo cách thức đó vì nghĩ rằng mình có
thua thiệt thì người khác mới được lợi lạc. Do đó, tôi thường tự
bảo mình là kẻ ngu ngốc vì sẵn sàng làm những việc mà người khác
không muốn làm.
Năm mười lăm tuổi, Ngài đến học
tại trường tư thục. Khi mới học cách thức làm thơ đối liễn, Ngài rất
thích thú, nên từ từ được tâm đắc. Bấy giờ, trong lớp có trên ba mươi
bạn đồng học. Mỗi lần không thể đặt được câu đối, họ bèn tìm
đến và nhờ Ngài viết giùm. Ngài rất vui khi giúp họ làm thơ văn, vì nhờ
đó mà có thể rèn luyện tư tưởng và tâm lượng. Hơn hai năm rưỡi học
tập tại trường tư, đối với nghĩa lý Tứ Thư, Ngũ Kinh, Ngài đều thông
suốt. Các nghề nghiệp, y dược, xem sao, xem tướng, Ngài cũng đều đọc
qua.
Ngài tự thuật: Năm mười lăm tuổi,
tôi cắp sách đến trường làng, học tập khoảng nửa năm. Tôi nhớ lại
là trường khai giảng vào mồng mười tháng ba và bế giảng vào ngày mười
ba tháng tám. Vào mùa đông năm ấy, vì quân Nhật đến nên trường phải
đóng cửa. Năm mười sáu và mười bảy tuổi, tôi học được hai năm tròn.
Tổng cộng, tôi chỉ học hai năm rưỡi. Ban đầu, vì ngu đần nên tôi học
rất chậm chạp. Dầu học bài mãi mà tôi vẫn không thể nhớ. Tuy nhiên,
nhờ thường nghe mẹ mình đọc bài Bá Gia Tánh ở nhà, nên tôi có thể học
thuộc lòng bài này.
- Con người thuở xưa
- Tính vốn lành thiện
- Gần đạo tánh tốt
- Tập khí kéo xa
- Nhu nhuyến mà dạy
- Tánh liền đổi thay
- Cách dạy đạo lý
- Quý tại tinh chuyên.
Vào thời đó, phương pháp học
hành là học thuộc lòng. Khi học thuộc xong, thì đến trả bài cho thầy,
cô giáo. Lần nọ, tôi học thuộc được bài vở rõ ràng. Tuy nhiên, vừa
xoay lưng lại thì đầu óc tự nhiên trống rỗng, không thể nhớ đến chữ
đầu tiên là gì. Thật lạ lùng thay!
Quý vị chắc đã biết rằng trẻ
con học những việc hay rất khó, nhưng bắt chước những việc xấu thì rất
dễ. Tôi nhớ lúc nhỏ đã từng nhìn xem người khác đánh bài, như bài
Thiên Cửu. Bộ bài này có ba mươi hai lá với ba đơn sáu cặp và do bốn
người chơi. Bộ lớn nhất là ba lá bài Thiên, Địa, Nhân, hợp lại.
Trong đó cũng có lá bài Hoàng Thượng. Chỉ cần năm phút là tôi nhớ được
ba mươi hai lá bài này. Lúc trở về nhà, tôi tự làm lấy bộ bài này.
Quý vị thấy chưa! Thầy cô cố dạy bài học, nhưng tôi không thể nhớ.
Tuy nhiên, khi nhìn những lá bài, dẫu không có ai giải thích, tôi vẫn nhớ
trong năm phút.
Tôi thường bối rối lúng túng vì
không biết tại sao lại quên bài học. Việc này kéo dài cả một thời
gian. Tôi suy nghĩ: Quái lạ? Tại sao mình rất thuộc bài, nhưng vừa bước
xuống giường thì quên mất. Có phải chăng mình chưa lễ lạy các bậc
thánh hiền?
