- Ðường Tam Tạng
thỉnh kinh
- Võ Ðình Cường
[Phần 3]
-oOo-
VII. VIẾNG BẮC
ẤN ÐỘ
Ð?t chân vào Bắc Ấn Ðộ, Ngài đi ngang qua hai tiểu quốc
là Ca-bi-ca (Capica) và Lâm-ba (Lampaka) là những nước thuộc Tiểu thừa Phật
giáo. Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển Tiểu thừa, Ngài
đi đến một nước rất hùng cường trong năm xứ Ấn Ðộ thời xưa là
Kiền-đà-la (Gandhara). Nước này trong quá khứ có những vì vua anh hùng
cái thế, và rất sùng mộ đạo Phật như vua Di-lan-đà (Nilanda), Già-nhi-sắc-già
(Kanishka). Nước này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng,
hay những tổ sư đã sáng lập các tông phái như Ngài Na Tiên Tỳ kheo,
Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả ...
Trước khi đến nước này, Ngài
nghe nói có một cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca thường xuất hiện, nên
Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể lại, là nơi đức
Phật đã hàng phục con Long thần Gopâla và còn để lại hình bóng Ngài.
Nhưng con đường đến hang ấy rất hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành
hành. Từ mấy năm rồi, không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng
hành với Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời:
–Trong mấy ngàn A-tăng-kỳ-kiếp
chưa chắc đã có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến
đây, làm sao không đến chiêm ngưỡng được? Các người hãy đi trước
đi, tôi ghé đấy rồi sẽ theo sau.
Nói xong, Ngài một mình đi rẽ về
phía hang bóng Phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa gần đây, không ai dám dẫn
Ngài đi. Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài gặp một ông già bằng
lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Ði được vài dặm, hai người gặp năm tên
cướp tay nắm giáo mác đang tiến tới phía Ngài. Ngài cất mũ và chỉ
vào bộ áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp hỏi:
–Nhà sư muốn đi đâu đây?
–Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức
Phật.
–Nhà sư không biết rằng trong
vùng này có nhiều kẻ cướp sao?
Ngài ôn tồn trả lời:
Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi
chiêm bái đức Phật, thì dù có gặp thú dữ, rắn độc, tôi cũng không sợ.
Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã sẵn có mầm từ bi, sao tôi lại
sợ?
Bọn cướp nghe Ngài nói rất cảm
kích, và tình nguyện đi theo Ngài đến hang.
Hang này ở phía đông một dải suối
chảy giữa hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá. Ngài nhìn vào cửa
hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om om. Ông già bảo Ngài:
–Pháp sư hãy đi vào trong, khi
Ngài đến đụng vách đá phía đông Ngài hãy lùi lại đó độ 50 bước và
đứng nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.
Ngài Huyền Trang đi vào một mình,
làm như lời ông lão dặn. Ngài xây mặt về phía vách đá, lạy một trăm
lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài òa lên khóc vì tự thấy mình bạc phước
và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng đức Phật thị hiện ra. Bấy
giờ với một tấm lòng thành khẩn. Ngài tụng những bài sám hối, và sau
mỗi đoạn lại đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu hiện
ra! Sau khi Ngài đã lạy trên 100 lạy, một điểm sáng bằng cái bình bát
hiện ra ở trên vách đá phía đông và vụt tắt ngay. Vừa mừng, vừa tủi,
Ngài lạy nữa, và lần này, Ngài thấy một khoảng sáng lớn bằng cái
thau xuất hiện rồi vụt tắt, nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập
hân hoan và thành kính, Ngài thệ nguyện quyết tâm ở lại đây mãi cho đến
khi nào thấy được hình bóng thiêng liêng của đức Phật mới thôi. Ngài
tiếp tục tụng niệm. Và thình lình, tất cả hang đá đều sáng rực
lên, và hình ảnh đức Như Lai hiện ra trắng toát. Một đường ánh sáng
viền quanh khuôn mặt đấng giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên
một màu vàng chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện
ra trong ánh sáng; nhưng phía dưới tòa sen ánh sáng mờ nhạt như ánh sáng
hoàng hôn. Hai bên tả, hữu Ngài, có rất nhiều hình bóng của các vị Bồ
tát.
Ngài Huyền Trang ngây ngất đứng
nhìn hình ảnh nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi sáu người
đi theo Ngài đang đứng ở ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và hương hoa vào,
thì đức Như Lai biến mất. Ngài Huyền Trang bảo tắt đèn đuốc, và
hình ảnh trước lại xuất hiện. Trong sáu người đi theo Ngài – Ông lão
và năm tên cướp – chỉ có năm người nhận thấy hình ảnh đức Phật,
còn một trong năm tên cướp không nhận thấy gì hết.
Ngài Huyền Trang quỳ xuống dâng hương
hoa và tán thán đức Phật một hồi thì bóng đức Phật tắt hẳn. Ngài lạy
tạ rồi đi ra.
Sau khi được chứng kiến rõ ràng
hiện tượng kỳ diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền
Ðà La (Bắc Ấn Ðộ) phía đông giáp Ấn Ðộ hà (Indus). Ở đây, trước
kia là một nơi chứa rất nhiều di tích Phật giáo, nhất là ở cựu thành
Bố-lộ-sa-bố-la (Peshawar). Hoàng đế Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) xưa kia có dựng
trong vùng này trên một ngàn tịnh xá để chư tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền
Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã, hoang phế. Dân cư thưa thớt.
Dinh thự, đền đài, tịnh xá, thành quách đã bị quân Hung nô nhiều lần
đến tàn phá. Những di tích quý báu của đức Phật đều bị cướp đem
đi, cho đến cái bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc tại thế,
đức Phật đã dùng đi khất thực, cũng không còn.
