Phật lịch 2539 - 1995
-
TIỂU SỬ
-
DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX
I. GIAI ĐOẠN TIỀN
CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
TỔ BỒ ĐỀ
-
(1836 -
1906)
Hòa thượng họ Phạm,
pháp danh Thích Nguyên Biểu, hiệu Nhất Thiết, sinh năm Bính Thân (1836)
triều vua Minh Mạng thứ 17 tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ là
Phạm tướng công, húy Quang Tự, hiệu Trung Tín, tự Khoan Bình. Thân mẫu là
cụ bà Trần thị Ngọc, hiệu Từ Niệm. Ngài thuộc dòng ba đời khoa bảng.
Ngay từ nhỏ Ngài đã
mến mộ đạo Phật, nên sớm được gia đình cho xuất gia đầu Phật, Ngài được
thế phát quy y tại Tổ đình Phù Lãng ở Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.
Bấy giờ Tổ đình Vĩnh
Nghiêm ở xã Đức La, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nay là xã Trí Yên,
tỉnh Hà Bắc, là trung tâm Phật giáo của phái Trúc Lâm tại miền Bắc, có Hòa
thượng Tâm Viên là vị cao Tăng tinh thâm kinh điển, đạo hạnh cao dày, an
trụ thuyết giảng Phật pháp. Tăng tục khắp nơi quy về tu học rất đông. Năm
17 tuổi, Ngài được Bổn sư chùa Phù Lãng cho sang đây tham học và thọ Sa Di
giới. Năm 20 tuổi (1855) Ngài được thọ Cụ Túc giới cũng tại chùa Vĩnh
Nghiêm với Tổ Tâm Viên.
Sau khi được giới
châu viên mãn, Ngài ở lại “phụng Phật sự Sư” thêm 5 năm nữa, tại đây lo
sớm tối tu học, giới luật nghiêm thân. Chính trong thời gian này, Ngài đã
thay mặt nghiệp sư dìu dắt sư đệ Thích Thanh Hanh từ chùa Hòe Nhai được
gửi về đây tham học. Hòa thượng Thanh Hanh sau này là Thiền gia Pháp chủ
của Hội Bắc Kỳ Phật học.
Khi lực học đã khả
kham, Ngài được nghiệp sư cho xuất viện đi hoằng pháp các nơi. Bước đầu du
hóa, Ngài tới vùng đông du thuyết pháp độ sinh, rồi qua trú trì chùa Hạ
Lôi ở huyện An Lãng, tỉnh Phúc Yên. Tại nơi đây, Ngài đã đào tạo được
nhiều đệ tử danh tiếng đương thời như Hòa thượng Trung Hậu, Hòa thượng
Thông Toàn là vị trú trì đệ tứ tại chùa Bà Đá (Linh Quang Tự) ở Hà Nội.
Năm 1874, Ngài vừa
38 tuổi, nhân trong cuộc du hóa truyền giáo ở vùng Gia Lâm, Ngài tới bến
Bồ Đề trên bờ sông Hồng nhìn qua bên kia thành Thăng Long. Nhận thấy nơi
đây cảnh trí thiên nhiên thanh nhã, địa danh Bồ Đề lại đồng danh với quả
vị mà mọi người tu Phật đều mong đạt tới. Vả lại đây cũng là dinh cũ của
vua Lê trong những ngày kháng chiến chống quân Minh. Thật là một nơi địa
linh, đáng có một ngôi Tam Bảo để hoằng dương chánh pháp, cứu độ chúng
sinh. Do đó, Ngài quyết định ở lại, tự mình khai sơn phá thạch, dựng lên
ngôi chùa đặt tên là Thiên Sơn Cổ Tích Tự. Nhưng vì chùa nằm trên bến Bồ
Đề nên tứ chúng thường gọi là chùa Bồ Đề.
Sau khi xây xong
chánh diện và giảng đường, Ngài liền khai tràng thuyết pháp, thu nạp đệ tử
tiếp chúng độ nhân. Tăng tục lui tới tham học nghe pháp rất đông. Chùa Bồ
Đề trở nên một đạo tràng sầm uất nơi cố đô Thăng Long. Trong số đệ tử của
Ngài, nhiều vị đã trở thành các bậc lương đống trong các Tổ đình trên miền
Bắc, cả về học thức lẫn đạo hạnh như Tổ Quảng Gia, Tổ Quảng Yên ở chùa Bồ
Đề, Tổ Phổ Tụ ở chùa Tế Xuyên, Tổ Doãn Hài ở chùa Tế Cát, Tổ Thanh Khải ở
chùa Đa Bảo.
Suốt ba thập kỷ trú
trì Thiên Sơn Cổ Tích Tự từ ngày sáng lập cho đến ngày thị tịch, Ngài đã
để công tô điểm cho ngôi chùa trở thành một tùng lâm quy mô với chánh
điện, giảng đường, trai đường, pháp đường. Cũng trong thời gian này Ngài
còn cho khắc ván in bộ kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, luật Tứ Phần, các
sách Lược Ký Ni, Thụ Giới Nghi Phạm, Nhật Tụng Bồ Đề (2 tập).
Ngày mồng 2 tháng 10
năm Bính Ngọ (1906) Ngài không ốm đau gì cả mà an nhiên thị tịch, hưởng
thọ 70 tuổi đời, 50 tuổi hạ.
Hòa thượng Thích
Nguyên Biểu là một vị cao Tăng đã có công khai sơn Tổ đình Bồ Đề Thiên
Sơn, đào tạo nhiều Tăng tài làm hạt giống cho phong trào chấn hưng Phật
giáo trên miền Bắc. Tuy Ngài không còn trụ thế khi phong trào được phát
động, nhưng sư đệ của Ngài như Hòa thượng Thanh Hanh, đệ tử của Ngài như
Hòa thượng Trung Hậu, sư điệt của Ngài như Hòa thượng Trí Hải, Hòa thượng
Tâm Tịch đều là những cây đại thụ của phong trào. Chùa Bồ Đề của Ngài là
một trong hai Phật học đường Trung học Phật giáo đầu tiên của miền Bắc.
***
HÒA THƯỢNG
(1850 - 1914)
Tổ Hoằng Ân thế danh
Nguyễn Văn Khiêm, húy Minh Khiêm, pháp hiệu Liễu Khiêm-Diệu Nghĩa. Sinh
ngày rằm tháng 07 năm Canh Tuất (1850) tại làng Bà Điểm, tỉnh Gia Định.