Đây không phải là lý do chánh đáng
vì tôi đã từng lễ lạy chư thánh hiền rất nhiều, ngay cả trước khi
đi học. Tôi suy nghĩ cặn kẽ, và cuối cùng khám phá rằng vì do tánh sợ
sệt. Tôi sợ rằng nếu đọc sai thì ông thầy sẽ dùng ống vố gõ lên
đầu. Do đó, vừa đến gặp thầy giáo thì như gặp Diêm Vương, khiến quên
hết những gì mình đã học, cùng mất đi sự chú tâm, mà chỉ lo nghĩ đến
việc bị ống vố gõ lên đầu. Một khi đã hiểu ra tự sự thì tôi
không còn sợ hãi. Nếu bị đánh thì mặc kệ, chứ sợ hãi làm gì! Từ
đó, tôi tập trung tư tưởng vào lúc nằm trên giường hay khi đi bộ. Tôi
có thể nhớ những gì đã từng học thuộc mà không sót một chữ.
Gần một tháng cắp sách đến trường,
tôi mới tìm ra phương pháp học hành. Nói chung, một khi đã bước được
vào cửa thì mọi việc đều dễ dàng. Không những nhớ những gì đã học
rất lẹ làng mà sau này tôi lại ít quên chúng. Mới đọc qua quyển Đại
Học, tôi học rất chậm, nhưng dần dần lại tiến rất nhanh. So sánh với
những gì tôi học trong một ngày, bạn bè đồng lứa phải mất khoảng
hai mươi ngày mới học xong. Làm thế nào tôi học được nhanh như thế? Tôi
khám phá ra cách học bí mật: Chỉ việc chú tâm nhất ý học hành. Khi học
bài, tôi không khởi vọng tưởng về những việc khác như lo việc ăn uống
ngủ nghỉ. Tôi chuyên chú đến mức độ nào? Hôm nay, tôi sẽ kể cho quý
vị nghe pháp môn vi diệu. Lúc đang học hành, người bên cạnh có thể đùa
giỡn, thổi kèn, thổi sáo, hay khua chuông đánh trống, nhưng tôi vẫn
không màng đến. Dĩ nhiên, nếu muốn tôi vẫn thấy nghe được âm thanh sắc
tướng, nhưng tự răn mình không nên chạy theo trần cảnh bên ngoài. Thật
vậy, một khi đã định tâm học hành, tôi không nghĩ ngợi điều chi. Nhờ
cách đó, tôi học thông suốt lẹ làng những gì vừa học.
Ban đầu, đọc bài cả ba mươi lần
mà tôi chẳng hiểu gì. Một khi đã tìm ra phương pháp và tập trung tư tưởng
được thì thật là điều vi diệu. Vừa đọc qua một lần thì nhớ gần
hết. Đọc lần thứ hai, nhớ hết tất cả. Đọc lần thứ ba, không bao
giờ quên. Nhận thấy tôi có thể học thuộc lòng bất cứ bài vở gì sau
khi đọc qua hai lần, thầy giáo khen ngợi:
- Nhìn mặt trò, thầy không thể
nào nghĩ rằng quá thông minh như vầy. Trò thật giống như Nhan Hồi. Mặc
dầu nhìn chẳng có chút thông minh, nhưng trò lại có trí nhớ kỳ diệu.
Nghe vậy, tôi khởi tâm kiêu ngạo,
nghĩ thầm: Làm thế nào có thể so sánh mình với Nhan Hồi được? Ông ta
vì quá thông minh nên phải chết sớm. Mình không muốn như thế.
Do đó, tôi cống cao ngã mạn, tự
đặt biệt danh cho mình là Như Si Tử. Sanh mạng dài hay ngắn đều không
khác nhau. Nếu sợ đời mình ngắn ngủi, hoặc muốn được trường thọ
thì chấp trước vào tướng thọ giả. Vì vậy, tôi không muốn sống đời
ngắn ngủi như Nhan Hồi và cũng không muốn sống lâu như Bành Tổ.
Trong trường học, tôi rất tinh
ranh. Đến giờ viết câu đối liễn, khoảng hai mươi đến ba mươi bạn học
thường nhờ tôi viết dùm. Tôi đồ lại nét chữ và giúp chúng viết đối
liễn. Lần nọ, thầy giáo ra câu hồng nhạn bay qua không trung, tôi bèn viết
câu đối cho bạn mình là nai hươu du ngoạn trong núi.
Khi ông ta xem câu đối này, liền hỏi
bạn tôi:
- Có phải trò viết câu đối này
không?
Bạn tôi đáp:
- Dạ vâng.