Trong hơn một ngàn tịnh xá trước
kia, nay chỉ còn lại một cái. Ðó là tịnh xá mà Ðại đế Ca-nị-sắc-ca
đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả.
Sự tích của Ngài Hiếp Tôn Giả
là một cái gương kiên nhẫn, tinh tấn, vô cùng quý báu, mà hàng tín đồ
Phật tử thường kể cho nhau nghe:
Tôn giả đã gần 80 tuổi mới xả
tục xuất gia. Những người thanh niên trong thành phố đều nhạo báng và
chê Ngài là người không biết điều: "Lão già thật ngu. Xuất gia thì
phải đủ sức để tập định và tụng kinh. Nay đã già khọm đi rồi, còn
tiến thủ sao được nữa, mà dám lạm dự vào bậc thanh lưu. Thật là để
ăn bám mà thôi".
Hiếp Tôn Giả nghe những lời nhục
mạ như thế, đứng trước mọi người mà thề rằng:
–Hiếp này, nếu không thông suốt
được Tam tạng kinh điển, không đoạn trừ được phiền não của tam giới,
thì quyết đừng cho Hiếp này dự vào chỗ chiếu ngồi.
Từ đấy, Tôn giả chăm chỉ học
hỏi không ngừng; khi đi, khi đứng, khi ngồi, lúc nào cũng nghiền ngẫm đến
những điều mình vừa học. Ban ngày thì nghiên tầm giáo lý, đêm đến thì
tĩnh tọa tham thiền, trong khoảng ba năm Ngài đã thông hiểu hết ba tạng
kinh điển. Do đó người đời mới tôn kính đặt cho Ngài cái danh hiệu
"Hiếp Tôn Giả".
Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây
và đem các tặng phẩm mà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc,
vóc lụa, y phục ... phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền Trang đi lần về
phía đông nam.
Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La
(bây giờ là Taxila trong vùng Panjab). Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hy
Ma Lạp Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa Lâm, là những chi lưu của sông
Ấn Ðộ, diện tích độ 1.900 dặm vuông Anh. Nước này là nơi phát nguyên
Ðại thừa Phật giáo. Trong thời vua A Dục trị vì, Ngài đã đặt ở đây
Thủ đô của những tỉnh miền Tây bắc và cử Hoàng tử Câu Na La
(Kunâla), con Ngài, làm thủ hiến vùng này. Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc
lại câu chuyện thương tâm của vị Hoàng tử này:
Hoàng hậu, vợ vua A Dục mất, vua
lấy một người vợ sau. Bà này là người không đứng đắn, đem lòng
yêu Hoàng tử Câu Na La, nhưng bị Hoàng tử cự tuyệt. Bà sinh tâm oán hận
Hoàng tử và xúi vua đày Hoàng tử lên trấn nhiệm các tỉnh miền Tây bắc,
tức là nước Ca Thấp Di La. Nhưng bà mẹ kế này vẫn chưa nguôi thù oán.
Bà làm một sắc chiếu giả và thừa lúc vua ngủ, đóng dấu răng ngài
vào – sự đóng dấu theo thể thức này là một luật lệ của triều đình
– Tờ chiếu truyền lệnh móc đôi mắt Hoàng tử. Khi nhận được chiếu
chỉ, các thủ hạ của Hoàng tử do dự không dám thi hành. Thái tử bảo họ:
–Phụ thân ta đã truyền lệnh như
thế, ta đâu dám chẳng tuân theo? Các người hãy thi hành đi.
Hoàng tử bị mù cả hai mắt từ
đấy. Với một cây đàn, Câu Na La đi kiếm ăn hết tỉnh thành này đến
tỉnh thành khác. Một hôm, thái tử đi về phía kinh đô, đến gần hoàng
thành, nơi vua A Dục đang ở. Trong đêm khuya Thái tử vừa gảy đàn vừa
than trách số kiếp xót đau của mình. Vua từ trên lầu cao, giật mình kinh
ngạc khi nghe giọng hát ấy. Vua cho thị vệ gọi người hát vào và đau đớn
nhận ra là con mình! ...
Trong thời Ngài Huyền Trang đến đây,
ảnh hưởng Phật giáo Ðại thừa vẫn còn đang mạnh mẽ trong dân chúng.
Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân hành đem triều thần,
tăng chúng, quân lính ra nghinh đón có trên ngàn người. Cờ quạt rợp trời,
hương hoa đầy đất. Vua thân đến trước mặt Ngài, rải hoa dưới chân
Ngài và mời Ngài lên ngồi trên một thớt voi lớn, còn vua và đám rước
đi theo sau.
Sau khi biết được ý định của
Ngài sang Ấn Ðộ để sưu tầm kinh điển, vua truyền cho 20 người thơ lại
đi theo Ngài biên chép.
Ngài đến trọ tại một ngôi chùa
"Am-ra-nhân-đà" trong kinh thành. Chùa này có 30 vạn biến kinh, cọng
96 vạn câu, và một vị cao tăng đã 70 tuổi là Xưng Lão Pháp sư rất tinh
thông kinh điển Ðại thừa. Ngài ở đây biên chép kinh điển và theo học
với vị cao tăng này trong hai năm. Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư
xứng đáng với hoài bảo của mình. Ngài thường ca tụng vị sư này là một
người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học hỏi uyên thâm
và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy, Ngài theo học với vị cao
tăng đêm ngày không biết mệt. Và vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang từ
giã ra đi, đã tuyên bố với đại chúng rằng:
–Thầy Tăng Chi Na này trí lực hoằng
thâm, trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người thông minh đức
độ, đủ nối được cái phong thái và sự nghiệp của anh em Thế Thân Bồ
tát.
