Phật lịch 2539 - 1995
-
TIỂU SỬ
-
DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX
MỤC LỤC |
Lời giới thiệu
Ý kiến về bộ
tiểu sử danh tăng Việt Nam
Lời nói đầu
Ban biên tập
I.
GIAI ĐOẠN TIỀN CHẤN HƯNG. Trang
01. Tổ Bồ Đề
Hòa Thượng Thích Nguyên Biểu (1835-1906) 27
02. Hòa
Thượng Hoằng Ân - Minh Khiêm (1850-1914) 33
03. Hòa
Thượng Minh Hòa - Hoan Hỷ (1846-1916) 43
04. Hòa
Thượng Vĩnh Gia (1840-1918)
53
05. Hòa
Thượng Thích Chánh Hậu (1852-1923) 59
06. Hòa
Thượng Như Phòng - Hoằng Nghĩa (1867-1929) 67
II.
GIAI ĐOẠN CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM.
07. Tổ Phi
Lai Hòa Thượng Thích Chí Thiền (1861-1933) 79
08. Hòa
Thượng Thích Mật Khế (1904-1935) 89
09. Tổ Vĩnh
Nghiêm HT. Thích Thanh Hanh (1840-1936) 97
10. Hòa
Thượng Thích Giác Tiên (1880-1936) 105
11. Hòa
Thượng Thích Từ Phong (1864-1938) 113
12. Hòa
Thượng An Lạc - Thích Minh Đàng (1874-1939) 123
13. Tổ Trung
Hậu HT. Thích Trừng Thanh (1861-1940) 131
14. Tổ Bằng
Sở HT. Thích Trung Thứ (1871-1942) 139
15. Hòa
Thượng Thích Trí Thiền (1882-1943) 147
16. Quốc Sư
Thích Phước Huệ (1869-1945) 155
17. Hòa
Thượng Thích Huệ Pháp (1891-1946) 163
18. Hòa
Thượng Thích Khánh Hòa (1877-1947) 173
19. Hoà
Thượng Thích Bửu Chung (1881-1947) 185
20. Hòa
Thượng Vạn An - Thích Chánh Thành (1872-1949) 195
21. Hòa
Thượng Thích Thiền Phương (1879-1949) 203
22. Hòa
Thượng Bích Liên - Thích Trí Hải (1876-1950) 211
III.
GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO ĐẦU TIÊN.
23. Hòa
Thượng Liên Tôn - Thích Huyền Ý (1891-1951) 221
24. Hòa
Thượng Thích Huệ Đăng (1873-1953) 231
25. Hòa
Thượng Thích Khánh Thông(1870-1953) 241
IV.
PHẬT GIÁO Ở GIAI ĐOẠN CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC.
26. HT. Bích
Không - Thích Giác Phong (1894-1954) 249
27. Tổ Minh
Đăng Quang (1923-1954) 261
28. Hòa
Thượng Thích Huệ Quang (1888-1956) 271
29. Hòa
Thượng Thích Mật Ứng (1889-1957) 279
30. Hòa
Thượng Tế Xuyên - Thích Doãn Hài (1874-1958) 285
31. Hòa
Thượng Tuệ Tạng - Thích Tâm Thi (1889-1959) 293
32. Hòa
Thượng Thích Khánh Anh (1895-1961) 301
33. Hòa
Thượng Thích Pháp Hải (1895-1961) 309
34. Hòa
Thượng Thích Mật Thể (1913-1961) 317
35. Hòa
Thượng Thích Phước Nhàn (1886-1962) 325
36. Hòa
Thượng Thích Quảng Đức (1897-1963) 333
37. Hòa
Thượng Thích Phước Huệ (1875-1963) 343
38. Hòa
Thượng Sơn Vọng (1886-1963) 353
39. Hòa
Thượng Thích Thanh Tích (1881-1964) 363
40. Hòa
Thượng Thích Thiện Tòng (1891-1964) 369
41. Hòa
Thượng Tăng Nê (1899-1965) 379
42. Hòa
Thượng Hữu Nhiêm (1917-1966) 387
43. Hòa
Thượng Giác Quang (1875-1967) 395
44. Hòa
Thượng Hương Tích Thích Vạn Ân (1886-1967) 399
45. Hòa
Thượng Thích Huệ Chiếu (1895-1970) 409
46. Hòa
Thượng Thích Minh Đức (1902-1971) 417
47. Hòa
Thượng Thích Bích Lâm (1924-1971) 427
48. Hòa
Thượng Thích Mật Nguyện (1911-1972) 433
49. Hòa
Thượng Thích Hải Tràng (1884-1972) 441
50. Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa (1918-1973) 449
51. Hòa
Thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973) 459
52. Hoà
Thượng Thích Tâm Giác (1917-1973) 469
53. Hòa
Thượng Thích Thiện Chiếu (1898-1974) 481
V.
