- Cuộc đời và sự nghiệp
của HT. Tuyên Hóa
- Thích Hằng Đạt
- Chương IV
- Sang Mỹ hoằng pháp
Năm 1962, vào tháng ba từ châu Úc,
Ngài trở về Hồng Kông. Được sự khuyến khích của ông Lữ Thứ, lãnh
sự sứ quán MỸ, trong cùng tháng Ngài đáp máy bay đến Hạ Uy Di, nghỉ
ngơi hai tuần rồi lại bay sang Cựu Kim Sơn.
Ngài thường dạy các đệ tử: Tự
lợi, lợi người. Hoằng pháp lợi sanh, là trách vụ căn bản của người
con Phật. Tháng tư năm 1958, hai đệ tử sinh viên du học của Ngài, không
quên lời giáo huấn của thầy mình, từ Hồng Kông sang thành phố Cựu Kim
Sơn ở California, thành lập phân hội Phật Giáo Giảng Đường (trung tâm
chính tại Hồng Kông). Giảng đường Phật Giáo mở cửa sáu ngày trong tuần.
Khi đó, có khoảng mười người thường đến chùa, rồi từ từ tăng lên
vài chục người. Cuối năm đó, Giảng Đường được dời về đường Bách
Tư Thành. Ngôi chùa được rộng rãi hơn, có thể chứa khoảng hơn trăm
người. Nơi đó, bên cạnh mỗi năm cử hành lễ Phật Đản, họ còn thỉnh
mời các học giả người Tàu và MỸ đến diễn giảng Phật pháp. Lúc ấy,
những thiện tín đến chùa muốn quy y Tam Bảo đều được Ngài gián tiếp
ban cho pháp danh. Sau này, khi qua MỸ, Ngài chính thức cử hành lễ quy y cho
họ. Quý cư sĩ thuộc Phật Giáo Giảng Đường tại Cựu Kim Sơn một lòng
thỉnh cầu Ngài chống tích trượng qua MỸ giáo hóa chúng sanh mê muội.
Đến tháng ba năm 1962, Ngài qua MỸ,
được sự nghinh đón ân cần của các đệ tử tại phi trường. Ân sư đại
đức ngưỡng mộ bấy lâu, nay đã đến.
Trên đường qua MỸ, Ngài ghé lại
Nhật Bổn khoảng mười ngày. Ngài viếng thăm ngôi chùa của các thầy
Tàu, nhưng bị họ ganh ghét kịch liệt. Dầu nguyện ăn mỗi ngày một buổi,
Ngài vẫn cùng chung họ dùng trà bánh để không ra vẻ khác biệt. Ngài nhận
và dùng sáu bảy miếng bánh đậu, khiến cho họ càng thêm ganh ghét. Tuy
nhiên, những chiếc bánh này đã được tẩm thuốc độc. Tuy biết rõ, nhưng
sắc mặt Ngài vẫn điềm nhiên và cũng không nhổ xác những chiếc bánh
này ra. Dầu không bị hại chết, nhưng độc dược trụ một nơi trong cơ
thể và một mụn nổi dưới chân, rất đau nhức. (Xưa kia, Tổ Bồ Đề
Đạt Ma nhổ xác những chiếc bánh độc của kẻ gian.) Hãm hại không
thành công, một trong những thầy Tàu đó, tới thành phố Cựu Kim Sơn trước,
nơi Ngài sẽ đến để tìm cách phỉ báng. Sau khi thành lập giảng đường
Phật Giáo tại Cựu Kim Sơn, danh tiếng đạo đức từ bi và cung cách hành
trì của Ngài ngày một lan xa, khiến nhiều người tìm đến quy y. Những
thầy Tàu vì ghen ghét nên dùng mọi cách để triệt hạ danh dự của Ngài
mà bảo tín chúng:
- - Tuy bảo rằng chỉ dùng ngọ
thôi, nhưng chính mắt tôi thấy thầy ta ăn vào buổi chiều tại Nhật Bổn.
Kể lại việc này, nhưng họ quên
nhắc đến việc bỏ thuốc độc vào những chiếc bánh đó. Do những cách
gièm pha khéo léo của họ, nhiều người không ra đón Ngài tại phi trường.
(Phụ lục:
- Pháp hải uông dương vô bất độ,
- chúng sanh dữ ngã hy tự tha
Dịch:
- Biến pháp rộng sâu độ hết thảy,
- chúng sanh cùng tôi rời mình người.)
Lúc ấy cũng là năm xảy ra vụ hỏa
tiễn tại Cuba. Thời điểm căng thẳng nhất là lúc nước Nga bắt đầu
đặt căn cứ hỏa tiễn tại Cuba. Tổng thống Kennedy gởi tối hậu thơ
cho Nga Sô và Cu Ba: Nước MỸ sẵn sàng lâm chiến nếu căn cứ hỏa tiễn
vẫn cứ thiết lập.
Vì ba lý do: Mối hiểm họa chiến
tranh vì hỏa tiễn ở Cuba, tình trạng của bộ tộc Hopi, và chất độc
trong người, nên Ngài bắt đầu tuyệt thực để hồi hướng công đức
cho nền hòa bình của thế giới. Phương pháp tuyệt thực là hành theo
pháp Đại Bi của bồ tát Quán Thế Âm. Trong vài ngày đầu, Ngài không ăn
uống gì hết, rồi trong những ngày sau chỉ uống nửa ly nước. Gần cuối
ba mươi lăm ngày tuyệt thực của Ngài, điều khiến mọi người sửng sốt
vui mừng là Nga Sô đột nhiên tự động hủy bỏ việc thiết lập căn cứ
hỏa tiển tại Cuba. Lúc đó, phong trào quyền tự do dân chủ bắt đầu nổi
lên khiến cả nước chú ý đến tình trạng của những người dân da đỏ.
Cuối ngày tuyệt thực, chất độc trong người của Ngài đã được thải
ra, chỉ để lại dấu sẹo dưới chân.
*Jimmy Hoàng là một trong những
thành viên sớm nhất của giảng đường Phật Giáo trước khi Ngài qua MỸ.
Đang học Thái Cực Quyền nơi đó, anh ta nghe về đạo đức tu hành của
Ngài nên thường viết thơ sang Hồng Kông để tham vấn.
*Kim Lee, lúc đó chỉ có mười bốn
tuổi, vừa trông thấy Ngài liền cầu xin làm đệ tử. Kim Lee cùng Jimmy
Hoàng là một trong những đệ tử quy y đầu tiên của Ngài tại MỸ. Pháp
danh của Kim Lee là Quả Dương. Pháp danh của Jimmy Hoàng là Quả Nhân. Họ
bỏ hết sức lực để trợ giúp Ngài tại giảng đường Phật Giáo, như
in ấn những tư liệu kinh sách Phật giáo và phiên dịch những lời giảng
dạy. (Hiện nay, Kim Lee vẫn làm thợ in cho tổng hội Phật Giáo Pháp Giới).
Vì giảng đường Phật Giáo vốn là ngôi nhà thứ hai, nên họ sống gần
gủi với Ngài và rất cảm kích những kỳ tích lạ lùng. Cá nhân Jimmy
Hoàng chứng kiến ba mươi lăm ngày tuyệt thực của Ngài. Mỗi ngày, Ngài
chỉ uống không đầy một ly nước. Trong hai tuần cuối, Ngài cũng không uống
một giọt nước nào qua môi. Jimmy Hoàng biết rằng nếu là người khác
thì sẽ bị suy nhược vào hai tuần đầu, nhưng Ngài vẫn tiếp tục làm
những công việc hằng ngày trong suốt thời gian đó.
Khi ấy, nhật báo Trung Hoa đăng
tin: Vì cầu nguyện thế giới hòa bình, một vị pháp sư tuyệt thực: Pháp
sư Độ Luân đã tuyệt thực trong hai mươi ngày tại giảng đường Phật
giáo, số 731 đường Sacramento, vùng Cựu Kim Sơn, với mục đích cầu nguyện
thế giới hòa bình, nhân dân an lạc. Theo tin tức cho biết, pháp sư Độ
Luân tuổi khoảng năm mươi. Đây là lần tuyệt thực thứ năm. Ngài từ Hồng
Kông đến vùng Cựu Kim Sơn vào sáu tháng trước. Mỗi ngày, Ngài thức dậy
lúc bốn giờ sáng, đắp y ca sa, rồi ngồi thiền và tuyệt thực. Sự tuyệt
thực này đến bao giờ sẽ được chấm dứt, chúng tôi không được biết.
Xưa kia, tổ Bồ Đề Đạt Ma không
quản đường xá xa xôi, mang Phật pháp qua Tàu. Thuở trước, Ngài đã từng
phát nguyện qua Âu MỸ để độ những kẻ hữu duyên, mong họ lên thuyền
Bát Nhã, đạt đến bờ giác. Được lời thỉnh mời của các đệ tử,
Ngài đơn thân độc mã từ Hồng Kông qua MỸ, trú tại vùng Cựu Kim Sơn.
Khi ấy sự sinh hoạt hằng ngày rất khó khăn. Ngài trú dưới hầm nhà cư
sĩ, không cửa sổ, không ánh sáng mặt trời, rất ẩm ướt giống như phần
mộ. Do đó, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng, tức ông tăng trong phần
mộ. Ngài viết bài kệ Mộ Trung Tăng:
- Quý vị nay gặp tăng trong mộ
- Trên không nhật nguyệt, dưới không đèn
- Phiền não Bồ Đề, băng là nước
- Sanh tử Niết Bàn, sắc tức không
- Xả bỏ phan duyên, xa việc giả
- Tâm cuồng ngừng, tâm giác viên dung
- Ngộ đạt tự tánh, tạng quang minh
- Báo thân xưa nay tức pháp thân.
Ngài trú nơi đó, ẩn nhẫn tu
hành, đợi cơ duyên thành thục đến thì sẽ ra giáo hóa chúng sanh. Vào
mùa hè năm 1969, thể theo lời mời của trường đại học Berkeley, Ngài
thuyết trình đề tài Giới thiệu về đạo Phật. Nhân dịp đó, Ngài giải
thích bài kệ về Mộ Trung Tăngnhư sau:
Quý vị nay gặp tăng trong mộ: Quý
vị, những thanh niên thông minh đầy năng lực, hỏi mộ trung tăng này rằng
làm sao vào đó? Tôi cũng không biết. Mộ trung tăng này làm sao vào và ra,
việc này không quan trọng, nên quý vị chớ có hỏi. Tuy nhiên, tôi sẽ kể
cho quý vị nghe, ngôi mộ đó như thế nào.
Trên không nhật nguyệt, dưới không
đèn: Câu này mô tả điều gì? Đó là vô minh. Tuy không có tên tuổi,
chúng ta phải phá vô minh này. Không những là tôi mà quý vị cũng nên phá
vô minh. Quý vị có thể bảo rằng chưa vào ngôi mộ đó thì làm sao phá
vô minh được? Vâng, hiện tại tuy chưa vào, nhưng tương lai nhất định
quý vị sẽ vào mà không thể tránh khỏi, vì vẫn còn vô minh. Còn vô minh
tức không có ánh sáng. Ngay cả Bồ Tát địa vị đẳng giác vẫn còn một
phần sanh tướng vô minh mà chưa phá trừ. Vì vậy, pháp giới Bồ Tát
cùng tám pháp giới khác đều là pháp giới chúng sanh nên vẫn còn vô
minh. Tuy vậy, đức Phật bảo rằng vô minh tức phiền não, phiền não tức
Bồ Đề. Nếu có công phu, chúng ta có thể chuyển phiền não thành Bồ Đề.
Phiền não Bồ Đề, băng là nước:
Vì mọi người đều có phiền não nên ai ai cũng có Bồ Đề. Mọi người
đều biết cách khởi phiền não, nhưng lại quên việc phát tâm Bồ Đề.
Nếu quên tâm Bồ Đề, chúng ta không thể dùng nó được. Ví như băng đá,
nó vốn là nước. Vì nhiệt độ lạnh nên nước kết thành băng đá. Nếu
thời tiết nóng, băng sẽ tan thành nước lỏng. Đây là ví dụ của phiền
não và Bồ Đề. Khí hậu lạnh, tức là phiền não. Ngược lại, mặt trời
ửng hồng chiếu sáng, tức là dụ cho tâm Bồ Đề. Làm sao tạo khí hậu
lạnh? Do vì tham sân si. Mặt trời chiếu sáng ánh nắng hồng ấm áp là
gì? Tức là giới định huệ. Vì vậy, chúng ta cần phải cần tu giới định
huệ, tiêu diệt tham sân si. Chuyển biến phiền não thành Bồ Đề, tức là
chuyển băng đá thành nước. Đây chỉ là ví dụ, chớ nên chấp trước mà
bảo: Băng đá là nước. Phiền não là Bồ Đề.
Quý vị có thể bảo: Tôi muốn giữ
phiền não lại, vì phiền não tức là Bồ Đề. Do băng đá vốn là nước,
nên tôi giữ băng đá lại để xem coi nó có biến thành nước chăng !
Không thể được! Mặc dầu ai ai
cũng có thể thành Phật, nhưng phải cần tu hành. Làm sao tu hành? Phải y
theo Phật pháp mà tu hành và đi tham phương tầm cầu minh nhãn thiện tri thức,
hầu mong họ chỉ dạy chúng ta cách thức hành trì dụng công.
Sanh tử Niết Bàn, sắc tức không:
Ai ai cũng đều tham sống sợ chết. Tuy nhiên, nếu không có sanh tử thì
không có Niết Bàn. Phải tìm cầu Niết Bàn ngay nơi sanh tử. Một khi đã
thấy Niết Bàn rồi thì không cần phải tiếp tục tìm kiếm nữa. Chớ
nên cỡi lừa đi tìm lừa. Hiện tại chúng ta chưa đạt đến Niết Bàn
vì vẫn còn bị sanh tử trói buộc. Nếu cắt đứt dòng sanh tử thì Niết
Bàn là mình, không cần tìm kiếm. Vì vậy bảo rằng sắc tức là không,
không tức là sắc.
Xả bỏ phan duyên, xa việc giả: Nếu
muốn chứng đạt đến cảnh giới nhân không, pháp không, niết bàn sanh tử
đều không thì phải xả bỏ muôn duyên, cùng nhìn xuyên thấu suốt chúng.
Nếu còn tham đắm chấp trước thì không thể nào xả bỏ được. Nếu làm
được tức gọi là xa lìa các vọng duyên. Nếu không thể xa lìa vọng
duyên, tức là phan duyên nên không thể trừ hết muôn việc chướng ngại.
Nếu không biết sanh hoặc không biết tử thì không còn chấp trước.
Tâm cuồng ngừng, tâm giác viên
dung: Phải ngưng tâm cuồng loạn. Làm thế nào? Chỉ việc ngừng. Lại còn
có cái ngừng, không? Khi tâm cuồng loạn ngừng, liền giác ngộ tất cả
pháp đều viên dung vô ngại. Do đó, đức Phật bảo: Tất cả chúng sanh
đều có đức tướng trí huệ của Như Lai. Tuy nhiên, chỉ vì vọng tưởng
chấp trước nên không thể chứng đắc.
Ngộ đạt tự tánh, tạng quang
minh: Tự tánh vốn là tạng quang minh sáng suốt. Nếu giác ngộ được như
thế thì chứng được báo thân xưa nay tức pháp thân. Đại tạng quang
minh của tự tánh, tức là tạng tánh của Như Lai. Báo thân chưa thọ nghiệp
báo, vốn là pháp thân. Hiện tại chúng ta thọ nghiệp lành xấu, đều do
trong đời quá khứ đã gieo nghiệp thiện ác. Nếu tạo nghiệp lành thì sẽ
thọ quả báo lành. Nếu tạo nghiệp xấu thì sẽ thọ quả báo xấu. Phải
giác ngộ bản lai diện mục của mình thì mới giác ngộ tự tánh tạng
quang minh. Đến lúc đó, sẽ có việc gì? Học sinh trở thành giáo sư. Giáo
sư trở thành học sinh. Ai ai cũng đều giống nhau. Chư Phật là chúng sanh.
Chúng sanh là chư Phật. Nếu hiểu lý này, tức là sáng suốt chân chánh.
Ngược lại, vẫn còn vô minh.
Sáu năm sau, khoảng ba mươi sinh viên
và giáo sư trường đại học Hoa Thịnh Đốn đến cầu thỉnh Ngài giảng
kinh Thủ Lăng Nghiêm. Họ được một sinh viên đồng học phiên dịch.
Trong khóa tu học kinh Thủ Lăng Nghiêm, ông Alan Nicholson nhận bằng thưởng.