Ngài sinh ra trong một gia đình nông dân, hai vị thân sinh do tham gia vào
cuộc nổi dậy chống sưu cao thuế nặng của triều đình nhà Nguyễn nơi Mười
Tám Thôn Vườn Trầu và Bưng Tầm Lạc, nên gởi Ngài lại nhờ bà con nuôi giúp
để lánh mặt, tránh những đợt truy lùng gắt gao của hương hào địa chủ.
Năm 1859, lúc vừa
được 9 tuổi, thực dân Pháp sau khi đánh chiếm thành Gia Định đã cử binh
đến nơi đây, nông dân lại nổi dậy, kế đó nghĩa binh Trương Định sau khi
đánh đồn Thuận Kiều đã kéo quân về đây và được nhân dân trao thanh kiếm
Bình Tây Đại Nguyên Soái(1). Giữa lúc tình thế nhiều biến đổi ấy, Ngài
không thể tìm lại được song thân. Vì thế tên tuổi của hai người cho đến
mãi về sau vẫn không biết được, sống chết như thế nào, tại đâu?
Chưa thấy có sử liệu
nào ghi lại ngày tháng Ngài xuất gia lúc bao nhiêu tuổi. Chỉ biết Ngài đã
đến chùa Giác Lâm (Nay ở quận Tân Bình - Sài Gòn) xin xuất gia với Tổ Hải
Tịnh.
Khi đã trở thành một
vị xuất gia, Ngài hết lòng học hỏi, tham cứu tất cả các pháp yếu nơi thiền
môn. Với trí tuệ và tư chất thông minh, Ngài đã sớm vượt xa các pháp lữ đã
xuất gia trước mình trong một khoảng thời gian rất ngắn. Do đó Ngài đã
được Bổn sư chú ý và chăm sóc tận tình. Ngoài sở học uyên thâm, Ngài còn
có phong thái nhanh nhẹn mà điềm đạm, vóc người cao ráo, thanh thoát, hội
đủ các tướng hảo ở một vị Tỳ kheo xuất trần vi thượng sĩ.
Năm 1870, Ngài được
trao nhiệm vụ trụ trì chùa Giác Viên khi vừa đúng 20 tuổi. Đây là một
trường hợp cá biệt, rất hiếm thấy nơi lịch sử các vị Tổ đức xưa. Đủ để
khẳng định hoài bão mà Bổn sư Ngài đã đặt để, quả chẳng uổng.
Năm 1876 ở độ tuổi
26, Ngài lại được cử làm Giáo thọ và đã được Tăng chúng kính trọng do sự
tinh tấn và uyên thâm Phật pháp. Cùng năm đó, Tổ Minh Vi - Mật Hạnh (trụ
trì chùa Giác Lâm) cảm thấy sức khỏe suy yếu và nhận biết một vị Tăng trẻ
như Ngài lại có nhiều nỗ lực, đầy trách nhiệm, nên đã giao cho Ngài cùng
lúc trụ trì hai chùa Giác Viên và Giác Lâm.
Năm 1899, với trách
nhiệm của mình, Ngài đã cho tiến hành trùng tu lại ngôi chùa Giác Viên.
Đây là lần trùng tu lớn nhất trong lịch sử chùa này. Trong đó Ngài cho mở
rộng mặt bằng chùa và chỉnh trang lại chánh điện theo đúng sở nguyện chư
Tổ đời trước chưa có dịp thực hiện được.
Cũng như các vị Tổ
trong tông môn, Ngài cũng không có đệ tử nhiều ngoài hai Ngài Như Nhu -
Chơn Không và Như Phòng - Hoằng Nghĩa. Vì thế thời gian kế tiếp Ngài đã cử
Ngài Chơn Không trụ trì chùa Giác Viên, giúp cho Ngài có thời gian lo việc
khác (Chức trụ trì nơi này khi Ngài Chơn Không tịch thì được trao cho Ngài
Như Phòng tiếp nối)(2).
Sự kiện nổi bật
trong việc hoằng đạo của Ngài là việc sao chép kinh sách, bằng cách cho
khắc bản gỗ kinh, luật và diễn nôm một số sách Phật giáo khác. Số lượng
công trình biên tập diễn nôm và các loại sách khác do Ngài chứng minh rất
nhiều nhưng đã thất lạc cũng không ít. Hiện tại chỉ còn lưu lại một số như
bản chép tay bộ Kinh Pháp Hoa, được chép vào năm Bính Tuất (1886) mỗi phẩm
đóng thành một tập.
Năm 1880, tác phẩm
bằng thơ lục bát dưới dạng chữ Nôm, tập “Hứa Sử Vãn Truyện” cũng được Ngài
cho khắc gỗ để in lại.
Năm 1894, bộ sách
Thiền Môn Trường Hàng Luật bằng chữ Hán, được Ngài chỉnh biên tóm lược lại
bằng chữ nôm và đặt tên là TỲ NI NHỰT DỤNG YẾU LƯỢC cùng cho khắc in để
phổ biến rộng rãi.
Để tiến hành khắc in
bộ Luật nói trên cùng nhiều loại sách khác, Ngài đã nhờ đến sự trợ lực của
Ngài Đạt Lý - Huệ Lưu (trụ trì Chùa Huê Nghiêm, Thủ Đức), giúp phần sao
chép để khắc vào bản gỗ.
Với khối lượng bề
dày của mỗi quyển sách thì cũng bấy nhiêu số lượng bản gỗ. Và như thế,
ngay tại chùa Giác Viên, Ngài cho mời các thợ khắc về ăn ở tại chùa để
thực hiện công trình.
Ngài đã bỏ công và
mạnh dạn thực hiện công trình in bộ Luật quan trọng ấy. Ngài ý thức được
rằng đó sẽ là bộ sách giáo khoa đầu tiên ở cấp sơ học, rất cần thiết cho
các chùa ở Nam Bộ. Kết quả là đã trở thành giáo trình học tập nơi các cuộc
khảo thí của những Trường Hương, Trường Kỳ thời bấy giờ.
Năm 1898, một số
kinh chủ yếu như Nhơn Quả Thực Lục Toàn Bản, Lăng Nghiêm Kinh Tán, Thí
Thực Khoa v.v... được Ngài chứng minh dưới bản khắc với tên Diệu Nghĩa, và
diễn nôm Tống Đàn Tăng.
Năm 1912, Ngài còn
đứng ra hiệu đính cho bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do đệ tử là Ngài Từ Phong-
Như Nhãn diễn nôm.
Trong số kinh sách
chép tay lưu lại, hiện còn thủ bút của Ngài bằng hai câu đối. Trong đó nêu
lên Pháp danh, Pháp hiệu và tên chùa Giác Viên:
“GIÁC ngộ đốn HOẰNG
ÂN, ân mộc Như Lai thọ ký.