PHẬT GIÁO GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC.
54. Hòa
Thượng Thích Trí Thắng (1891-1975) 495
55. Hòa
Thượng Thích Viên Giác (1911-1976)
505
56. Hòa
Thượng Thích Thành Đạo (1906-1977) 513
57. Hòa
Thượng Thích Tố Liên (1903-1977)
525
58. Hòa
Thượng Thích Hoàn Thông (1917-1977) 533
59. Hòa
Thượng Thích Thiện Hòa (1907-1978)
539
60. Hòa
Thượng Thích Thiện Minh (1922-1978) 549
61. Hòa
Thượng Thích Bửu Chơn (1911-1979)
561
62. Hòa
Thượng Thích Trí Độ (1894-1979)
569
63. Hòa
Thượng Lâm Em (1898-1979)
579
64. Hòa
Thượng Thích Trí Hải (1906-1979)
587
65. Hòa
Thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979) 599
66. Hòa
Thượng Thích Huyền Tân (1911-1979) 609
VI.
GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO VIỆT NAM LẦN THỨ 2.
67. Hòa
Thượng Thích Giác Hạnh (1880-1981)
619
68. Hòa
Thượng Hộ Tông (1893-1981)
627
69. Hòa
Thượng Thích Tâm Hoàn (1924-1981)
635
70. Hòa
Thượng Ẩn Lâm (1898-1982)
643
71. Hòa
Thượng Thích Thái Không (1902-1983) 649
72. Hòa
Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)
657
73. Hòa
Thượng Thích Thiện Tường (1917-1984) 673
74. Hòa
Thượng Tịnh Sự (1913-1984)
681
75. Hòa
Thượng Thích Pháp Tràng (1898-1984) 689
76. Hòa
Thượng Thích Thanh Trí (1919-1984)
699
77. Hòa
Thượng Thích Hành Trụ (1903-1984)
707
78. Hòa
Thượng Giới Nghiêm (1921-1984)
715
79. Hòa
Thượng Thích Phúc Hộ (1904-1984) 723
80. Hòa
Thượng Thích Thế Long (1909-1985)
735
81. Hòa
Thượng Thích Minh Nguyệt (1907-1985) 743
82. Hòa
Thượng Thích Trí Hưng (1908-1986) 753
83. Hòa
Thượng Thích Vĩnh Đạt (1911-1987) 765
84. Hòa
Thượng Thích Giác Tánh (1911-1987)
773
85. Hòa
Thượng Ngộ Chân Tử (1901-1988) 783
86. Hòa
Thượng Thích Bình Minh (1924-1988)
793
87. Hòa
Thượng Thích Phước Quang (1908-1988) 801
88. Hòa
Thượng Thích Thanh Chân (1905-1989) 811
89. Hòa
Thượng Thích Huệ Hưng (1917-1990)
821
90. Hòa
Thượng Thích Bửu Lai (1901-1990) 831
91. Hòa
Thượng Thích Tâm Nguyện (1917-1990) 843
92. Hòa
Thượng Thích Bửu Huệ (1914-1991) 851
93. Hòa
Thượng Thích Hưng Từ (1911-1991) 861
94. Hòa
Thượng Thích Thiện Chơn (1914-1992) 869
95. Hòa
Thượng Thích Hoằng Đức (1888-1992) 875
96. Hòa
Thượng Thích Đôn Hậu (1905-1992) 883
97. Hòa
Thượng Thích Mật Hiển (1907-1992)
895
98. Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm (1925-1992)
905
99. Hòa
Thượng Thích Nhựt Minh (1908-1993)
915
100. Hòa
Thượng Thích Đức Nhuận (1897-1993) 923
VII.