- Thầy không ngờ được rằng trò
có thể viết ra câu đối này.
Thời thơ ấu, gặp những việc này
thật là vui. Khám phá ra được phương pháp bí mật học hành, tôi liền học
quyển Đệ tử quy:
- Quy thức đệ tử
- Do thánh nhân dạy
- Đầu tiên hiếu để
- Kế phải cần tín
- Thương mến mọi người
- Mà hành nhân từ
- Nếu có sức lực
- Phải học văn chương.
Đó là quy thức làm người đệ tử
hay học trò của trai lẫn gái. Những quy thức này do các bậc thánh nhân dạy
bảo. Các ngài dạy chúng ta rằng đầu tiên phải hiếu thảo với cha mẹ
và cung kính người lớn cùng huynh trưởng. Thứ hai, khi giao tế với người
khác, phải cẩn trọng trong lời nói cử chỉ hành động. Phải đối đãi
tất cả mọi người với lòng thương yêu nhân ái. Nếu rảnh rỗi, phải
học thêm nhiều về văn tự Bát Nhã. Những câu kế diễn đạt còn rõ hơn:
- Khi cha mẹ gọi
- Phải thưa dạ liền
- Khi cha mẹ dạy
- Hành chẳng ngập ngừng
- Khi cha mẹ bảo
- Phải thuận kính nghe
- Khi cha mẹ trách
- Phải lắng lòng nhận
- Đông sưởi ấm họ
- Hè quạt họ mát
- Sáng chào kính họ
- Tối mong họ an
- Ra đường phải thưa
- Trở về phải trình
- Thường sống một nơi
- Hoàn thành trách nhiệm.
Đọc qua quyển này, vì nhận thấy
lời lẽ dạy đạo làm người quá vi diệu, nên tôi thường học bài ngay
lúc đi trên đường phố. Mắt nhìn về phía trước, miệng nhẫm lại bài
học. Nếu là bài mới, sẽ đọc qua lại nhiều lần. Nếu là bài cũ, mỗi
ngày ôn lại hai lần. Bằng cách này, một khi đã học qua, tôi không bao giờ
quên cả. Đó là phương pháp học trên đường đi.
Khi lên giường, vừa đặt đầu trên
gối, tôi ôn lại bài đã học. Sau khi đọc qua bài Đệ tử quy, tôi tự hỏi:
Bậc thánh nhân để lại những lời giáo huấn cho người hậu thế hành
theo. Mình có thể làm được những quy thức này, hay noi gương các ngài
không? Được rồi! Mình phải áp dụng thực hành trong cuộc sống hằng
ngày.
Do đó, tôi thường dùng từng câu
từng chữ để làm mực thước cho cách xử thế của mình. Lúc học bài,
tôi đều xem như tự nói cho mình nghe, nên nhờ vậy mà nhớ bài học dễ
dàng.
Bên cạnh học bài trên đường đi
và trên gối, tôi còn học trên sàn cầu. Trong nhà cầu, tôi học rất mau.
Dầu chỉ ở trong thời gian ngắn ngủi, nhưng nhà cầu là nơi thú vị cho
việc học bài. Mình có thể nhớ những gì mà không thể nhớ. Tại sao?
Vì nhờ có định lực. Nếu lúc đó không khởi vọng tưởng, chỉ chuyên
tâm nhất ý học bài, thì sẽ nhớ hết tất cả. Bằng cách này, vào nhà
cầu không lãng phí thời gian. Một khi đã hiểu ba trên, tôi tự nhủ:
- Phương pháp học bài
- Có ba cách trên
- Tâm mắt và miệng
- Phải có tín giải.
Mắt xem sách; miệng đọc tụng; tâm
suy nghĩ. Tâm mắt miệng tuy là ba nhưng lại là một, và tuy là một nhưng
lại là ba vì chúng đều cùng nhau hợp tác làm việc.
Có nhiều học sinh rất thông minh,
nhưng một khi bỏ sách xuống thì lại quên mất hết. Một khi đã khám
phá ra phương pháp này, việc học hành không còn khó khăn nữa. Thật vậy,
vì thể nhập với bài học, nên tôi nhớ rất lẹ làng. Đối với Tứ
Thư, Ngũ Kinh, tôi học cũng không khó chi cho lắm. Đọc qua một lần, tôi
liền nhớ ngay.