VIÊN thông minh DIỆU
NGHĨA, nghĩa tùng Bát Nhã nghiên cầu”.
Ngoài việc thực hiện
các công trình in khắc kinh trên, Ngài còn dành rất nhiều thời gian du hóa
khắp nơi. Bước chân Ngài đã từng trải suốt cả đồng bằng sông Cửu Long như
Mỹ Tho, Đồng Tháp, Cửu Long, An Giang, Hà Tiên v.v... Ngài đi bằng tất cả
phương tiện, có lúc phải đi bộ, kể cả trèo đèo băng suối như khi qua vùng
hiểm trở Thất Sơn. Đặc biệt, tại Tiền Giang và An Giang, Ngài đã trụ lại
một thời gian khá dài từ năm 1905 cho đến khi viên tịch.
Trong thời gian ở
Tiền Giang, Ngài đã tu tập tại am Viên Giác, cách chùa Bửu Lâm không xa,
do đệ tử là Thiên Trường dựng. Cũng tại nơi này, khoảng năm Ất Mùi (1895)
Ngài đã đứng ra vẽ kiểu và chứng minh cho việc xây dựng ngôi chùa Vĩnh
Tràng, một ngôi chùa lớn nhất Nam Bộ hiện nay.
Sau khi rời Tiền
Giang, Ngài đi sang một số tỉnh khác và trụ lại chùa Tây An (Núi Sam -
Châu Đốc). Đến đâu Ngài cũng để lại niềm kính mến sâu xa trong lòng Tăng
chúng và Phật tử. Cho đến hôm nay, khi nhắc đến Ngài, Phật tử nơi này vẫn
còn gọi Ngài là “Tổ Núi Sam”. Thời gian tại chùa Tây An, Ngài ở trong một
am nhỏ sau chùa do Sư bà NHƯ THÀNH - DIỆU DANH (3) là đệ tử của Ngài
dựng nên và thường xuyên công quả lo cơm nước cho Ngài. Tại đây, Ngài còn
hai thị giả nữa là Thiện Diệu (chùa Châu Viên) và một vị là thư ký nên gọi
là Ký Viên (chùa Pháp Võ).
Những ngày cuối
cùng, Ngài không cảm thấy đau nhức như các bậc luống tuổi, mặc dù Ngài đã
đi suốt cả một thời gian dài như thế. Ngược lại, những ngày này Ngài càng
tráng kiện và minh mẫn hơn. Do đó, Ngài tận dụng những giây phút hiếm hoi
còn lại để khuyên nhủ các đệ tử, nhắn gởi về Giác Lâm, Giác Viên chăm lo
giữ gìn ngôi chùa Tổ v.v...
Vào giờ Thìn, ngày
29 tháng Giêng năm Giáp Dần (1914) Ngài đã thâu thần thị tịch tại chùa Tây
An (Núi Sam - Châu Đốc)(4). Hưởng thọ 64 tuổi. Nhục thân Ngài sau đó
được đưa về nhập tháp tại chùa Giác Lâm (Sài Gòn). Tại chùa Tây An tháp
vọng cũng được dựng lên để kính thờ Ngài.
Với hành trạng như
thế Ngài thật quả xứng đáng là người hậu duệ đời thứ 38 dòng Lâm Tế (Bổn
Ngươn) và truyền thừa cho các đệ tử sau này như Ngài Đạt Lý - Huệ Lưu
(chùa Huê Nghiêm, Thủ Đức), Như Lợi (chùa Giác Lâm), Như Nhu - Chơn Không,
Như Phòng - Hoằng Nghĩa (chùa Giác Viên), Như Nhãn - Từ Phong (chùa Giác
Hải, Q.6 - TP. HCM) và chùa Thiền Lâm (Tây Ninh).
Chú thích :
1) TP. CCT - Thanh
Giang - NXB TP. HCM 1980.
2) Sau đó, Ngài lập
một am trong khuôn viên chùa Giác Lâm (vị trí là bót Nguyễn văn Cự sau
này) đó là am Giác Đế ( PTS Trần Hồng Liên).
3) Ảnh và bàn thờ Sư
Bà hiện đặt tại chùa Thới Hòa (Gò Vấp).
4) Có ý kiến cho
rằng Ngài tịch tại am Viên Giác (PTS Trần Hồng Liên).
***
HÒA THƯỢNG
(1846 - 1916)
Hòa thượng Minh Hòa
- Hoan Hỷ, thế danh là Nguyễn Thiên Hỷ, sinh năm Bính Ngọ (1846), tại ấp
Giồng Cám, làng Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long
An). Trong một gia đình hằng kính tin đạo Phật, Ngài đã hưởng nguồn ân
phúc ấy nơi song thân từ thuở nhỏ. Do Ngài sinh ra giữa lúc cao trào chống
Pháp của các phong trào bùng nổ dữ dội, và nhất là giữa triều đình Tự Đức
với cuộc nổi dậy của Trương Định. Hai cụ thân sinh của Ngài cũng nhập
cuộc, giữa một bối cảnh đầy nhiễu nhương, vừa chạy giặc vừa chống giặc như
mọi gia đình nông dân khác, nên nguồn gốc và tên tuổi của hai vị đến nay
chưa có sử liệu nào ghi lại được.
Năm ấy (1846), Ngài
sinh đúng vào năm Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học thêm để chờ khoa thi Hội,
để rồi sau đó bao biến cố của gia đình và xã hội ập đến làm tiền đề cho
con người tài hoa ấy cảm tác nên những áng văn chương bất hủ. Ngài lớn
lên, được thâm nhập vào những giá trị tinh thần đó, nên ý chí và lòng yêu
nước đã bộc lộ từ rất sớm.
Năm 1862, lúc 17
tuổi, Ngài đã có đủ nhận xét trước sự kiện Quan Kinh Lược Sứ Phan Thanh
Giản, Lâm Duy Hiệp vâng lệnh vua Tự Đức ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường
ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Do đó, trước và sau sự kiện này, Ngài biết đến
và tìm gặp Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng ở vùng Tân An, đang lãnh đạo phong
trào chống Pháp nơi đây để thể hiện lòng bi phẫn trước thời cuộc.
Do sống trong hoàn
cảnh nghèo khốn, xa cha mẹ, lại chứng kiến biết bao nỗi khổ của đồng bào
trong chiến tranh. Cho nên trong khi liên lạc và theo dõi các phong trào
kháng Pháp, Ngài vẫn tìm đến Tổ Tiên Cần - Từ Nhượng tại chùa Long Thạnh
(hiện này là xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) để xin
xuất gia học đạo giải thoát.