PHẦN PHỤ LỤC
01. Cư Sĩ
Thiều Chữu - Nguyễn Hữu Kha (1902-1954) 937
02. Cư Sĩ
Tâm Minh - Lê Đình Thám (1897-1969) 949
03. Cư Sĩ
Chánh Trí - Mai Thọ Truyền (1905-1973) 959
04. Cư Sĩ
Nguyễn Văn Hiểu (1896-1979)
971
|
Nội dung tiêu chuẩn
của Phật giáo là Tam Bảo : Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật bảo, đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, giáo chủ của đạo Phật; Pháp bảo, giáo pháp đã được
đức Phật nói ra; Tăng bảo, đệ tử của Phật, nương vào lời dạy của Phật để
tu hành, truyền trì mệnh mạch của giáo pháp. Tam bảo cũng còn là bản chất
của Phật giáo. Phật bảo là biểu hiện cho mục đích tự giác, hoàn thành hai
phần Bi Trí để trở thành nhân cách tối cao. Pháp bảo là khái niệm nhận
thức về hết thảy chư pháp đều không tánh, duyên sinh, biểu hiện cho phần
giải thoát khổ não, chuyển vào cảnh giới an lạc. Tăng bảo, nương vào phần
tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ.
Tam bảo được hình
thành từ ngày đức Phật còn tại thế, và vẫn được truyền trì phát triển, tồn
tại liên tục ở thế gian cho tới hiện nay và mãi mãi sau này, đó là nương
vào đạo tại nhân hoằng, nương vào sự nghiệp tuyên dương chánh pháp của
lịch đại Tổ Sư. Do vậy, Tăng bảo được coi là thành phần trọng yếu, nhờ có
Tăng hoằng mà Phật pháp được rộng mở trên khắp thế giới như ngày nay.
Trong mỗi đất nước ở bất cứ nơi đâu, nếu có các bậc cao Tăng xuất hiện ở
mỗi giai đoạn nào thì Phật pháp ở nơi ấy được phát triển hưng long. Thế
nên, đạo Phật thịnh hay suy là căn cứ ở con người, không giới hạn nội qui,
định thời chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp.
Đạo Phật được truyền
vào Việt Nam, đã trải qua gần 2.000 năm lịch sử, qua nhiều thời đại có lúc
thịnh lúc suy, đó chính là phản ảnh của các Cao Tăng có xuất hiện hay
không xuất hiện. Để ghi lại những trang sử về sự nghiệp hoằng truyền Đạo
pháp của các vị danh Tăng ấy qua các thời đại để khỏi bị thất lạc phai mờ
trong quá khứ, và cũng để biểu thị những tấm gương trong sáng ấy phản
chiếu cho đời hiện tại và tương lai, nên cuốn “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam”
do Đại đức Thích Đồng Bổn chủ biên được xuất hiện, ra mắt độc giả lần đầu
tiên tại Việt Nam.
Phật giáo Trung
Quốc, ở đời Lương, cũng đã có bộ “Danh Tăng Truyện” của Sa môn Thích Bảo
Xướng và “Cao Tăng Truyện” của Sa môn Thích Tuệ Cảo biên soạn. Tiếp đó là
đời Đường lại có “Tục Cao Tăng Truyện” của Sa môn Thích Đạo Tuyên đã xuất
hiện. Trong “Cao Tăng Truyện” của Tuệ Cảo, soạn giả có phê phán về chữ
“Danh” và chữ “Cao” trong đề mục: “Nếu phần thực hành, hoạt động cao vời,
thì trong cao tất có danh; còn có danh, vị tất đã có cao”. Do vậy mà soạn
giả dùng chữ “Cao” thay cho chữ “Danh”.
Cao Tăng Truyện của
Tuệ Cảo và Tục Cao Tăng Truyện của Đạo Tuyên, cả hai soạn giả đều trình
bày về nội dung căn cứ theo 10 khoa, để biểu hiện thích ứng cho từng nhân
vật. 10 khoa là: 1- Dịch kinh, 2- Nghĩa giải, 3- Tập Thiền, 4- Minh luật,
5- Hộ pháp, 6- Cảm thông, 7- Di thân (cốt) 8- Đọc tụng, 9- Hưng phúc, 10-
Tạp khoa. Hiệu quả của các khoa Dịch kinh, Nghĩa giải, Tập thiền, Minh
luật là cơ sở tu đạo; các khoa Hộ pháp, Cảm thông, Di thân, Đọc tụng, Hưng
phúc, Tạp khoa là sự nghiệp tiếp vật lợi sinh.
