Mùa xuân năm 1949, sau kỳ truyền giới,
bà A Nan Đà theo đại lão hòa thượng Hư Vân ra bắc, đến chùa Đại Giám
Thiền Tự ở núi Vân Môn, huyện Khổng Nguyên, tỉnh Quảng Đông. Sau khi từ
chức Giám Học học viện giới luật tại chùa Nam Hoa, Ngài qua chùa Đại
Giám. Từ núi Vân Môn đến chùa Đại Giám khoảng tám dặm. Không kể trời
tối sáng hay đường lộ khúc khuỶu cheo leo, Ngài vẫn tiến buớc.
Mùa hè năm 1949, Ngài đến chùa Lục Dong ở Quảng Châu. Vị
trụ trì là đại lão hòa thượng Minh Quán, người đã từng cùng Ngài ngồi
thiền trong suốt mười tuần thiền thất tại núi Thanh Sơn thuở xưa. Đại
lão hòa thượng Minh Quán thỉnh Ngài làm Ban Thủ. Ngài liền chấp thuận,
nhưng chỉ muốn lưu lại nơi đó khoảng một tháng, rồi đến rằm trung
thu sẽ trở về Vân Môn. Tuy nhiên, chỉ trong hai tuần, đường đi từ Thiều
Quan đến núi Vân Môn bị cắt đứt vì tình hình chiến cuộc rối loạn.
Thế nên, Ngài muốn qua Hồng Kông. Trong mình không một đồng xu, Ngài đến
trạm xe lửa. Khi đó, hai cư sĩ là Tạ Khoan Huy và Trần Khoan Mãn cũng đi
Hồng Kông. Lúc gặp Ngài, họ liền mua vé xe lửa cúng dường. Ba ngày sau,
Cộng Sản tiến chiếm Quảng Châu. Từ đó, Ngài lưu lại Hồng Kông, nhưng
vẫn thường gởi thơ từ vấn an và gởi tiền cúng dường trợ giúp đại
lão hòa thượng Hư Vân sửa chữa, kiến lập chùa Chân Như ở núi Vân Cư.
Ngài tự thuật: Truyền giới xong, tôi đi theo ngài Hư Vân
đến chùa Đại Giám tại Thiều Quan. Trên đường trở về Vân Môn, ngài
Hư Vân cũng bảo tôi hãy đi theo. Tôi nghe lời, nhưng muốn trở về chùa
Nam Hoa trước. Đầu tuần tháng năm, tôi đi đến chùa Đại Giác. Đường
lên núi cheo leo khúc khuỶu, như những đường lộ tại Tứ Xuyên. Gần đến
núi Vân Môn khoảng hai mươi dặm thì trời đã chập tối. Một mình độc
hành trên đường sá xa lạ, đi đứng khó khăn. Đột nhiên, một chùm ánh
sáng hiện ra trước mặt, cách khoảng một trăm bước. Tôi cứ đi hướng
theo chùm ánh sáng đó. Khi đến gần, chùm ánh sáng đó liền biến mất, cũng
là lúc tôi đặt chân đến cổng chùa Đại Giác. Trong chùa, đại chúng đã
nghỉ ngơi, duy chỉ còn ngài Hư Vân. Tôi vừa bước vào cổng thì ngài Hư
Vân bảo:
- Sao đến trể vậy?
Tôi liền thuật lại việc mình được một chùm ánh sánh
dẫn đường. Ngài Hư Vân bảo:
- Kỳ lạ thay! Ban ngày, nếu không có người dẫn đường,
thì dễ dàng lạc đường, còn nói chi đi trong ban đêm.
Sắp đặt chỗ ở cho tôi xong, ngài Hư Vân bảo:
- Tại chùa Nam Hoa con nhận chức ban thủ. Tại Vân Môn đây
con cũng phải nhậm chức ban thủ, tức là lãnh đạo đại chúng lên chánh
điện tụng kinh, thọ trai, ngồi thiền.
Ở Vân Môn chẳng bao lâu, vì không quen với khí hậu ẩm
thấp nên tôi bị cảm bịnh nặng. Do đó, tôi xin cáo từ ngài Hư Vân để
đến Quảng Châu dưỡng bịnh. Ngài Hư Vân không đồng ý bảo:
- Chớ có đi! Nếu đi thì khó mà trở lại!
Tôi thưa:
- Bạch Thầy! Không được! Ý chí của học nhân đã quyết,
nên nhất định phải đi.
Ngài Hư Vân nghe thế, buồn rầu rơi lệ, cầm tay tôi, bảo:
- Nếu con đi, chắc sẽ không có ngày hội ngộ!
- Bạch Thầy! Con sẽ trở về đây ngay sau khi lành bịnh.
Xin Thầy chớ quá lo lắng!
- Đi lần này, con phải cố gắng tinh tấn vì Phật Thích
Ca và lịch đại tổ sư mà kiến lập đạo tràng. Tiền đồ sáng chói vô
lượng. Nỗ lực! Nỗ lực! Hãy tu hành chân chánh. Chớ phụ lòng mong mõi
của Thầy.
Tôi trân trọng cáo từ ngài Hư Vân, đi Quảng Châu rồi
sang Hồng Kông, trú tại chùa Đông Phổ Đà. Tháng bảy, tôi trở lại Quảng
Châu, trú tại chùa Lục Dong được hòa thượng Minh Quán mời làm Đường
Chủ và phó trụ trì. Tôi đồng ý, nhưng chuẩn bị trở về Vân Môn sau rằm
trung thu. Sơ tuần tháng tám, Thiều Quan thất thủ, giao thông đứt đoạn,
nên không thể trở lại Vân Môn. Đêm mồng mười tám tháng tám, hai vị cư
sĩ Tạ Khoan Huy và Trần Khoan Mãn mua vé xe lửa cho tôi trở lại Hồng
Kông. Sau đó, tôi đến Thái Lan để xem xét về tình hình của Phật giáo
Nam Tông. Năm 1950, tôi trở lại Hồng Kông, ẩn tu tại động Quán Âm như
câm như điếc. Mỗi lần nhớ đến lời dặn dò của ngài Hư Vân, tôi lại
hối hận vì không chịu nghe lời giáo huấn của bậc thiện tri thức. Tuy
muốn trở vào Lục Địa để thân cận ngài Hư Vân, nhưng không thể được.
Đau đớn thay! Chẳng còn lời nào để nói.
Tuy thời cuộc thay đổi, không cho phép trở về Vân Môn
thân cận học hỏi, nhưng Ngài thường xuyên viết thư vấn an và tận lực
hộ pháp ngài Hư Vân.
Hai ngôi sao Bắc Đẩu của Thiền tông Trung Quốc thời cận
đại là đại lão hòa thượng Hư Vân và thiền sư Lai Quả. Ngoài ngài Hư
Vân ra, Ngài rất cung kính thiền sư Lai Quả. Sau khi cộng sản chiếm toàn
Trung Quốc, Ngài thường viết thơ thỉnh ngài Lai Quả qua Hồng Kông, nhưng
Thiền Sư đều từ chối.
Ngài Hư Vân khổ tâm, lo trùng hưng lại các đạo tràng và
những ngôi tự viện, cùng bảo hộ tăng đoàn. Thiền sư Lai Quả vì pháp
quên mình. Hai vị thiện tri thức, đại đức Thiền tông, phục hưng Phật
giáo với tinh thần đại vô úy.
Sau khi qua Hồng Kông một thời gian, Ngài đi Thái Lan để học
hỏi những điểm dị đồng giữa Nam tông và Bắc tông. Ngài trú tại
chùa Long Liên khoảng hơn bốn tháng, rồi trở lại Hồng Kông. Một vị cư
sĩ biết thế nên mời Ngài về động Quán Âm ở Thiên Loan Phù Dong thuộc
chùa Đông Phổ Đà, để tu hành.
Phụ chú: Hóa Thân Bồ Tát, Hành Hạnh Đầu Đà.
1950, tại động Quán Âm, núi Phù Dung, Hồng Kông. Khi từ
Thái Lan trở về Hồng Kông, trong mình Ngài không có một đồng xu. Một vị
cư sĩ giúp Ngài tìm động Quán Âm nhỏ hẹp, âm u, bên cạnh sườn núi.
Cúi mình đi vào động, tìm thấy một tảng đá bằng phẳng, Ngài ngồi xếp
bằng trên tảng đá đó. Trong động, trừ bộ y ca sa, Ngài không có chi cả.)
Bên trong hang động âm u lạnh lẽo. Phía ngoài lại có những
tảng đá lớn, nơi Ngài thường ngồi thiền. Lần nọ, ngồi khoảng một
trăm giờ, rồi muốn đứng dậy nhưng hai bắp vế không thể cử động mà
Ngài vẫn không sợ, coi thường sống chết xả bỏ thân tâm, lại tiếp tục
ngồi suốt thêm hai tuần. Sau khi xả thiền, kỳ lạ thay, hai bắp vế hoạt
động trở lại. Lần khác, Ngài định ra ngoài cất am tranh trên những tảng
đá lớn để ngồi thiền, nhưng gần đó có một vị thầy sanh tâm đố kỴ
nên nói với tăng chúng chùa Đông Phổ Đà:
- Thầy An Từ Ỷ mình có tiền nên cất am trên núi.
(Phụ chú: Ở Hồng Kông
- Tư duy tĩnh lự tức thiền na
- Ma ha Bát Nhã Bồ Đề nhạ,
- Tài bồi quán khái cần tinh tấn
- Ngộ vô sanh nhẫn phó Long Hoa
Dịch:
- Tư duy tĩnh lự là nghĩa Thiền
- Ma ha Bát Nhã mạ Bồ Đề
- Vun bồi tưới nước cần tinh tấn
- Ngộ nhẫn vô sanh đến Long Hoa.)
Từ đó, chùa cắt đứt phần ăn mỗi ngày của Ngài. Qua
hai tuần liên tiếp, Ngài ngồi thiền mãi trong động mà không ăn uống. Làng
bên dưới núi Phù Dong có một ông cư sĩ, tuổi khoảng năm mươi người
nhỏ bé, chân bị chó cắn đã ba tháng mà vẫn chưa lành, và các bác sĩ
đông tây đều bó tay. Đêm nọ, ông nằm mộng ba lần liên tiếp, thấy
Ngài đang ngồi thiền trong hang và cũng thấy Bồ Tát Vi Đà bảo:
- Ngày mai, nếu ông mang thức ăn cúng dường vị thầy này
thì bịnh của ông liền khỏi ngay.
Sáng hôm sau, ông mua hai mươi ký gạo cùng gom góp bảy mươi
đồng mang lên núi. Khi đi ngang qua cửa sau chùa Đông Phổ Đà gần đến
động Quan Âm, ông thấy vị thầy nọ, liền hỏi:
- Bạch Thầy! Thầy An Từ có ở đây không ạ?