Cùng xuất gia tu học
với Ngài còn có Ngài Hoằng Chiếu-Minh Nhiên và Chơn Như-Minh Nghĩa trở
thành huynh đệ đồng sư và sống tu học rất lâu với Ngài nơi mái chùa này.
Đối với tình hình
Phật giáo thời bấy giờ, Ngài cũng như các vị đồng môn thường hay được Thầy
mình dạy bảo tận tường, thường hay bộc lộ niềm ao ước đào tạo được tầng
lớp Tăng tài, dù là trong thời gian sơ khởi còn khó khăn mọi phía. Cho nên
truyền thống Tông môn trở thành điều cơ bản nhất để có thể truyền trao
giới pháp.
Mang hoài bão thiết
tha ấy của Thầy, sau khi Bổn sư Tiên Cần-Từ Nhượng viên tịch, Ngài cùng
các vị đồng môn đã quy tụ được các Tăng sĩ từ nhiều hướng, với ý đồ thành
lập trường Phật học và đã được sự hưởng ứng đồng tình của rất nhiều vị Tôn
đức thời bấy giờ. Kết quả đã không phụ lòng mong mỏi chính đáng của Ngài,
ngôi chùa Long Thạnh đã nghiễm nhiên trở thành một trung tâm hoằng pháp
danh tiếng toàn Nam kỳ lục tỉnh, thu hút được Tăng sĩ khắp nơi đến tu học.
Trong số những vị đã
được đào luyện tại đây, dù thường xuyên hoặc gián đoạn, có thể kể đến các
vị Hòa thượng ở chùa Phước Long (Sa Đéc), chùa Linh Phước (Mỹ Tho) v.v...
xuất thân tu học tại đây. Ngoài ra, theo một vài nguồn tin truyền khẩu từ
các vị Tổ đức, thì chính Phật Thầy Tây An, vị giáo chủ sáng lập giáo phái
Bửu Sơn Kỳ Hương, không rõ thọ giới với Tổ nào nhưng mang pháp hiệu Minh
Huyên, thường xuyên lui tới nơi này để học đạo.
Song song với nhiệm
vụ tu học và hoằng dương, Ngài vẫn cùng vài pháp lữ khác dành nhiều thời
gian, bàn bạc trao đổi hoặc trực tiếp tham gia vào các phong trào chống
Pháp.
Từ tuổi niên thiếu
đến lúc trưởng thành, Ngài đã chứng kiến quá nhiều sự kiện không vui cho
đất nước. Sau này khi xuất gia rồi, Ngài còn có thêm một nỗi đau nữa là
Phật giáo - một tôn giáo vốn là nguồn sống hạnh phúc của dân An Nam lại bị
đẩy dần vào tàn lụi, sống âm thầm ở những nơi sơn cùng thủy tận. Tất cả
đều qua bàn tay và thâm ý bảo hộ vay mượn từ thực dân. Đầu tiên vào năm
Mậu Ngọ (1858), Ngài cũng như hàng triệu thiếu niên khác chứng kiến việc
Pháp đánh chiếm (đầu tiên) thành Gia Định. Ngài cũng ghi đậm hình ảnh đại
đồn Chí Hòa Phú ThỌ thất thủ, Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương rút về
Biên Hòa; rồi việc Hồ Huấn Nghiệp lãnh quyền Tri phủ Bình Dương (Sài gòn -
Chợ Lớn) lập nên do tổ chức bí mật của các nghĩa sĩ, tiêu biểu nhất vẫn là
hình ảnh Trương Định, được mệnh danh “Hai người Việt Nam yêu nước” v.v...
(1)
Do đó, Ngài mang chí
cả của các bậc Tổ xưa dấn thân giúp nước cứu đời. Nhất là thời gian sau
khi ba tỉnh miền Tây bị chiếm, các cao trào chống Pháp càng rầm rộ, chia
thành bốn vùng rõ rệt (Bến Tre -Vĩnh Long - Trà Vinh, Rạch Giá - Cà Mau -
Cần Thơ, Thất Sơn - Châu Đốc - Long Xuyên - Sa Đéc và Bà Điểm - Hốc Môn).
Ngài tham gia vào vùng thứ tư, tức vùng Bà Điểm - Hốc Môn. Tại nơi đây,
năm 1885 hình thành “Hội kín” do Nguyễn văn Bường, Phạm văn Hớn (Quản Hớn)
chỉ huy. Tổ chức này liên lạc được với anh em Phan Liêm (Cậu Ba), Phan Tôn
(Cậu Năm) hai con của Phan Thanh Giản (Nổi lên với khẩu hiệu: Cần Vương
cứu quốc, 5 tháng sau khi cụ Phan tuẫn tiết). Rồi Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho,
Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá v.v...
Có thể nói rằng, chi
tiết quan trọng trong việc dấn thân trực tiếp của Ngài vào phong trào
chống Pháp ở Hội Kín, động cơ thúc đẩy mạnh mẽ nhất đối với một người vì
đạo và yêu nước như Ngài là từ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông và
đặc biệt là Phan Văn Trị (Cử Trị) với bài thơ Chùa Hư, mượn thực cảnh để
chuyên chở tấm lòng yêu quí quê hương dân tộc; đồng thời kêu gọi sĩ phu
cùng góp sức, đã nung nấu trong Ngài thành hành động.
Dù Nguyễn văn Bường
cầm đầu nghĩa binh đánh vào Sài Gòn đã bị bắt trước khi khởi nghĩa, nhưng
trước đó đã nổi lên và chiếm được Hốc Môn đêm 30.1.1882, cùng với Nguyễn
Đăng Hòa, Phan Văn Hớn, đốt cháy phủ đường Hốc Môn. Ngài cùng nghĩa quân
đột nhập vào tận phủ đường giết chết Đốc Phủ Ca (Trần Tử Ca). Do Đốc Phủ
Ca rất tàn ác , lập công với Pháp, bắt trẻ thơ, con cháu của những người
“đằng cựu” đánh Tây, bỏ vào cối giả gạo , lấy chày quết nát xương, gây nên
biết bao oán hờn đau xót trong nhân dân. Lý do đó, sau khi Đốc Phủ Ca bị
giết, người dân còn chưa nguôi căm hờn , đã cắt đầu đem treo lên cột đèn
chợ Hốc Môn(2). Việc trừ (bằng biện pháp trên) được một người hung ác có
tội lớn với nước với dân như thế, sau này được nhắc nhở như một gương nhập
thế tích cực nơi Ngài trong sự hy sinh cho phép “sát nhứt miêu, cứu vạn
thử”.