Cuốn “Tiểu Sử Danh
Tăng Việt Nam”, từ Danh Tăng được dùng trong đề mục, chữ “Danh” đồng nghĩa
với chữ “Cao” nên Danh Tăng ở đây cũng đồng nghĩa là Cao Tăng, không giống
với ý nghĩa phân tích của Sa Môn Tuệ Cảo. Nội dung cuốn “ Tiểu Sử Danh
Tăng” này, được ghi chép gồm 100 vị Danh Tăng Việt
Nam
và 4 nhân vật Cư Sĩ tiêu biểu, đã viên tịch ở thế kỷ thứ XX này. Trong mỗi
tiểu sử, Ban Biên Tập đều ghi đầy đủ: Danh hiệu, tục tính, nơi sinh, hành
trạng sự nghiệp tu hành, nơi tham học, hoằng đạo và nơi chùa trụ trì, ngày
tháng năm thị tịch, tuổi thọ, hạ lạp, tháp hiệu, và trình bày tổng quát về
sự nghiệp hoằng đạo, truyền đạo, không phân tích thành từng khoa như trên,
để người đọc và kê cứu tự tìm hiểu về khả năng tuyên dương giáo pháp của
mỗi vị.
Đây là tác phẩm viết
về “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam” lần đầu tiên được ra mắt độc giả. Tuy
nhiên, việc hoàn thành được tác phẩm này không phải là việc làm dễ dàng,
mà soạn giả cùng với Ban Biên Tập và rất nhiều cộng tác viên nhiệt tâm đã
phải tốn bao công sức, bao cố gắng nghiên cứu sưu tầm khắp đó đây trong cả
nước. Nay xin chân thành giới thiệu cuốn “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam” tới
Tăng Ni nhị bộ chúng, các hàng Phật tử, và các nhà Thiện tri thức.
Thành phố Hồ Chí
Minh, ngày mồng một, tháng Quí Đông, năm Giáp Tuất (01-01-1995) .
Hòa Thượng THÍCH THANH KIỂM
Phật Giáo Việt Nam
cùng với vận mệnh đất nước đã trải qua bao hưng suy thăng trầm của lịch
sử. Nếu như Nước nhà thời nào cũng có anh hùng, thì Phật giáo giai đoạn
nào, nơi đâu cũng có Danh Tăng dựng Đạo giúp nước. Đó là những tấm gương
sáng giá góp phần tạo nên lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn cận và hiện
đại với công cuộc chấn hưng và phát triển Phật giáo song song với sự vươn
lên của dân tộc.
Công lao của các bậc
Cao Tăng tiền bối, các vị Sứ giả Như lai, những Danh Tăng hộ quốc kiên trì
giữ Đạo, tinh tiến tu hành, đã được sưu tầm qua công trình biên soạn bộ
Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX này. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo và
còn một số tiểu sử Danh tăng còn thiếu cần sưu khảo thêm, tác phẩn này
cũng đã cô đọng được tất cả nét chủ yếu của từng cuộc đời riêng lẻ, từng
sự nghiệp đặc thù ở mỗi hạnh nguyện cá biệt để đúc kết thành bối cảnh lịch
sử cả một giai đoạn. Bộ sách đã phản ánh được bao nhân cách, chí hướng, tư
tưởng có giá trị cho chúng ta học hỏi noi gương. Đó là sự đóng góp có ý
nghĩa nhất của tác phẩm vào kho báu Văn hóa - lịch sử của Phật Giáo Việt
Nam.
Trưởng Ban Văn Hóa
Trung Ương GHPGVN
Cư sĩ Võ Đình Cường
Lịch sử nhân loại
được viết nên bởi nhiều thế hệ nhân sinh. Mỗi tiền nhân với thân tứ đại
của một con người rồi sẽ khuất chìm vào cát bụi, chỉ còn sự nghiệp, tiếng
tốt để lại, chứng tích ấy được truyền tụng đến đời sau từ những sử liệu
ghi chép, để khiến họ sống mãi trong tâm tưởng với thời gian.