Ông cũng cống hiến tay nghề thợ mộc của mình vào việc kiến thiết sửa
chữa chùa Kim Sơn và chùa Vạn Phật Thánh Thành. Hiện tại, ông cùng với
bà vợ, cô Terri Nicholson, và con cái đang sống tại chùa Vạn Phật Thành.
(Phụ chú:
1968, tại
San Francisco
Nhờ lòng kiên nhẫn, từ bi, và phương
tiện thiện xảo, Ngài chỉ dẫn dạy dỗ cho những thanh niên người MỸ,
khiến họ được giác ngộ tùy theo trình độ của mỗi người. Đầu tiên,
hầu hết họ đều không hiểu Phật pháp, nhưng đến cuối mùa hè, có rất
nhiều người thọ năm giới cấm và Bồ Tát giới. Trong hình, sau khi đã
thọ giới, họ mặc áo tràng màu đen cùng giới y và tọa cụ.
Pháp hội phóng sanh. Lần đầu tiên
các thanh niên người MỸ, chứng kiến và tham gia pháp hội phóng sanh, trên
mái ngói Giảng Đường Phật Giáo. Sau khi ba mươi tám con chim bồ câu được
phóng thả, những con chim này đều bay mất duy chỉ còn lại hai con. Chúng
quanh quẩn và thường tham gia mọi hoạt động ở trong chùa. Ngài rơi lệ,
giải thích rằng hai con chim bồ câu này chính là đệ tử xuất gia của Ngài
trong đời Đường (750 AD).
Ngài đặt tên cho chúng là Mười
Hai Nhân Duyên và Thất Bồ Đề Phần. Con Mười Hai Nhân Duyên rất hiền
hòa. Con Thất Bồ Đề Phần rất nóng nảy, thường vỗ đôi cánh lên
mình Ngài, người dùng bi trí giáo hóa nó.
Hoặc nó sẽ bay tới bay lui, những
khi không thuận theo ý. Ngài dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa người
cùng thú vật, khiến mọi loài đều đạt được ích lợi, bớt phiền
não. Một trong những phiền não là ăn uống. Rất nhiều đệ tử, thanh niên
người MỸ, vì kính phục Ngài hành hạnh ăn một ngày một bữa, nên cũng
tự cố gắng hành trì theo. Ngài khéo léo dạy hai con chim bồ câu về bài
học tham lam thức ăn bằng cách cho chúng lọ gạo đầy nhất. Trước hết
lọ gạo đầy tràn cả vành; hai con chim vui vẻ đứng bên vành lọ mà mổ
gạo.
Từ từ số gạo trong lọ giảm dần
cho đến khi chim phải chui đầu vào lọ để ăn và thường bất cẩn mất
thăng bằng để mổ gạo. Hình chụp Ngài đang cho chim ăn với lọ gạo gần
cạn và giảng 24 thư pháp chữ Tàu vào mỗi buổi tối trong năm 1969. Ngài
viết kinh Lăng Nghiêm và dung hợp những nội dung tu học, bao gồm viết chữ
Tàu theo từng nét, phương cách viết thư pháp, giải thích đơn giản các
kinh văn, và luyện giúp khả năng ghi nhớ của các đệ tử.)
Sau khóa tu học mùa hè năm đó,
Ngài tổ chức một buổi lễ truyền giới. Hầu hết tất cả người tham
dự đều thọ tam quy y, ngũ giới, và giới Bồ Tát (mười giới trọng, bốn
mươi tám giới khinh). Một đệ tử tham dự toàn khóa, thọ giới Sa Di.
Vào năm 1969, có năm người MỸ phát tâm xuất gia tu đạo, rồi sang Đài
Loan, thọ giới cụ túc tại chùa Hải Hội tỉnh Cơ Long. Năm vị này là
chúng đệ tử xuất gia thọ giới cụ túc đầu tiên tại MỸ. Những điều
Ngài dạy năm người đệ tử xuất gia trước khi qua Đài Loan thọ giới,
được Quả Dật ghi lại.
Ngày 27 tháng 10, năm 1969. Ngài dạy:
- Tôi chỉ ăn mỗi ngày một buổi
vì biết rằng nhiều người trên thế gian đang bị đói khát. Hy vọng, họ
sẽ dùng những lương thực mà tôi để dành. Ăn mỗi ngày một buổi cũng
chính là giới Phật chế ra. Khi tu hành, chớ nhìn lỗi của người khác.
Ngược lại, hãy bàn những điểm tốt của họ. Đây là tu khẩu đức, tức
là đức tánh của miệng. Nếu không có đức tánh này thì dầu có nói
gì, ai ai cũng không tin tưởng. Nếu thân, khẩu, ý đều đầy đủ đức hạnh
thì vừa gặp mặt, người khác sẽ tôn kính. Nhìn vào lời ăn tiếng nói
và cử chỉ hành động, người khác sẽ biết rõ mình có đức hạnh hay
không.
Tương lai, tôi sẽ truyền pháp cho
mười đệ tử: Năm đệ tử xuất gia và năm đệ tử tại gia. Lãnh hội
được kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, cùng nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm xong, quý vị
sẽ làm pháp chủ, đi khắp mười phương, giáo hóa những chúng sanh có
duyên lành. Trong giới Phật giáo, quý vị sẽ tự đứng một mình. Đừng
lo lắng! Mọi việc đều đơn giản.
Ngày 28, tháng mười 1969, Ngài dạy:
- Không ai có thể biểu diễn hạnh
khác thường. Chúng ta sống trong một đoàn thể, không ai là giỏi nhất
hay dở nhất. Chớ khen ngợi hoặc khinh khi người khác. Chớ chấp vào những
lời tán tỉnh hay chê bai. Phải làm mọi việc đúng đắn để chứng minh
rằng người MỸ có thể tu đạo. Phải luôn chú ý, duy trì khẩu đức. Không
bao giờ nói lỗi của người khác. Nếu có ai nói lời sai trái, hãy đi chỗ
khác. Đừng để lỗ tai bị nhiễm ô. Ngay cả nghĩ về hạnh xấu của
người khác cũng không được. Những điểm này tuy nhỏ nhặt nhưng rất
quan trọng.
Ngày 29, tháng mười, năm 1969, Ngài
dạy:
- Quý vị có biết chăng, việc của
tôi giống như thợ nề nung gạch. Gạch được nung từ đất sét để làm
nhà. Nếu để đất sét khô thì chúng sẽ nứt nẻ, nên phải nung nấu
thì chúng mới không rạn bể. Một năm vừa qua, quý vị đã được nun đúc,
nên nay là ngói gạch không bể nứt. Gạch đã được nung đúc, mai sau sẽ
được dùng vào công việc xây nhà, tức tòa nhà Phật pháp. Ngói gạch
này sẽ làm nền tảng kiên cố vững chắc. Mầm Bồ Đề đã được gieo
từ trước, nên nay là thời điểm kết quả. Quý vị đi thọ giới, tức
là phải trưởng dưỡng nuôi nấng cây Bồ Đề để bất cứ ai khi nhìn
thấy quả Bồ Đề đều muốn hái. Người khác vừa nhìn qua, liền biết
ngay quả này chua ngọt như thế nào. Lại nữa, phải giống như ngói gạch,
không bị nứt nẻ. Những lời này thật hành rất khó. Hãy cùng nhau hộ
trì những lời phát nguyện.
Trong sự tu hành, việc quan trọng
nhất là phải có tam muội, tức là định lực, và nhận chân tự tánh sẵn
có của mình. Làm sao nhận ra? Tự tánh vốn thanh tịnh thuần lương không
nhiễm ô. Khi đối đầu bất cứ cảnh giới nào trên thế gian như gặp
duyên lành hay ma oán, đừng để tâm giao động.
Dầu người khác có bảo mình hay
hoặc dở, chớ màng đến. Đã theo tôi tu học bao năm tháng, quý vị chớ
để tình cảm ràng buộc.
Không thể đánh giá người nào
hoàn toàn xấu hoặc hoàn toàn tốt. Phật Thích Ca được nhiều người ca
ngợi tán thán, lại cũng bị nhiều kẻ hủy báng. Đề Bà Đạt Đa tuy là
kẻ xấu xa nhất mà cũng có rất nhiều đệ tử của Phật lại nghe theo.
Lắm khi, có người gọi đệ tử
Phật là heo hoặc chó. Đừng để tâm mình động. Hãy chuyển cảnh, chớ
để cảnh chuyển mình. Nếu biết vạn vật tình không thì là điều tối
vi diệu.
Thiện và ác không đến từ những
người khác mà phát xuất từ tâm mình. Nếu mình tốt mà người khác bảo
là xấu thì tự biết rõ mình đúng. Tuy nhiên, nếu làm việc xấu mà người
khác bảo là hay thì mình là người ngu si. Nếu mình đúng thì người khác
có nói gì cũng mặc kệ họ.
Tôi rất vui mừng vì quý vị phát
tâm xuất gia thọ giới. Trong tương lai, quý vị phải xiển dương Phật pháp
khiến chánh pháp lan rộng khắp nơi. Tuy nhiên, không được phan duyên hay cầu
cạnh. Tôi đã từng bảo quý vị rằng những ai xuất gia với tôi phải
tuân thủ ba đại tông chỉ, vì chúng rất hệ trọng. Người xuất gia phải:
- Dầu lạnh chết, không phan duyên
- Dầu đói chết, không xin xỏ
- Dầu nghèo chết, không cầu cạnh.
Tuân thủ ba đại tông chỉ này
thì quý vị mới được theo tôi xuất gia. Hoằng dương Phật pháp, xả bỏ
ngã tướng thì mới thực sự tu hành theo chánh pháp. Trong Phật giáo,
không có việc khổ nhọc hoặc khó khăn. Hãy giúp đỡ người khác, chớ
ích kỶ. Hãy chuyển tham, sân, si, như xoay trở bàn tay. Trước kia, tâm tôi
thường tham lam, oán hận, ngu si, nhưng giờ đây đã tẩy trừ. Đó là tâm
ấn của chư Phật Tổ nay truyền trao cho quý vị. Quý vị có hiểu chăng?
Đừng có bản ngã. Hãy vứt bản
ngãqua một bên để giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, chớ suy nghĩ: Vì thường
giúp người, nên tôi chính là Bồ Tát.
Đã làm việc gì tốt cho người hãy
quên đi. Các pháp, tướng của chúng đều là không.
Không có gì cao thấp. Kinh điển nhà
Phật thường nhắc nhở điều này. Chớ đi nơi khác tìm cầu, mà hãy
nhìn lại chính mình.
Ngài Quy Sơn (vị tổ sư của dòng
thiền Quy Ngưỡng), được cúng dường một gói tiền, nhưng Ngài không
thèm đụng đến. Ba năm sau, tín chủ trở lại thấy gói tiền đó vẫn
còn y nguyên nơi chỗ cũ. Với thiền định tam muội như tổ Quy Sơn, chắc
chắn quý vị sẽ đạt thành tựu! Nghe lời diệu pháp này, quý vị ngộ
chưa?
Lúc năm đệ tử người MỸ qua Đài
Loan thọ giới, Ngài ngưng giảng kinh Pháp Hoa để giảng kinh A Di Đà. Khi họ
thọ giới xong và trở về MỸ, giảng đường Phật giáo ngày càng bận rộn,
người xin quy y làm đệ tử ngày một gia tăng.
(Nhật báo Seattle đăng tải trang bìa
lớn, chụp ảnh năm vị đệ tử xuất gia của Ngài vào ngày thứ hai, mồng
mười tháng mười một, 1969. Sau đây là phần trích lược:
(Đài Loan) Năm người MỸ, gồm có
bốn sinh viên đại học Washington, hy vọng sẽ trở thành những tu sĩ Phật
giáo. Hôm nay, họ bắt đầu tu học tại chùa Hải Hội, thành phố Cơ
Long, Đài Loan. Năm người này, họ đến Đài Loan vào ngày 31 tháng mười...
Nếu đúng theo lịch trình thì họ sẽ được thọ giới làm tu sĩ vào mồng
một tháng mười hai. Họ đã nghiên cứu tu học Phật pháp tại MỸ và sẽ
trở về đó vào tháng mười hai, để nhận công tác tại giảng đuờng Phật
Giáo, thành phố Cựu Kim Sơn.)
Trong những người quy y, thọ giới
vào lần đó có cô Bob và anh Fran Laughton (khi ấy, cả hai chưa cưới nhau),
và cô Barbara Waugh (sau này cô ta có dịp may được Ngài đứng ra làm chủ
lễ kết hôn với anh Ernie tại giảng đường Phật Giáo). Barbara và Fran
làm y tá tại vùng thung lũng Ukiah. Cùng với gia đình, họ thường đến chùa
Vạn Phật lễ bái.
Trên mười năm kết hôn, Bob và
Fran vẫn chưa có con. Sau những lần khám nghiệm, họ được bác sĩ cho biết
là không thể có con được. Nhờ thành tâm cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế
Âm, cuối cùng họ có được hai đứa con trai mạnh khỏe, khiến bác sĩ ngạc
nhiên vô cùng.
Con số của những người đệ tử
quy y, ngày càng gia tăng. Giảng đường Phật Giáo vẫn chứa đựng hết số
người đó. Trong những người quy y thọ giới với Ngài, có một cô tiến
sĩ sau này xuất gia (tức là sư cô Hằng Hiền hiện nay), thường viết những
bài giảng dạy chữ Phạn trên nguyệt san Kim Cang Bồ Đề Hải, cùng phiên
dịch những lời giảng dạy của Ngài.
Đương thời, vào những dịp đặc
biệt, Ngài dẫn đệ tử đi thăm những Tịnh Xá (nghĩa là những ngôi
chùa chỉ có một vị thầy Tàu trú ở). Lần nọ, trên xe chở các đệ tử
đến ngôi Tịnh Xáđược trang hoàng lộng lẫy với nệm dày sơn mỏng, Ngài
dạy họ những cách thức nhã nhặn:
- Khi bước vào chùa, hãy cởi giày
ra, đừng ngó xung quanh như muốn ăn cắp đồ vật, đừng làm đổ nước
trà, đừng đi một mình trong những phòng ngủ hoặc những nơi không ai thấy.
Nếu không, vị trụ trì sẽ lo lắng về việc quý vị lấy của hay đập
phá đồ đạc.
Lần đó, sự thăm viếng của Ngài
và các đệ tử làm cho các thầy Tàu trong những ngôi Tịnh Xáchột dạ. Vừa
bước vào cửa, các thầy Tàu đó đều kinh ngạc sửng sốt, vì Ngài và
chư đệ tử không hợpvới môi trường đó.
Thái độ tiếp thọ và lòng từ bi
của Ngài khác biệt hoàn toàn với họ. Lòng kiên nhẫn và phương tiện
thiện xảo, khiến đệ tử đến với Ngài như bị nam châm thu hút. Ngài từ
từ dạy các đệ tử tẩy rửa, sửa đổi những lỗi lầm. Đạo tràng của
Ngài lập ra hoàn toàn khác với những Tịnh Xácủa các vị thầy Tàu. Giảng
đường Phật Giáo vốn là đạo tràng cũ kỸ, chỉ để đáp ứng nhu cầu
tu học của hai chúng xuất gia và tại gia. Lắm người thường tự hỏi: Tại
sao Ngài thu hút được nhiều người trẻ tuổi, khiến họ muốn theo xuất
gia tu hành?Quý vị hãy tự nghiền ngẫm.
Một đoạn văn trích từ bài Kiếm
Chặt Ma:
Đọc giả hãy cẩn thận! Có những
người tự xưng là thiện tri thức như Lạt ma, thiền sư, du già sư, thượng
sư, v.v... Họ đều là những người cầu danh cầu lợi. Tại mỗi nhà
sách, đại học, bất luận già trẻ, họ thường tự xưng hàm hồ những
lời điêu ngoa xảo quyệt, giảng công án, hay khẩu đầu thiền: Quý vị
là Phật. Tôi cũng là Phật. Tất cả chúng ta đều giác ngộ! Hãy lắng
nghe tôi điều này. Tự do phóng túng!...
Họ thường dụ dỗ những người
ngây thơ và làm nhơ các đệ tử, những ai không biết đâu là chân đâu
là giả.
Thỉnh thoảng, Ngài bảo các đệ tử
đến gặp những Tổ Sưngười MỸ đó. Họ cũng không thích đệ tử Ngài
cho lắm. Nhân dịp đại lễ Phật đản tại vùng Cựu Kim Sơn do các đệ
tử của Ngài tổ chức, các viên chức thành phố Cựu Kim Sơn tán thán ...Đại
lễ Phật đản được tổ chức long trọng do sự cố gắng tích cực của
hội Phật giáo Trung-MỸ. Đây là đại lễ Phật đản được tổ chức lần
đầu tiên tại vùng Cựu Kim Sơn...
