Phật lịch 2539 - 1995
-
TIỂU SỬ
-
DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX
II GIAI ĐOẠN CHẤN
HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỔ PHI LAI
(1861 - 1933)
Tổ Phi Lai thế danh
là Nguyễn Văn Hiển, Pháp hiệu Chí Thiền(1). Ngài sinh tháng 02 năm Tân Dậu
(1861) tại Quảng Nam, xã Diêm Sơn, huyện Duy Xuyên, trong một gia đình
nhiều đời làm quan triều đình và có lòng kính tin Phật pháp. Ông nội là Hộ
Quốc Công Nguyễn Công Thành, dưới triều Tự Đức,(2) thân phụ Ngài là quan
Tổng Trấn Quảng Nam, rất được lòng dân(3).
Ngài lớn lên trong
sự giáo dục nghiêm nhặt theo đúng truyền thống gia phong, văn võ song
toàn, trí đức ngời sáng. Tuy ở dinh Tổng Trấn với nếp sống quyền quý,
nhưng Ngài vốn bản tính hiền hậu hay giúp đỡ mọi người. Giữa lúc thiếu
niên đang cần sự dạy bảo của phụ thân thì ông qua đời. Ngài phải nương dựa
vào mẹ và tiếp tục phấn đấu học hành tiến thủ.
Năm Mậu Dần (1878),
khi Ngài 18 tuổi, vua sắc chỉ trọng dụng con công thần làm quan, Ngài được
bổ nhậm làm quan Hậu Bố tại hạt Khánh Hòa. Tuy làm quan, có tài kinh lược,
nhưng Ngài vẫn không cảm thấy thích thú với quan lộ như truyền thống gia
đình. Ngài bí mật tham gia phong trào khởi nghĩa Văn Thân. Khi phong trào
tan rã, Ngài lánh nạn vào miền Nam ở đất Gia Định để tránh sự theo đuổi
của quan quân triều đình và mật thám Pháp.
Năm Tân Tỵ (1881)
tại nơi lánh nạn này, Ngài cảm nhận được sự vô thường, danh lợi như chiếc
bóng thoáng qua, chiêm nghiệm thực cảnh biển dâu, thống khổ bấy giờ chỉ là
giấc mộng, chí xuất trần bộc phát nên Ngài đến chùa Giác Viên Chợ Lớn xin
xuất gia học đạo với Tổ Hoằng Ân - Minh Khiêm, được Tổ ban pháp hiệu Chí
Thiền, pháp danh Như Hiền.
Từ đó, Ngài theo
thầy Tổ để học đạo, và noi gương Lục Tổ Huệ Năng phát nguyện bửa củi, gánh
nước, giã gạo v.v... không nề gian lao khổ cực suốt một thời gian dài. Sau
đó Ngài phát nguyện đóng chuông ngày sáu thời ròng rã suốt ba tháng. Mãn
đóng chuông ba tháng, Ngài phát tâm công quả đấp nền chùa Giác Viên hằng
ngày bằng 100 xe đất cho đến lúc thành tựu. Sau đó Ngài xin Bổn sư cho
nhập thất ba năm, được Thầy ban pháp ấn. Ba năm nhập thất cũng đạt sở
nguyện viên mãn, Ngài lại cùng Bổn sư lo xây dựng ngôi Tam bảo Giác Sơn.
Ngôi chùa được khánh thành, Bổn sư cử Ngài làm Thủ tọa coi sóc trong ngoài
chùa Giác Sơn. Cho đến khi Bổn sư viên tịch vào năm Kỷ Tỵ (1899), Ngài lại
kiêm nhiệm trụ trì chùa Giác Viên.
Năm Giáp Thìn
(1904), trận bão lụt lớn nhất miền Nam thời ấy, gây tai họa thảm khốc cho
nhân dân Gò Công. Ngài đích thân quy nạp ghe thuyền với sự trợ sức của
Tăng tín đồ tỉnh Gò Công, cứu giúp gần một vạn người đang bị nước cuốn
trôi. Giữa trận mưa bão tơi bời, hình ảnh Tăng sĩ vật lộn với thiên tai đã
đem lại lòng tin nơi những người cộng sự và để lại trong lòng người dân
tỉnh Gò Công một hình ảnh hết sức tốt đẹp và cao quý. Nhất là nơi vàm Ốc
Len ngay chính ghe cứu nạn của Ngài bị lật úp, nhưng với tinh thần từ bi
cao cả và bình tĩnh sáng suốt, Ngài đã nhanh chóng biến nguy nan thành sức
mạnh tự tại, nhờ đó mà vượt qua được nạn tai.