Thầy kia đáp:
- Tôi là trụ trì ở đây. Ông hãy để những phẩm vật cúng
dường lại. Tôi sẽ cúng dường cho các thầy dùm ông.
- Thầy không phải là vị mà tôi thấy trong mộng. Bồ Tát
Vi Đà bảo tôi rằng vị đó tên là An Từ, nên tôi chỉ cúng dường vị
Thầy đó thôi.
Vị thầy kia quát mắng:
- Sao lại như thế? Ai muốn cúng dường vật gì thì phải
giao cho tôi.
Ngồi ngoài hang, Ngài nghe hết những lời tranh luận của họ.
Đang dằn co với vị thầy kia, ông nhìn xa xa thấy Ngài ngồi nơi đó, bèn
vui mừng nói to:
- A! Vị kia chính là thầy An Từ.
Thấy họ dằng co mãi không thôi, Ngài liền đi đến, bảo
ông:
- Cúng dường cho tôi hay vị thầy khác, ông đừng phân biệt.
Nay sẵn có vị thầy này, ông nên phân phần cúng dường làm hai.
Cúng dường xong, trở về nhà chân ông được lành ngay. Vị
thầy kia rất bất bình. Vừa khi ấy, cư sĩ Trần Thụy Xương thỉnh Ngài
ra Hồng Kông, lập đàn Phổ Thiện để giảng kinh. Nhân dịp đó, Ngài rời
khỏi động Quán Âm.
Đương thời, ông Du Quả Mãn thường đến động của Ngài
để lấy nước suối, vì dòng nước đó giống như nước cam lồ của Bồ
Tát Quán Âm. Khi trở lại lần cuối, ông thất vọng vì không thấy Ngài
và nước suối trong động cũng ngưng chảy.
Ông Trần Thụy Xương chủ công ty Đại Xương Sơ Đầu ở
Hồng Kông có cô cháu ngoại là Trần Kiến Khai, mồ côi cha mẹ từ tấm
bé. Ông bà Trần Thụy Xương đem về nuôi nấng dạy dỗ cho đến lớn.
Khi Trần Kiến Khai đến tuổi lập gia đình, ông bà Trần Thụy Xương lo lắng
tìm nơi môn đăng hộ đối để gả. Cuối cùng, họ gả cô ta cho gia đình
họ Phiên ở thành phố Cửu Long. Kết hôn chẳng bao lâu, Trần Kiến Khai lại
phải khóc tang chồng. Do thương tâm thái quá nên cô ta khủng hoảng tinh thần
và thường nói những lời nhãm nhí, cùng làm những cử chỉ điên cuồng.
Thấy cháu mình như thế, bà Trần Thụy Xương đau như cắt ruột. Hai ông
bà Trần Thụy Xương hoài nghi rằng bịnh tâm thần của cháu họ là do tà
ma nhập vào tạo tác. Thế nên, họ thỉnh rất nhiều vị thầy đến tụng
kinh trì chú cho cô cháu, hy vọng đuổi được tà ma, tiêu trừ oan khiên đời
quá khứ. Tuy nhiên, trải qua năm sáu ngày tụng kinh trì chú mà vẫn không
hiệu quả. Trong các vị thầy đó, có người biết rõ về Ngài, nên bảo
với ông bà Trần Thụy Xương là nếu muốn cứu cháu họ thì chỉ có một
mình pháp sư Độ Luân làm được thôi. Lúc ấy, Ngài đang trú tại động
Quán Âm, Thuyên Loan. Ngày nọ, biết được Ngài vừa đến Tánh Viên để
làm Phật sự, ông bà Trần Thụy Xương liền mau mắn đến cầu kiến.
Nghĩ rằng loài ma này, một mình không đủ lực nhiếp phục nên Ngài từ
chối. Bà Trần Thụy Xương không bỏ cuộc, cố khẩn cầu Ngài gia trì cho
đứa cháu. Thấy tâm họ chí thành, Ngài nhận lời đến nhà cứu cô
cháu. Khi Ngài vừa bước vào thì cô cháu chạy đến, quỳ xuống đất cầu
xin tha tội. Ngài trách mắng ma kia rằng không thể nhập vào thân người mà
tác quái. Ma kia chấp nhận bỏ đi. Từ đó, sức khỏe của cô Trần Kiến
Khai ngày một mạnh khỏe, dung mạo đoan chánh. Ông bà Trần Thụy Xương thấy
thế, biết rằng chỉ những vị tu hành chân chánh mới có oai đức hàng
phục tà ma. Vì vậy, toàn gia đình đều thọ giới quy y với Ngài.
Năm 1951, Ngài từ Thái Lan trở về Hồng Kông. Vì được
chư nhân sĩ, tín đồ Phật giáo sùng tín kính bái, nên trở về Hồng
Kông không bao lâu, Ngài lại được thỉnh mời đến đàn Thông Thiện giảng
kinh Địa Tạng suốt hơn bốn mươi ngày. Mỗi ngày tín chúng đến nghe
kinh không dưới một trăm người. Thượng tuần tháng chạp, sau khi giảng
xong kinh Địa Tạng có nhiều vị cư sĩ đề nghị tìm một khoảnh đất
để cúng dường cho Ngài xây dựng một tịnh xá. Nhân duyên đó mau chóng
thành tựu. Chẳng bao lâu, họ tìm được một khoảnh đất hoang trên vùng
núi cao thuộc làng Mã Sơn, sông Tây Loan. Tuy là vùng núi cao đường sá xa
xôi, nhưng mỗi tấc đất là mỗi tấc vàng. Tìm được mảnh đất này
là không phải chuyện dễ. Lại có một việc không may là trên núi không
có suối nên việc lấy nước khó khăn muôn phần. Cư dân vùng phụ cận
phải lấy nước từ mạch suối bên dưới chân núi cạnh đường lộ. Nhiều
người lấy nước mà mạch suối chỉ có một nơi và lại rất sâu, nên
công việc này rất vất vả. Lấy được nước rồi lại phải gánh lên
núi khoảng trăm thềm đá. Tìm được mảnh đất đó xong, vấn đề lấy
nước cũng là một việc ưu phiền. Lúc bắt đầu đề khởi công trình
xây cất Tịnh Xá, các cư sĩ thưa trình với Ngài tìm cách lấy nước. Đến
cuối năm, xây xong Tịnh Xá. Ngài đặt tên là Tây Lạc Viênthờ phụng
Tây Phương Tam Thánh. Qua năm sau, mồng tám tháng giêng chùa Tây Lạc Viên cử
hành đại lễ Phật Đản.
Sắp đặt công việc trong chùa an ổn xong, Ngài ra sau chùa
nơi những tảng đá to tìm được một nhánh tre nhỏ mọc trên một phiến
đá bể. Nơi đó, vào mỗi ngày, Ngài chân thành khẩn thiết tụng chú Đại
Bi và cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ ban cho một mạch nước suối.
Chẳng bao lâu, nhánh tre đó mọc dài ra, rồi đất bắt đầu ẩm ướt; một
mạch nước âm ỉ vụt chảy ra. Mùi vị của mạch nước này rất ngon ngọt
(Phụ chú: Chùa Tây Lạc Viên, Hồng Kông.
Vì vùng phụ cận của chùa không có nước, dân chúng rất
khổ sở vì thiếu nước. Sau khi dời vào chùa Tây Lạc Viên, Ngài tìm thấy
một lằn nứt trên một tảng đá cạnh chùa. Nơi đó, Ngài quỳ xuống cầu
nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, ban cho một mạch nước cam lồ. Bên
tảng đá đó, vào mỗi ngày, Ngài đều trì tụng chú Đại Bi. Chẳng bao lâu,
một mạch nước chảy ra từ tảng đá đó.
Từng giọt, từng giọt, nước suối cam lồ chảy ra, đọng
thành một hồ nước. Từ đó, nhờ hồng ân chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ,
Ngài giải quyết được việc thiếu nước tại chùa.)
chẳng khác nước cam lồ khiến mọi người đều ngạc nhiên.
Sau đó, Ngài nhờ người xây hồ nơi mạch nước. Từ đó, vấn đề thiếu
nước nghiêm trọng được giải quyết. Cư dân vùng phụ cận vốn không
tin Phật pháp, nhưng khi chứng kiến sự việc này, đều tôn kính Tam Bảo.
Ngày mười chín tháng sáu, năm 1954, vào dịp lễ Quán Âm Bồ
Tát thành đạo, Ngài cử hành pháp hội trong bảy ngày tại chùa Tây Lạc
Viên. Vài trăm người đến dự pháp hội. Lúc đó, mùa hè trời nóng nực,
chánh phủ Hồng Kông ra lịnh tiết kiệm nước dùng. Mỗi ngày chỉ được
mở nước công cộng ba giờ. Dân chúng Hồng Kông đều than van vì thiếu nước,
nhưng ao nước tại chùa Tây Lạc Viên vẫn nhất như bình thường. Nước
vọt chảy ra không dứt, cung cấp đầy đủ
(Phụ chú: Chùa Tây Lạc Viên, Hồng Kông.
Sau khi tin mạch nước cam lồ thần kỳ lan truyền ra ngoài,
dân chúng trong vùng rất kinh ngạc, sửng sốt. Sao lại có việc nước suối
chảy ra từ một tảng đá khô cằn?
Trong năm kiến lập chùa, Ngài trồng đủ loại cây trái
xung quanh chùa như tre trúc, đu đủ, v.v... Khi ấy, một trận bão thổi đến
Hồng Kông, bứt hết gốc rễ của những cây trái mà Ngài mới trồng. Vì
vậy, Ngài nguyện: Ngày nào còn ở Hồng Kông, tôi không cho phép một trận
bão nào phát sanh nữa. Từ đó, hơn mười năm Ngài ở Hồng Kông, không trận
bão nào thổi đến. Lần nào cũng vậy, tuy có tin bão sắp thổi đến Hồng
Kông, nhưng trong khoảnh khắc, những luồng bão tố đều tan mất hoặc
chuyển hướng về những vùng khác.)
cho vài trăm người dùng. Thật là một việc không thể nghĩ
bàn.
Ngài tự thuật: Mùa đông, tôi kiến lập chùa Tây Lạc
Viên. Do lời thỉnh cầu của các cư sĩ La Quả Minh, Trần Quả Phát, Đường
Quả Thiện, Mạch Quả Liên, Viên Quả Lâm, v.v... tôi giảng kinh Địa Tạng
tại đàn Thông Thiện. Mùa thu năm kế, tôi giảng kinh Kim Cang cũng tại đàn
Thông Thiện. Kế đến, tôi giảng kinh A Di Đà tại chùa Bảo Giác. Sau đó,
tôi giảng kinh Lăng Nghiêm tại chùa Tây Lạc Viên trong mười bốn
(Phụ chú:
- Niệm A Di Đà Phật Tam bối Cửu Phẩm Tùng Thử Đăng
- Tu Ba La Mật Pháp Lục Độ Vạn Hạnh Tự Tư Viên
Tạm dịch:
- Niệm Phật A Di Đà ba bối chín phẩm thăng từ đây
- Tu Ba La Mật pháp lục độ vạn hạnh tự viên tròn.)
tháng. Kế tiếp, tôi giảng kinh Địa Tạng tại chùa Tịnh
Uyển. Tôi lại kiến lập Từ Hưng Thiền Tự.