Người giúp đỡ và khiến tôi được
nhiều lợi lạc là vị thầy giáo cuối cùng ở bậc trung học, ông Quách
Cẩm Đường, hiệu Như Phần. Ông ta là vị tú tài ở tỉnh Sơn Đông. Có
lẽ muốn hành theo gương của ông Quách Tử Nghị (hiệu Phần Dương
Vương, sống ở đời Đường) nên ông ta tự gọi là Như Phần. Trình độ
học vấn của ông ta rất thâm sâu, mặc dầu chữ viết không hay. Nhận thấy
tôi học hành mau mắn, ông ta luôn giải thích cho tôi nghe bất cứ quyển
sách nào mà tôi đang học. Một khi đã hiểu rõ lời giảng giải của ông
ta, quyển sách đó đối với tôi lại càng dễ học hơn. Lần nọ, ông kể
lại rằng đã từng học thuộc trong một đêm quyển sách cổ xưa dài nhất
bao gồm 2.300 chữ do Nhậm Thiếu Khanh viết, như thách đố xem coi tôi học
thuộc quyển sách này lẹ làng đến đâu. Lúc ấy, sau buổi trưa, trong một
giờ nghỉ ngơi tôi đọc hai lần và thuộc lòng quyển sách đó. Chiều đến,
khi nghe tôi đọc lại vanh vách, ông ta sửng sốt bảo:
- Thầy học quyển sách này trong một
đêm, còn trò chỉ học trong một giờ!
Dầu lời văn rất khó, nhưng nhờ
chuyên tâm nhất ý và không nghỉ ngơi, nên tôi học thuộc quyển này. Quý
vị có lẽ không tin việc này.
Tôi kể lại những kinh nghiệm này
để chứng minh rằng cho dầu làm việc gì, chúng ta phải chú tâm vào đó,
chứ đừng khởi vọng tưởng. Phải tập trung tư tưởng để hoàn thành sự
việc. Nếu không chuyên chú, tập trung tư tưởng, dẫu cho thông minh cách mấy,
vẫn không thể làm việc thành công.
Thuở xưa, nước Sở có một người
đánh cờ rất giỏi, tên là Dịch Thu. Ông ta có hai người đệ tử. Một
người đệ tử bắt chước tất cả nước cờ của Dịch Thu, nên đánh
thắng mọi ván cờ. Người đệ tử thứ hai, tuy một bên học cách đánh
cờ, một bên lại khởi vọng tưởng. Ví dụ, ông ta suy nghĩ: Hãy nhìn
kìa! Trên bầu trời có đàn nhạn bay. Với một mũi tên, mình có thể bắn
con nhạn đầu đàn lớn nhất.
Vì bị vọng tưởng chi phối, khả
năng đánh cờ của ông ngày một giảm sút. Sai một nước thì thua cả
ván.
Học Phật pháp cũng cần phải chuyên
tâm thành ý, chớ hành như người đệ tử thứ hai của ông Dịch Thu. Có
người lễ lạy cầu khấn chư Phật: Cầu nguyện chư Phật gia hộ cho công
việc làm ăn được mau phát đạt, để con sớm làm giàu! Lúc đó, con sẽ
tạ ơn Ngài.
Nếu cầu nguyện như thế, chư Phật
không gia hộ cho quý vị đâu. Tại sao? Vì quý vị không lễ lạy Phật mà
chỉ lễ lạy tâm ích kỶ của mình, nghĩa là cầu mong mau làm giàu. Lễ lạy
Phật không phải là việc đánh bạc hay chơi cờ. Tuy lý lẽ đơn giản,
nhưng chúng ta phải nên hiểu rõ. Tu học Phật pháp, phải thật lòng thành
tâm.