Sau trận bão lụt,
ngoài việc tiếp tục lo tìm xác thu lượm chôn cất và làm lễ cầu siêu cho
những người xấu số, Ngài còn vận động xây cất nhà cửa, dọn dẹp những căn
nhà đổ nát và cấp phát thuốc men ngừa bệnh. Ngày rằm tháng chạp năm đó,
Ngài trở về quê cũ thăm mẫu thân thì mẹ đã qua đời. Ngài lo an táng và cầu
siêu cho mẹ đến chung thất mới trở lại chùa.
Sau khi sắp đặt cắt
cử mọi việc trong chùa xong, Ngài cùng một thị giả đến chùa Giác Sơn, từ
giã huynh đệ thẳng đường đến núi Sam - Châu Đốc, ẩn dật tu hành. Khi đi
ngang kênh Vĩnh Tế, Ngài được ông Năm Thanh đưa sang bờ và hướng dẫn đến
chùa Phi Lai Cổ Tự lễ Phật. Đây là ngôi chùa vách đất, vắng vẻ hoang vu,
do đó khi lễ Phật xong Ngài cùng thị giả đi thẳng qua hướng Thạch động,
núi Cấm, yên chí tu hành nhưng không quên ngôi chùa vắng vẻ đìu hiu ấy.
Ông Năm Thanh, sau khi tiễn Ngài lên núi, trở về bàn cùng hương chức và
Phật tử địa phương cung thỉnh Ngài trụ trì chùa Phi Lai và được Ngài hứa
khả. Chùa Phi Lai sau đó được Ngài về trụ trì. Nhờ uy đức và hạnh nguyện,
Ngài đã biến nơi đây thành chốn già lam đông đúc Tăng tín đồ đến thọ pháp,
cuộc sống người dân quanh vùng có biến đổi mới mẻ và chan hòa ý sống tình
đạo.
Năm Đinh Mùi (1907),
một thảm họa khác lại đưa đến, do nước lũ ngập úng, cây cối hoa màu không
sinh sôi nảy nở, mùa màng tổn thất. Ngài cho cứu tế khắp nơi, đem cả lương
thực của chùa ra phân phát, kêu gọi dân chúng lên núi vào ở ngay trong
chùa, đợi cho đến khi nước rút mới thôi. Do đó mà người dân đã thoát qua
được những trận thiên tai địa ách bằng lòng tin và cách sống vị tha của
Ngài. Họ đã đứng sau lưng Ngài trong suốt 49 ngày lập đàn Dược Sư cầu
nguyện. Sau những biến động thiên tai dồn dập ấy, Ngài phát nguyện tịch
cốc, chỉ ăn rau trái, với tâm nguyện chịu nỗi khổ thay dân trong suốt mười
hai năm liền.
Do những hoạt động
và tinh thần xả thân vì chúng sanh, Ngài được quần chúng ngưỡng mộ và hết
lòng quy thuận, nên mật thám Pháp nghi ngờ Ngài làm quốc sự và bắt giam
Ngài trong mười tháng.
Do những hoạt động
và tinh thần xả thân vì chúng sanh, Ngài được Lục Cả chùa Tà Lạp ở
Campuchia hiến cúng pho tượng Phật cổ hàng trăm năm bằng vàng, để tôn trí
tại chùa Phi Lai. Đủ nói lên tinh thần và oai đức của Ngài đã vượt ra khỏi
biên giới bản địa, kết chặt thêm tình đạo cao sâu, giữa thời buổi chiến
tranh loạn lạc.
Thời điểm mở đầu của
phong trào chấn hưng Phật giáo, Tổ Khánh Hòa cùng chư Hòa thượng đồng tâm
nguyện họp bàn công việc Phật sự tại chùa Linh Sơn Sàigòn, Ngài không đến
được, đã gửi cúng vào quỹ Chấn hưng ba trăm đồng tiền Đông Dương.