Khoảng hai năm sau khi kiến lập chùa Tây Lạc Viên, đa số
cư sĩ đến chùa đều là Phật tử sơ cơ. Mùa hè, chùa Tây Lạc Viên tổ
chức Quán Âm thất. Sáng sớm lễ Phật, ai ai cũng thấy có một miếng gỗ
giống như thanh kiếm. Vài người hiếu kỳ hỏi Ngài:
- Bạch Thầy! Đó có phải là cây kiếm gỗ không?
Ngài đáp:
- Đó là cây hương bản mà trong chùa thường dùng để đánh
những ai không giữ quy luật, hay những người háo ăn làm biếng.
Ai nấy cũng đều sợ ăn gậy. Thất Quán Âm chấm dứt mau
chóng mà cây hương bản vẫn nằm yên chỗ cũ. Đến ngày thứ bảy, khi
làm lễ hồi hướng, mọi người thấy Ngài cầm cây hương bản ngang tầm
trán rồi bước đi ra ngôi vườn. Kinh ngạc nhìn theo, họ thấy có một vị
thầy tuổi trung niên vừa lên núi, đang quỳ xuống dập đầu sám hối trước
mặt Ngài. Được biết rằng vị Thầy này tên là Vô Tấn. Khi ở núi Linh
Nghiêm vùng Tô Châu, vì có thần thông trị bịnh cho kẻ khác, Thầy tự xưng
là A La Hán sống, nên được nhiều người tôn kính cúng dường. Ngài đã
từng cảnh cáo Thầy:
- Nếu định lực không kiên cố mà đi trị bịnh cho người,
thọ sự cúng dường thì nhất định đọa lạc. Song, vào lúc ấy tôi sẽ
đến giúp, nhưng chính Thầy phải tự cứu mình.
Chẳng bao lâu, Ngài rời Trung Hoa đại lục đến Hồng Kông.
Lần nọ, Ngài chợt gặp Thầy ta, nhưng đã hoàn tục và kết hôn với bà
cư sĩ đã từng đi theo hộ pháp. Công phu tu hành khổ cực trong bao năm
trường nay hóa thành chim bay và thần thông cũng biến mất. Gặp lại Ngài,
Thầy ta hổ thẹn muôn vàn nên lại phát tâm xuất gia. Ngài đưa cho Thầy
ta y phục tiền tài và những vật dụng cần thiết. Tuy nhiên, chưa đầy một
năm Thầy ta lại hoàn tục. Vì hoàn cảnh bức bách Thầy lại cầu Ngài
cho phép xuất gia lần thứ hai. Ngài cũng giúp đỡ khuyên nhủ, nên vào
ngày đó Thầy quyết định đến chùa Tây Lạc Viên sám hối. Sau này, vì
không nhận rõ những vết chân sai lầm khi trước, nghe nói Thầy cũng hoàn
tục.
Chúng sanh thật điên đảo. Vừa sanh lên trời liền rơi xuống
đất. Ai có thể phát tâm Bồ Đề mãi không thối chuyển thì quyết định
sẽ sớm thành đạo Bồ Đề, tuyệt không nghi ngờ.
Chùa Tây Lạc Viên được xây cất xong, liền trở thành đạo
tràng thường trụ nên tín đồ đua nhau đến chùa lễ Phật ngày một đông
đúc. Thể theo nhu cầu tín ngưỡng chùa Tây Lạc Viên thường cử hành
pháp hội cùng thiết lập bài vị vãng sanh và truyền giới U Minh.
Lần nọ, trong một dịp truyền giới U Minh, ông Lê Quả Hợp,
đệ tử của Ngài, đến chùa đại diện tổ tiên ông bà ghi danh thọ giới.
Vì sơ xuất trong nhất thời, nên quên ghi tên mẹ ông. Buổi lễ chấm dứt,
ông theo mọi người xuống núi trở về nhà. Trên đường, chân ông chợt
đau nhức, muốn tiến bước mà đi không nổi. Thật lạ kỳ, khi ông xoay
trở lại, hướng về núi mà đi thì hai chân linh hoạt như thường mà
không hề có cảm giác đau nhức. Thử vài lần cũng đều như thế, nên
ông chỉ còn cách là quay đầu trở lại chùa Tây Lạc Viên. Vừa thấy
Ngài, Lê Quả Hợp liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Ngài cười đáp:
- Có phải con quên thay mặt mẹ thọ giới U Minh không?
Lê Quả Hợp nghe xong, liền hiểu rõ sự tình, nên mau mắn
ghi tên mẹ ông, cầu thọ giới U Minh. Làm lễ xong, ông xuống núi trở về
nhà mà hai chân không còn cảm giác đau nhức.
Mùa hè năm 1952, tại chùa Tây Lạc Viên, Ngài giảng phẩm
Phổ Môn. Đến đoạn kết, chợt có một con ngỗng từ bờ giậu ngoài
chùa đi vào tự viện rồi nằm yên trước cửa chánh điện ra vẻ như
đang nghe kinh. Có người thấy vậy bèn lấy chổi đuổi nó đi. Đuổi một
hồi lâu, ngỗng cũng trở lại. Người tiếp tục đuổi mà ngỗng cứ tiếp
tục chạy vài lần như thế. Thấy trước chánh điện nháo động nên
Ngài hỏi nguyên do. Biết rõ cớ sự, Ngài không cho họ đuổi ngỗng và cũng
truyền tam quy y cho nó. Ngài thuyết tam quy y xong, ngỗng đứng dậy đi thẳng
vào chánh điện vòng quanh bồ đoàn rồi nằm và cúi đầu xuống đất dạng
như lễ Phật. Nghe giảng kinh xong, ngỗng liền rời khỏi chùa. Phật thuyết
rằng chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật.
Ngài từ chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông đến Hồng Kông chẳng
bao lâu, nữ cư sĩ La Quả Minh dẫn ba đứa con đến quy y Tam Bảo. Mùa thu
năm 1952, La Quả Minh gặp nghịch cảnh, bao việc đều không như ý, khiến
tâm tình buồn bã, rồi sanh trọng bịnh. Bao bác sĩ cố gắng chữa trị
nhưng đều vô hiệu quả. Con gái bà là Hoàng Quả Tùng nghe các bác sĩ tuyên
bố như thế, nên bàng hoàng đau xót, chỉ biết quỳ trước chánh điện mà
cầu Phật và Bồ Tát cứu người mẹ. Trong một sát na, vừa cúi đầu xuống
đảnh lễ Phật thì cô ta chợt thấy pháp tướng của Ngài xuất hiện. Chẳng
bao lâu, bịnh tình mẹ cô hết hẳn. Dưới đây là câu chuyện chính Hoàng
Quả Tùng kể lại:
Mùa thu năm Nhâm Dần, mẹ tôi vì gặp bao chuyện bất như
ý nên sanh trọng bịnh, khổ đau muôn phần và khiến gương mặt xanh xao,
không cách chi chữa trị. Bao bác sĩ đến chẩn mạch mà bịnh tình cũng không
hồi phục. Thời gian sau, các bác sĩ bảo rằng mạng của mẹ tôi chỉ
còn trong vài đêm nữa thôi. Người nhà nghe thế đều lo lắng bối rối,
và tôi càng thêm bàng hoàng. Chẳng biết làm gì hơn, tôi chỉ việc cúi đầu
rơi lệ cầu khẩn Phật và Bồ Tát gia hộ cho người mẹ. Đột nhiên, trước
mắt tôi hiện ra một luồng hào quang cùng một vị pháp sư đang ngồi xếp
bằng. Nhìn kỸ, vị pháp sư đó chính là thầy bổn sư. Vui mừng vô hạn,
tôi lại âm thầm niệm Phật nhiều hơn. Chốc sau, mẹ tôi thoát cơn hôn
mê, nhưng sắc diện vẫn chưa hồng hào. Khi ấy, vì cảm giác có điềm lạ
nên tôi tìm người cùng nhau đến gặp Ngài. Khi thấy Ngài, tôi vừa khóc
nức nở vừa thỉnh cầu cứu người mẹ. Ngài bảo:
- Bịnh của mẹ con, thầy đã biết trước. Con hãy mau trở
về nhà, chí tâm niệm Phật. Chư Phật và Bồ Tát nhất định gia hộ cho
mẹ con.
Lễ bái xong, tôi liền trở về nhà, y theo lời dạy của
thầy. Tối đó, tôi không ngủ, chỉ một lòng niệm Phật, cầu mong chư Phật
cứu độ mẹ mình. Sáng hôm sau, bịnh của mẹ tôi giảm bớt hơn phân nửa,
tinh thần bình phục rất nhiều. Qua sự việc này, khiến tôi càng thâm
tín và hiểu rõ Phật pháp bất tư nghì. Ân đức của thầy, tôi mãi
không quên.
Ngày mười bảy tháng mười một năm 1952, Ngài cử hành
vía Phật A Di Đà và pháp hội niệm Phật, liên tục suốt bảy ngày, mỗi
ngày từ tám giờ sáng đến bảy giờ chiều. Chùa Tây Lạc Viên nằm trên
núi cao, nhưng người tham dự pháp hội đông đảo. Đến chiều tối ngày
thứ năm trong tuần Phật thất, khi đánh hương bản lần thứ sáu đột
nhiên có một con quỶ nhập vào thân Trương Quả Vũ đến quỳ trước mặt
Ngài, khẩn cầu thọ tam quy y và năm giới cấm. Ngài chấp nhận lời thỉnh
cầu của quỶ. Trương Quả Vũ tỉnh dậy từ trạng thái hôn mê. Người
tham gia pháp hội, ai ai cũng cho là kỳ lạ. QuỶ cũng biết cầu giới, sao
con người chẳng thích tu hành!
*Cư sĩ Lý Quả Viễn có con gái là Lý Điệp Nghiên; một lần
nọ, đang lúc đi bộ cô Lý Điệp Nghiên chợt vấp té. Tuy không có gì xảy
ra, nhưng qua vài ngày toàn thân phát nóng, bắp đùi đau đớn kịch liệt.