Nên viết tiểu sử
danh nhân đã khó, viết về các thiền sư lại càng khó hơn. Bởi lẽ làm sao
chúng ta khẳng định được Thánh Gióng sau khi thắng giặc Ân, lên núi Sóc,
rồi người đi về những đâu nữa?! Và dù là đồng ấu hay trung niên xuất gia,
Thiền tông hay Tịnh độ, Thảo Đường hoặc Trúc Lâm v.v..., dù từ thị thành
hay ruộng đồng, sơn lâm, hải giác, thiền sư đến rồi đi; chúng ta thấy biết
rất ít về họ. Có vị như bóng nắng đông hàn, cơn mưa mùa hạ, ráng chiều mùa
thu! Thoáng qua như ánh chớp Mật Khế, dài lâu như Giác Hạnh v.v... Tất cả
đều như đủ để hoàn tất một sở nguỵện ban đầu, tự tại hành đạo tháng ngày
khi còn trụ thế, rồi an nhiên lên đường như một lữ hành rong chơi qua tam
giới.
Để làm những bài học
cao quí, những tấm gương trong sáng lưu truyền cho hậu thế kính thờ, noi
theo, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm từ tro tàn quá khứ, những dư âm truyền
tụng đó đây, hoặc những bút tích, sách vở có ghi lại đôi nét về công hạnh
của chư vị Cao Tăng tiền bối có công với Đạo pháp và Dân tộc Việt Nam ở
các giai đoạn vừa qua của lịch sử cận đại.
Chúng tôi tổng hợp
chư vị Cao Tăng tiền bối hữu công của cả ba miền đất nước, không phân biệt
Sơn môn, Pháp phái hay chính kiến nào, mà chung nhất đều là những người
con Phật tiêu biểu trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, để lại cho Phật
giáo và lịch sử nước nhà những công hạnh cao quý không thể bị phai nhòa
theo năm tháng vô tình.
Từ trước đến nay
cũng đã có nhiều công trình tương tự của các nhà làm sử Phật giáo, nhưng ở
những góc độ khác hơn. Chúng tôi tự nhận thấy rằng sử liệu về cuộc đời của
các bậc Cao đức cận đại cần được viết trung thực theo tinh thần sử học sao
cho mang đậm tính phổ quát, công bằng về đạo nghiệp, giữa bối cảnh Phật
giáo nước nhà trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Nhất là phải ít nhiều
nhanh chóng ghi lại hành trạng của chư Tôn đức viên tịch chưa lâu, vẫn còn
có nhiều nhân chứng hiểu biết cuộc đời các vị ấy, hoặc chưa bị năm tháng
quá dày làm lãng quên, để chỉ còn trong cõi nhớ nên trở thành huyền thoại,
điều mà nguyên tắc sử học gọi là thiếu cứ liệu xác đáng để quyết định tính
trung thực của sự kiện lịch sử.
Khi lập nên đề án
cho công trình này, chúng tôi cũng được rất nhiều ý kiến đóng góp động
viên của các bậc Tôn đức, thức giả. Đó là nguồn hỗ trợ khuyến khích chúng
tôi phải hoàn thành dự án đã đề ra. Dù rằng thật sự có rất nhiều khó khăn
trong việc sưu tầm, có những tài liệu tiểu sử thiếu cả những nguyên tắc sử
học cơ bản, cho đến thiếu logic trong ngày tháng năm mất với năm tu hay
năm sinh... Và có những khi chúng tôi tìm đến địa điểm lịch sử lúc tiền
bối còn sinh thời để tìm tư liệu, thì hầu như cả địa phương cũng không còn
ai lưu trữ hay biết gì ngoài một mớ truyền thuyết đến thần thoại. Vì thế,
để cho bộ sử hoàn toàn khách quan và đúng bản chất sử học, chúng tôi không
đưa vào đây các giai thoại hoặc các cảm nhận, đánh giá, phẩm bình thuộc
lĩnh vực chuyên đề khác của bất cứ ai.