Sau đó, để trả thù
sự kiện trên, thực dân Pháp đã không ngừng bố ráp, tìm thủ tiêu những
người có liên quan đến nghĩa binh đêm khởi nghĩa. Cai quản Hớn đã bị giết
tại Hốc Môn. Hội Kín coi như tan rã, một số sĩ phu yêu nước sống sót tứ
tán tìm nơi ẩn náu. Ngài cũng thế, phải lánh xa chùa, xa những người thân
khá lâu. Trong thời gian lánh nạn đó, Ngài thực sự chuyên tâm trở về với
công việc một Tăng sĩ : tịnh tu, lo chuyển nghiệp.
Năm 1915 (Ất Mão),
do tuổi cao sức yếu và nhận thấy trước cơn gió vô thường sắp thoảng qua,
Ngài đã di chúc, trao quyền thừa kế lại cho Ngài Thiên Quang -Như Hào.
Năm 1916 (Bính Thìn)
ngày 26 tháng giêng, Ngài thị tịch, thọ 71 tuổi đời, 54 tuổi đạo.
Do công đức truyền
thừa đời thứ 38, chi phái Lâm Tế (dòng Bổn Ngươn), hiện nay bài vị của
Ngài còn được đặt thờ tại các chùa Long Thạnh, chùa Từ Ân (Q.6 - Thành phố
Hồ Chí Minh), chùa Thạnh Hòa (Cần Giuộc - Long An), chùa Kim Sơn (Phú
Nhuận); chùa Đức Lâm (quận Tân Bình)...
Để đắc quả, có tám
vạn bốn ngàn phương cách (con đường) tu trì khác nhau. Mọi hành giả đều
tùy nhân duyên mà tạo tác (theo tinh thần Hành Xả của Đại thừa), Ngài Minh
Hòa đã có mặt thật rực rỡ trong cuộc thế và đã tích cực giúp chấm dứt một
ác nghiệp bằng sự nhận chịu nhơn quả đối đãi ở mai sau về mình. Ngài đã
thể hiện một đức hạnh đặc thù vậy.
Chú thích :
1) Tập Văn yêu nước
Nam Bộ - Bảo Định Giang.
2) Có tư liệu cho
rằng: Đó là ngày 25 tháng chạp năm Giáp Thân (1884) (PTS Trần Hồng Liên).
***
HÒA THƯỢNG
(1840 - 1918)
Ngài họ Đoàn tên
Nhược, quán làng Thế Dương, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, sinh vào năm
thứ 21, triều vua Minh Mạng (1840).
Xuất thân trong một
gia đình nho phong, bẩm chất thông minh hiếu học, lúc Ngài được 18 tuổi
thì thân sinh đã mạng chung. Từ đó Ngài vân du đó đây hầu mở rộng kiến
thức. Đến tỉnh Thuận Hóa, Ngài gặp cụ Bố Chính Nguyễn Khoa Luân (Về sau
tức Viên Giác Thiền sư) tại chùa Ba La Mật. Sau mấy ngày đàm đạo, các Ngài
nhận thấy thân mạng là vô thường, tam giới như nhà lửa, chỉ có lối tu học
chánh pháp của Như Lai mới là con đường giải thoát chân chánh.
Năm 1859, được 19
tuổi Ngài phát tâm tầm sư học đạo. Lúc bấy giờ tại tỉnh Quảng Nam, nơi quê
quán của Ngài, có Hòa Thượng Quán Thông, một vị danh Tăng, vào hàng thứ
năm dòng Lâm Tế, làm trú trì chùa Phước Lâm. Ngài mới xin thế phát đầu sư
với Hòa Thượng. Thọ Sa Di giới được 6 năm, Ngài tỏ ra là một Tăng sĩ xuất
chúng. Hòa Thượng Bổn sư Quán Thông đặt cho Ngài pháp danh là Ấn Bổn, tự
Tổ Nguyên, hiệu Vĩnh Gia.
Năm 1865, được 25
tuổi Ngài đến cầu đạo với Ngài Huệ Quang tại chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn)
Quảng Nam. Tại đây, Ngài thọ tam đàn Cụ Túc giới.
Năm 1893 (Quý Tỵ -
triều Thành Thái) Ngài cùng Hòa thượng Chí Thành mở Đại giới đàn tại Tổ
đình Chúc Thánh (Quảng Nam) và Ngài nhận chức Giáo Thọ A Xà Lê tại giới
đàn này.
Năm 1894 (Giáp Ngọ),
Ngài được thỉnh làm Đệ nhị Tôn chứng cho Đại giới đàn tại Tổ đình Báo Quốc
(Thuận Hóa).
Năm 1906 (Bính Ngọ),
Ngài nhận làm Yết Ma cho Đại giới đàn tại Tổ đình Thập Tháp Di Đà (Bình
Định).
Năm 1908 Mậu Thân,
Ngài được thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn tại chùa Phước Lâm
(Quảng Nam).
Đến năm 1910 (Canh
Tuất - triều Duy Tân) Ngài khai Đại giới đàn tại Tổ đình Phước Lâm, Hội
An, và làm Đàn đầu Hòa Thượng. Giới đàn này quy tụ gần 200 giới tử, trong
đó sau này có Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đệ nhất Tăng Thống Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa thượng Thích Giác Nhiên chùa Thuyền Tôn
là đệ nhị Tăng Thống... Về phần tại gia thì có Miên Trinh Tuy Lý Vương, cụ
Đô Thống Lê Viết Nghiêm v.v... và nhiều hoàng thân quốc thích khác đều là
đệ tử của Ngài.
Ngài có công lớn
trong việc đại trùng tu Tổ đình Phước Lâm, chú trọng việc đào tạo Tăng
tài, giáo hóa hậu lai. Nhờ thế dân chúng thấm nhuần ảnh hưởng đạo đức của
Ngài, không những đối với Phật giáo đồ Quảng Nam mà còn đối với cả Phật
giáo miền Trung. Với sự nghiệp cao dày của Ngài, trọn đời hiến thân cho
việc phục hưng Phật giáo, cụ Thượng thư Hiệp biện Đại học sĩ Nguyễn Hà
Đình (đệ tử của Ngài) một nhà thâm nho và cũng thâm uyên giáo lý đã dâng
tặng Ngài hai câu đối bằng gỗ trầm hương, hiện nay còn treo tại chùa Phước
Lâm :
Tăng lữ thả bồi
hương hỏa xã,
Cao tình du ái thủy
vân hương.