Tôi có người bạn học hành trong
mười lăm năm. Dầu chỉ đến trường trong hai năm rưỡi, tôi vẫn học hơn
người đó. Tôi học Tứ Thư Ngũ Kinh, bảy quyển trong tám quyển cổ văn,
mười lăm quyển sách về y dược, bói toán, kinh dịch, tinh tượng. Đến
năm mười tám tuổi, không còn gì để cho tôi học. Tuy nhiên, tôi không hề
thực hành nên không rành về những môn đó. Tuy biết cách đoán số mạng
con người dựa vào ngày tháng năm sanh với kết quả chính xác, nhưng tôi
không làm vì đó không phải là con đường rốt ráo. Tôi học rất nhiều
sách về y dược vì ông thân muốn mình hành nghề y sĩ để có cuộc sống
sung túc. Lúc học xong, tôi có thể trị bịnh cho người khác. Tôi cũng biết
rất nhiều loại bịnh truyền nhiễm vì thầy tôi cũng là y sĩ. Ông ta thường
bảo tôi bắt mạch cho bịnh nhân.
Tuy nhiên, tôi không thích làm nghề
thầy thuốc. Mặc dầu nghèo nàn, tôi không muốn kiếm tiền bạc và rất
ghê tởm chúng vì nghĩ rằng chúng là vật bất tịnh nhơ bẩn, mà đặc biệt
là việc làm ra chúng bằng những phương thức bất chánh. Tôi suy nghĩ rằng
nếu mình có thể cứu trị chín mươi chín người trong một trăm người,
nhưng có thể làm hại người cuối cùng, thế thì làm sao đối mặt với
người đó? Đây là lý do tại sao tôi không muốn làm y sĩ.
Lúc học hành, dĩ nhiên là gặp nhiều
điều phiền toái. Ban đầu, vì tôi học rất chậm chạp, nên bị người
khác khinh chê: Chưa bao giờ gặp đứa ngu đần như vầy. Ngay cả tám câu
đầu trong Tam tự kinh, nó cũng không học thuộc nổi.
Một khi đã nhập vào cửa, tôi học
rất mau chóng. Học chậm chạp, người khác khinh rẻ. Học hành mau mắn, họ
lại ghen ghét đố kỴ. Có lẽ do không biết cách làm thầy giáo, nên vị
thầy khen tôi trước lớp:
- Trong sáu mươi năm dạy học, Thầy
chưa từng thấy một học sinh thông minh như vầy. Tương lai, chắc nó sẽ
làm được việc đại sự.
Vừa được khen ngợi, phiền toái
lại đến. Đó là con gái! Không cần giải thích, chắc ai cũng hiểu rõ
điều này. Quý vị không cười gì cả trong lúc tôi nói dông dài, nhưng bây
giờ có lẽ cười to. Chắc rằng quý vị biết cô bạn học của tôi nghĩ
gì. Nghe lời khen ngợi của vị thầy, cô ta muốn xem tôi làm nên đại sự
gì trong tương lai.
Vừa đứng dậy để đọc bài, cô
bạn học đó liền đá tôi một cú. Tôi không biết rõ cô ta là người
như thế nào. Dầu mười sáu tuổi, tôi không hiểu gì về tình cảm trai
gái, nhất là tâm lý của phái nữ. Tôi trợn mắt nhìn cô ta, bảo:
- Cô muốn tôi đập một trận à?
Cô ta sợ hãi bỏ chạy. Tôi nghĩ rằng
mình đã dẹp được phiền toái. Quý vị hãy đoán xem việc gì sẽ xảy
ra? Trở về nhà, cô ta nhờ bà mai đến gặp mẹ tôi, bảo rằng gia đình
cô không muốn tiền bạc hay quà cáp gì cả mà chỉ muốn sự đồng ý của
mẹ tôi. Mẹ tôi rất vui mừng. Vừa trở về nhà, mẹ tôi bảo:
- Cô bạn gái của con nhờ bà mai
đến đây nói rằng gia đình cô ta không muốn gì hết, trừ việc đồng
ý của mẹ. Họ sẵn sàng gởi cô ấy đến đây vô điều kiện.
Tôi hỏi:
- Thưa mẹ! Vậy mẹ có đồng ý
không?
- Mẹ đợi con trở về nhà rồi mới
hỏi ý.
- Thưa mẹ! Mẹ ít ra đã hiểu việc
này, bằng không thì chắc con sẽ bỏ nhà đi tu.
- Con chớ đi tu ngay bây giờ!