*
* *
VIII. TRÊN ÐƯỜNG ÐI ÐẾN CÁC
THÁNH ÐỊA PHẬT GIÁO
Ngài Huyền Trang đi dần về phía Trung Ấn Ðộ. Sau khi
đi chừng 1.000 dặm và qua mấy tiểu quốc ở Bắc Ấn Ðộ, một hôm, đi
ngang một khu rừng rậm rạp, Ngài và những người bạn đồng hành gặp
phải một bọn cướp chừng 50 tên. Sau khi lấy hết cả đồ dùng, áo quần,
vàng bạc, chúng nó còn nắm giáo mác đuổi theo Ngài và mấy người lữ hành.
Chạy được một đoạn đường, mấy người lữ hành nhận thấy bên bờ
một cái hồ khô nước, cây cỏ rậm rạp, có một cái hang rộng, có thể
chứa được nhiều người. Họ ra dấu cho Ngài và mấy người cùng nhau chạy
xuống đấy ẩn trốn. Bọn cướp đuổi theo sau, đến đây thấy mất tăm
dạng các người lữ hành, chúng mới thôi, không đuổi nữa. Sau khi thoát
nạn, họ chạy đến một làng gần đấy và kể lại tai nạn vừa xảy
ra. Một người Bà-la-môn, có lẽ là xã trưởng, đánh trống hội họp
dân làng cùng nhau đuổi theo tiêu trừ bọn cướp. Nhưng bọn này đã cao
bay xa chạy vào rừng sâu. Các lữ hành mất hết của cải rất đau buồn,
chỉ có Ngài là giữ được vẻ mặt tự nhiên tươi sáng, vì Ngài nghĩ rằng
tánh mạng là điều quý nhất chưa mất, thì cái gì rồi cũng có thể tạo
lại được.
Mà thật, khi đến một thành phố
gần đấy, họ gặp được một vị Bà-la-môn già, có cảm tình với đạo
Phật, triệu tập dân chúng và hô hào họ quyên góp vàng bạc, áo quần, vật
dụng trao tặng lại cho những người đã bị cướp. Ðiều may mắn nhất
cho Ngài là vị Bà-la-môn già ấy lại là đệ tử thông thái của một đại
sư đã có công lớn trong sự kiện toàn môn Nhân Minh học, là môn luận
lý học của Phật giáo. Ngài Huyền Trang bất ngờ mà gặp được vị đệ
tử giỏi về môn học này rất vui mừng, và xin ở lại thụ giáo với vị
này trong một tháng trời. Ngài Huyền Trang nhờ môn học này, mà đã thông
hiểu một cách tường tận hệ thống triết lý Ðại thừa và nhất là
Duy Thức học Phật giáo.
Ngài đi dần về phía đông, và qua
mỗi đoạn đường, Ngài lại gặp thêm nhiều minh sư, ích hữu, thu hoạch
được rất nhiều kinh điển Ðại thừa quý báu. Ngài ở chỗ này một năm,
chỗ kia năm ba tháng để khảo sát, biên chép, hay thỉnh giáo với những vị
học rộng biết nhiều.
Rồi Ngài đi dần về phía đông
nam, đến thành phố Ma-siêu-la (Mathura) trong lưu vực sông Jumna là thành phố
còn giữ rất nhiều di tích của các vị đệ tử tiếng tăm của đức Thích
Ca, như Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Ưu Bà Ly, A Nan Ðà, La Hầu La
...
Sau khi đến chiêm bái các nơi này.
Ngài lại đi tiếp sang phía đông, đến thượng lưu sông Hằng. Ðối với
tín đồ Ấn Ðộ giáo, sông Hằng là một con sông linh thiêng, bắt nguồn
từ trên cõi trời mà chảy xuống đất. Sắc nước luôn luôn thay đổi màu,
sóng rất lớn. Nước ngọt và lòng sông toàn cát trắng rất mịn. Theo
kinh điển Ấn Ðộ giáo, người ta gọi sông này là sông Hạnh phúc, ai tắm
trong nước của nó thì được rửa sạch tội lỗi, ai uống nước của nó,
hay chỉ súc miệng thôi, cũng đủ thoát nhiều tai nạn; ai trầm mình chết
ở đấy sẽ tái sanh lên cõi trời. Vì thế dân chúng theo Ấn Ðộ giáo đêm
ngày tụ tập lễ bái hai bên bờ sông. Và một số người tìm cái chết
trong dòng nước thiêng ấy để hy vọng lên cõi trời. Rải rác từng khoảng
gần hai bên bờ sông, Ngài thấy có những chiếc sào cắm xuống nước, phía
trên đầu có những cái móc hay cái nạn để cho người tín đồ treo mình
lên đấy. Từ sáng sớm, khi mặt trời bắt đầu lên, Ngài Huyền Trang đã
thấy một vài tín đồ ra sông, tự treo mình dọc theo cái sào ấy với một
tay và một chân móc vào cái nạn, còn tay và chân kia thì dang thẳng ra, đôi
mắt họ nhìn mặt trời và theo nó từ phía đông cho đến phía tây, từ
khi nó mới mọc cho đến khi nó lặn xuống chân trời mới trở về nhà,
để sáng hôm sau lại tiếp tục cái công việc ấy. Và cứ như thế, họ
làm hết tháng này đến tháng khác, hết năm này đến năm khác, hết hàng
chục năm này đến hàng chục năm khác, với mục đích là giải cho tâm
linh thoát kiếp luân hồi!