Dưới đây là bài phát biểu của
ông Sam Lewis (Sufi Sam): Tôi rất lấy làm hối tiếc là phải đính chính lời
phát biểu của các vị ủy viên chánh phủ... Phật pháp đã đến thành phố
này vào đầu thế kỶ... Đặc biệt, tôi nhớ lại rằng chính mình đã
chính thức tham dự đại lễ Phật Đản vào năm mươi năm về trước...
Sau cuộc viễn du trong một thời gian ngắn, trở lại đây tôi thấy những
người trẻ tuổi ở quốc gia này tích cực tu học Phật pháp. Với bầu
nhiệt huyết hăng say, hôm nay các thanh niên Phật tử thay thế địa vị của
chúng ta để cử hành đại lễ Phật đản trọng đại này.
Ông Sam Lewis ( Sufi Sam), người sáng
lập phái Mật Tông tại nước MỸ, thường dẫn đệ tử đến giảng đường
Phật giáo. Tuy nhiên, sau cái chết đột ngột, ông mới chấp nhận rằng
Ngài là vị truyền đúng chánh pháp. Ông ta trở về, báo mộng cho các đệ
tử, thúc giục họ phải đến quy y với Ngài, và bảo rằng rất hối tiếc
là lúc còn sống, không đến tu học Phật pháp với Ngài.
Thêm một Tổ Sưngười MỸ tuyên bố:
Mọi người đều là Phật, có nghĩa rằng ông ta là Phật.
Giáo sư Epstein bình luận: Đương
thời, có rất nhiều hội đoàn Phật giáo lạ lùng. Tuy tự xưng là Phật
tử nhưng thực chất thì không. Lại nữa, có một số người MỸ rất thích
làm Tổ Sư. Họ muốn Ngài ấn chứng cho làm Tổ Sưngười MỸ đầu tiên.
Trong số những người đó, có lẽ ông Joe Miller là người thông minh xảo
quyệt nhất. Ông ta vốn là chủ tịch hội Thần Học tại thành phố San
Francisco. Ông ta cũng có đệ tử. Có lẽ tôi gặp ông ta cùng bà vợ vào
mùa đông 1967-1968, lúc đến tham thiền tại giảng đường Phật Giáo. Khi
ấy, vào mỗi đêm, Ngài có tổ chức buổi ngồi thiền cho đại chúng từ
bảy giờ đến tám giờ tối. Theo tôi được biết, nhân duyên của ông
Joe Miller đối với Ngài rất phức tạp. Ngài thường bảo rằng tuy đã cố
gắng chỉ dạy ông ta bao đời, nhưng không thể thành công. Tôi nhớ lại
Ngài kể rằng ông Joe Miller đã từng khiến Ngài bị rắc rối từ đời
Đường hoặc đời Tống. Ông ta cùng bà vợ cũng tham dự khóa tu học mùa
hè trong một thời gian cho đến khi bị Ngài trách mắng công khai vì hành
vi bất chánh. Ông ta rời chùa và kể từ đó, ít khi liên lạc với Ngài.
Lại có một người nữa mà tôi
không nhớ tên; ông ta được các đệ tử gọi là thiền sư trèo núi và
đi trên lửa. Những tờ nguyệt san Kim Cang Bồ Đề Hải đầu tiên thường
đề cập gián tiếp về những người này trong phần kiếm chặt quân mavà
chày hàng phục quân ma. Khi thấy phát hành những tờ nguyệt san này, họ rất
tức giận vì nhận ra rằng những lời lẽ đó trực tiếp chỉ thẳng đến
mình dầu không nhắc tới tên tuổi ai cả.
Thanh tịnh ý chí, hồi tâm hướng
thiện, phát tâm dũng mãnh tinh tấn, lập chí tu thành đạo quả. Độ khắp
đồng luân cùng lên bờ giác; cùng chư thượng thiện nhân, hoan hỶ sống
chung một nơi; cùng chư Bồ Tát bất thối, mãi mãi làm bạn lữ.
Đây là mục đích của quyển sách
Thủy Kính Hồi Thiên Lục (nghĩa là nước trong tấm gương sáng, xoay vận
mệnh trời). Về phần lý lẽ rất dễ bàn luận, nhưng về phần sự tướng
lại rất khó hành trì. Tại sao? Khi giáo hóa chúng sanh hành việc lành, dầu
có la hét mắng chửi chỉ dạy năm ba lần, họ vẫn không thay đổi tánh
tình. Tuy nhiên, nếu họ gặp duyên ác thì niệm ác tăng trưởng, tự thông
đạt dễ dàng. Người bỏ mê xoay về giác thì rất ít.
Ví như ánh trăng sáng hiện trên mặt
nước, hoa soi trong gương sáng, chúng vốn là những ảnh giả, không có thật
thể. Hy vọng trong những việc không thể hy vọng. Cố gắng thành tựu những
gì không thể thành tựu. Vì vậy, quyển sách này được gọi là Thủy
kính hồi thiên lục.
Niên biểu
từng năm đến khi nhập diệt
*Năm 1970 Ngài giảng luận Đại Thừa
Trăm Pháp Môn. Ngài thành lập chùa Kim Sơn, tại vùng Cựu Kim Sơn. Từ ngày
mười lăm tháng mười một đến ngày hai mươi tháng hai năm tới, Ngài cử
hành thiền thất trong một trăm ngày. Khi ấy, Ngài giảng truyện Cao Tăng và
cho ra tờ nguyệt san Phật Giáo chánh pháp, tức là Kim Cang Bồ Đề Hải.
*Năm 1971 Ngài giảng luận Đại Thừa
Khởi Tín, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Sơ Tự kinh Hoa Nghiêm, Sớ
Sao kinh Hoa Nghiêm.
*Năm 1972 Ngài giảng Mười pháp giới,
không ngoài một tâm niệm, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Phật Tổ
Đạo Ảnh. Ngày hai mươi tháng chín, kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại
Giới được tổ chức lần thứ nhất tại chùa Kim Sơn.
*Năm 1973 Ngài thành lập viện
Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế. Tại chùa Kim Sơn, Ngài thành lập trường
tiểu học Dục Lương. Hai đệ tử xuất gia, Hằng Cụ và Hằng Do, phát
tâm hành trì ba bước một lạy, từ thành phố Cựu Kim Sơn, California đến
thành phố Seattle, Washington vì cầu thế giới hòa bình. Lần đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo quốc tế, có người xuất gia hành ba bước một
lạy.
(Phụ chú:
1970, San
Francisco
Hội Phật Giáo Trung MỸ (sau này trở
thành Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới), tổ chức ngày lễ Phật đản lần
đầu tiên. Hơn sáu trăm tín chúng đến làm lễ tắm Phật tại công viên
quảng trường Liên Hợp. Chư tăng hướng dẫn tín chúng vào chánh điện
ở nhà thờ Công Lý. Ngài ngồi trong lễ đường nhà thờ Thiên Chúa giáo,
và xem các đệ tử xuất gia trẻ đang hướng dẫn lễ tắm Phật, tượng
trưng cho sự thanh tịnh hóa thân tâm.
Giảng
Đường Phật Giáo, San Francisco
Có lần, Ngài bảo các học sinh
đang học lớp viết chữ Tàu: Các con có thể phát triển công phu của
mình trong mọi lúc. Các con có thể không cảm nhận được điều này. Nhưng
đối với Thầy, trong lúc viết chữ Tàu, luôn tự khống chế hơi thở của
mình. Thật vậy, các con có thể học rất nhiều việc trong cuộc sống hằng
ngày.
Ngài dạy chư đệ tử người MỸ
cách thức vừa đi nhiễu, vừa tụng niệm. Khi đã thành một vòng tròn
thì mất đi ý nghĩa của vị trí người đi trước và người đi sau cùng.
Người đi trước biến thành người đi sau cùng. Người đi sau cùng biến
thành người đi trước. Mỗi người đều trở thành người đi sau cùng,
và mỗi người đều biến thành người đi trước. Thật vậy, lý của
vòng tròn là không có trước và sau. Ngài dùng ví dụ này để dạy về lý
đấu tranh tham vọng, tham cầu lợi danh địa vị.
Trai Đường
(nhà ăn), chùa Kim Sơn
Cây gỗ để sửa chữa chùa Kim Sơn
có được là do sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Âm. Ngày nọ, vợ chồng
Quả Đồng, Lao Đốn, đệ tử của Ngài, biết một cơ sở thương mãi ở
vùng Cựu Kim Sơn đang được kiến thiết, nên phải bỏ đi những gỗ cây
cũ. Ai ai cũng có thể lấy được mà không tốn tiền. Vợ chồng Lao Thốn
báo tin này cho chùa. Sau đó một nhóm đệ tử trẻ được phái đi lấy củi
đem về chùa. Những gỗ cây này là nguyên liệu chính để sửa chữa lại
chùa Kim Sơn. Những mãnh gỗ nhỏ còn dư lại được làm bàn ghế để
trong nhà ăn. Ngài dạy những đệ tử người Tây Phương, không nên lãng
phí vật dụng. Những nguyên liệu này được dùng tới dùng lui trong việc
sửa chữa chùa Kim Sơn.
Đầu
năm 1970, tại San Francisco
Kim Sơn Thiền Tự, Nghi Thức Truyền
Cúng. Ngài hướng dẫn nghi thức Truyền Cúng lần đầu tiên. Khi ấy, một
vị tỳ kheo đệ tử làm Pháp Chủ. Từ lúc bắt đầu, Ngài huấn luyện
các đệ tử bằng cách đặt họ vào vị trí lãnh đạo, còn chính Ngài
thì luôn giữ thái độ khiêm cung; chỉ ban lời huấn dụ khi cần thiết.
- Trì Giới thanh tịnh vô hà vết,
- Trí tuệ quang chiếu biến đại thiên
dịch:
- Trì giới thanh tịnh không tỳ vết,
- Trí huệ chiếu sáng khắp đại thiên
1973, San
Francisco
Lễ Khai Mở Viện Phiên Dịch Quốc
Tế. Đây là nơi xuất bản những bản kinh tiếng Anh, được phiên dịch
đầu tiên, đã hoàn thành. Trường tiểu học Dục Lương cũng được thành
lập ở đây vào năm 1976.
1973, Viện
Dịch Kinh Quốc Tế, San Francisco
Ngài khai quang điểm nhãn thánh tượng
Quán Âm Bồ Tát, bốn mươi hai thủ nhãn, để trang nghiêm và hộ trì viện
Dịch Kinh Quốc Tế. Ngài dạy tụng câu chú: Thập Phật ra, thập Phật ra.
Tần đà ra, tần đà ra. Chân đà, chân đà. Hổ tín, hổ tín, tức đoạn
đầu, phần thứ tư, trong chú Lăng Nghiêm. Ngài viết kệ, giải thích câu:
Thập Phật ra, thập Phật ra, là:
- Phật bảo phóng ánh sáng khắp nơi
- Chiếu cùng pháp giới, tạng hư không
- Chỉ rõ nhập vào chánh tri kiến
- Vô thượng Bồ Đề, vua đại giác.
1973, San
Francisco
Lễ xuống tóc, xuất gia tại chùa
Kim Sơn vào tháng mười một.
1/ Hằng Phước, vốn là vị thí chủ
của Giảng Đường Phật Giáo tại Hồng Kông.
2/ Hằng Phủ, khi chưa xuất gia, lần
nọ, Thầy đến phỏng vấn Ngài. Tay Thầy cầm bao giấy, trong đó có một
cây búa, mà vị đệ tử theo hầu Ngài chẳng biết. Đến khi Ngài hỏi ra,
thì mới biết là trong bao giấy có cái búa.
3/ Hằng Trân, đã phiên dịch Sự
Tích của ngài Tuyên Hóa, và Chú Giải Kinh A Di Đà của Ngài ra tiếng Tây
Ban Nha.
4/ Hằng Không, thầy đã từng nhịn
ăn trong bảy mươi hai ngày, trì chú Lăng Nghiêm tám giờ một ngày trong một
khoảng thời gian, mỗi lần ngồi thiền trong tư thế kiết già khoảng mười
hai giờ.
5/ Hằng Lộc, con trai độc nhất của
một thương gia tại vùng San Francisco.
6/ Hằng Trầm, một phụ nữ đến
từ Nam Phi.
Kim Sơn
Thiền Tự, San Francisco
Giáo sư Edward Conze là một học giả
Phật giáo nổi tiếng. Khi đang dạy tại đại học University of Washington,
Seattle, một học sinh của ông ta là Ronald Epstein (hiện là giáo sư trường
đại học San Francisco State University) viết bài luận án cho bản dịch của
ông ta về bài kệ chú giải Tâm Kinh của ngài Tuyên Hóa. Một học sinh
khác của ông, sau khi tham dự pháp hội giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm trong
mùa hè 1968, liền phát tâm xuất gia, pháp danh là Hằng Tĩnh. Giáo sư Lewis
Lancaster, khoa trưởng phân khoa Phật học tại đại học University of
Berkeley, cũng là ủy viên chủ khảo luận án tiến sĩ của ông Ronald
Epstein (tức giáo sư Ronald Epstein, hiện tại) về bài dịch Bảy Chỗ Hỏi
Tâm của Ngài A Nan. Thật rất kỳ lạ, trong hình chụp, hiện ra điềm lành,
một bảo cái ba cạnh tám góc, màu trắng.
Redwood
City, California
Giáo sư Lewis Lancaster thỉnh mời Ngài
diễn giảng cho sinh viên đại học University of Berkeley nơi khu tu học tại
Redwood City. Nơi đó, Ngài giải thích cho thanh niên sinh viên về nguồn gốc
của chữ Buddha. Chữ Buddha này được phiên dịch ra tiếng Tàu là Phật Đà
Da. Sau này được gọi tắt là Phật. Ngài bảo rằng nếu như sống vào thời
phiên dịch chữ Buddha, thì Ngài sẽ đề nghị phiên dịch chữ Buddha ra tiếng
Tàu là Bất Đại, nghĩa là không lớn. Do vì Phật không lớn, không nhỏ,
không đến không đi.
San
Francisco
Sau cái chết đột ngột của Sơn Mỗ
(Sufi Sam), vài thành viên của nhóm Huyễn Mộng Ca Ly, đồng mơ thấy Sơn Mỗ
hiện về, ba lần trong một đêm. Sơn Mỗ bảo: Nay mới hiểu rõ rằng tôi
thật không đủ tư cách dạy các vị, vì tôi không thật chứng đắc. Nay
tôi rất lấy làm hối tiếc là tuy gặp ngài Tuyên Hóa mà không học được
gì cả. Các vị phải nên đến chùa, quy y ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa
có đủ tư cách để dạy các vị. Ngài thật là vị đã chứng đắc.
Ngày kế, sau khi luận bàn về giấc
mộng, nhóm người Huyễn Mộng Ca Ly, gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn,
hỏi thăm khi nào có lễ truyền tam quy y. Quy y xong, họ thường đến chùa
Kim Sơn để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Sau khi trường tiểu học Dục
Lương được thành lập vào năm 1976, họ cũng gởi con cái đến học.
*Năm 1974 Ngài thành lập trung tâm Bồ
Đề Đạt Ma tại Seattle. Ngài giảng kinh Bốn Mươi Hai Chương, Sa Di Luật
Nghi Yếu Giải. Chư đệ tử hộ pháp cúng dường khu đất rộng gần năm
trăm mẫu đất tại vùng bắc California. Từ ngày hai mươi tháng mười một
đến ngày mười hai tháng giêng năm kế, Ngài huớng dẫn chư đệ tử qua
hoằng pháp tại Hồng Kông, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Việt Nam, Đài Loan, v.v...
*Năm 1975 Ngài thành lập chùa Kim
Luân tại Los Angeles. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông.
*Năm 1976, ngày ba mươi tháng tám, tại
Vạn Phật Thánh Thành Ngài cử hành kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại
Giới lần thứ hai. Ngài thành lập trường nam nữ trung học Bồi Đức và
đại học Phật Giáo Pháp Giới.
(Phụ chú:
1974,
Berkeley
Nhân ngày vía Quán Âm Bồ Tát
Thành Đạo, Ngài chủ trì pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina, năm 1974.
Ý nghĩa phóng sanh: Nếu chúng ta tôn trọng quyền lợi tự do, việc sanh tồn
của mọi loài chúng sanh, và thường phóng sanh thì áp bức, chiến tranh,
và giết chóc có thể tận trừ mà không dùng võ lực. Chuyển tâm hận
thù, ghen ghét, xâm lược, thành tâm từ bi, hòa bình. Phóng sanh những
chúng sanh xấu số, chúng ta có thể tự giải thoát chính mình và thế giới
vượt ngoài nghiệp giết hại.