Chúng tôi chỉ mới
thực hiện phần I của chương trình sưu tầm sử liệu này, cũng là phần chính
của công trình với mốc ấn định là thế kỷ XX (1900-đến nay-1993). Trong tập
I phần I là những Cao Tăng tiền bối đã viên tịch trong khoảng thời gian
này mà chúng tôi có được tư liệu. Còn lại các tiểu sử khác, chúng tôi tiếp
tục sưu tầm và sẽ đưa vào tập II phần I. Đồng thời, hoàn chỉnh các tiểu sử
của thế kỷ trước sắp xếp vào phần II.
Chương trình này
được dự kiến tuần tự như sau:
Phần I : Danh Tăng
thế kỷ XX tập I-II.
Phần II : Danh Tăng
thế kỷ XIX (1 tập).
Phần III: Chư Ni
tiền bối hữu công (1 tập).
Phần IV: Cư sĩ tiền
bối hữu công (1 tập).
Việc sắp xếp danh
mục cho quyển tiểu sử có nhiều ý kiến khác nhau trong ban thực hiện và các
bậc Tôn đức. Cuối cùng, chúng tôi quyết định chọn cách sắp đặt theo biên
niên sử, lấy năm mất làm cơ sở. Vị nào mất trước thì đặt trước, vị nào
viên tịch sau thì để sau, dẫu vị viên tịch sau có công hạnh, tuổi đạo,
tuổi đời lớn hơn vị mất trước. Vì rằng thời điểm viên tịch là thời điểm
tổng kết quá trình cống hiến của đời người, dẩu đôi khi có vị cao niên hơn
vẫn còn ở đời, lại là người tổng kết quá trình của vị đi trước nhỏ hơn
mình nhưng đã sớm hoàn thành sự nghiệp của lần có mặt ấy.
Chúng tôi vô cùng
biết ơn sự ủng hộ tinh thần, góp ý rất chân tình của chư Tôn đức gần xa,
của các Tỉnh hội, Thành hội Phật giáo trong cả nước và của bạn bè thân hữu
các nơi, hằng quan tâm đến công trình: hỗ trợ công tác sưu tầm, gửi cho
chúng tôi các sử liệu có được và những đề nghị xác đáng liên quan. Chúng
tôi cũng tán thán công đức to lớn của lực lượng cộng tác viên đã cùng
chúng tôi hoàn thành sử liệu này và chân thành tri ân các bậc tác giả sử
liệu Phật giáo tiền bối đã để lại tư liệu hiếm quí trong các tác phẩm,
công trình mà chúng tôi có tham khảo.
Hàng hậu tấn chúng
tôi dù tài trí thô thiển nhưng trước dòng lịch sử đang biến dịch, sợ không
gì hữu ích cho đời sau, nên chúng tôi mạnh dạn suy tầm ghi chép những công
hạnh của các Cao Đức Tôn Sư, vì thế có rất nhiều sơ suất, sai lầm. Rất
mong được sự tha thứ từ những tấm lòng lượng cả bao dung của chư Tôn đức
thức giả gần xa, cùng góp ý chỉ bày những thiếu sót tăng bổ cho lần tái
bản được hoàn hảo hơn.
Ở quyển đầu, chúng
tôi xin được giới thiệu 100 tiểu sử Cao Tăng thạc đức và phụ lục 04 tiểu
sử cư sĩ có công đầu điển hình trong việc chấn hưng và phát triển Phật
giáo Việt Nam trong thế kỷ XX. Công trình này không là riêng cá nhân chúng
tôi viết được, nó hình thành từ sự đầu tư rất nhiều công sức, tâm huyết
của ban thực hiện và của các cộng tác viên. Bản thảo sau nhiều lần tu
chỉnh, chúng tôi trình qua các thành viên trong Ban cố vấn góp ý trước khi
tổng kết, nghiệm thu để được phép ra mắt quí độc giả.
Mọi ý kiến đề nghị,
bổ sung, chúng tôi mong được tiếp tục thâu nhận để hoàn bị hơn về sau và
tiếp tục thực hiện phần còn lại như đã dự định khi hội đủ nhân duyên. Và
một lần nữa, rất mong đón nhận thêm những thông tin, tư liệu tiểu sử còn
sót mà chúng tôi chưa kịp sưu tầm, hiện đang còn lại trong các tự viện,
địa phương hay dân gian.