Dọc theo sông Hằng, Ngài Huyền
Trang đi đến thành Khúc Nữ (Kanauj) là kinh đô của nước Yết-nhược-cúc-đồ
(Kayakubja). Nước này thuộc Trung Ấn Ðộ là miền rất có nhiều thánh
tích đức Phật Thích Ca. Thời cổ gọi là "Ðất Giữa" vì nó nằm
ở giữa Ấn Ðộ. Khi Ngài Huyền Trang đến, thì Yết-nhược-cúc-đồ là
một nước đang thời thịnh trị, dân cư giàu có, vui vẻ làm ăn. Vị vua
đang trị vì nước ấy là Giới Nhật (Harsha) một anh quân, rất sùng mộ
đạo Phật có thể so sánh được với A Dục vương thời trước. Kinh thành
Khúc Nữ nằm trên bờ tây sông Hằng có đến 100 ngôi chùa, tăng lữ có
trên vạn người. Khi Ngài Huyền Trang đến đây, vua Giới Nhật không có
ở kinh đô, nên không được vua tiếp đón như những nước mà Ngài đã
đi qua. Ngài ở lại đây ba tháng, trọ lại chùa Bạt-đạt-di-kha-la
(Bhadravihârâ) để học hỏi Tam tạng kinh điển. Sau ba tháng ở thành Khúc
Nữ, Ngài lại vượt sông Hằng đi về phía đông, đến một thành có nhiều
di tích rất thân thiết đối với Ngài, là thành A Du Ðà (Ayodhya, tỉnh
Oude). Thành này còn rực rỡ oai danh của hai vị Bồ-tát có công lớn với
Ðại thừa Phật giáo và là những vị đã thành lập môn Duy Thức học,
đó là hai anh em Ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân Bồ-tát (Vasubandhu).
Ngài Huyền Trang đến khu rừng Xoài, cách 5, 6 dặm về phía tây nam A Du
Ðà, là nơi có tịnh xá mà hai thế kỷ trước, hai vị bồ-tát này đã tu
niệm và giảng dạy giáo phái của hai Ngài.
Câu chuyện của hai vị Bồ tát
này cũng đáng để cho chúng ta suy gẫm trong vấn đề đi tìm sự thật:
Hai anh em Ngài Vô Trước và Thế
Thân, gốc ở thượng lưu sông Hằng, đều là những vị thông minh xuất
chúng. Nhưng trong lúc Ngài Vô Trước là anh, tu theo phái Ðại thừa thì
Ngài Thế Thân là em lại theo Tiểu thừa. Hai Ngài đều có trước tác những
bộ luận để xướng minh giáo lý của phái mình, và tất nhiên không thể
không có những sự xung đột về lý thuyết.
Một hôm, Ngài Vô Trước mời em đến
tịnh xá của mình tại rừng Xoài chơi. Ðêm đến, Ngài Vô Trước dẫn Ngài
Thế Thân ra một cái gác dựng bên sông để em nằm hóng mát, còn mình
thì trở vào. Ðêm ấy là một đêm thu, có trăng rất đẹp. Trăng và nước
hòa hợp trong một bầu trời thu, mênh mông, huyền ảo. Bỗng một giọng tụng
niệm trong trẻo thanh thoát ngân lên, ngân lên, bay trong gió, hòa hợp trong
không trung. Ðó là một bài luận về Ðại thừa. Qua ý nghĩa bài luận, thế
giới vật chất như tan biến, mung lung, mộng ảo như ánh trăng, như hơi
nước đang bàn bạc trên sông. Trước mắt Ngài, vật chất chỉ là thế,
nghĩa là hư ảo, là duy tâm, là duy thức.
Ngài Thế Thân xúc động đến tận
đáy lòng, và cảm thông được cái cao thâm huyền diệu của giáo lý Ðại
thừa, Ngài vừa xấu hổ, vừa hối hận, đi vào nhà, xin cắt lưỡi trước
mặt anh để chuộc cái tội đã phỉ báng Ðại thừa.
Ngài Vô Trước can em:
– Sao lại cắt lưỡi? Em đã dùng
cái lưỡi ấy để công kích Ðại thừa thì nay cũng nên dùng cái lưỡi
ấy để xiểng dương Ðại thừa, mới phải chứ!
Ngài Thế Thân nghe theo lời anh dạy.
Trước kia Ngài đã viết 500 bộ luận về Tiểu thừa để kích bác Ðại
thừa, thì từ đấy, Ngài lại viết 500 bộ luận về Ðại thừa để thuyết
minh giáo lý Ðại thừa. Do đó, người đời tôn xưng Ngài là "Thiên bộ
Luận sư", vị luận sư tạo ngàn bộ luận.
Ngài Huyền Trang khi đến thăm tịnh
xá của hai vị Bồ tát này, chắc không thể không xúc động mãnh liệt,
vì giáo lý Duy thức mà hai vị này đã phát huy ra trước Ngài hai thế kỷ,
chính là giáo lý mà sau này Ngài đã dùng làm cơ sở cho bộ luận Thành
Duy Thức đồ sộ của Ngài, và là căn bản của Pháp Tướng tông.
Từ giã tịnh xá của hai vị Bồ-tát
này, Ngài đi thuyền xuôi theo sông Hằng về phía đông để tiếp tục viếng
các Phật tích. Trong thuyền có lối 20 hành khách. Thuyền xuôi theo dòng
sông, độ vài chục dặm thì xảy ra một tai nạn lớn, có thể nói là lớn
nhất trong cuộc hành trình của Ngài từ trước đến nay, và có thể làm
Ngài bỏ xác nơi đây.