Berkeley,
Pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina
Trong những năm Ngài vừa đến MỸ,
đa số tín chúng là người Tây Phương, gồm nhiều sắc tộc, văn hóa
khác nhau. Đối với truyền thống, nghi thức Phật giáo, không ai biết đến
cả. Do đó, Ngài phải lập đi lập lại, giải thích, hướng dẫn về
phương thức làm lễ, hoạt động v.v..., cho đến khi nhóm đệ tử thuần
thành, hiểu rõ, hòa đồng sự hiểu biết và nhận thức. Trong hình, Ngài
hướng dẫn các đệ tử đặt những hộp củi thành hình chữ Phật, trước
khi làm lễ phóng sanh.
Vì số người xuất gia ngày càng
đông, Ngài cần phải tìm một đạo tràng tương xứng. Ngài cũng bỏ ra một
phần thời gian, sức lực, mồ hôi, mệt mỏi tìm kiếm đạo tràng tương
xứng để xây dựng tu viện, chánh điện, viện dịch kinh, trường học,
trung tâm huấn luyện, viện dưỡng lão, nhà cư sĩ v.v... Trong những ngày
tìm kiếm chỗ, Ngài là người đầu tiên leo lên núi non, và cũng là người
đi sau cùng.
1974,
Seattle.
Ngài chủ trì pháp hội Hòa Bình Thế
Giới. Hơn năm trăm người tham gia hoạt động trong ngày đó với tâm chân
thành, một lòng cầu nguyện thế giới hòa bình.
Pháp hội Hòa Bình Thế Giới trùng
hợp với ngày hai thầy Hằng Cụ và Hằng Do hoàn thành nguyện hạnh Đi ba
bước, lễ một lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố
Marblemount, Washington. Hai vị tỳ kheo khác, thầy Hằng Quán và Hằng Không,
cũng tham dự pháp hội đó vào lúc đang nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày.
Hai tỳ kheo, Hằng Cụ và Hằng Do,
vì cầu thế giới hòa bình, nên hành nguyện Ba Bước Một Lạy, từ thành
phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Cuộc hành trình bắt
đầu vào tháng mười năm 1973 và hoàn thành vào tháng tám năm 1974. Đây
là cuộc hành trình kỳ đặc trong lịch sử Phật giáo thế giới.
Thầy Hằng Quán và Hằng Không tuyệt
thực trong bảy mươi hai ngày, không ăn uống chi cả, chỉ uống một ly nước
lạnh vào mỗi ngày. Hình Ngài chụp với hai thầy Hằng Quán và Hằng
Không (đang đứng), và Quả Hồi (cũng nhịn ăn trong ba mươi lăm ngày).
Kim Sơn
Thiền Tự, San Francisco
Ngài cho thầy Hằng Cụ bánh pie,
chúc mừng thầy hoàn thành nguyện hạnh Ba Bước Một Lạy từ thành phố
San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Câu chuyện xảy ra như
sau:
Thầy Hằng Cụ, khi còn làm cư sĩ,
học hạnh ăn một ngày một buổi, nhưng rất khó. Ngày nọ, trên đường
đi làm về, chàng mua một hộp bánh pie, rồi bỏ vào túi áo choàng. Trong
lúc nghe giảng kinh thuyết pháp vào buổi tối, chàng không nhớ nghĩ chi hết
ngoại trừ hộp bánh pie. Thế nên, chàng nóng lòng, mong đợi buổi giảng
kinh sớm kết thúc để được ăn bánh pie.
Nghe giảng kinh xong, không nói lời
nào với ai, chàng lẳng lặng trèo lên cầu thang ống khói để leo lên
trên nóc nhà. Chàng bắt đầu đi vòng vòng, rồi mở hộp bánh pie ra ăn; cắn
một miếng bánh to tướng. Đang khi đi vòng vòng ống khói trên nóc nhà, đột
nhiên chàng thấy Ngài, cũng vừa leo lên cầu thang. Ngài bắt đầu đi rảo,
ngược vòng và đối diện với chàng. Lúc đó, miệng chàng đang ngậm một
miếng bánh pie to tướng, nên không thể nói năng chi được. Chàng chỉ cuối
đầu lễ bái và tiếp tục đi vòng vòng. Như thế, họ đi ngược và đối
diện với nhau cả thảy ba vòng. Lần thứ ba, Ngài hỏi chàng: Con cảm thấy
thế nào?.
Sau đó, Ngài bước xuống cầu
thang.
Tháng mười
1974, Sài Gòn, Việt Nam
Phương Quả Ngộ, đệ tử của Ngài,
là người thường đi du lịch khắp thế giới. Bà cùng chồng sống ở
Sài Gòn. Nơi đây, họ có rất nhiều cơ sở và đất đai. Trước khi tình
hình chính trị biến đổi ở Sài Gòn, Ngài đột nhiên gọi điện thoại
cho vợ chồng bà. Khi đó, cả hai vợ chồng đều ở nhà. Bà Phương Quả
Ngộ rất ngạc nhiên về cú điện thoại đó, nên nhanh nhẩu hỏi Ngài rằng
có việc gì quan trọng không. Được trả lời là không có việc gì quan trọng
hết, nhưng trong lúc điện đàm, Ngài khuyên hai vợ chồng là nếu không
có gì đặc biệt, nên thu xếp công việc làm ăn gọn gàng, để qua MỸ sớm.
Tuy thế, họ không nghe lời khuyên của Ngài mà qua MỸ sớm. Kết quả, sau
khi tình thế chính trị thay đổi, họ bị mất mát hơn nửa gia tài.
1975,
Oregon
Ngài hướng dẫn bốn chúng đệ tử
đến tu hành tại một khu rừng ở tiểu bang Oregon. Nơi đó, Ngài cử hành
pháp hội niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngoài trời. Ngài cũng giải thích về
pháp môn Tịnh Độ, tức luôn niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Đang lúc giải
thích về phương pháp niệm Phật trong cuộc sống hằng ngày, ánh đèn dầu
đột nhiên phực lên một luồn hào quang tỏa sáng, bao trùm xung quanh đầu
Ngài.
Oregon
Trong hình, Ngài đang chủ trì lễ
phóng sanh tại bờ biển Oregon, vào lúc cực điểm của kỳ Phật thất tại
Phật Căn Địa, tức vùng đất có căn tánh Phật. Ngài dùng nhiều phương
tiện thiện xảo để dẫn dắt thanh niên người MỸ, bước vào cửa Phật.
Sau kỳ Phật thất kết thúc, Ngài dời toàn bộ hội tràng từ trong khu rừng
ra đến ngoài bãi biển. Khi hoàng hôn vừa xuống, mọi người đều hướng
về phía tây, phát nguyện cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc, và hồi
hướng công đức lành tu tập, cho tất cả chúng sanh.
Trong hình, Ngài và pháp sư Huệ
Sanh, cùng các đệ tử xuất gia, giảng pháp cho sinh viên đại học. Có những
năm, Ngài thường đến các trung tâm giáo dục, để giảng kinh thuyết pháp,
như đại học University of California at Berkeley và Davis; the University of
Southern California, Los Angeles; Stanford University; the University of Wisconsin; the
University of Minnesota; Humbolt State University; the University of Oregon; the
University of Washington; the University of Hawaii; the University of British Columbia.
1976,
Santa Clara
Tại Công Viên Trung Ương, Ngài thuyết
giảng cho thanh niên MỸ nghe về đề mục: Tinh Thần Hòa Bình. Trong hình
này, chứng minh rõ ràng rằng Ngài có nhiều nhân duyên với thanh niên người
MỸ. Đến bất cứ chỗ nào, thanh niên người MỸ luôn bị thu hút bởi
lòng từ bi ấm áp, lời ngay thẳng, siêu vượt chướng ngại của ngôn ngữ
và văn hóa, năng lực tương thông thần kỳ của Ngài.
Do đức hạnh tu hành, Ngài cảm
hóa được những thanh niên người MỸ, khiến họ từ từ dẹp bỏ tâm niệm
Sống phóng túng và tự do cá nhân, và lần lần nghiên cứu, học Phật
pháp, như trì thánh hiệu Phật A Di Đà. Hình chụp những thanh niên người
MỸ, đi nhiễu và niệm Phật theo các vị tăng ni.
1976, San
Francisco
Ngài chủ trì buổi lễ cạo tóc xuất
gia. Trong năm, có thêm bốn vị thanh niên nam nữ, phát tâm tu đạo, gia nhập
tăng đoàn, như thầy Hằng Thật, Hằng Thuận, sư cô Hằng Cư, và một vị
tăng người Á Châu (đây là vị đệ tử xuất gia người Á Châu đầu tiên,
kể từ khi Ngài qua MỸ).
Thập
niên 70, tại Kim Sơn Thánh Tự
Các đệ tử đang nghe Ngài giảng
kinh Hoa Nghiêm Sao Tự của kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.
Trong những buổi giảng kinh, Ngài
thường khuyến khích các đệ tử chuẩn bị, tập giảng kinh. Các vị đệ
tử thường không bao giờ biết được là Ngài sẽ gọi tên ai lên tập
thuyết pháp.
Các đệ tử thường dùng máy nghe
để lắng nghe tiếng Tàu, trong lúc tiếng Anh đang được phiên dịch. Đồng
thời, có các đệ tử, vừa lắng nghe tiếng Tàu vừa đánh máy và phiên dịch
kinh ra tiếng Anh trong phòng cách âm.
Ngài luôn tùy duyên lành mà hóa độ
chúng sanh. Làm bất cứ phương tiện thiện xảo gì, Ngài đều nhắm vào
việc giáo hóa chúng sanh. Ví như những việc mà Ngài cho phép các đệ tử
làm cho mình, không nhất định là do ý muốn.
Ví như, trong lúc giảng kinh, các đệ
tử thường thích đem nước uống cho Ngài dùng. Thời gian sau, một trong những
người đệ tử, vì lo chuẩn bị nước uống cho Ngài, nên bỏ buổi tụng
kinh chiều. Ngài không thích việc này, nhưng không nói điều chi. Sau này,
Ngài bắt đầu than phiền là tách nước mà người đệ tử mang nước uống
cho Ngài, rất là dơ. Việc than phiền này không kết quả, nên cuối cùng,
Ngài dùng phương pháp khác. Tối hôm nọ, Ngài uống gần cạn hết nước
trong tách, rồi bắt đầu cố ý nhìn chăm chú vào tách nước đó. Chẳng
bao lâu mọi người đều để ý đến sự chăm chú nhìn tách nước của
Ngài. Khi đó, trong lúc xem xét tách nước, Ngài gọi thầy Hằng Tĩnh lên nơi
tòa giảng kinh, rồi tuyên bố rằng có một con trùng trong tách nước. Thế
nên, Ngài bảo thầy Hằng Tĩnh hãy nhìn vào tách nước và nói với đại
chúng những gì mà thầy thấy. Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước rồi nói:
- Những gì con thấy chỉ là trong nước
có cặn cáu.
Ngài bảo:
- Không phải là cặn cáu, mà là
con trùng. Hãy đưa chuyền tách nước này cho mọi người xem.
Thầy Hằng Tĩnh làm theo lời dạy
của Ngài. Những đệ tử nhìn xem xét rõ ràng, thì chỉ thấy một lớp cặn
cáu bên dưới đáy tách nước. Chuyền vòng vòng giảng đường xong, cuối
cùng tách nước được mang về và đặt trên bàn giảng kinh của Ngài.
Ngài tiếp tục giảng kinh Hoa
Nghiêm. Nhưng trong những lúc các đệ tử phiên dịch lời giảng giải ra
tiếng Anh thì Ngài đều nâng tách nước lên và nhìn chăm chú vào đó. Cuối
cùng, Ngài lại gọi thầy Hằng Tĩnh lên trên bục giảng, bảo:
- Hãy nhìn kỸ vào đó, rồi nói
cho thầy nghe những gì con đã thấy.
Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước,
rồi kinh hoàng phản ứng:
- Sao lạ kỳ vậy! Một con trùng hiện
rõ trong tách nước.
- Hãy chuyền vòng vòng.
Lần này các đệ tử thật sự thấy
rõ một con trùng tám chân, sắc thân năm màu, không giống như những con trùng
trên thế giới này. Tối đó, mọi người đều thấy được những gì mà
họ chưa từng thấy, còn thầy dâng nước lên cho Ngài cũng học được một
bài học.
Sau việc này, Ngài dạy:
- Thầy không muốn là người mà
khiến cho con phải bỏ mất buổi tụng kinh chiều. Thầy không có đủ phước
đức, nên không muốn chịu trách nhiệm về nhân quả này.
Tháng tám, năm 1976, Vạn Phật Thánh
Thành.
Lần thứ nhất tại Vạn Phật
Thánh Thành tổ chức Tam Đàn Đại Giới. Khi đó, Ngài làm vị Đắc Giới
Hòa Thượng. Đặc biệt, trong lần truyền giới này, có sự chứng minh của
nhị vị hòa thượng người Việt Nam là hòa thượng Đức Niệm và cố
hòa thượng Thiện Thanh.)
Vạn Phật
Thánh Thành
Do đức hạnh của Ngài chiêu cảm,
càng ngày có thêm nhiều thiện nam tín nữ, phát tâm xuống tóc tu hành, gia
nhập tăng đoàn.
Ban phước
lành cho rùa
Sau khi được thả xuống nước, những
con rùa trong hình, không nở rời xa ân nhân của chúng, nên quay đầu lại
nhìn, trước nguyên do được thả kỳ lạ. Việc xoay đầu lại nhìn, biểu
thị sự cảm ân của chúng, khiến Ngài nhoẽn miệng cười, âm thầm ngửa
tay ra để ban phước lành cho chúng.
1977, Vạn
Phật Thánh Thành
Khi phái đoàn tôn giáo đến thăm Vạn
Phật Thánh Thành, ngài bảo hồng y Vu Bình:
Ngài là Phật Tử giữa những người
thiên chúa giáo, còn tôi sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những người
Phật Tử.
Hồng y Vu Bình đồng ý.
1977, Tại
công viên cầu Kim Môn.
Tín chúng đang trên đường đến công
viên cầu Kim Môn, để tham gia pháp hội Cầu Mưa, hy vọng giải trừ hai
năm hạn hán đã khiến vùng California, trở nên khô cằn.
1977, Tại
công viên cầu Kim Môn.
Mọi người đều luân phiên niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và chú Cầu Mưa. Cộng thêm, có những bài
pháp, giảng về lý nhân quả căn bản: Tại sao trời không mưa? Chỉ vì
chúng ta quá tham lam ích kỶ, tiêu xài nước hoang phí. Nếu biết tự nhận
ra lỗi lầm này mà thành tâm sám hối, thì sẽ được cảm ứng.
Người tham gia pháp hội Cầu Mưa,
lần lần tăng thêm. Đại chúng vừa xướng tụng, vừa lễ bái. Trong lúc
mọi người tụng niệm chú ngữ Cầu Mưa thì nền trời bắt đầu hiện lên
những áng mây trắng, và gió cũng thổi đến.
Có mưa không? Vâng, đã có mưa. Sáng
ngày hôm sau, tại huyện Mendocino, phía bắc thành phố Cựu Kim Sơn (Vạn Phật
Thánh Thành nằm trong huyện này), báo chí đăng tải là đã có mưa. Đến
11:30 giờ trưa cùng ngày, mưa xuống khắp thành phố Cựu Kim Sơn. Những phóng
viên nhà báo, trở lại Max Meadow, nơi mà họ đã đến và viết tin tức về
pháp hội Cầu Mưa vào ngày hôm trước, để tường thuật sự việc, ngay
tại nơi đây. Cô phóng viên tường thuật: Nơi đây, một bàn thờ do các
Phật tử thiết lập để cầu mưa. Trời vừa đổ mưa thuận theo lời cầu
nguyện của họ. Hôm nay, một vũng nước lớn đọng nơi bàn thờ được
thiết lập.
Ngài ở lại chùa, không đến tham
gia pháp hội Cầu Mưa tại công viên cầu Kim Môn, nhưng trực tiếp chỉ đạo
toàn pháp hội.
Mùa
xuân năm 1978, Vạn Phật Thánh Thành
Hội thảo về đề tài Tử vong và
lâm chung. Một phần của hai gốc cây Ái Kiết, là chủ đề trong cuộc hội
thảo về Tử vong và lâm chung.