Vợ chồng Lý Quả Viễn biết rằng bịnh này phát sanh là do vấp té khi trước,
nên nhờ bác sĩ chuyên trị chân là Lý Tử Phi đến chẩn bịnh. Bác sĩ họ
Lý xem xét một hồi, phát hiện bịnh nhức chân của cô bé không phải do
bị té mà bắp đùi bị mụt nhọt làm nhức nhối. Trở về nhà, Lý Quả
Viễn lại mời thêm một vị bác sĩ nữa đến trị bịnh, nhưng vẫn không
hiệu quả. Sau này, do lời giới thiệu vợ Lý Quả Viễn mang con gái tới
chùa Tây Lạc Viên cầu cứu, nhưng Ngài nói rõ là không rành về y thuật,
nên không biết cách chữa trị. Vợ Lý Quả Viễn không nản lòng, lại
mang con gái đến lần thứ hai và Ngài cũng từ chối như trước. Đến lần
thứ ba, bà Lý Quả Viễn vừa lên chùa Tây Lạc Viên, bèn quỳ lạy tha thiết
khẩn cầu Ngài cứu con bà. Thấy vợ chồng rất đỗi thành tâm nên Ngài
chấp thuận và bảo họ rằng phải thường cầu nguyện chư Phật chư Bồ
Tát gia hộ. Qua một tuần sau, bịnh của con họ chợt bớt dần. Hai vợ chồng
cùng toàn gia đình đều tin tưởng thâm sâu đức hạnh của Ngài và oai lực
của chư Phật, chư Bồ Tát. Vì vậy, tất cả họ đều quy y Tam Bảo làm
đệ tử Ngài.
Ngài nghiên cứu các tông phái, cùng tham thiền quán thoại
đầu. Tuy nhiên, bình thường đối với các đệ tử, Ngài chỉ dạy họ
niệm Phật A Di Đà. Pháp môn niệm Phật, không luận là người thông minh
hay kẻ ngu đần, đều được tiếp độ. Việc quan trọng là ngày thường
phải niệm nhất tâm bất loạn thì chắc chắn sẽ được cảm ứng; lúc
lâm chung sẽ được vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc. Đối với người
học Phật, đây là con đường tu tắt hữu hiệu nhất.
*Bà Quả Thiện quy y Ngài rất lâu và luôn chân thành tín
kính Phật pháp. Ngày nọ, bà đến chùa, vừa khóc lóc lễ lạy vừa nói rằng
ông chồng bị bịnh lao phổi đã gần đến thời kỳ cuối cùng. Tất cả
bác sĩ đều tuyên bố là không còn cách chữa trị. Nghe thế, Ngài an ủi
bà ta đừng quá ưu sầu mà hãy về nhà bảo ông chồng phải niệm Phật A
Di Đà. Nếu thọ mạng của ông ta chưa hết thì nhờ nương oai lực của
chư Phật bịnh tình sẽ thuyên giảm. Nếu kiếp số đã mãn nhưng chân
thành niệm Phật thì khi lâm chung, ông sẽ được vãng sanh. Ngài lại dặn
dò kỸ lưỡng:
- Trời cao khó lường. Mạng người vô thường.
Về nhà, nghe bà vợ thuật lại những lời dạy của Ngài,
ông chồng liền tin ngay và cầu thỉnh thọ giới quy y. Đêm thứ ba từ
ngày thọ giới quy y, ông mộng thấy Ngài đến, đầu đội mũ Địa Tạng
Bồ Tát, thân mặc y ca sa màu đỏ, cùng chư Bồ Tát pháp tướng trang nghiêm
đoan chánh. Ngài bảo:
- Bịnh của ông sẽ bớt. Chớ có ưu sầu.
Vừa thức giấc, bao tử tiết ra chất mặn không ngừng,
khiến khối u trong đó cũng dẹp xuống. (Lúc trước, ngoài bịnh phổi ra,
bao tử ông cũng trương lên một khối. Vì sợ bà vợ lo lắng, nên ông
không nói rõ bịnh trạng.) Từ đó, ông càng thâm tín Phật Pháp, nên cho
dù đi dứng nằm ngồi, tay ông không rời tràng chuỗi, mỗi ngày niệm cả
muôn ngàn danh hiệu Phật. Tâm thành tức được cảm ứng. Chưa đầy một
tháng, thân thể ông bình phục tráng kiện. Khi đến nhà thương chiếu
quang tuyến thì thấy lá phổi hoàn toàn bình phục như xưa.
*Bà Lưu Quả Quyên tai bị điếc nên không thể trò chuyện
với người khác mà chỉ thường lần chuỗi niệm Phật. Ngày ngày, bà đều
leo lên thềm đá trăm cấp để đến chùa nghe Ngài giảng kinh thuyết
pháp. Người điếc nghe kinh, thật quý báu vô cùng.
Mồng hai tháng năm, trước khi Ngài giảng kinh A Di Đà, đại
chúng đồng niệm: Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
Lúc ấy, bà chợt đứng dậy nói:
- A! Các vị niệm Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
Tôi nghe rõ hết.
Từ đó, tai bà nghe được như thường. Do nghe kinh, tuy không
cầu mà bà vẫn được cảm ứng. Tai nghe được rồi, bà vẫn dụng công
niệm Phật, nhưng ma chướng lại đến. Bà bị chứng bịnh kỳ lạ là cả
ngày ăn uống không ngừng. Nếu không ăn thì đại tiểu tiện không được.
Bác sĩ đông tây tìm không ra nguyên do. Mồng bảy tháng hai năm 1954, nghe
tin Ngài từ núi Đại Hưng trở về chùa
Tây Lạc Viên, Bà bèn đến chùa kể lể:
- Bạch Thầy! Trong bụng con có người nói chuyện.
Ngài hỏi:
- Có người nói chuyện trong bụng, vậy bà mang thai à?
- Bạch Thầy! Con đã ngoài sáu mươi tuổi rồi!
- Vậy trong bụng bà nói những gì?
- Sáng sớm, con lấy bột làm bánh để ăn. Vừa ăn một miếng
bánh thì những thằng nhỏ trong bụng lại nói là chúng không muốn ăn gì
cả. Con bảo rằng các ngươi không ăn bánh, vậy muốn ăn gì? Ăn đã no bụng
mà còn kén chọn này nọ! Khi đó, bao tử không nói gì hết. Đây là những
lời con nghe rõ ràng.
- Những đứa bé trong bụng bà biết nói chuyện. Vậy phải
giúp chúng đi ra ngoài. Trở về nhà, vào nửa đêm bà hãy lên chánh điện
quỳ trước bàn thờ dâng hương cúng Phật.
Bà làm theo lời Ngài dạy khi về đến nhà. Kỳ lạ thay!
Trong cơn mơ màng, bà thấy ba đứa nhỏ rất dễ thương từ trong bụng vọt
ra, và lại thấy Bồ Tát Vi Đà dùng tay phải tay trái bắt chúng bỏ vào lỗ
tai. Lập tức, bà cảm thấy bụng trống không. Bịnh đói ăn không cần
thuốc mà tự nhiên hết. Trong ba đứa nhỏ kia, hai đứa là rắn tinh, một
đứa là nhái tinh. Tin hay không tùy ý quý vị. Bịnh lạ lùng này do quả
báo tiền kiếp của bà vì không tin có bịnh kỳ quái như vầy. Đời nay,
vào đêm nọ bà mơ thấy ba đứa bé tai lớn xinh xinh, nên sanh tâm tham ái.
Vì vậy, ba con quỶ nhỏ kia mới nhập vào bụng bà được. Thế nên, việc
đầu tiên của người tu đạo là phải khử trừ tham ái.
*Mùa xuân, năm Dân Quốc thứ 41, pháp sư Thân Giác tại Cửu
Long Toản vùng Thạch Sơn, xây một am thất nhỏ. Vừa ở được một năm,
ông chủ đất ép bức, yêu cầu thầy phải phá am thất đó để trả lại
mảnh đất. Vừa nhận được thơ của ông chủ đất và không kịp chuẩn
bị nên Thầy nghĩ là việc này chắc chắn sẽ bị thua thiệt, khiến tâm
tư bối rối, sanh bao khổ não. Đêm nọ, vào lúc mười một giờ, Thầy
đang đọc quyển luận Trung Quán, phẩm Quán Tứ Đế, đến đoạn: Chúng
nhân duyên sanh pháp. Ta bảo đó là không, cũng là giả danh, cũng là nghĩa
trung đạo. Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh. Thế nên, tất
cả pháp không phải là không.
Khi đó, Thầy từ từ nhập vào trạng thái hôn trầm, lại
nhờ mặc niệm đoạn kinh trên mà tiêu giải được nỗi phiền muộn u uất.
Lúc đó, không biết mình đang mơ, Thầy thấy một luồn gió lớn thổi đến,
rồi một cơn mưa ào ạt đổ xuống. Nghe gió rồi lại nghe mưa. Trên hư
không sét đánh ầm ầm, khiến gần điếc tai. Trong lúc bàng hoàng sợ hãi
đó, Thầy ngửng đầu lên thấy một vị phạm tăng, bay từ trên không xuống,
toàn thân phóng hào quang màu vàng tím. Lúc ấy, mưa to gió lớn liền ngưng.
Thầy Thân Giác nhận ra đó là hiện thân của Bồ Tát, liền quỳ xuống lễ
bái. Khi vị phạm tăng đó đến trước mặt, thầy Thân Giác chợt nhận
ra đó là vị Tôn Chứng Sư của mình, tức là ngài Độ Luân. Trong mộng,
Ngài bảo:
- Con chớ ưu sầu! Tất cả khổ nạn, Thầy sẽ giúp con giải
quyết.
Mộng đến đó, Thầy giựt mình thức giấc. Chẳng bao
lâu, Thầy tìm được một khu đất, chuẩn bị xây cất một am tranh, nhưng
thiếu hụt tài chánh. Đang giảng kinh Địa Tạng tại Chí Liên Tịnh Uyển,
nghe việc của thầy Thân Giác, Ngài liền gởi cho một ngàn đồng. Nhờ vậy,
thầy xây được am thất nơi núi đá làm chỗ nương thân. Việc này, Ngài
chưa từng nói với ai, vì sợ có người sẽ cho là không thật. Ngài dạy
thầy Thân Giác rằng từ đó về sau, chớ nên viết thư kể lại việc này.
*Mùa hè năm 1953, sư cô Khoan Huệ pháp chủ Chí Liên Tịnh
Uyển tại núi đá Cửu Long Toản và cư sĩ Đẳng Quả Kỳ thỉnh Ngài giảng
lại kinh Địa Tạng tại chùa. Quý cư sĩ không quản đi xe cộ tàu đò mệt
nhọc, mỗi ngày tới lui Hương Cửu tham gia nghe kinh. Sư cô Khoan Huệ vốn
là đệ tử của đại lão hòa thượng Hư Vân. Lúc chưa xuất gia, cô làm
thuê giúp người nấu cơm nước. Do công việc nên có khi cô phải giết
gà giết vịt. Lần nọ, cô mua một số cua sống về định luộc cho chủ
ăn. Vì không cẩn thận, nên bị cua kẹp ngón tay không nhả. Vì đau thấu
xương, cô nhẫn tâm cầm dao chặt cua. Thân thể và càng cua phân hai và
chân cua bị cắt đoạn. Cuối cùng cua đương nhiên là món ăn chính trên
mâm cơm buổi tối. Chẳng bao lâu, ngón tay bị cua kẹp chợt sanh ra một miếng
thịt dư. Từ sáng đến tối, ngón tay đau nhức không thể tả. Thuốc men
cũng không thể chữa trị được. Sau này, cô theo người đến núi Phù
Dong lễ bái sám hối. Qua bảy ngày lễ lạy kinh Thủy Sám, miếng thịt cua
chợt biến nhỏ lại; tuy không bằng khi trước nhưng ngón tay vẫn còn
đau. Trong đàn giảng kinh Địa Tạng, Ngài nghe cô ta thuật lại đầu đuôi
câu chuyện và khẩn thiết cầu xin cứu giúp giải nỗi oan khiên. Do đó,
giảng kinh xong, Ngài truyền giới quy y cho cua. Lạ lùng thay, truyền giới
xong, miếng thịt cua trên ngón tay của cô bỗng tiêu mất. Ngón tay linh hoạt
như xưa không còn đau nhức. Báo ứng nhân quả, thật không sai tơ hào chỉ
việc đến sớm hay muộn.