Thuyền đi vào một khúc sông, hai
bên bờ có nhiều cây cối rậm rạp của rừng cây "A Dục". Dưới
những tàn cây rậm rạp bổ ra sông, có mười chiếc ghe của bọn cướp
đang ẩn núp đợi mồi. Khi thấy thuyền Ngài gần đến, bọn cướp hè
nhau bơi thuyền ra chặn đường. Nhiều hành khách sợ quá nhảy ùm xuống
sông và mất xác, những người còn lại bị đưa vào bờ và bị bọn cướp
lột hết quần áo, của cải. Bọn cướp này thờ "Durga", một nữ
hung thần thường bắt các đệ tử cuồng tín phải làm lễ hy sinh người
sống cho mình. Thường năm, đến mùa thu, họ tìm một nạn nhân, phần nhiều
là đàn ông có hình dáng cân đối, mặt mũi khôi ngô để lấy huyết và
thịt dâng cúng cho nữ thần. Khi bọn cướp này nhận thấy Ngài Huyền
Trang có khuôn mặt tuấn tú, hình dáng oai nghi, chúng nhìn nhau mừng rỡ.
Chúng nói với nhau:
–Chúng ta đã trễ quá thời hạn
làm lễ tế thần, vì chưa tìm được một kẻ hy sinh xứng đáng với nữ
thần. Nhưng bây giờ chúng ta gặp được nhà sư mặt mũi khôi ngô, thân
hình đẹp đẽ này, chúng ta hãy làm lễ tế ngay, để nữ thần ban phước.
Ngài nghe nói, bình tỉnh trả lời:
–Nếu thân xác của bần tăng này
đáp đúng ý nguyện của các ngươi, để dâng cúng cho nữ thần, bần tăng
thật tình không dám tiếc. Nhưng bần tăng từ phương xa lặn lội đến đây
để chiêm bái các Phật tích, cung thỉnh các kinh điển và học hỏi giáo
lý của đức Thích Ca. Sở nguyện thiết tha ấy chưa thành, mà nay các ngươi
đành tâm giết bần tăng, thì bần tăng e rằng các ngươi đã không được
phúc mà trái lại còn mang thêm nhiều tai họa.
Những người hành khách quỳ xuống
xin bọn cướp tha chết cho Ngài. Có người lại xin thay mạng cho Ngài. Nhưng
bọn cướp đều từ chối. Tên đầu đảng truyền lệnh cho bộ hạ vào rừng
lấy nước trong và dựng một cái bàn thờ với đất bùn lấy ở dưới sông
lên. Xong xuôi nó truyền hai tên thân tín rút giáo, lôi Ngài lên bàn thờ
để làm lễ hy sinh ngay. Trong lúc đó sắc mặt Ngài vẫn không đổi, bình
thản như thường. Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên và không khỏi xúc động.
Riêng Ngài, thì Ngài thấy giờ phút cuối cùng sắp đến, nên yêu cầu bọn
cướp trì hoãn cho Ngài một lúc để Ngài cầu nguyện và đừng lôi kéo
Ngài như thế. Ngài bảo:
–Các ngươi hãy để cho bần tăng
được nhập Niết-bàn một cách thanh tịnh và hoan hỷ.
Nói xong, Ngài ngồi kiết già, xưng
tán đức Di Lặc và chư Bồ tát trong mười phương, mong cầu được nhập
vào hàng Thánh chúng để được nghe pháp và giác ngộ hoàn toàn. Rồi
Ngài lại nguyện sau khi giác ngộ sẽ trở về cõi Ta Bà này khai thị cho bọn
cướp, đưa chúng về con đường chính và làm các việc công đức để
chuộc những lỗi lầm. Cuối cùng, Ngài nguyện sẽ hóa độ toàn thể
chúng sanh, và đưa họ vào cảnh giới an lạc. Nguyện xong, Ngài nhập định
và chú toàn tâm lực vào đức Bồ-tát Di Lặc.
Bỗng Ngài nhận thấy tâm hồn
lâng lâng siêu thoát, như bay bổng đến núi Tu Di, và sau khi lên đến tầng
trời thứ ba, Ngài thấy đức Di Lặc đang ngồi trên tòa sen rực rỡ và
quanh Ngài, chư thiên đang ngồi nghe pháp. Trong khi tâm hồn Ngài đang phiêu
diêu trong cảnh giới thanh tịnh ấy, Ngài không còn nhận thấy rằng mình
đang ngồi trên bàn thờ tế nữ thần, bên cạnh bọn cướp khát máu đang
nóng lòng chờ đợi cắt da, xẻ thịt mình, và dưới chân Ngài, chung quanh
Ngài, những người đồng hội, đồng thuyền với mình đang than khóc tiếc
thương Ngài.
Bỗng một trận cuồng phong nổi
lên, làm cây cối gẫy ngã, cát bụi tung đầy trời, sóng cuồn cuộn gầm
thét và lật úp ghe thuyền trên sông. Bọn cướp hoảng sợ, hỏi những kẻ
bộ hành cùng đi theo Ngài:
–Nhà sư này ở đâu đến và tên
ông ta là gì?
Một người trong đám hành khách trả
lời:
–Ðó là một cao tăng từ Trung Hoa
đi sang đây thỉnh kinh. Nếu các người giết vị sư ấy thì tai họa lớn
lao sẽ đến với các người. Các người thấy chưa, gió bão đang nổi dậy
đó chính là triệu chứng sự giận dữ của chư thiên trước hành động
bạo tàn của các người. Các người hãy mau hối cải mới được.
Bọn cướp sợ hãi, sụp quỳ xuống
bên chân Ngài, xin tha tội, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên tĩnh tọa, không nhận
thấy sự thay đổi đột ngột, kỳ lạ xảy đến chung quanh Ngài. Một
tên cướp xích lại gần, nắm chéo áo Ngài van xin tha tội, làm Ngài sực
tỉnh.
Khi được biết bọn cướp đã hoảng
sợ mà đổi ý, Ngài nhận tin ấy một cách bình tĩnh, không đổi sắc mặt.