Năm Đinh Mẹo (1927),
Ngài chứng minh lễ khai giảng lớp học Tăng ở chùa Giác Hoa tỉnh Sóc Trăng.
Năm Kỷ Tỵ (1929), Ngài chứng minh Đại giới đàn chùa Trùng Khánh ở Phan
Rang.
Năm Nhâm Thân
(1932), sau khi Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành lập, Ngài tham
gia vận động trực tiếp cổ xúy cho Hội, khuyến khích Phật tử tích cực ủng
hộ hầu làm cho ngôi nhà Chánh pháp thêm vững mạnh, huy hoàng.
Năm Quí Dậu (1933),
Ngài thọ bệnh và an dưỡng tại thiền sàng, Ngài ứng hẹn vào vía Phật nhập
Niết Bàn sẽ viên tịch. Quả đúng như thế, đến ngày rằm tháng 02, sau khi
dặn dò các đệ tử, Ngài chắp tay nói bài kệ:
Nhứt niệm viên quang
tội tánh không
Đẳng đồng pháp giới
hàm thanh tịnh.
rồi an nhiên thâu
thần thị tịch. Ngài trụ thế được 73 năm, hành đạo 52 năm. Bảo tháp của
Ngài được xây tại chùa Phi Lai Châu Đốc.
Cuộc đời của Tổ Phi
Lai còn rất nhiều hành trạng bí mật trong việc giúp đỡ các phong trào yêu
nước chống Pháp và những pháp thuật cứu đời. Học thức uyên thâm và đức độ
của Ngài đã cảm hóa không biết bao nhiêu người trở thành đệ tử Ngài, quy y
theo Phật, xuất gia học đạo và thế hệ kế thừa Ngài là những vị Tăng tài
xuất chúng đóng góp cho sự nghiệp phát triển Phật giáo Việt Nam rạng rỡ
huy hoàng.
Tổ Phi Lai là tiêu
biểu cho thế hệ danh Tăng ở miền Tây Nam bộ, đóng góp công sức rất lớn cho
phong trào chấn hưng, mà lịch sử mãi còn kính ghi khắc lại tưởng niệm đời
đời.
Chú thích :
1) Có nơi gọi là Chí
Thành - vì cữ tên ông nội nên gọi là Chí Thiền (Phật Giáo Việt Nam Sử Lược
Tập III - Nguyễn Lang) - (Ý kiến Trương Ngọc Tường).
2) Có ý kiến cho
rằng ông nội của Ngài là Tiền Quân Nguyễn văn Thành dưới triều Tự Đức. Sau
biến cố gia đình theo anh về Bình Định (đang làm Bố Chánh Bình Định) -
(Trương Ngọc Tường).
3) Có bản tiểu sử
ghi Ngài là con của Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành (Tiểu sử chùa Kim
Quang-Nha Trang, Tiểu sử chùa Từ Quang - Thủ Đức ).
***
HÒA THƯỢNG
(1904 - 1935)
Ngài Mật Khế, sinh
năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 16 (1904) tại làng Thần Phù, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm lên 9 tuổi (Quý Sửu 1913) vừa lúc Ni sư
Diên Trường dựng xong chùa Trúc Lâm ở làng Dương Xuân Thượng và thỉnh Hòa
thượng Giác Tiên về làm trú trì, Ngài theo Hòa thượng làm tiểu đồng hầu
hạ.
Năm 19 tuổi (Quý Hợi
1923) Ngài được Hòa thượng Giác Tiên chính thức thế độ, ban cho pháp danh
Tâm Địa, pháp hiệu là Mật Khế. Từ đó Ngài cùng các Tăng hữu Mật Nguyện,
Mật Hiển và Mật Thể là những đệ tử lỗi lạc nhất của Hòa thượng Giác Tiên
và là những trụ cột về sau cho phong trào chấn hưng Phật giáo.