*Bé Hoàng Tuyết Mai cháu gái cư sĩ Cam Quả Ngạn vừa chào
đời khoảng một trăm ngày thì trên đầu chợt sanh mụn nhọt làm rụng
tóc, máu mũ chảy ra tanh hôi khó chịu. Vì mùa hè nóng nực, bịnh tình
càng thêm trầm trọng. Năm đó, gia đình mang bé đi tìm bác sĩ chữa trị
khắp nơi, nhưng đông y hay tây y đều bó tay. Khi bé được ba tuổi cha lại
qua đời. Bà mẹ mướn người chăm sóc bé. Mỗi tháng, tiền lương bà mẹ
đều đổ dồn vào thuốc thang cho bé nhưng bịnh tình vẫn không thuyên giảm.
Mỗi lần nhìn thấy con như thế, bà mẹ đấm ngực dậm chân tự than bạc
mạng. Đến lúc mười tuổi, mụn nhọt trên đầu vẫn không hết. Duyên
lành đến, bé quy y Ngài. Lạ lùng thay! Quy y xong, mụn nhọt bắt đầu kết
sẹo, tóc cũng từ từ mọc ra. Bỗng chốc, bịnh mụt nhọt trên đầu hoàn
toàn bình phục. Thấy tóc bé mọc đầy đầu, mọi người suy nghĩ không
biết nguyên do nào mà được lành bịnh như thế.
*Mồng mười tháng tám năm 1954, cư sĩ Trần Thụy Xương cùng
ông bạn họ Kì đến chùa Tây Lạc Viên bái kiến Ngài. Ông Kì vốn là thầy
thuốc chuyên trị trật chân. Ngài luôn tùy theo căn duyên mà thuyết pháp
giáo hóa. Ngài hỏi ông Kì:
- Xương đầu bị gãy hay căn mạng bị đứt đoạn thì có
thể nối lại được không?
Ông Kì đáp:
- Không thể được!
- Tại sao? Xưa kia tay Quan Công bị tên độc bắn, mạng sống
trong buổi sớm mai. Hoa Đà giúp ông nạo xương trị liệu khiến sống lại.
Vậy có phải mạng sống được nối lại không? Tuy nhiên, phương pháp nối
mạng này cũng chưa hay lắm. Nay tôi sẽ chỉ cho ông một cách nối mạng.
Phương pháp này là phải minh tâm kiến tánh, chấm dứt sanh tử, thoát khỏi
sáu đường luân hồi, phục hồi bản lai diện mục mà mình và chư Phật
đồng nhau không khác. Muốn minh tâm kiến tánh phải chân thật tham chứng.
Cách thức này giống như gà ấp trứng mèo rình chuột, mãi mãi liên tục
không rời tâm tánh. Một khi khai ngộ, liền chứng đắc thật thể sanh mạng.
Niệm Phật cùng tham thiền vốn khác nhau. Tham thiền tức phải tham thoại
đầu. Tham khán đến tận sơn cùng thủy, thì nhất định hoa trí huệ nở
rộ, mây u ám được tiêu trừ. Khi đó, sanh mạng nằm trong tay mình. Đại
lão hòa thượng Hư Vân, hiện nay đã một trăm mười tuổi. Ngài là một
vị cao tăng am tường phương thức nối mạng.
Nghe thế, ông ta hiểu lý thâm sâu nên vui vẻ muôn phần. Từ
đó, ông thường đến chùa Tây Lạc Viên thân cận Ngài.
*Đệ tử Ngài là Trương Quả Trần bị bịnh ung thư. Ngài
quán sát nhân duyên khuyên ông nên cúng dường y vải cùng dược phẩm cho
tăng ni để kết duyên lành cùng cầu giải trừ nghiệp tội. Nghe dạy như
thế, ông quyết định làm theo. Đầu tiên ông thông báo các tự viện, tịnh
xá tại Hồng Kông, hãy đếm số tăng ni, để y theo đó mà mua vải cùng
thuốc men cúng dường. Tuy nhiên, vì nghe lời gièm pha, Trương Quả Trần giảm
bớt số lượng cúng dường. Do đó, Ngài phải lấy đồ cúng dường của
tín chúng ở bổn tự, bổ túc vào những phần thiếu. Mồng chín tháng
sáu, y vải thuốc men được chuyển đến, phân phát tại chùa Phổ Đà ở
Thuyên Loan, Trúc Lâm Thiền Tự, Lộc Dã Uyển v.v... Hôm sau, đồ cúng dường
được phân phát đến Nam Thiên Trúc, Đông Lâm Niệm Phật Đường, tịnh
xá Hoằng Pháp v.v... Ngày kế, vật cúng dường được chuyển đến Thiền
Viện Thanh Sơn Hải, Nguyên Lãng v.v... Vùng Nguyên Lãng, tự viện ít mà tịnh
thất lại nhiều. Ngài thông báo họ, hợp lại một nơi để dễ bề phân
phát. Vào dịp ấy, tất cả tăng ni toàn Hồng Kông đều nhận được đồ
cúng dường. Cách giải quyết sự việc của Ngài có ngăn nắp rõ ràng. Phương
thức làm việc hữu hiệu, kết duyên với tăng ni, khiến nhiều người bội
phục.
*Tây Lạc Viên vừa được xây xong, cư sĩ họ La thường
đến chùa lễ Phật. Con gái bà lấy chồng đã lâu mà chưa có con. Bà thường
tác bạch xin Ngài trợ giúp,cùng cầu chư Phật chư Bồ Tát ban cho một đứa
cháu ngoại. Ngày nọ, vừa từ ngoài trở về chùa, Ngài đổ nước đầy
nửa bồn rồi rửa chân. Lúc ấy, bà bước vào vườn giậu rồi tiến vô
chùa. Lễ Phật xong, bà chạy đến, quỳ lạy dưới chân Ngài khóc lóc khẩn
cầu:
- Bạch Thầy! Xin Thầy từ bi cho con một đứa cháu ngoại!
Gia đình con thật bạc phước, chưa có một bé trai nào nối dõi tông đường.
Làm sao con nhìn mặt tổ tiên dòng họ La! Hôm nay, trước mặt Thầy con nhất
tâm phát một lời nguyện: Dẫu Ngài dạy lời gì, con sẽ làm theo (vì nghĩ
rằng Ngài sợ bà không dám bỏ tiền để tạo tượng Phật, sửa chữa chùa
chiền. Những việc này, bà sẵn sàng làm).
Ngài hỏi:
- Người xưa tu đạo, vì xả bỏ tất cả nên tín tâm mới
kiên cố. Vậy thì lòng thành của bà có chắc thật không? Khi Thầy bảo
gì, bà có dám làm theo chăng?
Bà cúi đầu chấp thuận.
Ngài bảo:
- Thế thì tôi sẽ giúp bà mãn nguyện. Bà có thể uống nước
trong bồn rửa chân này không?
Không ngờ Ngài lại bảo như thế nên bà mở mắt to đứng
chết trân. Trừ bậc đại trí mới có thể ném phức sáu trần không chấp
trước sắc thanh hương vị xúc pháp. Là phàm phu, ai dám uống loại nước
đó? Đợi hồi lâu thấy bà không dám uống, Ngài bưng bồn nước lên vừa
uống vừa nói:
- Nếu bà uống nước này thì chắc chắn sẽ mãn nguyện,
có được một cháu trai, nhưng đã quá trể.
Bà ta khóc lóc thưa:
- Bạch Thầy! Xin cho con một cơ hội nữa.
- Về nhà, bà nên thành tâm khẩn ý niệm Phật thì chư Phật
và chư Bồ Tát sẽ gia hộ cho vì có cầu có nguyện, tức có cảm ứng.
Một năm sau, quả nhiên bà vui mừng được một đứa cháu
trai.
*Đệ tử của Ngài, Văn Quả Mật, vốn mồ côi cha, là người
con thứ chín, và cũng là bé trai duy nhất nối dõi tông đường. Vì phải
theo lời bác sĩ nên đến mười ba tuổi bé vẫn ở nhà dưỡng bịnh mà
không cùng chúng bạn đồng tuổi cắp sách đến trường học tập, vui
chơi đá banh đánh cầu. Ngày nọ, bé biết được bí mật của người chị
là cô ta đã quy y Phật. Cô ta có mang về nhà quyển Sự tích của thiền sư
Độ Luân.
Bé rất cung kính và thường đòi chị dẫn đi gặp Ngài nhưng
lại bị khước từ:
- Đi bộ và leo lên cả trăm bậc thềm đá mới đến chùa
Tây Lạc Viên. Chắc bịnh tim của em sẽ tái phát. Chị không thể lo được.
Từ đó, bé âm thầm lễ lạy hình của Ngài trong quyển
sách kia. Ba tháng sau, vào ngày nọ, đang lễ bái trong phòng bé thấy pháp sư
trong pháp tượng bước ra xoa đầu. Vì vậy, bé quyết tâm nhất định đòi
đến chùa Tây Lạc Viên để bái kiến pháp sư Độ Luân. Lạ lùng thay,
khi bé lên núi bịnh tim không còn tái phát, hơi thở bình thường. Từ đó,
bé thường xuyên lên chùa lễ Phật. Sau này, khi khám sức khỏe, bác sĩ không
ngờ là tim bé đập bình thường. Bé rất thông minh sáng suốt. Nghỉ học
bao năm, nhưng khi đến trường bé học trội hẳn chúng bạn. Năm mười chín
tuổi, em tốt nghiệp trung học. Bên cạnh siêng năng học hành, em cũng dụng
công tu đạo ngồi thiền nhập định. Lần nọ, lúc giảng kinh tại Phật
Giáo Giảng Đường, Ngài ngồi trên pháp tòa mà không nói một lời nào chỉ
có Quả Mật thuyết thôi. Thính chúng kê đầu nói to nhỏ vì tâm không
kính phục. Mọi người đều nghĩ: Chúng ta đến nghe Ngài thuyết pháp. Sao
thằng con nít này lại bước lên giảng tòa, nói những lời bá đạo xằng
bậy.