Gốc cây này được tìm thấy trong
chùa trong dịp hội thảo, và được mang đến cho Ngài. Ngài giải thích rằng
gốc cây này chính là một cặp vợ chồng. Trong đời tiền kiếp, họ đã
cùng nhau thề nguyền rằng đời đời kiếp kiếp sẽ không mãi rời nhau.
Do vì cộng nghiệp, đời này họ trở thành hai gốc cây, vĩnh viễn ôm bọc
lấy nhau. Ngài bảo: Ái tình vốn là cội gốc của dòng sanh tử luân hồi.
Ngài thuyết pháp trong kỳ thiền thất
vào mùa đông. Mỗi năm, Vạn Phật Thánh Thành luôn tổ chức thiền thất
vào mùa đông. Thiền thất chiếm khoảng vài tuần. Mỗi ngày, thiền sinh
ngồi thiền từ ba giờ sáng đến mười hai giờ tối. Giữa mỗi lần ngồi,
thiền sinh có hai mươi phút nghỉ ngơi. Vào buổi chiều, được nghỉ khoảng
một giờ. Dưới sự dạy dỗ kiên nhẫn của Ngài, các đệ tử dần dần
học những phương cách ngồi thiền. Khi đó, mọi người đều ngưng mọi
công việc hằng ngày để tham gia vào kỳ thiền thất hiếm hoi này.
Tiểu trai đường (nhà ăn nhỏ) tại
Vạn Phật Thánh Thành. Lúc đầu, tại Vạn Phật Thánh Thành, tất cả mọi
vật đều rất đơn giản. Ngài thường cùng với các đệ tử tỳ kheo, tỳ
kheo ni thọ trai. Củi đốt trong nhà sưởi là nguồn nhiên liệu chính để
sưởi ấm đại chúng trong lúc ăn cơm.
Phòng
Vô Ngôn.
Ngài hiển thị Tam Muội Du Hý,
trong lúc đang dạy về thần chú Thủ Lăng Nghiêm tại phòng Vô Ngôn. Mỗi
câu chú, Ngài đều làm một bài kệ, bao hàm những nghĩa lý nhà Phật
thâm thúy.
- Ái nhân bất thân cố kỳ nhân
- Lễ bỉ phất đáp kính vị chân
- Hồi quang phản chiếu cầu chư kỶ
- Cảm ứng đạo giao mạt mê thần
dịch:
- Thương người, người chẳng gần, hãy nhìn lại
lòng nhân từ của mình.
- Lễ người, người chẳng đáp, lòng cung kính của
mình chưa chân thật.
- Xoay ánh sáng lại vào mình, tìm giải đáp từ
bên trong.
- Cảm ứng đạo giao, chớ bị mê muội vì thần.)
*Năm 1977, mồng bảy tháng giêng,
hai đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, vì cầu nguyện
hòa bình thế giới, phát nguyện hành ba bước một lạy, từ chùa Kim
Luân, Los Angeles, đến Vạn Phật Thánh Thành, bắc California. Tháng mười một,
ông Vu Bình, hồng y Thiên Chúa giáo, hướng dẫn phái đoàn các tôn giáo đến
viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành.
(Phụ chú:
Vùng biển
phía tây, MỸ quốc.
Hai thầy Hằng Thật và Hằng Triều
phát tâm cuộc hành hạnh ba bước một lạy. Trong thời gian này, Ngài lập
ra năm tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự
lợi. Sau này, tại Vancouver, Ngài cộng thêm một tông chỉ nữa là không
nói láo.)
*Năm 1978, từ ngày ba mươi tháng bảy
đến ngày hai mươi bảy tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của các hội
Phật Giáo vùng Đông Nam Á, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á
Châu, thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Đại Học Phật Giáo Pháp Giới
qua Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Thái Lan, Hồng Kông. Trong mười hai ngày hoằng
pháp tại Mã Lai Á, có hơn sáu ngàn người thọ giới quy y Tam Bảo. Từ mồng
mười đến ngày mười bảy tháng chạp, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ
truy niệm và cầu siêu độ trong bảy ngày liền cho hồng y Vu Bình, thị trưởng
thành phố Cựu Kim Sơn George Moscone, cùng bao linh hồn tử nạn trong pháp giới.
Vào lúc ấy, Ngài giảng kinh Địa Tạng.
(Phụ chú:
1978 Mã Lai Á.
Khi Ngài qua Đông Nam Á hoằng
pháp,trên đường ghé lại Mã Lai Á, thầy Hằng Triều và sa di Quả Đồng
đều bị bịnh, nên đồng tịnh dưỡng tại một căn phòng. Vì bịnh tình
thầy Hằng Triều rất nghiêm trọng, nên Ngài bảo thầy Hằng Thật trông
coi ngày đêm. Trưa hôm nọ, đang lúc tụng chú Đại Bi, sa di Quả Đồng chợt
ngủ gục, đột nhiên thấy quỶ vô thường cỡi gió lạnh đến. Việc này
cả hai thầy kia đều cảm giác được. Thân ốm gầy, đội nón cao, quỶ
vô thường tuyên bố là thời gian đã đến, Quả Đồng nên đi theo nó. Giữa
ranh giới sống chết, Quả Đồng run rẩy, lập tức vội vã niệm chú Đại
Bi. Khi đó, thầy Hằng Triều đang nửa mê nửa tỉnh. Mặc dầu bận rộn
mệt mỏi vì thuyết pháp cả ngày, nhưng Ngài vẫn từ bi đến thăm, nâng
tay thầy Hằng Triều lên, khiến cho thầy từ từ mở mắt, tỉnh giác được
hoàn cảnh xung quanh. Diêm Vương muốn thầy Hằng Triều chết. Vì vậy,
Ngài bắt ấn viết chú đến cho Diêm Vương. Ngài nói rằng vị đệ tử này,
rất thành tâm phụng đạo. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng
không cho phép Diêm Vương bắt đi. Sau đó Diêm Vương được thuyết phục
và thầy Hằng Triều từ từ bình phục trở lại. Từ đó, cả hai thầy,
Hằng Triều và Quả Đồng, nghiệm được bài học là khởi nhiều vọng tưởng
rất nguy hiểm, phải nên dụng công tu hành trong đất tâm, tránh khởi tâm
niệm ô trược. Sau khi lành bịnh, Ngài từ bi bảo thầy Hằng Triều:
Thầy tận lực thuyết phục Diêm Vương
để cho con tiếp tục sống. Công đức tu hành tích tụ sau bao năm, nay đã
hết trọn. Tuy vậy, đừng lo lắng, con vẫn có thể tích công bồi đức,
vì Phật pháp mà nỗ lực tinh tấn tu hành.
- Đi đứng nằm ngồi
- Chớ rời vật này.
- Rời xa vật này
- Sẽ là sai lầm.
Phòng
Vô Ngôn, Vạn Phật Thánh Thành.
Ngài giải thích cho các đệ tử về
quyển Phật Tổ Đạo Ảnh. Mỗi vị tổ, Ngài viết tám câu kệ. Trong lớp,
Ngài dùng những chủ đề: Động lực thôi thúc phát triển trí năng chủ
quan, làm phương thức dạy. Các đệ tử, theo sự chỉ dẫn, thay phiên
nhau, lên bảng viết, giải thích những câu kệ này bằng tiếng Anh và tiếng
Tàu. Sau khi các đệ tử thực tập giảng giải xong, Ngài mới bắt đầu
giải thích những câu kệ đó. Những lớp học như vầy, kéo dài khoảng bốn
năm tiếng, bao gồm rất nhiều đề tài. Phụng sự giáo dục của Ngài là
điều căn bản mà các đệ tử phải nhớ đến.
Ngài dạy học rất sớm (khoảng
sáu giờ hay sáu giờ rưởi), với nhiều lý do:
1/ Những người lo việc nấu nướng
có thể tham dự lớp học trước khi đến nhà bếp làm việc.
2/ Thầy cô giáo và học sinh có thể
tham dự trước khi đến trường học.
3/ Ngài có thể đi xuống thành phố
Cựu Kim Sơn sớm.
Thỉnh thoảng, vừa lúc từ thành
phố Cựu Kim Sơn trở về Vạn Phật Thánh Thành, Ngài liền dạy học,
không nghỉ ngơi chút nào.)
*Năm 1979, trường tiểu học Dục
Lương được dời về Vạn Phật Thánh Thành. Ngày mười bốn tháng ba,
trong cuộc đàm luận với Quentin Kopp, ủy viên đoàn Tổng Quản thành phố
Cựu Kim Sơn, Ngài tiên đoán rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ tan rã trong
vòng mười năm. Tháng mười, ngày hai mươi tháng tám, kỳ truyền Tam Đàn
Đại Giới lần thứ ba tại Vạn Phật Thánh Thành được viên mãn. Mồng
bốn tháng mười một:
1/ Lễ khai quang thánh tượng Thiên
Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
2/ Khai mở đại học Phật Giáo
Pháp Giới.
3/ Ngài hoàn tất giảng toàn bộ
kinh Hoa Nghiêm trong chín năm.
4/ Đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng
Thật và Hằng Triều, hoàn tất hành trình ba bộ một lạy.
Ngài giảng Văn Khuyến Phát Bồ Đề
Tâm, sớ kệ chú giải về chú Thủ Lăng Nghiêm, kinh Di Giáo.
*Từ năm 1980 đến năm 1986, Ngài
thành lập Trung Tâm Cứu Trợ Người Tị Nạn Đông Nam Á (Việt Nam, Lào,
Cam Bốt).
*Năm 1981, vào tháng chạp, Ngài tham
dự đại hội Tăng Già Phật Giáo Quốc Tế lần thứ ba tại Đài Loan. Từ
Ngày hai mươi chín tháng mười một đến ngày hai mươi chín tháng chạp,
Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu thuộc Tổng Hội Phật Giáo
Pháp Giới và Đại Học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ hai qua Đài Loan, Hồng
Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á. Ngài thuyết pháp tại các trường đại học
như Berkeley, Davis, Oregon, San Francisco State. Ngài giảng phẩm Tịnh Hạnh.
Ngày hai mươi bốn tháng mười, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới tại Vạn
Phật Thánh Thành lần thứ tư viên mãn. Tháng mười một , Vạn Phật Thánh
Thành tổ chức đại lễ khánh thành ba cổng sơn môn, Vạn Phật Bảo Điện,
Ngũ Quán Đường. Hàng ngàn người trong và ngoài nước như Đài Loan, Hồng
Kông, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, v.v... đến tham dự đại lễ. Ngài khai mở chương
trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ.
(Phụ chú:
1979, Vạn Phật Thánh
Thành.
Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba. Lần
truyền giới này, được sự tham gia của các vị giới sư người Tàu, người
Việt (hòa thượng Đức Niệm), người Tích Lan, người MỸ. Đây là biểu
tượng đoàn kết thống nhất giữa những quốc gia Phật giáo, và nhất
là hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông.
Tháng mười một, tại chánh điện
Vạn Phật Thánh Thành, Ngài làm lễ khai quang thánh tượng Quán Âm Bồ
Tát, ngàn tay ngàn mắt. Bao quanh Ngài là các đệ tử tỳ kheo trẻ tuổi
người MỸ và người Á Châu. Từ trái sang phải: Thầy Hằng Tá, Hàng Triều,
Hằng Vô, Hằng Thật, Hằng Cống, và sa di Quả Nhi.
Các đệ tử của vị Lạt ma
Karmapa gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn Rất nhiều lần để mong tiếp
chuyện với Ngài, nhưng Ngài không nhận. Sau đó, tự thân họ đến gặp,
nhưng Ngài cũng không tiếp đón. Cuối cùng họ nhắn tin lại là Lạt ma
Karmapa đang bị bịnh ung thư trầm trọng. Sau khi Ngài biết được tin này,
bịnh tình của Lạt ma Karmapa bớt được phần nào. Sau này, tự thân Lạt
ma Karmapa đến thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành. Tuy không nói rõ, nhưng
lần thăm viếng này là biểu thị sự cảm ân của Lạt ma Karmapa đối với
Ngài. Bất cứ Lạt ma Karmapa đi đến đâu, các đệ tử đều bày biện
tràng phan bảo cái. Thế nên, lần thăm viếng Vạn Phật Thánh Thành này
không vượt ngoài ngoại lệ. Vì vậy, một chiếc xe chở đầy đệ tử của
Lạt ma Karmapa đi sớm một giờ, để họ có thể đến Vạn Phật Thánh
Thành trước, hầu mong chuẩn bị cờ xướng, trống kèn Tây Tạng, v.v...
Ai ngờ được xe của họ bị hư giữa đường. Hơn một giờ sau mới chạy
được. Họ rất nóng lòng, lo lắng vì biết rằng không thể tới Vạn Phật
Thánh Thành trước khi Lạt ma Karmapa đến. Vì thế, Vạn Phật Thánh Thành
rất an tĩnh khi Lạt ma Karmapa đến. Lúc đó, Ngài cùng đại chúng đang thọ
trai. Lạt ma Karmapa cùng với thị giả tự thân đến tìm Ngài tại nhà
ăn. Ngài mời họ ngồi vào hàng ghế bên cạnh cho đến khi thọ trai xong.
Sau khi thọ trai, Ngài cùng Lạt ma Karmapa đi đến phòng phương trượng. Vừa
đến phòng khách, đệ tử của Lạt ma Karmapa liền trải một mảnh lụa rất
đẹp và trang hoàng những vật quý giá khác. Lạt ma Karmapa ngăn họ lại,
bảo: Không! Không! Không phải chỗ này. Hãy dẹp hết đi!
Sau đó, Lạt ma Karmapa kéo một cái
ghế, ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị đàm luận thân mật. Khi đó, Ngài
khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ tất cả, chánh thức xuống tóc xuất gia
làm tăng. Ý của Ngài là khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ hết tất cả
thanh danh, lợi dưỡng, thì thọ mạng mới được dài lâu. Nếu tiếp tục
làm những lễ Quán Đảnh, phung phí hết tinh lực quý báu, thì không có
cách nào để bảo tồn sanh mạng. Lạt ma Karmapa không thể tiếp thọ lời
khuyên của Ngài, nên sau lần thăm viếng đó, chẳng bao lâu qua đời.)
*1983, mồng hai tháng giêng, chùa Kim
Luân cử hành lễ khai quang. Tượng Ngọc Phật phóng hào quang, tỏa điềm
lành.
Ngài giảng kinh Dược Sư, Niết Bàn,
Luận Ngữ. Vạn Phật Thánh Thành bắt đầu lập truyền thống lễ bái Vạn
Phật Bảo Sám hằng năm, trước ngày đại lễ Phật Đản.
Từ tháng mười một đến tháng
giêng năm kế, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới,
đại học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ nhất qua Ấn Độ, Tân Gia Ba,
Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ Dương, Đức quốc, Úc Châu, Pháp quốc, và
Anh quốc hoằng pháp.
*Năm 1984, Ngài thành lập chùa Kim
Phong ở Seattle, chùa Kim Phật ở Vancouver, Gia Nã Đại. Ngày hai mươi bảy
tháng năm, đại học Phật Giáo Pháp Giới cử hành lễ tốt nghiệp đầu
tiên. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
*Năm 1985, Ngài giảng Chứng Đạo
Ca của đại sư Huyền Giác, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, Văn Khuyến Phát Bồ
Đề Tâm.
(Phụ chú:
Tháng mười
hai năm 1985.
Lúc pháp sư Hải Đăng qua MỸ thăm
viếng Ngài, cùng đi có các viên chức chánh phủ cao cấp. Họ quay một cuốn
phim về võ thuật của pháp sư Hải Đăng. Pháp sư Hải Đăng cũng truyền
môn Đồng Tử Công căn bản cho các đệ tử của Ngài với điều kiện là
không thể truyền công phu này ra ngoài. Ngài cũng thỉnh pháp sư Hải Đăng
giảng kinh Lăng Nghiêm phần Tứ chủng thanh tịnh minh hối (lời dạy của
Phật về bốn loại thanh tịnh). Ngài tán thán ca ngợi pháp sư Hải Đăng
và nói rằng chỉ có những vị giữ giới thanh tịnh và tâm chánh trực mới
có khí chất dũng mãnh giảng giải về đoạn kinh văn này. Để biểu hiện
sự cung kính đối với pháp sư Hải Đăng, Ngài cùng các đệ tử cùng
nhau quỳ xuống nghe giảng kinh.
Vào những
năm cuối của thập niên tám mươi.
Dầu Ngài đi đến nơi nào, chúng
sanh trong chín pháp giới đều tôn trọng cung kính. Những ai mở mắt thần
(thiên nhãn thông) thỉnh thoảng có thể thấy họ, còn những người thường
thì không thể thấy. Tuy chỉ có mắt thịt, nhưng đối với người có
tâm thâm tín thì cũng có thể cảm nhận được. Với đức hạnh cao vời,
Ngài cảm hóa được những chúng sanh hữu hình lẫn vô hình.