Cùng năm đó (1923),
Hòa thượng Giác Tiên tổ chức Đại giới đàn tại chùa Từ Hiếu do Hòa thượng
Tâm Tịnh làm Hòa thượng truyền giới. Ngài được Bổn sư cho thọ Cụ Túc giới
tại Đại giới đàn này. Ngài tỏ ra là người xuất sắc nhất trong hàng các
giới tử, nên được chỉ định làm thủ chúng Sa Di. Sau khi thọ giới, Ngài
được Hòa thượng Tâm Tịnh ban thưởng cho một cà sa và một bình bát là hai
vật thiêng liêng nhất, quý trọng nhất của người xuất gia tu hành.
Năm Bính Dần (1926)
Ngài 22 tuổi, được Bổn sư gửi vào Bình Định thọ giáo với Quốc sư Phước Huệ
tại chùa Thập Tháp. Quốc sư Phước Huệ là vị cao Tăng nổi tiếng bác thông
kinh luận vào bậc nhất thời bấy giờ. Năm 1929 Hòa thượng Giác Tiên mở Phật
học đường tại chùa Trúc Lâm và vào Bình Định thỉnh Quốc sư làm chủ giảng,
Ngài Mật Khế lại quay về chùa cũ tiếp tục tu học.
Năm Nhâm Tuất (1932)
hội An Nam Phật Học được thành lập và tạp chí Viên Âm được xuất bản. Trong
những ngày đầu mới hoạt động, hội có những buổi diễn giảng Phật pháp tại
chùa Từ Quang, chính cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám và Ngài đã thay phiên
nhau làm Pháp sư. Đó là hình ảnh đẹp nhất về sự cộng tác của một tại gia
và một xuất gia trên con đường phụng sự đạo pháp tại đất Thần kinh.
Năm Quý Dậu (1933),
Hòa thượng Giác Viên ủy cho Ngài mở trường Tiểu học Phật học tại chùa Vạn
Phước, làm nơi tham học cho hàng Sa Di các chùa trong vùng. Số học Tăng
bấy giờ được năm mươi người. Năm 1936, sau khi Ngài mất, trường được dời
về chùa Túy Ba gần bờ biển rồi lại dời về chùa Báo Quốc.
Năm Giáp Tuất
(1934), Ngài lại cùng Bổn sư mở trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm,
thu nhận bước đầu năm mươi học Tăng. Ngài là một trong những giảng sư hăng
hái và tận tụy của trường. Những bài giảng của Ngài trên diễn đàn ở chùa
Từ Quang như “Tam quy ngũ giới”, “Trạch pháp tu tâm”, “Thanh văn thừa”,
“Bồ tát thừa”, “Pháp môn niệm Phật” v.v... giúp cho người học Phật bước
đầu tìm hiểu giáo lý sơ đẳng, đều được in lại trong tạp chí Viên Âm, phổ
biến khắp nơi.
Cùng năm đó, Ngài
cùng Hòa thượng Trí Độ vào Quảng Ngãi dự Giới đàn Thạch Sơn với tư cách
phóng viên của báo Viên Âm.
Bước đầu khởi xướng
phong trào chấn hưng Phật giáo, các vị trong hội An Nam Phật Học, Tăng Ni
cũng như cư sĩ, đều chung một ý muốn phải có một sự kiện gì thật nổi bật
để gây được tiếng vang trong dư luận toàn quốc và làm động cơ thúc đẩy
phong trào chấn hưng Phật giáo tiến mạnh khắp các tỉnh, khắp cả ba miền
Nam Trung Bắc. Cái sự kiện mà mọi người mong muốn đó là sẽ tổ chức một đại
lễ Phật Đản vào dịp mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1935) thật vĩ đại, thật
trang nghiêm và thật rầm rộ.
Một trong những
người góp nhiều công sức cho việc tổ chức đại lễ ấy là Ngài Mật Khế. Ngài
đã để ra nhiều tuần lễ, đi khắp các chùa, các tự viện tại kinh đô Huế và
cả tỉnh Thừa Thiên vận động, thuyết phục giới Tăng sĩ hưởng ứng và dành sự
ủng hộ toàn diện cho buổi lễ. Với tư cách là Tổng Thư ký của Sơn môn Thừa
Thiên, Ngài đã làm việc tích cực, quên ăn quên ngủ, quá sức chịu đựng, nên
Ngài ngã bệnh nặng. Ngày mồng 8 tháng 4, (tức 15-5-1935), trong lúc đại lễ
Phật Đản được cử hành trọng thể tại chùa Diệu Đế có sự tham dự của vua Bảo
Đại là Hội trưởng danh dự của hội An Nam Phật Học, thì tại chùa Trúc Lâm,
Hòa thượng Giác Tiên đã không dự lễ, mà ở lại ngồi bên giường bệnh của
người đệ tử thân yêu đang trong giờ phút cuối cùng. Hòa thượng Giác Tiên
đã sai thị giả lấy bút mực, tự tay viết bài kệ:
Tâm địa quan hàm
pháp tính viên
Tây lai diệu chỉ
hiểu Nam thiên
Hoạt nhiên trực
triệt Tào Khê lộ
Miễn tại linh bình
ngũ thập niên.