Giảng kinh xong, Ngài bảo đại chúng:
- Chúng ta dễ dàng chấp vào hình tướng bên ngoài. Vừa thấy
không phải pháp sư thuyết pháp thì không luận là người kia giảng kinh
sai hay đúng, lập tức sanh tâm phân biệt. Quả Mật giảng cũng như tôi giảng.
Em y theo tâm tôi mà thuyết pháp.
Phá trừ tâm phân biệt thật là một việc rất khó.
Hồng Kông là thuộc địa của thực dân Anh. Vì vậy, đa số
cư dân đều theo đạo Cơ Đốc, nên đạo tràng Phật giáo vắng lặng ít
người. Xem ra chỉ có chùa Phổ Đà ở Thuyên Loan, chùa Bảo Liên ở Ngang
Bình, núi Đại Hưng là nơi tín chúng thường đến lễ bái. Lúc ấy, thời
cuộc chánh trị rối loạn bất an. Tăng ni lưu lạc từ Trung Hoa Đại Lục
qua Hồng Kông rất nhiều nhưng không đủ chỗ trú ngụ. Do đó, đạo nghiệp
tăng ni hoang phế, định lực tán thất. Chứng kiến cảnh này, Ngài nhận
thấy phải xây cất tự viện Phật giáo, nhưng không thể làm thong thả
được. Tuy có tâm nhưng Ngài không đủ lực. Đạo tràng Tây Lạc Viên lại
nhỏ hẹp không đủ phòng ốc cho tăng ni các nơi đến trú ngụ. Mùa thu năm
1953, cư sĩ Đổng Quả Kì phát đại nguyện cúng dường Phật đà tòa biệt
thự hai tầng, tọa lạc tại núi Đại Hưng, Vạn Trượng Bộc. Những phiến
đá bên cạnh ngôi biệt thự chính là di tích của thiền viện Quốc Thanh.
Lúc Hồng Kông bị bao vây, quân Nhật đốt phá chùa chiền. Thầy trụ trì
bị nạn hỏa hoạn mà tịch. Ngày nay, thiền viện năm xưa chỉ còn một bức
tường hư hoại. Bốn bên chánh điện cây cỏ hoang dã mọc um tùm trông thật
thê lương. Vì được núi non bao bọc, vùng Vạn Trượng Bộc là nơi chim hót
quạ kêu nên rất tĩnh lặng. Đường lên núi lại cheo leo khúc khuỶu nên
ít dấu chân người qua lại. Được khu đất thánh và được chánh phủ
đồng ý cho xây chùa, Ngài rất vui mừng. Vì vậy, Ngài hợp thiền viện
Quốc Thanh và tòa biệt thự lại thành một, tiến hành công trình xây cất.
Vì tiền tài sức lực giới hạn, Ngài chỉ bắt đầu sửa chữa tòa biệt
thự, tạm thời làm ngôi chánh điện. Sau này, ai ai cũng biết đến, đó
là tả viện của chùa Từ Hưng.
Mùa xuân năm 1954, tả viện chùa Từ Hưng và các phòng ốc
được xây cất xong. Lúc đó là giao thời giữa mùa xuân và hạ nên mưa
rơi không ngừng, khiến mặt đất như được bao trùm bởi một màng lụa
trắng xóa. Bắt đầu ngày mười ba tháng ba, đại chúng liên tiếp lạy ba
ngàn Đại Bi Bảo Sám. Đêm rằm, làm lễ Tam Đại Sĩ Diệm Khẩu thì trời
ngưng mưa. Qua ngày mười sáu, trời trong mây tạnh, Ngài tổ chức lễ vía
Tây Phương Tam Thánh. Hôm đó, từ sáng đến trưa trên một ngàn thiện nam
tín nữ các nơi toàn Hồng Kông đến tham dự ngày lễ.
Năm 1954, rằm tháng bảy âm lịch vốn là ngày chư Phật
hoan hỶ. Nơi núi Đại Hưng, chùa Từ Hưng tổ chức pháp hội Vu Lan trong
ba ngày. Tăng ni cùng chư thiện tín tham gia đông đảo. Tỳ kheo Hằng Việt
cùng cư sĩ Quả Căn, Quả Toàn v.v... thỉnh cầu Ngài truyền giới U Minh
trong ngày cuối của pháp hội. Họ muốn cha mẹ, anh em, bà con, thân bằng
quyến thuộc được thọ giới U Minh để thoát ly khổ ải trong đường địa
ngục ngạ quỶ súc sanh. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu. Chín giờ tối
ngày mười lăm, cử hành truyền giới U Minh nơi khách đường. Sau khi thỉnh
chư Thánh, vừa lúc lên tòa ngồi, Ngài chợt nghe tiếng người nhao nháo bốn
bên đàn tràng. Ngài biết đó chính là quỶ ma tùy hỶ đến thọ giới.
Khi ấy, ai ai cũng đều cầm bài vị trên tay. Thầy Hằng Việt quỳ trước
giới đàn, thấy cha mình đột nhiên xuất hiện. Đương thời, hai cô họ
Văn chuẩn bị trở về phòng nghỉ ngơi và dự tính bốn giờ sáng hôm sau
sẽ xuống núi để đáp chuyến tàu trở về Hồng Kông lúc bảy giờ
sáng. Hai cô vừa mới đóng cửa phòng, định lên giường nghỉ ngơi thì
nghe tiếng chân người chạy náo loạn bên ngoài hành lang. Mới đầu họ
tưởng rằng đó là những người ở tầng lầu trên, nhưng khi mở cửa thì
không thấy gì hết. Vừa đóng cửa thì lại nghe tiếng chân người bước
đi rầm rầm. Lúc ấy, họ mới biết rằng đó là quỶ ma đến chùa nên sợ
dựng tóc gáy. Thầy Hằng Định, đệ tử Ngài, một mình tĩnh tu tại am
thất nhỏ cách chánh điện hơn trăm thước. Am thất đó xây ngay cạnh
đường lộ. Nếu có người muốn đi đường tắt xuống núi thì nhất định
phải đi ngang qua cửa am. Đêm đó, khoảng mười giờ rưỡi, thầy nghe có
rất nhiều bước chân người đi xuống núi. Họ vừa đi vừa nói chuyện,
lại cười to la lối. Sáng hôm sau, thầy Hằng Định và hai cô cư sĩ thuật
lại việc đêm hôm trước cho đại chúng nghe.
Rất nhiều tăng sĩ, vì không đủ định lực, nên khi đến
Hồng Kông sống trong cảnh phồn vinh liền biến chất, quên mất mục đích
xuất gia là tu đạo chứ không phải tụng kinh để mong kiếm tiền mua nhà
tậu cửa. Ngài thường hy vọng tìm được một nơi để cùng chúng tăng dụng
công tham thiền tu đạo. Vì vậy, xây xong chùa Từ Hưng mỗi năm đều cử
hành mười tuần thiền thất trong mùa đông. Ngài có một đệ tử xuất
gia từ miền đông bắc Trung Quốc qua Hồng Kông. Tuy đã xuất gia mà trì
giới không nghiêm túc và chẳng chân thật tu hành. Ngài thường khuyên răn
Thầy ta. Lần nọ, để biểu thị sự dụng công của mình, Thầy thỉnh cầu
Ngài cho phép đả thất Ban Chu. Vui mừng vì có người phát tâm tu hành,
Ngài đặc biệt cất một am thất cách chùa khoảng nửa dặm cho Thầy ta
tu trong chín mươi ngày. Ban Chu là tiếng Phạn, được dịch là Phật Vị.
Vì khi tu pháp tam muội này, ngay trong định sẽ thấy chư Phật hiện ra
trước mắt. Tông Thiên Thai gọi tam muội Ban Chu là tam muội Thường Hành
tức là thường niệm Phật không gián đoạn. Ngày nọ, đang ngồi tĩnh tọa
tại chùa Từ Hưng, Ngài chợt nghe tiếng niệm Phật của Thầy kia rất lớn
và âm thanh càng lúc càng gấp rút, khí lực như sắp đứt đoạn. Hiểu rõ
sự việc, Ngài lập tức đứng dậy đi đến am thất đó. Ngài thấy thầy
kia vừa niệm Phật to tiếng vừa phát cuồng, chạy vòng quanh am thất mỏi
mệt gần như đứt hơi. Lúc Ngài bước vào, thầy kia từ từ ngồi xuống
đất, nói:
- Phật A Di Đà đã đến rồi!
Ngài quát:
- Phật A Di Đà nào đâu! Đó là con trâu nước.
Phật với ma chỉ khác biệt trong lằn tơ kẻ tóc. Lúc tu
đạo, ma hóa hiện bao cảnh giới để phá hoại. Thế nên, muốn tu hành nhất
định phải đoạn trừ tâm tham sân si, tức là không màng lợi dưỡng,
cũng không cầu được thấy Phật hay Bồ Tát. Bình thường, phải trì giới
căn bản, rồi do đó mà sanh định. Có định lực thì tự biết đối phó
với cảnh giới động tịnh để không bị chúng chuyển. thầy kia vừa đả
thất Ban Chu trong vài ngày thì truy cầu thục mạng, mong muốn Phật A Di Đà
đến gia bị. Tu hành như thế là sai trái. May mà gặp được thiện tri thức
chỉ chỗ lầm lẫn; nếu không thì làm quyến thuộc ma vương.
Kinh điển của chư Phật dùng để hoằng dương chánh pháp
làm công cụ lợi ích chúng sanh. Kinh điển giá trị vô vàn ví như ngọn
đuốc sáng trong đêm tối. Nếu thế gian không có kinh điển của chư Phật
thì từ sáng đến tối bóng đêm bao trùm khắp nơi. Vì vậy, việc phiên dịch
ấn hành kinh điển, khiến ba tạng giáo điển lưu hành trên thế gian là
công tác đầu tiên trong việc cứu độ chúng sanh. Thế nên, từng giờ từng
phút Ngài chưa từng quên bi nguyện hoằng dương Phật pháp và ấn tống
kinh điển. Đầu tiên, Ngài ấn hành phẩm Phổ Môn, kinh Địa Tạng, kinh
Kim Cang, kinh Lăng Nghiêm, v.v... để phân phát cho các tự viện khác. Ngài
nhờ họa sĩ vẽ lại cuộc đời của đại lão hòa thượng Hư Vân. Ngài
cũng tự tay viết những bài kệ tán thán trong quyển Tập ghi chú về cuộc
đời của đại lão hòa thượng Hư Vân.
Ngài không quản gian nan, luôn in kinh ấn tống, tô đắp tượng
Phật, Bồ Tát, với lòng mong ngôi Tam Bảo mãi được lưu truyền trên thế
gian. Chấn hưng Phật giáo là mục đích trọng yếu của cuộc đời Ngài.