Lần nọ, khi thăm viếng một đạo
tràng chi nhánh tại Gia Nã Đại, có một con rồng, ở nơi đây, đợi Ngài
đã hơn hai ngàn năm, đến thọ giới quy y với Ngài.)
*Năm 1986, chùa Kim Sơn dời về địa
điểm mới ở khu phố Tàu vùng Cựu Kim Sơn. Ngài thành lập hội in kinh Phật
Giáo Pháp Giới tại Đài Loan.
Từ mồng bốn đến mồng sáu
tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành tổ chức lễ kỶ niệm mười năm thành
lập.
Mồng sáu tháng bảy, lễ tốt nghiệp
chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ lần đầu tiên được cử hành.
Ngài thành lập chùa Hoa Nghiêm ở
Calgary, Gia Nã Đại.
*Năm 1987, ngày hai mươi chín tháng
giêng, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang ba tôn tượng đức Như Lai.
Ngày hai mươi hai tháng ba, nhân dịp
vía Bồ Tát Phổ Hiền. Chùa Kim Phong cử hành lễ khai quang thánh tượng
chư Bồ Tát Phổ Hiền, Văn Thù, Vi Đà, Già Lam.
*1987, mồng mười tháng năm, nhân dịp
lễ vía Bồ Tát Văn Thù, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang thánh tượng
Văn Thù và Phổ Hiền.
Tháng bảy, Ngài tham dự và diễn
giảng tại các hội nghị ở NewYork, Texas, vùng tây ngạn nước MỸ.
Từ ngày mười tám đến ngày hai mươi
bốn tháng bảy, Ngài chủ trì lễ Thủy Lục Không, thỉnh gần một trăm vị
tăng từ Trung Quốc đại lục qua dự. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật
Giáo Trung Quốc, có nhiều người Tàu từ nội địa lẫn hải ngoại đến
tham dự đại lễ.
Tháng tám, Ngài khai mở hội nghị
Liên Kết Các Tôn Giáo Trên Thế Giới. Ngài mời đại diện các đoàn thể
Phật Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, và Đạo Giáo đến bàn thảo
về những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội hiện thời như luân lý, gia
đình, khoa học, kỸ thuật, tôn giáo, giáo dục, v.v...
Cũng trong tháng tám, Ngài được mời
đến trường đại học Berkeley tham dự đại hội liên tôn giữa Phật
Giáo và Gia Tô Giáo, và thuyết giảng về đề tài: Thiền và cầu nguyện.
(Phụ chú:
1987, Vạn
Phật Thánh Thành.
Đáp ứng lời mời của Ngài, phái
đoàn tăng sĩ Phật giáo từ Trung Hoa lục Địa do pháp sư Minh Dương (phó
chủ tịch hội Phật Giáo toàn Trung Quốc), pháp sư Chân Thiền, pháp sư Diệu
Thiện, hướng dẫn, đến thăm viếng và làm lễ Thủy Lục Không tại Vạn
Phật Thánh Thành.
Trong kỳ pháp hội Thủy Lục Không
này, toàn thể tăng chúng ở tại nội đàn, ngoại đàn (mỗi đàn phân
làm sáu đàn nhỏ), mỗi ngày đồng tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Tối
đến, làm lễ Diệm Khẩu Từ Bi để siêu độ tất cả chúng sanh vô hình
đang bị khổ nạn. Tất cả công đức trong kỳ pháp hội này đều hồi
hướng về tất cả chúng sanh ở trên mặt đất, dưới nước hay trên
không.)
*Năm 1988, mồng sáu tháng tư, thư ký
tiểu bang California, bà Giang Nguyệt Trụ, đến viếng thăm chùa Kim Sơn. Ngài
đến đại học British Columbia ở Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài:
Đại Học Yếu Chỉ, Nho Giáo, Căn Bổn Làm Người, Làm Thế Nào Để Phát
Huy Truyền Thống MỸ Đức Trung Quốc Trong Xã Hội Hiện Tại, Truy Tầm
Trí Huệ và Hòa Hợp.
Ngày hai mươi tám tháng tám, Ngài
chủ tọa hội nghị tôn giáo, luân lý, khoa học, giáo dục, triết học, học
thuật, và thuyết giảng đề tài: Chân nghĩa của sự đào sâu tiềm năng
trí huệ của nhân loại.
Mồng mười tháng chín, Vạn Phật
Thánh Thành cử hành đại lễ khai quang thánh tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng
pháp hội Địa Tạng. Tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn thuộc Tổng
Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan,
Tân Gia Ba, Mã Lai Á, và Hồng Kông hoằng pháp lần thứ ba, thể theo lời
thỉnh mời của các đạo tràng lớn ở những nơi đó. Ngài cử hành pháp
hội Hộ Quốc Tiêu Tai Hoạn Nạn và các hoạt động hoằng pháp khác.
Ngài cũng thành lập Phật Học Viện Chánh Pháp tại Đài Loan.
*Năm 1989, Ngài thuyết giảng về đề
tài: Những biến chuyển lớn ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa quatại các
đại học ở MỸ quốc và hải ngoại.
Tháng giêng, Ngài là quý khách của
cựu tổng thống Bush trong đại lễ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ. Ngài
là đại biểu người đông phương duy nhất trong buổi lễ cầu nguyện Quốc
Gia.
Tháng ba, Ngài thuyết giảng tại
trung tâm hội Quaker ở Philadelphia về đề tài: Phục hưng luân lý, Đạo
đức thực tiển, và những điểm tương đồng giữa Phật giáo, Gia Tô
giáo, Nho giáo. Ngài cũng diễn giảng cho hội Phật Giáo tại vùng Hoa Thịnh
Đốn.
Mồng một tháng tư, linh mục John
Rogers, giảng viên tôn giáo tại đại học Humboldt State, hướng dẫn vài chục
nam nữ sinh viên đến tham quan Vạn Phật Thánh Thành. Ngài thuyết giảng đề
tài: Quan điểm trí huệ của Phật giáo, tại đại học Oregon. Ngài đến
đại học British Columbia, Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Trách
nhiệm căn bản làm người. Phật giáo và luân lý. Hiếu thảo là cội gốc
làm người. Yếu chỉ lập mạng. Làm thế nào để xây dựng một gia đình
hạnh phúc.
Tháng bảy, Ngài thuyết giảng về
đề tài: Làm thế nào để cải đổi nền giáo dục. Những chuyển biến
lịch sử ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa qua. Trung Quốc đạo đức quán,
tại đại học Hạ Uy Di.
Từ ngày mười lăm tháng bảy, đến
mồng năm tháng tám, đại học Phật Giáo Pháp Giới chủ tọa hội thảo
và thực hành luân lý.
Mồng mười tháng tám, Ngài đàm luận
với một giáo sư đại học Humboldt State về đề tài: Đối thoại giữa
Phật giáo và Gia Tô giáo.
Mồng hai tháng chín, kỳ truyền Tam
Đàn Đại Giới lần thứ năm viên mãn. Mồng chín tháng chín, Ngài thuyết
giảng tại đại học Minnesota ở thành phố Minneapolis về đề tài: Làm thế
nào để cải thiện nền giáo dục hiện thời. Những chuyển biến ở
Trung Quốc trong vòng thế kỶ vừa qua. Từ mồng mười đến ngày mười một
tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Wisconsin (Madison) về đề tài:
Những vấn đề căn bản giữa Phật giáo và con người. Sự quan hệ giữa
các tôn giáo trên thế giới.
Từ ngày mười bảy đến ngày mười
chín tháng chín, Ngài tới đại học British Columbia, Gia Nã Đại thuyết giảng
về đề tài: Trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội, quốc gia, và thế
giới. Khoa học căn bản. Quan điểm Phật giáo về cải đổi vận mệnh
con người. Mục đích và sự phát triển chánh yếu cho thanh thiếu niên hiện
tại. Luận về nhân quả trong Phật Giáo.
Từ mồng chín tháng mười đến mồng
ba tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội
Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới đến Đài Loan chủ
trì pháp hội Quán Âm Đại Bi, Hộ Quốc Tiêu Tai Diệt nạn. Khi ấy, tại
thành phố Cựu Kim Sơn, MỸ quốc, xảy ra trận động đất lớn, Ngài
tuyên bố rằng nếu còn ở tại thành phố Cựu Kim Sơn ngày nào thì Ngài
không cho phép có thêm một trận động đất nào xảy ra nữa. Mồng bốn
tháng mười một, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ khai quang thánh tượng
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Như Lai. Từ mồng chín đến ngày mười một
tháng mười một, Ngài giảng thuyết về đề tài: Căn bản giáo dục là
gì, và chủ tọa hội nghị Nghiên Cứu Phật Học cùng Cách Thức Tu Trì.
Từ ngày ba mươi tháng mười một
đến mồng ba tháng chạp, Ngài thuyết giảng tại đại học Austin, Texas.
Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Tự tại Cao Hùng Đài Loan.
(Phụ chú:
1989, Đài
Loan.
Ngài hướng dẫn đoàn hoằng pháp
đến Đài Loan, để cử hành pháp hội Từ Bi Tiêu Tai Hộ Quốc. Vì chúng
sanh ở Đài Loan, Ngài tuyệt thực trong ba mươi ngày liền. Đang khi tổ chức
pháp hội này tại Đài Loan, thì ở vùng Cựu Kim Sơn, MỸ Quốc, xảy ra một
trận động đất lớn. Do đó, Ngài lập tức trở về MỸ để cứu nạn,
rồi bay trở qua Đài Loan, chủ trì pháp hội diễn giảng kinh điển tại vùng
bắc bộ, trung bộ, nam bộ của Đài Loan (sau lần động đất tại vùng Cựu
Kim Sơn, Ngài tuyên bố là nếu còn ở nơi đó một ngày, Ngài không bao giờ
cho phép có một trận động đất nữa.)
*Năm 1990, mồng hai tháng hai, Ngài
thuyết giảng tại đại học Berkeley về đề tài: Đạo lý giữa đạo Phật
và con người.
Mồng bảy tháng hai, Ngài chủ tọa
đại hội Phật giáo Quốc Tế, với chủ đề: Phật giáo trong thế kỶ thứ
hai mươi mốt, do hội Dhammakaya ở Thái Lan tổ chức.
Ngày mười chín tháng hai, Ngài thuyết
giảng tại University of California at Los Angeles về đề tài: Làm thế nào để
dẹp khổ đau, đạt được an lạc, và chủ tọa hội thảo tham thiền.
Tháng ba, báo Kim Cang Bồ Đề Hải
được phát hành lần đầu tiên tại Đài Loan. Từ ngày hai mươi đến ngày
hai mươi ba tháng tư, Ngài thuyết giảng tại thành phố Atlanta, Georgia.
Tháng năm, năm đệ tử xuất gia
người MỸ qua truyền giới tại chùa Long Hoa, Thượng Hải, Trung Quốc. Cựu
tổng thống Bush đánh điện tín đến Vạn Phật Thánh Thành chúc mừng
Ngài cùng các đệ tử. Mồng tám tháng năm, Ngài chánh thức nhậm chức Chủ
Lễ Tôn Giáotrước cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank
Jodan.
Từ ngày hai mươi sáu đến ngày
hai mươi bảy tháng năm, Ngài thuyết giảng tại đại học University of
Washington in Seattle.
Ngày mười sáu tháng sáu, cảnh
sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan, đến viếng thăm Vạn
Phật Thánh Thành và trao đổi ý kiến với Ngài về xã hội cùng giáo dục.
Từ ngày hai mươi mốt đến ngày hai mươi bảy tháng sáu, Ngài thuyết
pháp tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
Từ ngày mười ba tháng bảy đến
mồng bốn tháng tám, Vạn Phật Thánh Thành, chủ tọa hội thảo về: Đạo
Phật và con người trong hiện tại.Trong thời gian đó, Ngài thuyết về Mạnh
Tử.
Từ ngày ba mươi mốt tháng tám đến
ngày hai mươi mốt tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài
Loan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo
Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, chủ trì pháp hội
kỶ niệm 150 năm ngày sinh của đại lão hòa thượng Hư Vân, cùng đại lễ
Toàn dân niệm Phật cầu phước, tiêu tai hoạn nạn, tại tòa nhà kỶ niệm
Trung Chánh, Đài Bắc. Có hàng chục ngàn người tham gia. Trên hư không, hiện
muôn ngàn ánh sáng, báo hiệu điềm lành.
Tháng mười, thể theo lời thỉnh mời
của các hội đoàn Phật giáo tại nước Anh, Pháp, Bỉ, và Ba Lan, Ngài hướng
dẫn phái đoàn hoằng pháp quốc tế thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
và đại học Phật Giáo Pháp Giới, qua Âu Châu thuyết pháp. Chủ đề: Giáo
lý đức Phật vượt thời gian và không gian. Trí huệ chân thật vĩnh hằng
bất biến, trong đó nhấn mạnh đề tài: Phật giáo và triển vọng hòa
bình thế giới. Giáo dục trong Phật giáo và phương pháp ứng dụng. Dung hợp
truyền thống Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo, và hợp quần các tôn
giáo trên thế giới.
Mồng bảy tháng mười, Vạn Phật
thánh Thành tổ chức chương trình Trưởng Thanh Đại Học, trong hai tuần lễ,
với đề tài: Hoạt động tinh tấn tu hành của người già. Kể từ đó,
Vạn Phật Thánh Thành thường tổ chức chương trình này cho người già.
Mồng sáu tháng mười một, Ngài
phái đệ tử qua Bắc Kinh cung thỉnh Long Tạng (đại tạng kinh)về Vạn Phật
Thánh Thành, biểu tượng sự quan hệ giữa Phật giáo Trung-MỸ trên đà
phát triển và Phật giáo truyền sang Tây Phương. Chùa Kim Luân dời về địa
điểm mới.
(Phụ chú:
Lãnh đạo phái đoàn hoằng pháp
sang Anh Quốc thăm viếng tăng đoàn Nam Tông, 1990
- Đốn tiệm tuy thù,
- Thành công tắc nhất
- Hà phân Nam Bắc
- Thánh phàm tạm dị,
- Căn tánh khước đồng
- Mạc luận Đông Tây.
Dịch:
- Đốn tiệm tuy khác,
- Thành công tức một
- Sao phân Nam Bắc
- Thánh phàm tạm khác,
- Căn tánh đều đồng
- Chớ luận Đông Tây.
Ngài là Thượng Khách tại hội nghị
Quốc Tế về đề tài: Phật giáo bước vào năm 2000, do Tổng hội Pháp
Thân ở Thái Lan tổ chức.
1990, Anh
Quốc.
Pháp sư Ajahn Sumedho rất tôn sùng,
cung kính và tin tưởng Ngài. Pháp sư thường đến Vạn Phật Thánh Thành
và các đạo tràng chi nhánh, để gần gũi, thân cận và tiếp thọ những
lời giáo huấn của Ngài. )
*Năm 1991, viện Phiên Dịch Kinh Quốc
Tế và Trung Tâm Hành Chánh của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới được dời
về thành phố Burlingame, California.
Từ mồng tám đến hai mươi tháng
giêng, do sự thỉnh mời của chùa Minh Nhật, tỉnh Kiết Lâm, Trung uốc,
Ngài phái các đệ tử qua đó thăm viếng và hội thảo về Phật Pháp.
Bắt đầu từ ngày mười sáu
tháng hai, công phu khuya tại Vạn Phật Thành được kết hợp theo hai truyền
thống Bắc tông và Nam tông. Tụng chú Lăng Nghiêm và kinh tiếng Pali. (ghi
chú: Năm 1992, sửa lại là cách mỗi ngày thay đổi tụng kinh bằng tiếng
Anh và tiếng Tàu.)
Mồng ba tháng năm, thượng tọa
Ajahn Amaro, đại diện tăng đoàn tại trung tâm Phật giáo Amaravatti, cúng dường
y bát Nam tông cho tăng đoàn Vạn Phật Thánh Thành. Đây là biểu tượng sự
hợp nhất giữa Nam tông và Bắc tông, lật trang sử mới trong lịch sử Phật
giáo.
Từ ngày hai mươi mốt tháng sáu đến
ngày mồng sáu tháng bảy, pháp sư Ajahn Sumedho ở trung tâm Phật giáo
Amaravati, hướng dẫn thiền thất theo truyền thống Nam tông tại Vạn Phật
Thánh Thành.
Ngày mười bốn tháng bảy, kỳ
Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ sáu được tổ chức tại Vạn Phật
Thánh Thành.