Ngài khuyên bọn cướp hãy cải tà quy chánh. Bọn cướp ngoan ngoãn xin
tuân theo. Trận cuồng phong dịu dần rồi tắt hẳn.
*
* *
IX. CHIÊM BÁI CÁC PHẬT TÍCH
Sau khi được toàn tánh mạng, và thoát khỏi tay bọn cướp
hung ác một cách bất ngờ, Ngài Huyền Trang đi về phía Ðông Bắc là nơi
có nhiều Phật tích quý báu, trong số ấy có 6 đại thánh địa mà mọi
Phật tử, khi sang Ấn Ðộ hành hương, đều ao ước được đến chiêm
bái. Sáu đại thánh địa ấy là: Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật giáng
sanh; Thành Ca Tỳ La Vệ, nơi trưởng dưỡng của Ngài khi chưa xuất gia; Bồ
đề đạo tràng, nơi đức Phật thành Ðạo; vườn Nai, nơi Ngài thuyết
pháp lần đầu tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như; vườn Trúc Lâm hay Cấp
Cô Ðộc, nơi Ngài nhập Niết-bàn.
Trong cuộc chiêm bái của Pháp sư
Huyền Trang, Ngài không theo thứ tự như đã kể trên, nhưng theo sự thuận
tiện trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái những nơi sau đây:
1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp
Cô Ðộc.
Vườn này có tên là Cấp Cô Ðộc
vì do một vị trưởng giả giàu có, ông Tu Ðạ Na, cúng cho đức Phật để
làm nơi thuyết pháp. Sự tích cúng vườn này cũng là một điều lý thú
nên nhắc lại: Ông Tu Ðạt Na là một người giàu lòng bố thí, thường
cung cấp nuôi dưỡng những mẹ góa, con côi nghèo khổ, cho nên được người
đời tặng cho biệt hiệu là Cấp Cô Ðộc trưởng giả. Khi Phật đến
thuyết pháp tại thành Vương Xá (Kocala, nay là tỉnh Oude), ông Tu Ðạt Na
xin nguyện cúng cho Ngài một nơi yên tĩnh để làm tịnh xá. Ông lựa được
một chỗ đất rất tốt, đó là rừng Trúc Lâm. Nhưng rừng này thuộc sở
hữu của nhà vua. Ông xin mua lại bằng cách đem vàng bạc trải trên mặt
đất. Nhưng còn một đám đất vì cây cối rậm rạp ông chưa biết làm
thế nào để trải lên, nên đứng nhìn đám đất với vẻ mặt băn
khoăn. Vua lấy làm lạ, hỏi nguyên nhân, ông Tu Ðạt Na trả lời:
–Tâu Hoàng thượng, thần được
diễm phúc cúng dường đức Phật một nơi làm tịnh xá, để Ngài thuyết
pháp độ sinh. Thần thấy đó là một công đức lớn vô cùng. Nhưng nay vì
còn một đám đất rậm rạp này, thần chưa biết phải trải vàng thế
nào để mua nốt, nên thần đang băn khoăn suy nghĩ.
Vua trả lời:
–Nếu sự cúng dường cho đức Phật
có một công đức lớn lao như thế thì ta không bán đám đất còn lại
ấy nữa. Ta sẽ dâng cúng cho đức Phật để làm công đức.
Từ đấy một tịnh xá đồ sộ
được dựng lên ở trong vườn Trúc Lâm, nơi thường trú của đức Phật,
sau ngày thành đạo. Mấy thế kỷ sau ngày nhập diệt của Ngài, khách
hành hương đến chiêm bái ở đây vẫn còn say ngắm những phong cảnh ngoạn
mục nên thơ, nào hồ sen, nào bồn hoa cây cảnh, nào giảng đường, nào
trai phòng ... Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây, thì tịnh xá này đã
hoang vắng, điêu tàn. Tất cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ
lại hai cột trụ đá mà vua A Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh
một bánh xe Pháp và ở dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một nơi thánh
địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc thuyết pháp của đức
Phật, mười ba thế kỷ trước.
Vùng Trúc Lâm này, không những chỉ
được cái vinh dự in nhiều nhất những bước chân của đấng Giải thoát,
mà còn mang bao di tích quý báu có liên hệ đến đời Ngài hay của các vị
đại đệ tử.
Chính ở đây, du khách còn được
chiêm bái đám đất trước kia là tu viện của Di mẫu đức Phật và quý
vị Tỳ Kheo Ni đầu tiên của Ni bộ. Mỗi bước Ngài Huyền Trang dẫm lên
vùng này là gặp một kỷ niệm đáng kể: Ở đây là mộ phần của anh
chàng Vô Não (Angulimâla), một tên cướp theo cuồng đạo, giết người để
chặt ngón tay làm chuỗi hạt đeo ở cổ. Theo đạo ấy, thì hễ ai giết
được một trăm người, lấy một trăm ngón tay làm tràng hạt thì được
đắc đạo. Anh chàng Vô Não chỉ còn thiếu có một ngón tay thì chuỗi hạt
của anh đủ một trăm ngón. Tìm không ra người để giết, anh toan đem mẹ
anh làm vật hy sinh. Ðức Phật biết được, tự nguyện thay người mẹ để
cho chàng Vô Não giết. Anh ta vung gươm nhảy tới chém đức Phật; đức Phật
cứ lui dần, lui dần, và tên sát nhân khát máu kia không sao đuổi kịp. Vừa
bước lui, vừa thuyết pháp, cuối cùng đức Phật đã hàng phục được tên
cuồng tín kia và cho nhập vào hàng thánh chúng. Ở nơi kia là mộ phần của
nàng con gái mà bọn ngoại đạo đã âm mưu độn bụng để vu oan cho đức
Phật. Ở một nơi khác là cái bia dựng lên để kỷ niệm nơi đức Phật
đã săn sóc một vị Tỳ kheo già ốm. Một hôm đức Phật nhận thấy
trong một căn nhà hẻo lánh, một vị Tỳ kheo già ốm đang nằm đợi chết.