- Thưa mẹ! Nếu không muốn con xuất
gia thì xin mẹ đừng hứa với cô ta điều gì.
- Được rồi.
Đây là cách mà tôi dẹp bỏ phiền
toái lúc còn mười sáu tuổi.
Năm mười tám tuổi, Ngài bắt đầu
mở trường học miễn phí cho hơn ba mươi học trò nghèo.
Ngài tự thuật: Mãi đến năm mười
lăm tuổi, tôi mới được cắp sách đến trường. Một trong những điều
nuối tiếc nhất của tôi là lúc nhỏ không được đi học. Vì vậy, đối
với sự giáo dục tôi rất quan tâm. Học xong hai năm rưỡi ở trung học,
tôi bắt đầu mở trường học miễn phí tại nhà. Tuy gia đình nghèo
túng, nhưng tôi lại ngu si đi dạy học miễn phí, vì không biết làm lợi
cho mình mà chỉ muốn giúp người khác. Tôi không tự khoe khoang đạo đức,
nhưng đó là bản chất của mình, chỉ thích xả thân vì người.
Như đã kể ở bên trên, do nhận
thấy vào thuở thiếu thời, việc cắp sách đến trường là một điều rất
khó khăn vì cha mẹ không có tiền trả học phí, nên tôi dễ dàng thông cảm
hoàn cảnh gia đình của những học sinh nghèo. Các em không đủ điều kiện
để đi học. Đương thời, ở nước Tàu, nền giáo dục không được phổ
cập. Trình độ học vấn của người dân rất thấp. Tôi hy vọng tất cả
trẻ em đều có cơ hội cắp sách đến trường để có kiến thức cơ bản,
chứ không thể thất học vì không có tiền. Đó là lý do mà tôi mở trường
dạy học miễn phí, cung cấp bút mực giấy viết cho các trẻ em nghèo tại
nhà.
Tôi dạy chúng những gì mình đã học
tại trung học. Tôi dạy trong vùng dân cư thiếu văn hóa, và gọi trường
này là trường con cóc, bởi vì vào mùa thu có rất nhiều cóc nhái bò nhảy
dưới đất.
Tôi thường tự hỏi: Tại sao thế
giới ngày một suy đồi?Câu trả lời là chỉ vì tiền. Tiền tài đã làm
mê mờ tất cả thành phần trí thức trong mọi ngành. Tôi nghĩ rằng giáo
viên dạy học với mục đích giáo dục trẻ em chứ không phải vì tiền,
danh, lợi. Tôi muốn đề xướng lý tưởng học sinh không trả tiền học
phí. Giáo viên không lấy tiền công. Nếu được như thế, giáo viên mới
có thể chứng tỏ rằng họ muốn cống hiến khả năng học vấn cho nền
giáo dục chứ không phải vì tiền.
Thời đó, có một chứng bịnh truyền
nhiễm, được gọi là dương mao đinh. Căn bịnh này có lẽ do ảnh hưởng
của thời tiết, nên khiến nhiều người mang bịnh tật. Trên thân họ mọc
ra nhiều mụn nhọt. Chúng lớn bằng đầu diêm quẹt. Nếu dùng vật nhọn
đâm vào thì chúng sẽ vỡ ra, và thấy rõ lông cừu trong đó. Người biết
cách chữa trị thì bịnh sẽ mau lành, bằng ngược lại có thể nguy hiểm
đến tánh mạng. Ngày nọ, trong lúc dạy học, tôi phát hiện ra khoảng mười
học sinh bị bịnh này. Nhờ quan sát người khác, tôi học được cách thức
chữa bịnh, nên trị lành cho chúng rất nhanh chóng. Đến lượt đứa học
sinh thông minh siêng năng giỏi nhất của tôi là Lý-Hữu Ích lại bị bịnh
này, tôi lấy làm lo sợ, nên thân mình phát nóng. Khi thân thể bị cảm sốt
thì dễ dàng bị nhiễm bịnh. Sau khi được tôi nạy mụn nhọt, nó trở về
nhà và lành bịnh. Tuy nhiên, tôi mệt và nhức mỏi. Thấy mụn nhọt nhỏ
nổi trên ngực, tôi biết là mình đã bị bịnh dương mao đinh rồi.