Ngài thường căn dặn
đệ tử: “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, nếu phá giới thì phải hoàn
lại y bát, ra khỏi già lam, để cho trong đục rõ ràng, tà chánh phân chia
có vậy, nước Thiền định mới khai thông, đèn tri giác thêm sáng tỏ”. Trên
40 năm tu học và hành đạo, Ngài am tường giới luật, hành trì nghiêm tịnh,
đạo hạnh ngày càng vang dội.
Đến năm 1918, tuổi
già sức yếu, Ngài gọi đồ chúng dạy bảo lần cuối rồi an nhiên thị tịch.
Ngài thọ 79 tuổi với 54 hạ lạp, tháp của Ngài được xây cất trang nghiêm cổ
kính phía tả Tổ đình Phước Lâm, Hội An, Quảng Nam - Đà Nẵng.
Hàng năm đến ngày 20
tháng 3 âm lịch, Tăng tín đồ tề tựu lại Tổ đình Phước Lâm, thành kính lễ
Húy kỵ tưởng niệm công đức Ngài. Đạo phong cao vời của Ngài tỏa sáng mãi
trong Tăng tín đồ hậu thế.
***
HÒA THƯỢNG
(1852 - 1923)
Hòa thượng Thích
Chánh Hậu, thế danh là Trà Xuân Tồn, gốc người Minh Hương, sinh năm Nhâm
Tý (1852) tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
Ngài xuất thân từ
một gia đình thế gia vọng tộc. Thân phụ Ngài làm chức Tri Phủ, nhưng khi
Ngài lớn lên thì gia đình gặp lúc suy vi vì thực dân Pháp bắt đầu xâm
chiếm nước ta. Tuy nhiên Ngài vẫn được giáo dục chu đáo từ thuở nhỏ.
Năm 18 tuổi, Ngài
vâng lệnh song thân kết hôn với cô Phan Thị Lê, con quan Thủ Hạp(1) Định
Tường ở cùng làng. Được người vợ trẻ đẹp, đoan trang, con quan, tưởng đâu
Ngài sẽ được sống hạnh phúc đời thường. Không ngờ năm Ngài 22 tuổi (1874),
cha mẹ đều qua đời, lại gặp lúc thời cuộc đang buổi rối ren, Ngài cảm thấu
luật “sanh lão bệnh tử” của kiếp người và lẽ “vô thường” của tạo vật, bèn
giao gia tài cơ nghiệp lại cho người anh, khuyên vợ về bên gia đình cha mẹ
ở, rồi Ngài cất một cái am đặt tên là “Thiền Lâm Tiểu Viện”, tự tu hành để
báo hiếu cha mẹ.
Ngài thực hiện ăn
chay nằm đất khoảng hai năm, người ngoài không rõ Ngài tu theo pháp môn
nào, vì không có bổn sư hướng dẫn. Một hôm có Hòa thượng Huỳnh Chơn Giác ở
chùa Bửu Hưng (Sa Đéc) về Tổ đình Bửu Lâm (Mỹ Tho) nghe chuyện này bèn rủ
Yết Ma Nguyễn Huyền Dương cùng tới viếng thăm Thiền Lâm Tiểu Viện. Sau khi
trò chuyện trao đổi, thấy Ngài dốc lòng tu, nhưng không đúng hướng, hai vị
lấy lời giảng giải và thuyết phục Ngài nên đi theo con đường Chánh pháp.
Theo lời khuyên của
hai vị chân tu, năm 24 tuổi (1876) Ngài đến Tổ đình Bửu Lâm đảnh lễ quy y
thọ giới với Hòa thượng Minh Phước (tức Nguyên Phước), hiệu Tư Trung. Hòa
thượng Tư Trung cũng là người Minh Hương, nên ban cho Ngài pháp danh Quảng
Ân, pháp hiệu Chánh Hậu (Theo một dòng kệ phái Lâm Tế phổ biến trong giới
Hoa kiều).
Năm Ngài 27 tuổi
(1879) được Hòa thượng Bổn sư ban cho bài kệ truyền thừa như sau:
Tùng lai tiền niệm
sự kinh dinh
Lũy niên dũ chướng
dũ niệm tình
“Hữu vi” thị pháp
tâm bất liễu
Đạt đắc “vô vi” pháp
thậm “minh”.
Tạm dịch:
Dò theo nghĩ lại
chuyện kinh dinh
Năm thâm, chướng
lắp, lại thêm tình
“Hữu vi” là pháp tâm
nào được
Đạt được “vô vi”
pháp thật “minh”.
Năm sau Hòa thượng
Bổn sư cử Ngài làm Thủ tọa chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở gần Mỹ Tho là một danh
lam cổ tự có trước thời Gia Long(2).
Còn bà Phan Thị Lê,
lúc đầu trở về nhà cha mẹ, cùng chồng tuy không phải tử biệt nhưng thực sự
đã sinh ly. Dần dần nhờ bạn bè khuyên giải, bà vơi được nỗi đau buồn cũng
xin xuất gia đầu Phật tìm con đường giải thoát. (Sau thành Tỳ kheo ni hiệu
Diệu Tín, được Ngài An Lạc trụ trì chùa Vĩnh Tràng thờ ở chùa này).
Mùa hè năm Bính Tuất
(1886) Ngài an cư kiết hạ tại chùa Phước Hưng (Sa Đéc). Sau mùa an cư có
giới đàn, Ngài được cử làm Yết ma A Xà Lê Sư. Năm Canh Dần (1890), ông
Huyện Thụ là một cư sĩ thuần thành cùng các tín đồ đến chùa Sắc Tứ Linh
Thứu thỉnh Ngài về trụ trì chùa Vĩnh Tràng, một ngôi chùa danh tiếng của
đất Mỹ Tho đã bị hoang phế vì nạn binh lửa. Từ khi Ngài về làm trụ trì,
chùa được phục hồi sinh khí như xưa, bổn đạo tới lui tấp nập. Năm Ất Mùi
(1895) Ngài xây lại chùa Vĩnh Tràng. Năm Kỷ Hợi (1889) Ngài trùng tu chùa
Sắc Tứ Linh Thứu. Năm Giáp Thìn (1904) cơn bão lớn xảy ra vào hồi tháng ba
đã làm hư hại nặng chùa Vĩnh Tràng. Từ năm Đinh Mùi (1907) đến năm Tân Hợi
(1911) Ngài lại phải khuyến giáo tín đồ góp công góp của trùng tu lại
chùa. Đáng chú ý trong lần trùng tu này, Ngài đã nhờ nghệ nhân điêu khắc
tài hoa Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc toàn bộ tượng thờ
trong chùa. Ngày nay, chùa Vĩnh Tràng và Linh Thứu là hai thắng tích bậc
nhất tỉnh Tiền Giang, phần lớn nhờ vào công tu tạo của Ngài.