Phật hỏi duyên cớ, vị Tỳ kheo trả lời vì mình quá giải đãi, không
chịu uống thuốc men và cũng không ai săn sóc nên mới ra nông nỗi như thế.
Ðức Phật động lòng từ bi, dẫn ông ra khỏi phòng, tự tay quét dọn giường
chiếu, rửa tay và thay áo quần cho vị Tỳ kheo ấy, rồi đi ra, sau khi đã
dạy bảo ông phải luôn luôn tinh tấn. Bệnh của vị Tỳ kheo ấy tự
nhiên lành hẳn.
Bao nhiêu kỷ niệm đã vươn dậy
dưới bước chân của Ðường Pháp sư, và mỗi kỷ niệm là một bài học
vô giá, một biểu hiện của lòng từ bi hay trí tuệ, của thanh tịnh hay
tinh tấn ... Với một tâm hồn phong phú, tín thành như Ngài Huyền Trang,
thì một mảnh tường đổ, một viên gạch, một hòn sỏi, cho đến một cục
đất trong thánh địa Trúc Lâm đều đáng được ôm vào lòng để nâng
niu, chiêm ngưỡng.
2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và
thành Ca Tỳ La Vệ.
Sau khi rời khỏi vườn Cấp Cô Ðộc,
Ngài Huyền Trang đi 800 dặm về phía Ðông bắc, đến thành Ca Tỳ La Vệ
(bây giờ thuộc nước Népal), quê hương của đức Phật. Thành này, khi
Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa. Thành quách, đền
đài bị tàn phá, may ra chỉ còn lại những móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ
cây hoang dại lan cùng mặt đất; năm bảy cái chòi tranh che không kín gió
những người dân thưa thớt, nghèo nàn. Vài ba chục vị Tỳ kheo Tiểu thừa
cố gắng gìn giữ một cách bất lực, thảm thương, với sự hiện diện
nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày xưa của nơi chôn nhau cắt
rún của vị Siêu phàm đã làm vẻ vang cho nhân loại! Mười ba thế kỷ đã
qua rồi, tang thương đã mấy lần thay đổi, ngài Huyền Trang còn mong gì
tìm thấy lại vang bóng của thời oanh liệt xưa kia? Nhưng cũng may, nhờ sự
sáng suốt nhìn xa của vua A Dục, những trụ đã được dựng lên khắp nơi
để ghi lại cho hậu thế những biến chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống
của đức Phật, khi còn sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.
Ðây, nơi đạo sĩ A Tư Ðà tiên
đoán tương lai huy hoàng của Thái tử Tất Ðạt Ða. Ðây, nơi Ngài đã
thi tài võ nghệ và đã thắng cuộc một cách vẻ vang để kết hôn với
công chúa Da Du, con vua Thiện Giác. Ðây, ba cửa thành mà Ngài đã gặp người
đau, người già, người chết ... Ðây con đường nhỏ Ngài đã phi ngựa
Kiền Trắc trong đêm, trốn ra khỏi hoàng thành để tìm Ðạo. Ðây, cánh
đồng ven rừng mà Ngài đã ngồi tham thiền sau khi thấy cảnh tương tàn tương
sát giữa chúng sanh. Ðây, nơi hội ngộ đầu tiên giữa Ngài và vua Tịnh
Phạn, sau những năm dài Ngài xuất gia và tìm được Ðạo.
Cách thành Ca Tỳ La Vệ mấy dặm về
phía đông bắc, là vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đã ra đời trong khi
Hoàng hậu Ma Da đang đi ngoạn cảnh vào buổi tinh sương ở trong vườn. Cây
Vô Ưu mà Hoàng hậu đã với tay lên trong phút giây thiêng liêng của đức
Phật xuất thế, bây giờ cũng không còn dấu vết nữa, vườn hoa rực rỡ
ấy chỉ còn là một khu rừng hoang vắng tiêu điều! Thật cảnh vô thường
đã quá rõ rệt!
3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi đức
Phật nhập diệt.
Từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài
Huyền Trang đi về phía đông, qua 500 dặm rừng rậm, đến xứ Câu-thi-na-yết-la
(Kucinagara, bây giờ là Kasi), là nơi đức Phật đã nhập diệt. Ngài Huyền
Trang đến khu rừng Sa La (Cala) nơi đức Phật đã bảo ông A Nan treo võng
cho Ngài nằm nghỉ. Và đó cũng chính là nơi yên nghỉ cuối cùng của
Ngài. Rừng cây, hoa lá của vùng này đã có diễm phúc nghe những Pháp âm
vô cùng quý giá của Ngài trước khi Ngài nhập diệt, như " ... Này,
các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy Pháp của ta làm
đuốc, hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát. Ðừng tìm sự giải thoát
ở một kẻ khác! Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác" ...
Hoặc: "Này các Tỳ kheo! Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời
ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã.
Chỉ có Ðạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bắt di bất
dịch!". "Hãy tinh tấn lên để giải thoát!"
Ngài Huyền Trang đi viếng khắp cả
vùng này. Ðây là nền nhà trong ấy ông Thuần Ðà đã dâng cúng bữa cơm
cuối cùng của đức Phật. Ðây là nơi nhập diệt. Ðây là nơi làm lễ
trà tỳ (hỏa táng). Ðây là nơi các vị quốc vương Ấn Ðộ chia Xá lợi
của Phật ...