*Năm 1956, cư sĩ Du Quả Mãn bị gãy tay đến nhờ bác sĩ
đông y chữa trị. Bác sĩ lấy xương rắn làm thuốc nhưng Quả Mãn không
chịu, bảo:
- Không thể dùng được, vì tôi đang ăn chay.
Ngồi trong phòng mạch, cạnh cô ta có cư sĩ Diêu Quả Bạch,
nghe thế liền hỏi:
- Thầy cô là ai?
- Tôi chưa quy y, nhưng đã từng gặp một vị pháp sư chân
thật tu trì tại núi Phù Dong, động Quán Âm. Hiện nay, tìm mãi nhưng tôi
vẫn không biết Ngài đang ở đâu.
- Vị pháp sư đó là ai?
- Ngài thường đeo chuỗi hạt trầm hương và trên thân có
khắc chữ Vạn.
- A! Đấy là thầy tôi.
Đối đáp qua lại, cô Quả Mãn vui mừng vô hạn. Sau đó,
không quản mệt nhọc cô đến chùa Tây Lạc Viên quy y Ngài. Vì muốn trợ
giúp Ngài trong việc hoằng dương Phật pháp rộng rãi, họ phát tâm mua căn
nhà hai tầng tại vùng Bảo Mã, Hồng Kông. Do đó, Phật giáo Giảng Đường
được thành lập vào năm 1956. Thật đúng theo tên của chùa, mỗi khi giảng
kinh thuyết pháp Ngài luôn khuyến khích quý cư sĩ luân phiên giảng thuyết.
Lão cư sĩ Hồ Quả Vi tuổi ngoài sáu mươi, nghe lời Ngài dạy nên mỗi lần
đến chùa, đều bước ra giảng thuyết. Ngài thường bảo:
- - Biết thuyết pháp khác với việc biết nghe pháp. Biết
nghe pháp khác với việc biết hành trì.
Mồng chín tháng tư năm 1956, từ núi Vân Cư, đại lão hòa
thượng Hư Vân gởi qua Hồng Kông, nguyên lưu tổ phái dòng Quy Ngưỡng của
Thiền tông, truyền trao cho Ngài, chính thức làm vị tổ thứ chín dòng Quy
Ngưỡng, hầu mong giữ mạch hệ tông phái và ban cho Ngài pháp hiệu Tuyên
Hóa, cùng viết bài kệ biểu tín:
- Tuyên vi diệu nghĩa chấn gia thinh
- Hóa thừa Linh Nhạc pháp đạo long
- Độ dĩ tứ lục truyền tâm ấn
- Luân thí vô hưu tế khổ luân.
Dịch:
- Tuyên vi diệu nghĩa chấn mọi nhà
- Hóa thừa Linh Nhạc đạo pháp sanh
- Độ bốn sáu đời truyền tâm ấn
- Luôn hành không nghỉ cứu khổ luân.
Như thế, Ngài chính thức là vị tổ thứ chín dòng Quy Ngưỡng
và cũng là vị tổ thứ bốn mươi lăm của Thiền tông đại thừa.
Năm 1962, Ngài là tăng sĩ người Tàu đầu tiên đến định
cư tại tiểu bang California nước MỸ. Ngài tự đảm nhận trọng trách hoằng
dương Phật pháp tại Tây Phương, bồi dưỡng giáo dục những kẻ hậu
lai, lưu truyền pháp môn tâm địa dòng Quy Ngưỡng, kế thừa di chúc của
đại lão hòa thượng Hư Vân. Từ khi qua MỸ, Ngài thường dùng pháp hiệu
Tuyên Hóa.
Lần nọ, một pháp sư tóc dài hành hạnh đầu đà đã từng
đốt một ngón tay, đến Phật Giáo Giảng Đường tham bái Ngài. Ngài bảo:
- Thưa Pháp Sư! Tôi có một câu đối liễn. Nếu đáp được
thì tôi xưng tán thầy là lão tu hành, còn nếu không thì tôi gọi thầy
là lão Ma Vương.
Nói xong, Ngài viết câu kệ: Bạch thủy tuyền trung nhất
đại thiên (trong dãi nước trắng có một đại thiên.
Lão pháp sư lấy tay xoa đầu mà không lời đối đáp.
Ngài liền thuyết thêm một bài kệ để giáo huấn lão pháp sư kia:
- Phùng thủ cấu diện lão ma vương
- Đáo xứ linh nhân thuyết đoạn trường
- Phóng hạ. Vật Phóng hạ?
Dịch:
- Gặp lão ma vương mặt nhơ nhuốc
- Đến nơi nơi, người người than vãn
- Xả bỏ! Sao không cố xả bỏ?
Tại sao Ngài lại vấn nạn vị pháp sư đó như thế? Vì
lão pháp sư đó khi đến Hồng Kông tuyên bố rằng lão là thầy của hòa
thượng Hư Vân, khiến cho rất nhiều đệ tử của ngài Hư Vân tin theo, hộ
pháp và cúng dường lão ta.
Năm 1957, lãnh sự sứ quán Miến Điện là Trần Chấn Phú
và phán quan là Du Trấn Đông đến Phật Giáo Giảng Đường, thỉnh Ngài
qua Ngưỡng Quan, Miến Điện. Ngài luôn ước mong hợp nhất Đại Thừa và
Tiểu Thừa để đoàn kết lực lượng Phật giáo trên thế giới mà không
chia rẽ tông phái. Đi Miến Điện, Ngài đến tham quan truờng đại học Phật
giáo Tí Cổ, lễ bái tháp Đại Kim ở Ngưỡng Quan, hướng dẫn hơn trăm tín
đồ đi nhiễu tháp niệm Phật. Tại chùa Mộng Phật, Ngài cùng chư tăng
Miến Điện ngồi thiền tĩnh tọa. Ngài tự làm gương, hiển thị Phật giáo
Đại Thừa và Tiểu Thừa đều đồng chung mục đích, đường hướng
trong việc tham thiền học Phật.
Năm 1958, ngài Hư Vân tự tay hoàn tất biên thảo, giải
thích kệ cú ý văn quyển Tăng Đính Đạo Ảnh Phật Tổ. Đây là một cống
hiến giá trị cho Phật giáo; đại lão hòa thượng Hư Vân cũng gởi đến
cho Ngài một bản.
Ngài tự thuật: Sau khi liên lạc, ngài Hư Vân gởi đến tôi
văn khế Chánh Pháp Nhãn Tạng, tức là Phật Tổ Nguyên Lưu, dùng tâm ấn
tâm truyền ngoài giáo lý, Niết Bàn diệu tâm thật tướng vô tướng, pháp
chân không bất không, trên thừa ý chư Tổ, dưới hóa độ chúng sanh.
Thâm trọng ân cần tiếp nhận pháp nhũ này, tôi luôn luôn ghi khắc trong
tâm niệm.
(Phụ lục:
Chánh Pháp Nhãn Tạng, Phật Tổ Nguyên Lưu. Đây là biểu
tín truyền thừa tông Quy Ngưỡng. Tháng 5, năm 1956, thiền sư Hư Vân từ
Vân Cư, Trung Hoa Lục Địa, gởi chứng thư biểu tín này đến Hồng Kông
cho Ngài. Ngoài ra, thiền sư Hư Vân cũng gởi kèm theo một lá thơ, viết:
Tọa Hạ vì pháp tâm thiết, tích Phật Tổ huệ mạng,
đương mãn Tọa Hạ chi nguyện, phụ kỳ nguyên lưu tỉ thừa tổ phái, tổ
đạo lại trùng hưng, thị sơ chí vọng, chuyên phúc bất tận, tức tụng.
Dịch:
Con có tâm thiết tha vì đạo, muốn tiếp nối huệ mạng của
Phật Tổ. Hôm nay, thầy sẽ giúp con mãn nguyện. Bên cạnh lá thơ này, có
một chứng thư biểu tín về việc truyền thừa tông phái, nối mạch chư
tổ, nay giao cho con. Mạch pháp chư tổ, sẽ lưu truyền mãi. Đó là niềm
hy vọng của thầy.
Trong chứng thư biểu tín viết: Quy Ngưỡng chánh tông đời
thứ tám, Đức Thanh tự Hư Vân lão nhân, nay đem Chánh Pháp Nhãn Tạng phó
chúc cho thiền nhân Tuyên Hóa Độ Luân, đời thứ chín, hãy tự cố gắng
hộ trì.
Kệ viết:
- Linh Sơn tâm truyền,
- Phái thừa Qui Ngưỡng,
- Hoằng Dương Ngũ Tông
- Dung hội Nam Bắc,
- Nhiếp thọ chư giáo
Ngài Hư Vân lại khuyến khích tôi tạo công lập đức. Tôi
phát nguyện cúng dường số tiền lớn để đắp tượng Phật cho đại hùng
bảo điện của chùa Chân Như. Tôi đi Miến Điện, mua hơn ba trăm hộp vàng
lá để đắp lên trên tôn tượng. Ngài Hư Vân rất vui mừng viết thư cảm
tạ. Điều này chứng minh ngài Hư Vân rất lo lắng đến những kẻ hậu bối,
với đức tánh khiêm nhượng không ai sánh bằng, chẳng hề phụ bạc hậu
nhân, xả mình vì ngườI, tinh thần vĩ đại, từ bi vô lượng, đạo đức
cao thượng, bình đẳng chất trực, khiến người người thích mến cảm
phục.
Ngài Hư Vân gởi thơ bảo tôi trở lại Vân Cư. Trong lúc
thiền quán, tôi có cảm giác rằng ngài Hư Vân muốn giao chùa Chân Như cho
mình đảm nhận. Tuy nhiên, vì vừa thành lập giảng đường Phật Giáo
nên suốt ngày bận rộn trong công việc Phật sự nhưng tôi định rằng sẽ
tìm người có khả năng để giao phó công việc rồi trở lại Vân Cư hầu
hạ thầy mình. Vì nghịch duyên chướng ngại, tôi không thể thi hành ý định
trên. Do đó, mãi đến ngày nay tôi hối hận vô vàn vì không còn dịp để
nghe những lời dạy bảo của thầy mình.
Tháng bảy năm 1959, được tin ngài Hư Vân bị bệnh nặng
kịch liệt, tâm tôi ngày đêm bất an, cảm giác có điềm chi không tốt.
Xem hình ngài Hư Vân chụp vào năm 1958, tôi thấy cặp mắt của thầy mình
nhìn thẳng dọc và đôi mi rũ dài tận đằng sau đôi tai. Xem hình này,
tôi xúc động lễ bái, tự nhủ: Xưa nay, mỗi lần chụp hình, ngài Hư Vân
luôn nhắm mắt. Hôm nay, mắt ngài Hư Vân từ bi nhìn chúng sanh thật rất
lạ thường. Trong vòng một năm chắc sẽ có biến cố gì xảy ra.