Thời gian Hòa thượng
Chánh Hậu trụ trì chùa Vĩnh Tràng là thời gian khắp các nước Đông Á khởi
xướng phong trào chấn hưng Phật giáo. Từ Tích Lan, Ấn Độ, qua Thái Lan,
Miến Điện, đến Nhật Bản, Trung Hoa, đâu đâu cũng có các trung tâm, các cơ
quan ngôn luận, các vị tu sĩ và học giả hoạt động cho phong trào. Đặc biệt
tại Trung Hoa là nước gần với Việt Nam, sự giao lưu chặt chẽ, các sách báo
nói về việc chấn hưng Phật giáo đã được các thương buôn Hoa kiều du nhập
vào nước ta, nhất là ở Nam kỳ, đã ảnh hưởng sâu xa đến các vị Tôn túc Hòa
thượng có đạo tâm, hằng ưu tư về tiền đồ của Phật giáo Việt Nam.
Hòa thượng là người
Minh Hương nên dễ dàng tiếp cận và quan hệ chặt chẽ với các bậc thức giả
Hoa kiều, có dịp đọc các bài nói về phong trào chấn hưng Phật giáo của
Thái Hư Pháp Sư bên Trung Hoa. Trong thâm tâm Ngài đã ươm hạt giống chấn
hưng để chờ có cơ duyên là đem gieo rắc vun trồng. Tuy Ngài chưa khởi
xướng lên được phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng việc hoằng dương
Chánh pháp của Ngài đã đi đúng con đường chấn hưng. Ngài thường xuyên mở
trường gia giáo để đào tạo Tăng tài. Khi thì tự Ngài làm Pháp Sư. Khi thì
Ngài thỉnh Hòa thượng Giác Hải. Đặc biệt Ngài còn mở lớp dạy chữ Nho, dạy
thuốc. Ngài mời các bậc túc nho, phần nhiều là các chiến sĩ Văn Thân, Cần
Vương lánh nạn ẩn tích và các bậc lương y trong vùng đến dạy. Trong số có
cụ Tòng Am Phan Văn Viễn cùng họ với cụ Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh đã được
chùa Vĩnh Tràng nuôi ở hàng chục năm.
Rất tiếc là công
cuộc chấn hưng Phật giáo tại Nam kỳ đang trong thời kỳ manh nha, thai
nghén thì ngày 29 tháng 7 năm Quý Hợi (1923) Hòa thượng Chánh Hậu viên
tịch, thọ 72 tuổi với 47 hạ lạp.
Sự nghiệp kiến lập
trùng tu tự viện, khai mở các lớp gia giáo đào tạo Tăng tài và quan tâm
đến tiền đồ Phật giáo của Ngài, được xem là bước tiên phong chân chính,
vinh quang như bình minh thế kỷ XX.
Chú thích :
1) Thủ hạp là chức
quan giữ kho tiền, kho lúa của triều đình tại các tỉnh, thành.
2) Chùa Linh Thứu
lúc đầu chỉ là am tranh, sau được Hòa thượng Thiệt Thanh - Nguyệt Hiện
(1759 - 1815) xây lại bằng gạch ngói và đặt tên là chùa Long Tuyền. Trong
thời gian tẩu quốc, có lần Nguyễn Ánh trốn vào chùa này thoát nạn, nên năm
Gia Long thứ 11 (1812) Sắc Tứ Long Tuyền Tự. Đến triều Thiệu Trị năm thứ
nhất (1841) đổi là Sắc Tứ Linh Thứu Tự.
***
HÒA THƯỢNG
( 1867 - 1929 )
Hòa thượng Hoằng
Nghĩa, húy Như Phòng, thế danh Trần Văn Phòng, sinh ngày 29 tháng 9 năm
Đinh Mão (1867) tại làng Bình Thới, tỉnh Gia Định. Thuộc dòng Lâm Tế Bổn
Ngươn, đời thứ 39.
Năm ấy là niên hiệu
Tự Đức thứ 19, bảy năm sau khi thành Gia Định thất thủ, và ba năm sau khi
Trương Định cự tuyệt mệnh lệnh triều đình không chịu rời Gò Công, nơi được
nhân dân phong tặng Bình Tây Đại Nguyên Soái(1). Tướng Nguyễn Tri Phương
với hai trăm khẩu thần công đã không giữ được thành Gia Định, đồn Chí Hòa
- Phú Thọ... Và năm 1867 chính là năm Pháp vừa chiếm ba tỉnh miền Tây,
chưa kể đến các sự kiện nghĩa quân nổi dậy khắp Nam kỳ lục tỉnh v.v... Vì
vậy, nơi Ngài sinh ra chính là một trong những nơi mà song thân của mình
đã dừng chân tha phương(2) trên đường tìm đất sống. Giữa thời buổi loạn
lạc ấy, phần lớn các gia đình đều ly tán, sinh con rồi gửi lại người thân
nuôi nấng để ra đi vì sinh kế hoặc theo các phong trào nghĩa binh nổi dậy
chống thực dân. Ngài là một trong số hoàn cảnh đó. Vì thế nguồn gốc về
song thân của Ngài, đến nay vẫn chưa có sử liệu nào ghi lại được(3).
Do những hoàn cảnh
kể trên, tuổi thơ của Ngài đã sớm chịu sự xa cha vắng mẹ. Nhưng Ngài vẫn
được những người bảo hộ cho học hành tử tế và có phần ưu đãi, bởi tự thân
Ngài đã sớm biểu lộ đức tính cần cù nhẫn nại và uyên bác trong tri thức.
Bên cạnh đó là lòng thương yêu người và cả những vật thể chung quanh.
Ngoài những lúc làm việc phụ giúp người thân và học hành, Ngài hay theo
các bạn đồng lứa đến chùa lễ Phật, nghe Pháp.
Năm Quý Dậu (1873),
khi vừa bảy tuổi, Ngài đã đến chùa Giác Viên (Chợ Lớn) xin được thọ pháp
xuất gia với Tổ Hoằng Ân - Minh Khiêm.
Thời gian tu học nơi
dây, Ngài được các bạn lữ hết lòng giúp đỡ và khen ngợi. Tổ Hoằng Ân cũng
rất hài lòng về đệ tử mới của mình . Từ trợ duyên tích cực đó Ngài đã tự
sách tấn mình trong việc học hành, tu tập bằng tất cả tư chất thông minh
vốn có nên đạt được kết quả tốt đẹp.