Chiêm bái ở đây xong, Ngài Huyền
Trang vượt nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại (Bénarès), viếng
vườn Lộc Uyển.
4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển.
Lộc-uyển là nơi mà đức Phật đến
thuyết pháp lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho năm người bạn đồng
tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở ngoại ô thành
Ba La Nại. Nhóm ông Kiều Trần Như gồm năm tu sĩ, ban đầu cùng tu với đức
Phật, theo phương pháp khổ hạnh. Ðược ít lâu, nhận thấy phương pháp
này không có hiệu quả, trái lại cứ làm cho thân thể mỗi ngày mỗi gầy
yếu, đức Phật đã rời nhóm ông Kiều Trần Như và phương pháp tu hành
của họ. Ngài trở lại ăn uống như thường, và bị nhóm ông Kiều Trần
Như chế nhạo, khinh rẻ. Sau một thời gian tu luyện một mình, đức Phật
đã thành đạo Chánh đẳng Chánh giác. Ngài trở về vườn Lộc Uyển và
trình bày sự giác ngộ của mình cho năm người bạn đồng tu là nhóm ông
Kiều Trần Như nghe. Năm người này trở thành năm đệ tử đầu tiên của
ngài. Từ đó Lộc Uyển trở thành một đạo tràng mà đức Phật Thích Ca
thường tới lui thuyết pháp. Vua A Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá
chạm trổ rất đẹp để đánh dấu nơi thuyết pháp đầu tiên của Phật.
Khi Ngài Huyền Trang đến đây, mọi
thánh tích của đức Phật khi còn tại thế đều được giữ nguyên vẹn
và kính cẩn, vì ở đây, đang có một ngàn rưởi vị Tỳ kheo tu hành
trong tịnh xá dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế, Ngài Huyền Trang
được chiêm ngưỡng những cái hồ mà đức Phật đã dùng hoặc để tắm,
để giặt, hay để rửa bình bát ...
5. Chiêm bái Bồ-đề đạo tràng, nơi
đức Phật thành đạo.
Ngài Huyền Trang đi lần về phía
Nam, đến xứ Ma Kiệt Ðà, là một nước phồn thịnh trong thời Phật tại
thế, và là quê hương của vua A Dục. Chính ở kinh đô nước này, Vương
Xá thành, là nơi vị vua anh hùng cái thế ấy đã triệu tập các vị đại
đức tăng già để kiết tập kinh điển lần thứ ba.
Khi Ngài Huyền Trang đến thành Vương
Xá thì thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ còn nhận thấy những
vết tích của những điện các huy hoàng ngày xưa. Và trong số hàng trăm tịnh
xá mà vua A Dục đã dựng lên ở đây, chỉ còn lại vài ba cái còn đứng
vững. Ngài Huyền Trang ở lại đây bảy ngày, rồi đi về phía Tây, luôn
trong sáu ngày mới đến rừng Bồ đề già là nơi có cây Bồ đề mà đức
Phật đã ngồi tham thiền ở dưới gốc cho đến khi thành đạo. Chính ở
gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện lịch sử:
"Nếu không thành đạo thì dù
thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi gốc Bồ đề này".
Khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái
vùng này, thì sông Ni Liên Thuyền, nơi đức Phật đã tắm rửa trước khi
ngồi xuống gốc cây Bồ đề, vẫn còn trong xanh, cây hai bên bờ vẫn còn
tươi tốt. Riêng về cây Bồ đề lịch sử, ngài Huyền Trang đã tả:
"Thân cây màu trắng ngà, lá xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa
hè cũng như mùa đông. Chỉ đến ngày kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn
thì lá mới rụng, nhưng ngày hôm sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như
trước. Ngày ấy các bậc vua chúa, triều thần và thiện nam tín nữ đến
hành lễ ở đất, họ tưới vào gốc cây sữa tươi, thắp hương đèn và
rải hoa chung quanh. Họ hái lộc rồi ra về".
Cây Bồ đề này được vua A Dục
săn sóc chu đáo và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch quanh gốc
cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía Ðông, nhìn ra
sông Ni Liên Thuyền. Cửa phía Nam giáp giới một cái hồ trồng đầy sen.
Phía Tây giáp giới với một dãy đồi cao. Phía Bắc có một cái tịnh xá
rộng lớn, chính giữa có một pháp tọa, gọi là Kim Cang pháp tọa, vì dù
cho trời long đất lở, thì pháp tọa ấy cũng vững vàng như bàn thạch,
không lay chuyển. Tương truyền chỉ những vị Bồ-tát sắp chứng được
quả vị Phật mới được vào đấy.
Sau khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ
đề một hồi lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ xuống đất, không ngớt lời
than khóc:
Kính lạy đức Từ phụ, khi Ngài
đã chứng quả Bồ-đề thì con đang còn lặn hụp trong biển khổ si mê;
cho đến nay sau khi Ngài đã nhập Niết bàn trên một ngàn năm rồi, con
cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi! Thật quả nghiệp báo của
con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ, thẹn thùng cho duyên kiếp của
con".
Ngài nói xong, nước mắt chan hòa,
không sao cầm lại được. Trong lúc ấy, có trên mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ,
đến vây quanh Ngài Huyền Trang, và đều mũi lòng thương cảm trước thái
độ thành khẩn của Ngài.
Ngài Huyền Trang ở đây 6 ngày, rồi
đến lưu học ở chùa Na Lan Ðà.
Thế là Ngài đã lần lượt chiêm
bái xong các thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về phương diện tình
cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ, như thế là
Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải làm thế nào để được
thỏa mãn lý trí trong sự khao khát tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.
Mục lục
| 1 | 2 | 3 | 4 | 5