Ngày hai mươi tám tháng chín, nhân
kỶ niệm mười năm thành lập Nhật Báo Quốc Tế, Ngài được mời đến
thuyết giảng về chủ đề: Phóng nhãn quan, nhìn thế giới.
Từ mồng bốn đến mười lăm tháng
mười, Ngài phái các đệ tử thuộc phái đoàn hoằng pháp đến Seattle,
Vancouver, Calgary, Edmonton, và Toronto thuyết pháp với đề tài: Phật giáo
là tôn giáo đang trên đà phát triển mạnh mẽ tại vùng Bắc MỸ. Lại
có những chủ đề khác như: Không giết hại. Tâm an lạc của con người
ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Ăn chay, sự chọn lựa của lòng từ
bi và lý trí. Quan điểm Phật giáo về cộng nghiệp của một quốc gia và
biệt nghiệp của mỗi con người. Yếu tố quan trọng của nền giáo dục,
luân lý.
Ngài thành lập chùa A Di Đà tại
Hoa Liên, Đài Loan.
(Phụ chú:
Tam Đàn
Đại Giới năm 1991.
Ba vị Tôn Chứng Sư: Hòa Thượng
Tuyên Hóa, Hòa thượng Trung Quán, Pháp Sư Sumedho.)
*Năm 1992, Ngài chủ trì lễ sám hối
cho bốn tỳ kheo (Hằng Trường, Hằng Triều, Hằng Tả, Hằng Thuận).
Từ mồng bảy tháng hai đến mồng
ba tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của các đoàn thể Phật giáo vùng
Đông Nam Á, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
và đại học Phật Giáo Pháp Giới, đoàn hoằng pháp Á Châu, qua Đài Loan,
Hồng Kông, Ấn Độ Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, lần thứ năm. Phái đoàn
hoằng pháp chủ trì lễ Vạn Phật Bảo Sám trong ba tuần liên tiếp ở Mã
Lai Á.
Ngày mười sáu tháng ba, đại học
Humboldt State University thỉnh mời chư vị pháp sư tại Vạn Phật Thánh
Thành làm lễ khai quang đại hội triển lãm văn hóa nghệ thuật Á Châu tại
trường.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời
thỉnh mời của cựu tổng thống Bush, Ngài hướng dẫn mười tám vị hội
viên Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đến phủ Tổng Thống dự buổi tiệc
tối do cựu tổng thống tiếp đãi.
T.H.P.G. P.G (Tổng hội Phật Giáo
Pháp Giới) viếng thăm tòa Bạch-ốc: Mười tám thành viên của T.H.P.G.P.G
nhận lời mời của cựu tổng thống Bush, đến dự buổi yến tiệc vào
buổi tối do cựu tổng thống thiết đãi vào ngày 20 tháng tư năm 1992 tại
thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Thư mời dự tiệc của cựu tổng thống nhằm tỏ
lòng tri ân Ngài đã từng đón tiếp cựu tổng thống tại quảng trường
Portsmouth Square ở thành phố Cựu Kim Sơn vào bốn năm về trước, khi ông
ta đang làm phó tổng thống của chính quyền Reagan và ra tranh cử tổng thống.
Lúc ấy, vào ngày 14 tháng 9 năm 1988, trước quần chúng tại quảng trường
Portsmouth Square, vốn là nhà lãnh đạo và phát ngôn viên của cộng đồng
người Tàu, Ngài phát biểu: Sống trên nước MỸ, chúng ta phải tuyển chọn
một vị tổng thống thông minh nhất, có trí huệ sáng suốt, chí công vô
tư, không thiên vị. Vị tổng thống phải làm gương mẫu, không tranh,
không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Phù hợp
với những tiêu chuẩn này thì mới xứng đáng làm tổng thống.
Cựu tổng thống Bush vì nhớ cuộc
họp mặt đó, nên thỉnh mời Ngài đến dự buổi yến tiệc tại tòa Bạch-ốc.
Ngài nhận lời mời và hướng dẫn các thành viên đại biểu T.H.P.G.P.G,
bao gồm tăng, ni, cư sĩ từ Mã Lai Á, Hương Cảng, Đài Loan, Việt Nam,
Trung Quốc, Gia Nã Đại cùng các thành viên từ thành phố Cựu Kim Sơn, viện
Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, và chùa Vạn Phật Thành.
Khi được hỏi tại sao nhiều nhân
sĩ Phật giáo tham gia vào đảng Cộng Hòa, các thành viên của đoàn trả lời:
Thứ nhất, chúng tôi vì đáp ứng lời thỉnh mời của quý vị. Thứ hai,
Phật tử chúng tôi quan tâm đến mối phúc lợi của quốc gia. Một quốc
gia thanh bình an lạc hỗ trợ cho tôn giáo. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm về
việc cải cách nền giáo dục, nhằm phát huy truyền thống đạo đức thiện
mỸ trong tâm thanh thiếu niên. Thêm nữa, đạo Phật là tôn giáo chính thống.
Khi chánh quyền vững mạnh, tôn giáo mới hưng thịnh. Chánh quyền phải
luôn vì phúc lợi của dân chúng mà phục vụ. Chúng tôi cảm thấy có
trách nhiệm hỗ trợ chánh phủ được ổn định, hầu mong dân chúng đồng
hưởng lợi ích.
Có vị tại phủ tổng thống bảo:
Tôi không ngờ rằng quý vị Phật tử theo đảng Cộng Hòa.
Đáp: Chúng tôi không theo đảng phái
nào cả, mà chỉ muốn góp sức để mang ích lợi đến cho mọi đảng phái
như đảng Cộng Hòa, Dân Chủ, Độc Lập, và mọi người Uống nước phải
nhớ nguồn. Được hưởng thể chế tự do, nên chúng tôi phải nỗ lực
phụng sự nước MỸ. Dùng chánh kiến chánh tri, người Phật tử chúng
tôi nỗ lực cống hiến công sức cho quốc gia và thế giới. Việc tham dự
yến hội này, chứng minh sự tham gia của chúng tôi, nhưng không giới hạn
việc tham chính và làm việc cho một chính đảng nào cả. Chúng tôi muốn
vận dụng quyền tự do dân chủ, đề xướng những phương thức mới mẻ
để giải quyết những vấn đề trong xã hội, để khiến quốc gia hòa
bình, thịnh trị an lạc.
Sáng ngày 28 tháng 4 năm 1992, thành
viên của T.H.P.G.P.G tham dự nhiều chương trình sinh hoạt đặc biệt tại
phủ tổng thống. Lãnh tụ lưỡng viện quốc hội được dẫn đầu bởi
ông Robert Dole của tiểu bang Kansas, tham nghị viên, lãnh tụ đa đảng, cùng
tham nghị viên Robert Michel, thỉnh mời đại chúng dùng điểm tâm tại
phòng ăn quốc hội. Giáo sư Ronald Epstein và bác sĩ Randy Lum đại diện
T.H.P.G.P.G tham dự buổi điểm tâm.
Tham nghị viên Dole lại tổ chức buổi yến tiệc tại thư viện cũ của
Tham nghị đoàn. Thầy Hằng Lai và cư sĩ Hồ Công Hạo cùng một nhóm khoảng
ba mươi vị lãnh tụ quốc hội đồng đàm luận, và chụp hình chung với
các tham nghị viên. Sư cô Hằng Quý, nữ cư sĩ Hoàng Khả Thái, bác sĩ Hoàng
Minh Lục và cư sĩ nữ Rosaline đồng dự buổi cơm trưa với ông bà cựu
phó tổng thống Dan Quayle và Marilyn tại phủ phó tổng thống, trên đài
thiên văn của hải quân. Thầy Hằng Thật, cư sĩ nữ Hồ Quả Tương, cư
sĩ nam Quả Cần, và Hoàng Quả Lâm thăm viếng tòa Bạch-ốc.
Ngày mười chín tháng năm, Ngài giảng
pháp cho học sinh trường trung học Lowell tại chùa Kim Sơn.
Mồng bốn tháng bảy, ông Lâm Dương
Cảng viện trưởng Ty Pháp Viện, Trung Hoa Dân Quốc, cùng vợ viếng thăm Vạn
Phật Thánh Thành, và bàn thảo các vấn đề giáo dục Trung-MỸ với viện
trưởng trường đại học Phật Giáo Pháp Giới. Họ cũng viếng thăm viện
Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, bái kiến và cùng Ngài đàm luận về tương
lai Trung Quốc, hiện tình nước MỸ, và phương châm trị nước, v.v...
Ngày hai mươi chín tháng bảy, ông
Lương Thúc Nhung cố vấn tổng thống Đài Loan, và là cựu viện trưởng
Viện Lập Pháp, đến bái kiến Ngài. Ngày hai mươi tám tháng tám, ông Trịnh
Vạn Trân tổng lãnh sự sứ quán Trung Hoa Đại Lục tại Cựu Kim Sơn đến
bái kiến Ngài. Ngài bảo ông ta rằng trong tương lai ước nguyện sẽ làm
nhịp cầu thống nhất Trung Quốc. Tháng tám, pháp hội Thủy Lục Không do
chư pháp sư Đài Loan và Đại Lục hợp tác chủ trì. Ngày mười sáu
tháng chín, Kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ bảy được tổ chức
tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi ba tháng mười, ông
Edwin Derwiski, phó chủ tịch hội đồng ủng hộ tổng thống Bush tái cử,
đến bái kiến Ngài. Trong cuộc họp báo, Ngài kiến nghị rằng nếu cựu
tổng thống Bush không nhận tiền lương, làm gương cho các nhà lãnh đạo
nước MỸ sau này thì nhất định sẽ tái đắc cử.
Trải qua bao năm truyền bá Phật
pháp tại tây phương, dẫu chưa chính thức là công dân MỸ, nhưng sự lo lắng
và ưu tư của Ngài về đất nước và nhân dân MỸ không bao giờ giảm
sút. Ngài nhận thấy rằng hành động và cử chỉ của những người lãnh
đạo quốc gia có sức ảnh hưởng đến quần chúng rất lớn lao. Có câu:
Bất cứ việc gì người trên làm, kẻ dưới đều gắng sức hành theo.
Đây là lý do mà Ngài mong muốn và
cổ vũ những nhà lãnh đạo phải có đủ nhân phẩm đạo đức, và nêu gương
lãnh đạo chân chính cho nhân dân. Bằng cách này, chiều hướng xấu xa
băng hoại của xã hội có thể được chuyển đổi, và nhân dân được
hưởng thanh bình, hạnh phúc ấm no.
Khi cựu tổng thống Bush ra ứng cử
làm tổng thống nhiệm kỳ thứ hai vào năm 1992, nhân dịp một nhân viên văn
phòng trợ lý liên lạc công cộng tại tòa nhà Bạch Ốc đến tiếp kiến
Ngài tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế ở Burlingame, Ngài nói:
Nếu tổng thống Bush không nhận lương, Tôi dám bảo đảm là ông ta sẽ
thắng cử tổng thống.
Sau này, Ngài cũng viết một lá thơ,
gởi đến cựu tổng thống Bush, lập lại lời đề nghị của mình:
Thơ trình
tổng thống Bush tường lãm:
I. Tôi viết thơ này gởi đến
Ông, khi nước MỸ đang chuyển mình qua một trang sử mới: Thiên tai hoạn
nạn như bão lụt động đất, và nhân họa như bịnh AIDS cùng bạo động,
đang xảy ra khắp nơi trong nước. Tôi thành khẩn bàn bạc cùng kiến nghị
đến với Ông trong thời điểm tranh cử tổng thống năm nay. Một lần nữa,
tôi hy vọng rằng Ông sẽ sẵn sàng cố gắng hy sinh công sức để phục vụ
cho nhân dân, như từng đã làm trong quá khứ.
Thưa Ông Tổng Thống! Chỉ người
có đức hạnh mới có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo nước MỸ. Do nhân
dân tuyển cử, tất cả vấn đề trong và ngoài nước đều quy về trách
nhiệm cho tổng thống. Trong thời điểm này, đối với Ông, việc tái thắng
cử phải cần có dũng khí khác thường, nghĩa là phải bằng một sự hy
sinh lớn lao với một phương pháp mới. Tôi có một phương pháp sẽ khiến
cho dân chúng hiểu rõ tài năng lãnh đạo của Ông. Tôi không sợ rằng
Ông sẽ trách cứ vì những lời chân thật này. Tôi đề nghị Ông làm những
việc mà những tổng thống thiển kiến khó hành được, tức là làm tổng
thống mà không nhận lương bổng hay quà cáp, chỉ tình nguyện phục vụ
cho quốc dân.
Nếu Ông thông báo cho nhân dân MỸ
biết là Ông sẽ không nhận lương bổng, chỉ tình nguyện đem tài đức
để phục vụ quốc gia, thì tôi dám bảo đảm là nhất định Ông sẽ
tái thắng cử tổng thống trong nhiệm kỳ bốn năm sắp tới. Ngoài ra, từ
chối nhận lương bổng, Ông sẽ thâu phục được lòng dân mà không cần
phần thưởng riêng tư. Đó là tinh thần đạo đức của tổng thống
Thomas Jefferson, cha đẻ của nền dân chủ, người lãnh đạo dân tộc vượt
qua những khó khăn trong buổi đầu lập quốc. Ngọn gió vô tư lợi của
Ông sẽ lan tràn khắp nơi trên thế giới. Những nhà lãnh đạo trên toàn
thế giới sẽ dẹp trừ tâm tham và noi theo gương đạo đức và dũng khí
của Ông.
Một vị chính khách ra ứng cử tổng
thống vì muốn đảm nhận trách nhiệm phục vụ dân tộc với tinh thần
vô vị lợi sẽ được dân chúng tôn sùng mãi mãi. Một vị tổng thống
không nhận lương bổng hiển nhiên sẽ làm gương vô úy cho các nghị viên
lưỡng viện của quốc hội, cùng các cấp đơn vị chánh phủ. Thế giới
chỉ được lợi lạc khi có những nhà lãnh đạo anh hùng như thế. Do đó,
tôi dám khuyên rằng Ông chớ lo lắng vì những chướng ngại cá nhân trong
nhiệm kỳ tổng thống bốn năm sắp tới. Nhờ tâm vô tư lợi của Ông,
nhân dân MỸ sẽ cảm động và nhất định sẽ tái tuyển cử Ông làm tổng
thống. Thái độ chân tâm thành ý, vì nước, vì dân, vì chánh nghĩa, và
vì trách nhiệm sẽ khiến Ông hưởng lợi ích suốt đời.
II. Trong lá thư này, tôi cũng muốn
nhấn mạnh vai trò quan trọng của nền giáo dục trong một quốc gia dân chủ.
Xin Ông hãy quan tâm về việc trọng yếu này. Học sinh và học đường là
nguồn phúc lợi của đất nước. Đầu tư hay cung ứng đầy đủ cho nền
giáo dục và huấn nghệ phải đứng hàng đầu của quốc gia. Một quốc
gia đầu tư về kiến thức của nhân dân sẽ đào luyện dân chúng có được
những quyết định hợp lý hợp tình và hợp nhân tánh. Việc đầu tư của
chánh phủ vào nền giáo dục sẽ được đền đáp bằng sự hỗ trợ của
dân chúng về nền pháp trị dân chủ, hòa bình trong hằng ngày. Quốc dân
được giáo dục kỸ càng thì họ sẽ phân biệt rõ ràng những việc đúng
sai, và khiến cho quốc gia hòa bình. Đây là cách bảo vệ quốc gia hay nhất.
Nếu được như thế thì những vũ khí cùng binh lực tinh nhuệ thật không
cần thiết. Ngược lại, nếu trẻ em không được giáo dục đàng hoàng,
luôn có tâm ngỗ nghịch, không nhận ra giá trị tình thương của các nhà
lãnh đạo thì chúng sẽ không xem trọng nền tự do dân chủ cùng bảo vệ
duy trì hiến pháp. Hỏa tiển lớn nhất hay phi cơ bay nhanh nhất thật sẽ
vô dụng, vì kẻ địch nguy hiểm nhất là con cái chúng ta, những kẻ bị
kém trí huệ và thiếu kiến thức.
Thưa Ông Tổng Thống! Đại diện
cho nhân dân MỸ, tôi viết lá thơ trong thời điểm quyết liệt của cuộc
bầu cử tổng thống, với niềm hy vọng là Ông sẽ giữ vững địa vị
chánh đáng của một vị chèo lái con thuyền quốc gia. Tôi chẳng hề ngại
rằng Ông sẽ cho lời kiến nghị này không thật tế hay lời nói quá thẳng
thừng. Tuy nhiên, nếu chấp thuận ý kiến này thì nhất định Ông sẽ
tái thắng cử tổng thống. Tôi không hề muốn cầu danh hay cầu lợi vì
những lời kiến nghị này. Tôi chỉ muốn bầu cử một vị tổng thống
tài đức nhất cho quốc gia này. Nếu Ông chấp nhận những lời kiến nghị
trên thì nhân dân MỸ sẽ được lợi lạc vô cùng. Nếu Ông không chấp
nhận thì tôi cũng hoàn thành trách nhiệm của mình.