Năm Quý Mão (1903),
Hòa thượng Chơn Không- Như Nhu (huynh đệ với Tổ Như Phòng) viên tịch. Tổ
Hoằng Ân liền giao cho Ngài trách nhiệm trụ trì chùa Giác Viên.
Sau khi nhận trách
nhiệm, Ngài đã đặt cách các chức sự trong chùa hợp lý hơn, đồng thời hiệp
lực cùng các huynh đệ lo trùng tu chùa, lúc này đã xuống cấp, có nhiều khả
năng hư hoại nặng. Những việc làm kịp thời, đúng lúc của Ngài, đã được sự
tán trợ nhiệt thành của mọi người và Phật tử gần xa.
Cũng từ khi nhận
trách nhiệm trụ trì, Ngài càng tinh tấn hơn trong nếp sống đạo hạnh, bền
chí tu học và giữ gìn giới luật nghiêm tịnh, hầu làm gương soi cho Tăng
chúng. Lúc này, dưới sự quan tâm trực tiếp của Ngài, sinh hoạt thường
nhật, oai nghi tế hạnh trong chùa đã đi vào nề nếp.
Ngoài việc chăm lo
cho chùa Giác Viên, Ngài còn quan tâm, đóng góp nhiều công sức trong việc
trùng tu lần thứ hai ngôi chùa Giác Lâm vào những năm 1900 - 1909. Do đó,
trong lịch sử xây dựng và bảo tồn hai Tổ đình quan trọng này, Ngài là một
trong những vị đầy năng động, nhiệt thành có công rất lớn.
Năm Nhâm Tuất
(1922), giới đàn quan trọng được mở ra tại chùa Giác Lâm nhằm truyền trao
giới pháp cho Tăng sĩ khắp nơi. Ngài được suy tôn làm Hòa thượng Đàn đầu.
Những năm kế tiếp,
Ngài được cung thỉnh vào các hàng Tôn Chứng, A Xà Lê, Giáo Thọ v.v... ở
những giới đàn khác, do oai đức vang dội khắp nơi, Ngài cũng ý thức được
sự nghiệp gầy dựng những tầng lớp kế thừa, là nhiệm vụ hàng đầu ở buổi
bình minh của phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài không quên dặn lòng
cũng như khuyến hóa chúng Tăng phải giữ vững đạo tâm, tuy sẵn sàng cứu dân
giúp nước, nhưng chớ để thời cuộc lôi kéo mà quên bổn phận của một hành
giả : Cứu cánh giải thoát.
Điều để nhận ra
trước nhất là đức độ và lòng thiết tha với đạo với đời nơi Ngài luôn chan
hòa và vững chắc, và Ngài là một trong rất ít Tăng sĩ xuất gia rất sớm. Do
đó hành trạng của Ngài như bông hoa bừng nở, tỏa hương. Đồng thời cũng nhờ
công đức hoằng hóa của Ngài mà nếp sống theo tinh thần Phật giáo có mặt
mọi nơi trong xã hội. Tạp chí Kim Thi Tập, đã có lời ca ngợi về đức độ và
việc làm của Ngài: “Ông Hoằng Nghĩa thường đêm tụng Pháp Hoa kinh, thập
phương thiện tín người người đều yêu mến, cho nên lúc trùng tu chùa Giác
Lâm, thiên hạ hỷ cúng tới bạc muôn, cũng là nhờ có Phật ân phổ chiếu, đáng
tặng đáng khen...”
Trong số các Tăng sĩ
đệ tử tài ba lỗi lạc của Ngài, được biết đến nhiều sau này như Ngài Hồng
Hưng - Thạnh Đạo (trụ trì chùa Giác Lâm từ năm 1910 - 1949), Ngài Hồng
Long - Thiện Phước và Hồng Từ - Tuệ Nhơn (cũng ở chùa Giác Viên).
Một Tăng sĩ tài ba,
suốt cả một cuộc đời đóng góp nhiều cho đạo pháp như Ngài, luôn là kim chỉ
nam cho không ít các bậc thức giả sau này. Khi cao trào chấn hưng Phật
giáo khởi sắc, thì những vị được đào tạo chính qui và trang bị học thuật
sẵn từ bấy giờ chính là những nhân tố rất cần thiết cho đại cuộc. Ngài đã
làm được việc đó, xứng đáng là hậu duệ thứ 39 chi phái Lâm Tế Bổn Nguơn.
Và hai ngôi chùa Giác Lâm, Giác Viên nổi tiếng được biết đến nhờ những vị
cao Tăng như thế.
Khi cảm thấy những
phước báu đưa đến, cũng là lúc công việc hoằng hóa đã đến hồi viên mãn.
Không khi nào Ngài tỏ ra tự mãn hoặc tự hào về chính mình. Ngược lại, Ngài
tỏ ra khiêm tốn, hòa ái với chung quanh. Đó được xem là pháp âm mà Ngài
muốn truyền cho hậu thế. Cũng vậy qua những mẫu chuyện truyền khẩu trong
chốn già lam, việc Ngài đi bộ từ chùa Giác Lâm đến Giác Viên và ngược lại,
không hề màng đến các phương tiện di chuyển là ý khuyến hóa chúng Tăng
trong chùa nên giữ hạnh kham nhẫn khiêm cung, cẩn trọng đối với tứ sự cúng
dường của đàn việt và tình pháp hữu phải được hòa hợp. Đó là một trong
những lộ trình đến Niết bàn giải thoát, đầy lòng vị tha.
Năm Kỷ Tỵ (1929)
nhằm ngày 23 tháng 11. Ngài đã an nhiên thị tịch tại chùa Giác Viên, thọ
63 tuổi.
Tang lễ của Ngài
được ghi lại rất chi tiết trong vài quyển sách xuất bản hai năm sau đó
(1931) và cho biết có hơn một ngàn người đến thọ tang, tiễn đưa nhục thân
Ngài vào bảo tháp.
Chú thích :
1) Tập Văn Yêu Nước
Nam Bộ (NXB Giải Phóng 1976).
2) Đất Gia Định xưa
- Sơn Nam (NXB TP. Hồ Chí Minh 1984).
3) Có sách ghi Ngài
sinh tại Bà Điểm, là con của một thầy thuốc gia truyền, và sinh vào năm
1857 (PTS Trần Hồng Liên).
Mục lục | Lời giới thiệu |
Ý kiến |
Lời nói đầu | Phần I |
Phần II |
Phần III |
Phần IV |
Phần V |
Phần VI |
Phần VII.