Tôi không thể tự nạy mụn nhọt
cho chính mình. Trong gia đình, không có ai biết cách trị bịnh. Vì vậy,
tôi nóng nảy tự nhủ: Bồ Tát Quán Âm! Con muốn cứu độ thế nhân. Xin
Ngài đừng để cho con bị bịnh như thế này! Nếu thực sự không cống
hiến gì được cho Phật pháp, con sẵn sàng chấp nhận cái chết mà không
cần người khác chữa trị cho mình.
Tôi có thể dạy người khác cách
thức nạy mụn nhọn. Lúc bịnh tình trầm trọng mà không có phương tiện
để đi nhờ người khác giúp, tôi tự nghĩ: Mình đã cúng dường thân
này cho Phật pháp. Nếu Phật pháp không cần đến thì chết cũng chẳng
sao. Nếu Phật pháp cần đến thì không cần chữa trị, chắc chắn sẽ
lành bịnh.
Tuy nhức đầu kinh khủng như bị vỡ
làm đôi, nhưng tôi không màng đến, chỉ cố ngủ thiếp đi. Vào lúc vừa
tỉnh dậy, do cảm thấy như có vật gì ngăn cổ họng làm nghẹt hơi thở,
nên tôi bèn ho đằng hắng khiến đàm vụt ra cùng với vài cọng lông
trông giống lông cừu! Vừa khạc nhổ chúng ra, tôi liền lành bịnh mà
không cần chữa trị. Từ đó, tôi biết rằng mình có thể giúp chút ích
gì cho Phật pháp, và cuộc đời mình thật sự thuộc về đạo Phật.
Ngài tu thiền tập định, công phu
ngày một thâm sâu. Đến năm mười tám tuổi, tâm không còn bị cảnh chuyển.
Ngài tự thuật: Lần khác, tôi mơ
thấy mình ở chung nhà với hai người nữ. Một người tuổi khoảng năm,
sáu mươi. Người thứ hai, tuổi khoảng hai mươi. Tôi thấy mình đang nằm
ngủ trên giường gạch về phía bắc của căn nhà. Họ nằm ngủ trên giường
gạch về phía nam. Đến tối, đang lúc nửa mê nửa tỉnh, cô trẻ tuổi
đến bên giường, ôm và kéo tôi đến giường của cô ta. Biết rõ hành
vi điên đảo của cô ta, tôi la lên:
- Cô định làm gì? Cô định làm
gì?
Không nghe tiếng trả lời, tôi nghĩ:
Cô ta chắc không phải là người. Lập tức, tôi liền niệm: Nam mô Quán
Thế Âm Bồ Tát.
Vừa niệm thì mọi hình ảnh đều
biến mất, và tôi giật mình thức dậy. Tuy là chiêm bao, nhưng phần thân
bị cô ta ôm nắm vẫn còn đau cả vài ngày.
Lúc còn đi học, Ngài tham gia vào hội
từ thiện, hội Phật giáo, hội đạo đức. Sau khi ngưng học, Ngài dốc hết
tinh thần và sức lực để làm việc thiện nguyện. Ngài không những sáng
lập ra trường học miễn phí mà còn cứu giúp những người nghèo khổ.
Trong làng, ai ai cũng kính trọng Ngài vì gương hiếu hạnh. Bạn bè đề cử
Ngài nhận chức quản đốc trong hội thiện nguyện Bài Trừ Hút Sách Rượu
Chè. Lúc đó, bạn của Ngài là ông Khiêm cũng từng nhậm chức quản đốc.
Ông đã từng khuyên người ngưng hút thuốc uống rượu. Không hiểu vì
lý do gì, chính ông lại phạm giới uống rượu. Mọi người trong hội đều
khuyên giải, nhưng ông không thèm nghe. Sau khi biết rõ, Ngài đến giải thích,
phân trần cặn kẽ cho ông ta nghe. Vì Ngài thường sốt sắng giúp đỡ, đối
xử chí thành khẩn thiết với người nên ông Khiêm nghe lời, lập tức ngưng
uống rượu. Điều này chứng minh chỉ có đức mới cảm hóa được người.