- Chúng sanh trong thế giới mê mờ
- Tài, sắc, danh, ăn, ngủ bao quanh
- Người trí xả được năm món dục
- Vượt hơn người, bậc thánh minh quân.
Trong lá thơ này, Ngài đưa ra kiến
nghị lạ lùng: Tổng thống không nhận lương bổng, và khuyến khích cựu
tổng thống Bush lãnh đạo nước MỸ bằng đức hạnh.
Năm 1988, khi ông Bush ra ứng cử tổng
thống lần đầu tiên, Ngài đã từng khuyến khích ông ta phải nên làm một
vị tổng thống không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không
ích kỶ, không nói láo. Năm 1992, vào lúc cựu tổng thống Bush ra tái ứng
cử tổng thống, nền kinh tế nước MỸ đang bị đình trệ, và sự tín
nhiệm của tổng thống đang đi xuống. Trong hoàn cảnh đó, nếu theo lời
kiến nghị của Ngài thì tổng thống Bush mới biểu hiện rõ quyết tâm
thành ý phục vụ nhân dân.
Đương thời, vì nền hòa bình và
phúc lợi của nước MỸ và thế giới, Ngài ra thông cáo cho bốn chúng đệ
tử tại chùa Vạn Phật Thành cùng các ngôi chùa chi nhánh, mỗi ngày tụng
chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, cùng lễ Phật, bái sám. Thể theo lời
dạy, bốn chúng đệ tử của Ngài tụng chú Đại Bi mỗi tối từ ngày 30
tháng chín đến mồng 4 tháng mười một năm 1992, tức sau ngày tổng tuyển
cử.
Vào ngày 23 tháng mười, 1992, Ông
Edwin Derwinsky, phó chủ tịch hội đồng tổng tuyển cử của tổng thống
Bush, được giáo sư Tsu, chủ tịch của hội đồng tuyển cử MỸ-Á, hướng
dẫn đến diện kiến Ngài và mở cuộc hội thảo tại trung tâm Phiên Dịch
Kinh Điển Quốc Tế. Trong buổi hội thảo, Ngài nhấn mạnh lại rằng nếu
tổng thống Bush không nhận lương bổng, thì nhất định Ông sẽ tái thắng
cử. Tuy nhiên, từ lúc đó, cựu tổng thống Bush vẫn chưa quyết định, nên
việc tái thắng cử thật là một vấn đề khó khăn. Ngài cũng bảo rằng
dẫu trường hợp nào, các Phật tử cũng phải cầu nguyện cho mối phúc lợi
của nhân dân và cho nền hòa bình của thế giới. Tiếc thay, cựu tổng thống
Bush và những nhân viên của ông ta cuối cùng quyết định bỏ qua lời kiến
nghị của Ngài. Vì vậy, như Ngài đã tiên đoán, cựu tổng thống Bush bị
thất cử.
Đương thời, nước MỸ gặp phải
rất nhiều vấn đề khó khăn. Bên cạnh thiên tai hoạn nạn, những vấn
đề như xì ke ma túy lan tràn khắp nơi trong toàn quốc. Nạn trộm cướp và
bạo loạn tăng gia. Nạn thất nghiệp cũng lên cao. Những triệu chứng
trên biểu thị phước đức của đại cường quốc này đang giảm dần.
Ông A. C. BudHarrison, cựu thị trưởng
thành phố Burlingame đã từng viếng thăm Ngài nhiều lần. Theo sự quan sát
của ông ta, nhiều người Á Châu vốn là công dân tốt ở bổn quốc, nhưng
khi qua MỸ lại thay đổi tánh tình.
Ngài cũng nhấn mạnh về hệ thống
trợ cấp an sinh xã hội không được phân phối đồng đều, và chỉ khuyến
khích người dân làm biếng thêm; theo quan điểm của Ngài thì do nhân dân
ai cũng có thể giữ súng đạn, khiến việc trị an trong xã hội rất khó
khăn. Lại nữa, tình dục được dạy công khai tại bậc tiểu học. Tại
cấp trung học, học sinh biết hút thuốc phiện, cho đến giết người, đốt
nhà. Trong đại học, lắm khi sinh viên ngủ và tắm chung với nhau. Nếu như
thế, làm sao họ trở thành công dân tốt được? Lại nữa, những luật lệ
ở nước này thật rất phóng túng tự do. Vì vậy, nên giáo dục tại nước
MỸ thật sự bị suy đồi.
Theo Ngài nhận thấy, những việc tệ
hại xảy ra trong nước đều phát xuất từ nền giáo dục băng hoại: Hiện
nay, lúc còn nhỏ tuổi mà học sinh không chịu theo luật lệ thì tương lai
chúng sẽ không màng đến luật pháp. Đây là điều thật rất nguy hiểm.
Những đứa trẻ giết người, không theo luật lệ, v.v... thật ra không phải
là những đứa trẻ xấu xa, mà chỉ vì không dạy dỗ chúng đúng đắn.
Đó là lỗi của người lớn.
Tháng giêng năm 1992, khi được mời
đến tòa nhà trắng để tham dự buổi yến tiệc, Ngài đàm luận với bộ
trưởng bộ giáo dục về hiện trạng suy đồi trầm trọng của nền giáo
dục ở MỸ, và nhấn mạnh về nền giáo dục luân lý đạo đức. Tại MỸ,
vừa hoằng dương Phật pháp, Ngài vừa cống hiến công sức cho nền giáo
dục. Mục đích của Ngài là bồi dưỡng thế hệ trẻ với tinh thần không
ích kỶ, không tự lợi, để nỗ lực cứu vãn nền văn hóa nước nhà.
Trong những bài giảng dạy, Ngài thường
khuyến khích các đệ tử hãy cùng nhau nỗ lực giải quyết những vấn đề
nan giải trong hiện tại ở MỸ. Ví dụ, xì ke ma túy là một vấn đề
nghiêm trọng nhất trong hiện thời. Ma túy không những làm lãng phí tiền
bạc, lại còn làm hư hoại thân thể trí óc của con người, và là nguyên
nhân chính của các tội ác. Vì vậy, trong những pháp hội giảng kinh,
Ngài thường nhắc nhở tín chúng thính giả, lúc trở về nhà, hãy kêu gọi
thân quyến đừng để con cái hút thuốc phiện, mà phải khuyến khích
chúng hỗ trợ và phục vụ nền hòa bình cùng phúc lợi của quốc gia,
nhân loại. Đây là trách nhiệm chung của mọi người.
Một vấn đề lớn ở xã hội MỸ
ngày một gia tăng là đồng tính luyến ái. Có những buổi diễn hành đồng
tính luyến ái hằng năm nhằm tạo ảnh hưởng đến luật pháp, để được
mọi thành phần trong xã hội công nhận. Không nỡ ngồi nhìn những hiện
tượng đi ngược lại thiên địa tạo hóa ngày càng phát triển rộng
rãi, trong những bài thuyết giảng, Ngài thường nhắc nhở các đệ tử phải
nhận chân sự nghiêm trọng của vấn đề này. Mỗi lần được các chánh
khách chính phủ MỸ đến cầu lời cố vấn, Ngài thường nhấn mạnh: Riêng
âm không thể sanh. Riêng dương không thể trưởng dưỡng. Đồng tính luyến
ái khiến diệt chủng, vong quốc. Vì vậy phải khuyến khích họ sửa đổi
tánh tình, chớ nên dung túng.
Đối với người xuất gia, vì
trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, nên tu hành với hành vi
cao cả để mang lại hạnh phúc cho loài người. Đồng tính luyến ái
không hướng lên tìm cầu sự tịnh hóa tâm linh mà chỉ hướng xuống tình
dục trầm luân, khiến phát sanh nhiều vấn đề nghiêm trọng. Tuy biết rõ
đồng tính luyến ái ngày càng lan rộng, nhưng vì lương tri Ngài vẫn phải
đánh tiếng về vấn đề này, hầu mong họ sớm thức tỉnh trân trọng bảo
tồn Phật tánh, không thể tiếp tục tạo nghiệp thọ báo.
Trong bao năm hoằng pháp tại MỸ,
đi đến đâu Ngài cũng phát dương sáu đại tông chỉ rộng rãi. Tuy có người
nhận rõ những tông chỉ này rất quý, nhưng vì xã hội MỸ vốn chạy
theo chủ nghĩa vật chất, nên khó mà thực hành. Ngài thường bảo rằng
phải hành những gì khó hành, phải nhẫn những gì khó nhẫn.
Phải làm những gì không thể làm
được. Phải như ngọn đèn cầy đứng vững trước gió mưa giông bão. Phải
như vàng ròng chịu đựng nung nấu trui rèn.
Hội Phước Lợi Xã Hội thuộc viện
Phật Giáo Cư Sĩ và bộ An Dưỡng tại Thượng Hải ở Trung Quốc tuyên dương
Ngài: Vị cao tăng bậc nhất toàn cầu.
Ngài phủ nhận lời tán thán đó.
Mồng tám tháng mười một, thể
theo lời thỉnh mời của trường đại học University of California at Los
Angeles, Ngài đến đó giảng thuyết về chủ đề: Đạo Phật hiện tại.
Đạo đức luân lý và giáo dục.
Ngày mười lăm tháng mười một,
để cứu vãn nền giáo dục suy đồi, Ngài tuyên bố rằng ngày hai mươi bảy
tháng mười một là ngày Chúc Thọ Người Già.
Ngày hai mươi tháng chạp, lễ Chúc
Thọ Người Già trên bảy mươi tuổi được cử hành đầu tiên tại Los
Angeles. Chùa Phước Huệ tại MỸ Nồng ở Đài Loan được cúng dường cho
Ngài. Ngài thành lập hội Pháp Giới Căn Bản Văn Hóa Giáo Dục tại Đài
Loan.
*Năm 1993, từ mồng ba đến mười
tám tháng giêng, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài qua
đó chủ trì pháp hội Lăng Nghiêm, Đại Bi và truyền tam quy y, năm giới cấm
cho các cư sĩ. Khi ấy, có ba mươi tám người phát tâm xuất gia. Một Pháp
Sư từ Trung Hoa đại lục qua chủ trì thiền thất, cải đổi gia phong ăn
một ngày một buổi, đắp tăng y của Vạn Phật Thánh Thành. Thiền thất
kết thúc, gia phong được phục hồi trở lại.
Ngày mười bốn tháng ba, một ứng
cử viên nghị sĩ tiểu bang California cùng bốn người khác đến viếng
thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi quan điểm về giáo dục
cùng chính trị.
Mồng bốn tháng tư, lễ Lương Hoàng
Bảo Sám được cử hành vào dịp khai quang chánh điện chùa Trường Đê,
Long Beach ở Los Angeles. Các đệ tử cũng làm lễ chúc thọ Ngài. Ngài giảng
kinh Chí Công Thiền Sư Thuyết Nhân Quả. Ngày ba mươi tháng tư, ông Hác
Bách Thôn, cựu viện trưởng viện Hành Pháp của Đài Loan, viếng thăm Ngài.
Ngày mười sáu tháng năm, đoàn đại
biểu Vạn Phật Thánh Thành tham dự đại lễ Phật Đản được tổ chức
tại đại học Berkeley. Mồng chín tháng sáu, ông BudHarrison, thị trưởng
thành phố Burlingame viếng thăm Ngài và trao đổi quan điểm về giáo dục
cùng chính trị.
Từ mồng sáu đến ngày mười sáu
tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp qua vùng đông bắc
MỸ, thuyết pháp tại Newyork, Rochester, và các nơi khác. Ngày ba mươi tháng
mười một, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame cùng bà phu
nhân đến viếng thăm Ngài lần thứ hai. Nhân dịp đó, Ngài nói rằng tám
đức tánh của con người: Hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩlà
liều thuốc thần để cứu thế gian. Ngày mười bảy tháng mười hai, cô
Edith Chen, nữ sĩ dương cầm quốc tế đến viếng thăm Ngài. Tại
Sacramento, Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Thành. Tịnh xá Viên Thông ở Đông
Chí, Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
*Năm 1994, ngày hai mươi sáu tháng
giêng, Ngài mời ông Trần Lập Phu, cố vấn tổng thống Đài Loan, đến
thuyết trình tại Vạn Phật Thánh Thành. Tháng giêng, các đạo tràng thuộc
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng tổ chức lễ Chúc Thọ Người Già
lần thứ hai. Ngài chỉ định rằng chủ nhật đầu tháng mười một mỗi
năm sẽ là ngày Chúc Thọ Người Già. Tháng hai, học sinh trung học Bồi Đức
thắng cuộc thi về Thể Chế Chánh Trị của nước MỸ trong vùng quận nhất
của tiểu bang California. Ngày hai mươi bảy tháng hai, Ngài chủ trì lễ
khai quang hội Bồ Đề tại San Jose.
Mồng năm tháng ba, Ngài thuyết giảng
cho hội Thanh Niên Phật Giáo Trung Quốc trường đại học Berkeley tại Vạn
Phật Thánh Thành. Ngày hai mươi bảy tháng ba, thị trưởng thành phố
Burlingame và chủ tịch hội đồng quản lý thị trấn Mendocino tham dự lễ
vía Bồ Tát Quán Âm. Ngài thuyết giảng về đề mục: Hỗ trợ để giúp
thế giới ngày một trong sáng.
Mồng chín tháng tư, nhận lời mời
của liên hội Phật học đại học University at Los Angeles, University of
California at Irvine, California Polytechnic Institute, Ngài thuyết giảng về đề
tài: Phật Giáo và Tâm Lý Học.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời
mời của đại học Berkeley, Ngài đến tham dự lễ nghinh tiếp đức Đạt
Lai Lạt Ma. Từ ngày mười bảy đến ngày hai mươi ba tháng tư, Pháp Giới
Thánh Thành cử hành lễ Lương Hoàng Bảo Sám. Vào ngày hai mươi bốn, các
đệ tử tổ chức lễ chúc thọ cho Ngài.
Ngày hai mươi tám tháng năm, văn phòng
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế cử
hành lễ khai quang. Ngày hai mươi chín tháng năm, Pháp Giới Thánh Thành cử
hành lễ khai quang.
Tháng năm và tháng sáu, các đạo
tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới lần đầu tiên tổ chức lễ
Nhi Đồng.
Ngày hai mươi ba tháng mười, thọ
thần cây cổ thụ với 1989 tuổi ở núi Phổ Đà tỉnh Triết Giang tại
Trung Quốc thỉnh cầu quy y với Ngài. Ngài thành lập viện Nghiên Cứu Học
Thuật Các Tôn Giáo Thế Giới trong vùng đại học Berkeley. Tại Long Beach,
Ngài thành lập chùa Phước Lộc Thọ. Chùa Kim Phong tại Seattle dời về địa
chỉ mới.
*Năm 1995, mồng mười tháng giêng,
thầy Hằng Thật đại diện Ngài, nhận lời mời của ông Pete Wilson, cựu
thống đốc tiểu bang California, tham dự lễ tái nhiệm cử chức thống đốc.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước MỸ, tăng sĩ Phật giáo được thỉnh
mời, đọc lời khai mạc lễ nhậm chức thống đốc. Tại San Jose, Ngài
thành lập chùa Kim Thánh.
Mồng bảy tháng sáu, Ngài viên tịch
tại Los Angeles, MỸ quốc. Một ngọn đèn sáng trên thế gian đã tắt. Y
theo lời di huấn của Ngài, bốn chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng cử hành pháp hội tụng kinh Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, và niệm Phật trong vòng bốn mươi chín
ngày. Ngày mười hai tháng sáu, lễ nhập quan được cử hành tại chùa Trường
Đê,
Long Beach. Ngày mười sáu tháng
sáu, kim quan Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Từ ngày hai
mươi sáu đến ngày hai mươi tám tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành cử
hành đại lễ Truy Ân và Trà Tỳ đại lão hòa thượng Tuyên Hóa.
Mắt Trời Trí Huệ Chợt Sa; Thế
Nhân Đồng Thương Tiếc.
(Phụ chú:
Ngài dạy đại chúng:
- Ai ai cũng có lúc đến rồi phải đi, chớ quá buồn
- khổ, hãy giữ tâm như thường ngày. Hãy phát
- tâm dụng công tu hành.
- Tôi từ hư không đến và trở về với hư không.)