Với nỗ lực sớm hoàn
thành những gì đã đề ra như tâm nguyện, chúng tôi hy vọng góp phần vào nền
văn hóa lịch sử Phật Giáo nước nhà. Và một lòng kính dâng lên chư tiền bối
Phật môn bản sao hành trạng của quí Ngài, mong đáp đền ơn tri ngộ, nhiếp
dẫn chúng hậu lai trên đường giải thoát. Ngưỡng mong thùy từ gia hộ của
liệt vị tiền nhân có mặt trong bộ sử này và công đức tùy hỷ hỗ trợ của chư
Tôn đức Tăng Ni, Phật tử dành lòng ưu ái đối với chúng tôi và với kho tàng
văn hóa lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
Thay mặt Ban thực
hiện công trình.
THÍCH ĐỒNG BỔN
- HÒA THƯỢNG THÍCH
THANH KIỂM.
- THƯỢNG TỌA THÍCH
TRÍ QUẢNG.
- THƯỢNG TỌA THÍCH
GIÁC TOÀN.
- THƯỢNG TỌA THÍCH
THIỆN NHƠN.
- CƯ SĨ VÕ ĐÌNH
CƯỜNG.
CHỦ BIÊN:
THÍCH ĐỒNG BỔN.
NHÓM BIÊN SOẠN:
Thích Trung Hậu -
Thích Đồng Bổn - Thích Bảo Nghiêm - Bửu Chánh - Danh Sol - Nguyễn Đình Tư
- Trương Ngọc Tường - Lê Tư Chỉ - Trần Hồng Liên - Phạm Thị Bạch Tuyết -
Nguyễn Văn Du.
HÌNH ẢNH :
Võ Văn Tường, Thích
Đồng Bổn, Nguyễn Bá Triết,
Võ Văn Bình, Thích
Hải Ấn, Thích Nguyên Phước,
Vạng Anh Việt, Đinh
Tấn Lễ.
CỘNG TÁC VIÊN CÔNG
TRÌNH
1. HÒA THƯỢNG THÍCH
HIỂN TU
2. HÒA THƯỢNG THÍCH
ĐỔNG QUÁN (QUI NHƠN)
3. HÒA THƯỢNG THÍCH
QUANG KHẢI
4. THƯỢNG TỌA THÍCH
CHƠN LẠC
5. THƯỢNG TỌA THÍCH
MINH THÀNH
6. THƯỢNG TỌA THÍCH
VIÊN THÀNH (HÀ TÂY)
7. THƯỢNG TỌA THÍCH
HẢI ẤN (HUẾ)
8. ĐẠI ĐỨC THÍCH GIA
QUANG (HÀ NỘI)
9. ĐẠI ĐỨC BỬU CHÁNH
(ĐỒNG NAI)
10. ĐẠI ĐỨC THÍCH LỆ
HƯNG (ĐỒNG THÁP)
11. ĐẠI ĐỨC THÍCH
GIÁC THIỆN (TIỀN GIANG)
12. ĐẠI ĐỨC THÍCH LỆ
TRANG
13. ĐẠI ĐỨC THÍCH
PHƯỚC MINH (TRÀ VINH)
14. ĐẠI ĐỨC THÍCH
QUẢNG TÙNG (HẢI PHÒNG)
15. ĐẠI ĐỨC THÍCH
MINH THÔNG (NHA TRANG)
16. THƯỢNG TỌA THÍCH
NGUYÊN PHƯỚC (BÌNH ĐỊNH)
17. ĐẠI ĐỨC THÍCH
THIỆN TOÀN (ĐÀ NẴNG)
18. ĐẠI ĐỨC THÍCH
THANH GIÁC (HẢI PHÒNG)
19. ĐẠI ĐỨC THÍCH
TÔN THẬT
20.ĐẠI ĐỨC THÍCH
MINH THIỆN (LONG AN)
21. ĐẠI ĐỨC THÍCH
MINH HIỀN (HÀ TÂY)
22. ĐẠI ĐỨC THÍCH
MINH LÝ
23. ĐẠI ĐỨC THÍCH
ĐỒNG ĐỊNH
24. ĐẠI ĐỨC THÍCH
TRÍ MINH (TRÀ VINH)
25. SƯ THẦY THÍCH
ĐÀM ÁNH (HÀ NỘI)