Vì vậy, tôi thỉnh thập phương chư tăng đảnh lễ Bảo sám
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phậtcùng lạy sám Phổ Phật
trong vài mươi ngày. Tôi lại viết thư trên báo, thông cáo các đệ tử của
ngài Hư Vân khắp nơi để cùng họ cầu nguyện, hầu mong sẽ được cảm
ứng. Tôi lại bảo đại chúng:
- E rằng đây là cơ hội lần cuối mà chúng ta thay mặt
hòa thượng Hư Vân lễ Phật, lạy kinh bảo sám Dược Sư Tiêu Tai Diên Thọ.
Tiếng nói tôi ngẹn ngào đau xót lạ lùng, khiến đại chúng
khóc thầm nức nở. Sau này, tôi nhận được thơ từ Vân Cư, bảo rằng bịnh
tình của ngài Hư Vân được giảm bớt đôi chút. Điều này an ủi chúng
tôi phần nào. Tôi liền nhờ thợ vẽ hơn hai trăm bức ảnh về cuộc đời
của ngài Hư Vân. Bên cạnh những bức tranh, tôi viết muôn lời ca tụng,
tán thán đạo đức một đời tu hành của ngài Hư Vân: Tinh thần đơn độc
hành trì khắc khổ, mãi mãi làm khuôn mẫu mô phạm cho đời dẫn đường
cho những bậc hiền thánh mai sau. Vạn cổ vị lai, chưa có ai làm bậc mô
phạm như ngài Hư Vân.
Bất hạnh thay, không thể tránh khỏi tang thương ly biệt.
Ngày mười sáu tháng mười năm 1959, tôi nhận được điện tín từ núi
Vân Cư báo: Ngài Hư Vân đã an tường viên tịch tại chùa Chân Như, núi
Vân Cư vào lúc 1:45 chiều ngày mười hai tháng mười (tức ngày mười một
tháng chín, âm lịch). Ngài Hư Vân để lại di chúc rằng những vị hậu học
phải chuyên cần tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, quên mình vì
pháp, hỗ tương ái kính, v.v...
Nghe tin này, tôi cảm giác như trời long đất lở, nhân thế
tận diệt, kiếp hỏa cháy hừng hực khắp nơi mà không biết đang mộng
hay tỉnh, lời này thật hay hư nên mê muội mất hết tri thức như cây cỏ
đá gạch. Dần dần, tri giác hoàn phục, nhưng tâm tôi bi ai thống thiết,
thương cho chúng sanh trong cõi Ta Bà không còn nghe lời giáo huấn của một
vị đại Bồ Tát Thánh Tăng.! Hôm đó, vào ngày mười bảy tháng mười
năm 1959, tôi vân tập chư đàn việt của bổn đường, thương nghị làm lễ
truy điệu, quyết định cử hành lễ niệm Phật trong hai mươi mốt ngày,
rồi cử hành tụng kinh Đại Bát Nhã trong một trăm hai mươi mốt ngày với
niềm hy vọng báo đáp thâm ân của ngài Hư Vân: Suốt đời hoằng pháp lợi
sanh.
Ngài vân tập đệ tử xuất gia cùng cư sĩ, thành lập hội
truy niệm đại lão hòa thượng Hư Vân nhập Niết Bàn. Ngài cử hành thất
Niết Bàn trong một trăm hai mươi ngày và Phật thất trong hai mươi mốt ngày.
Các ủy viên hội truy niệm, gởi thơ đánh điện tín thông báo cho các đoàn
thể Phật giáo khắp thế giới. Ở Hồng Kông, nhật báo Phát Triển cũng
kêu gọi quý cư sĩ đệ tử đại lão hòa thượng Hư Vân tham gia lễ truy
niệm và tụng sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã. Mồng bốn tháng mười
âm lịch, Ngài phái hai đệ tử đến núi Vân Cư ngưỡng thỉnh xá lợi đại
lão hòa thượng Hư Vân đem về chùa phụng thờ. Ngày mười tám, họ thỉnh
được hơn mười viên xá lợi rắn chắc năm màu sáng trong rồi mang trở
về Hồng Kông. Xá lợi vốn là linh cốt của các bậc thánh tăng và là
tinh khí kết tụ trong thân của các bậc chân tu đạo hạnh. Kinh Kim Quang
Minh, phẩm Xả Thân thuyết: Có xá lợi là do sự huân tu giới định huệ,
nên chẳng phải dễ dàng mà có.
Vì vậy, chúng ta lễ bái cúng dường xá lợi tức là cúng
dường Tam Bảo. Dưới đây là bài kệ tối hậu của đại lão hòa thượng
Hư Vân:
- Thỉnh các pháp lữ
- Chớ nên ưu phiền
- Phục nghiệp sanh tử
- Như tằm vướng tơ
- Tham mê không ngừng
- Giam trong ưu hỶ
- Muốn trừ hoạn kia
- Nỗ lực tu hành
- Diệu khế vô danh
- Thông suốt đất tâm
- Đoạn tâm thương ghét
- Thoát hiểm luân hồi
- Hành ba tịnh học
- Kiên trì bốn niệm
- Thệ nguyện viên thành
- Huyễn chất sương mai
- Chứng ngộ chân không
- Muôn pháp nhất thể
- Ly hợp bi hoan
- Bọt nước tùy duyên.
Hỏa táng thân tôi xong, xin quý vị hãy lấy tro cốt, tán
nhuyễn trộn với dầu đường bột v.v... nắn thành chín quả, rồi ném xuống
sông bố thí cho loài thủy tộc. Quý vị giúp tôi mãn nguyện, thật đa tạ
vô cùng.
Ngài viết: Tôi lại đánh hàng trăm điện tín, thông báo
các pháp lữ đồng tham học tại hải ngoại như giảng đường Phật Giáo
tại vùng Cựu Kim Sơn, hội Phật giáo ở Honolulu, hội Phật giáo tại Tân
Gia Ba, cư sĩ Lý Tuấn Thừa, Tất Tuấn Huy, cư sĩ Chiêm Lệ Ngô tại Gia
Nã Đại, cùng chư đệ tử của Ngài tại các quốc gia như Nam Dương, Đài
Loan, Miến Điện, Thái Lan, Ấn Độ, Tích Lan, và cư sĩ Vu Chấn Đông chủ
tịch hội Phật giáo thế giới. Chư sơn trưởng lão cùng quý cư sĩ các nơi
đồng hưởng ứng làm lễ truy điệu ngài Hư Vân. Các tín chúng đệ tử
tại Hồng Kông được thông báo trực tiếp bằng điện thoại. Ngày mười
tám tháng mười, tin ngài Hư Vân viên tịch được đăng trên nhật báo Hồng
Kông. Có ai ngờ rằng, vì việc này mà tôi bị đố kỴ ghen ghét phỉ
báng. QuỶ ma tung hoành tán loạn. Chúng không biết việc gì đúng việc gì
sai khi nghe tin này. Một số người tự xưng là thiện tri thức cũng hùa
theo chúng. Thật đáng thương thay! Đúng như lời người xưa bảo: Việc tốt,
khiến sanh nhiều ma.
Nói chung, tôi chỉ để việc này cho ngài Hư Vân phán xét.
Khổng Tử viết quyển Xuân Thu khiến loạn thần tặc tử khinh sợ. Quan Tư
Mã viết sử nên những can tội đều chết. Tôi hy sinh hết sức lực vì
ngài Hư Vân. Nếu có muôn ngàn giáo mác đâm thân, tôi vẫn không khiếp sợ.
Vĩnh Gia đại sư nói: Quán lời ác là công đức thì chúng trở thành thiện
tri thức. Không nên vì những lời quở trách phỉ báng mà sanh khởi oán
thân. Nếu không thì lòng từ bi, sức nhẫn nhục, trí huệ vô sanh làm sao
phát khởi.
Hãy để họ tùy tiện phỉ báng. Tôi sẽ nhẫn chịu. Những
ai cố ý đốt trời, chỉ tự mệt nhọc. Khi tôi nghe những lời này như
nước cam lồ, tiêu dung đốn nhập không thể nghĩ bàn.
Phải biết nhân quả báo ứng không thể nghĩ bàn. Hãy cẩn
trọng! Khi đọa vào địa ngục cắt lưỡi chịu khổ đau, dẫu có hối hận
nhưng đã muộn.
Mồng bốn tháng mười âm lịch, tôi nhờ cư sĩ Quả Phượng
và Quả Tiên đến núi Vân Cư cung thỉnh xá lợi cùng linh cốt của ngài Hư
Vân để đem về Hồng Kông cúng dường. Mồng bảy, họ đến núi Vân Cư,
tiếp thọ hơn mười hột xá lợi chiếu sáng năm màu sắc lạ kỳ. Ngày mười
tám, họ trở về bổn tự tại Hồng Kông. Tôi dẫn đại chúng, dâng hương
hoa nghinh tiếp đảnh lễ. Ai ai cũng vui mừng hoan hỶ. Lúc đó, tôi cảm thấy
trọng trách nặng nề trên vai đã giải quyết xong.
Hôm sau, bốn cư sĩ Mao Văn Đạt, Lý Trung Du, Quả Phượng,
Quả Tiên cùng tôi đến gặp cư sĩ Sầm Học Lữ (người viết quyển biên
niên tự thuật của hòa thượng Hư Vân), định bàn việc viết tập sách
truy điệu ngài Hư Vân nhập Niết Bàn. Cư sĩ Sầm Học Lữ đề nghị rằng
hãy tạm đình chỉ, chờ các nơi tại hải ngoại gởi văn thơ về để
ghi vào tập sách đó. Thế nên, hiện giờ quyển tập sách này đã được
phát hành khắp nơi. Hy vọng từ đây về sau, Phật giáo tại các quốc gia
trên thế giới cùng nhau hòa hợp với tinh thần đoàn kết tôn trọng ái
kính.
Năm 1961, bất chấp gian nan khổ cực, Ngài quyết định qua
châu Úc hoằng pháp để gieo duyên cho những ai chưa từng biết đến Phật
pháp. Ngài đến vùng Tuyết Lê và Mộc Nhi Bổn. Vào thời ấy, người tin
hiểu Phật pháp tại châu Úc rất ít, đừng nói chi đến chùa chiền tự
viện. Thật vậy, chỉ có một hội Phật giáo châu Úc tại vùng Tiểu Quy
Mạc. Ngày lễ Phật đản, họ thỉnh Ngài đến làm chủ lễ thuyết pháp.
Một học giả cư sĩ trường đại học Tuyết Lê phiên dịch những lời
Ngài thuyết giảng. Sau một năm lưu trú tại đó, Ngài nhận thấy cơ duyên
chưa chín muồi nên khó phát triển Phật giáo. Tuy nhiên, với oai nghi cử
chỉ nghiêm trang của Ngài, khiến cho người Tàu và dân bản xứ có ấn tượng
tốt, kính phục người xuất gia, gieo trồng nhân duyên tu học Phật pháp
sau này.