Ngài tự thuật: Đương thời, có
những việc lạ lùng xảy đến. Tôi bắt đầu cảm giác rằng mình có
chút công phu tu hành. Lúc ở vùng đông bắc, tôi thường tham gia tích cực
vào hội Đạo Đức. Khi ấy, tôi là một trong những người lãnh đạo. Chúng
tôi thường diễn giảng về đạo đức, luân lý, nhân nghĩa, cùng luôn
khuyến tấn mọi người hành việc thiện. Khuyến khích người khác làm việc
lành, vậy tôi có tự làm không? Vâng, tôi luôn tự thực hành, vì không
thuyết giảng những gì mà mình không thể làm được. Ngày nọ, tôi đọc
qua đoạn văn nói về hành vi lành thiện của ông Trương Nhã Hiên. Ông ta
được cô họ Dư cầu khẩn kết nghĩa phu thê, nhưng lại khước từ vì
hành vi bất chánh của cô ta. Cảm kích hành vi của Trương Nhã Hiên, tôi
liền phát nguyện: Ông trời! Tôi nhất định sẽ noi theo gương của ông
Trương Nhã Hiên.
Vừa phát nguyện xong, tự nhiên
tôi cảm thấy hối hận, bảo: Tại sao mình lại nói những lời ngu xuẩn
và muốn có những việc như thế xảy ra?
Lạ lùng thay! Tối hôm đó, ma nữ
đến thử thách. Căn phòng được dùng cho văn phòng chính của hội Đạo
Đức vào ban ngày vốn là túc xá của đàn bà vào buổi tối. Nữ túc xá
và nam túc xá được ngăn cách bởi một tấm vách, trống bên dưới. Ma nữ
này thò tay bên dưới tấm vách, định làm chuyện bậy bạ. Tôi nghĩ: Thật
là kỳ quái! Hôm nay vừa mới phát nguyện hành theo gương của ông Trương
Nhã Hiên. Giờ đây quỶ ma đến thử mình.
Vì tôi không màng đến, cô ta bẻn
lẽn xấu hổ ngừng lại. Do việc này, tôi biết rằng nếu phát nguyện,
chư Bồ Tát sẽ đến thử mình. Chớ nói những lời ngông cuồng tự mãn.
Khi làm việc trong hội đạo đức,
Ngài đã từng gặp một chuyện. Có một hội viên, tên là Thái Thục
Khôn. Hôm nọ, ông ta đột nhiên phát bịnh điên cuồng, như bị quỶ thần
nhập mà nói lời xằng bậy:
- Ta là Hoàng Đại Tiên. Vì các người
không kính phục, nên nay Ta đến đây răn dạy.
Khi ấy, ông Cảnh Tú Bân, trưởng
ban giảng huấn, bước ra khuyên giải. Ma vừa chửi vừa mắng, làm náo loạn,
không chịu nghe lời khuyên. Các ông hội trưởng, thư ký cùng những người
khác bước ra khuyên giải, nhưng đều bị ma nhục mạ. Ngài bước ra quát:
- Hội đạo đức là đoàn thể thuận
ứng theo thiên vận. Ngươi đến đây nhiễu loạn hội đạo đức, tức là
phản nghịch lý trời. Nay Ta sẽ thay trời mà hành đạo, nhất định trừng
phạt, tuyệt đối không để cho ngươi trốn thoát.
Ngài nói xong thì thấy Thái Thục
Khôn lộ sắc diện run sợ, nói:
- Thôi tôi đi đây.
Kỳ lạ thay, ma muốn đi mà chân
không thể cử động được, nên kinh hoàng sợ hãi, bèn quỳ xuống trước
mặt Ngài, dập đầu cầu thỉnh:
- Xin Ngài mở lòng từ bi tha tội,
tôi không dám trở lại quấy nhiễu hội đạo đức nữa.
Thấy ma hối cải, Ngài bảo:
- Ngươi đã tự biết ăn năn, nay
Ta sẽ tha cho. Nếu còn tái phạm, thì Ta tuyệt đối sẽ không dung tha. Hãy
đi đi.
Ma lạy xuống rồi bỏ đi. Lúc đó,
Thái Thục Khôn chợt tỉnh lại. Từ đó, không còn có chuyện như thế phát
sanh nữa.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/033-HTTuyenHoa1.htm