Dịch :
Cõi tâm bao hàm pháp
giới tính
Trời Nam sáng tỏ ý
Tây truyền
Bỗng nhiên thấy
triệt Tào Khê lộ
Khỏi mất công dài
năm chục năm.
Viết xong Hòa thượng
trao cho Ngài. Đọc xong, Ngài nhắm mắt chiêm nghiệm. Mười lăm phút sau,
Ngài thở hơi cuối cùng, hưởng dương 31 tuổi đời. Ngày an táng Ngài, một
người bạn chí thân là cư sĩ Vân Đàn điếu đôi câu đối như sau:
Rừng Mai đạp tuyết,
cay đắng trải bao phen, cơ hóa độ còn nhiều, hy vọng chứa chan, tằm kéo tơ
lòng thêu sử Phật.
Sàng Trúc trổ hoa,
tỉnh mê trong nửa kiếp, tình tương tri quá nặng, sầu trường man mác, quyên
rơi giọt lụy gọi hồn thiêng.
Đúng như cư sĩ Vân
Đàn đã nói, Ngài mất quá sớm, đang thời thanh niên, chứa đầy nhựa sống,
hăng say hoạt động. Hội Phật học đặt nhiều hy vọng ở Ngài, Bổn sư và Tăng
hữu cũng đặt nhiều hy vọng Ngài sẽ trở thành cột trụ cho Đạo pháp trong
tương lai. Nhưng than ôi! Ngài đã sớm lìa trần, để lại bao thương tiếc cho
mọi người. Tuy hội An Nam Phật Học chỉ mới hoạt động được ba năm, nhưng
ngay từ những ngày đầu, Ngài đã hiến dâng tất cả tài năng và sức lực cho
phong trào chấn hưng Phật giáo. Dù công nghiệp chưa nhiều, thành tích còn
khiêm tốn, những gì Ngài đã hiến dâng đóng góp cho đạo pháp đều là những
viên đá nền móng trên đó những người đi sau xây dựng lên tòa lâu đài Giáo
hội ngày nay vậy.
***
TỔ VĨNH NGHIÊM
(1840 - 1936)
Hòa thượng thế danh
là Nguyễn Thanh Đàm(1) pháp hiệu là Thanh Hanh, sinh năm 1840 tại làng
Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) trong một gia
đình thi lễ. Năm lên bảy tuổi, Ngài được gia đình theo cho học chữ Nho.
Nhờ có sẵn thiên tư, lại được cha rèn thầy dạy, nên việc học của Ngài tiến
bộ nhanh chóng. Tuy nhiên, Ngài lại không thích đời trần tục mà lại có ý
muốn xuất gia.
Mặc dầu được cha mẹ
thương yêu, nặng tình cốt nhục cố ngăn cản, Ngài vẫn một lòng xin song
thân cho phép đi tìm cuộc sống thanh thoát nơi thiền gia. Cuối cùng Ngài
được toại nguyện. Lên mười tuổi (1850), Ngài đến làm lễ xuất gia với vị
Hòa thượng họ Nguyễn ở chùa Hòe Nhai - Hà Nội.
Năm lên 18 tuổi
(1858), Ngài được về chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang, tiếp tục tu học
dưới sự chỉ dẫn của Hòa Thượng Tâm Viên.
Năm 20 tuổi (1860),
Ngài thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn chùa Vĩnh Nghiêm. Sau đó Ngài vẫn
tiếp tục ở lại chùa tu hành nghiên cứu giáo lý. Ngài tu học rất tinh tấn
và trở thành một nhân vật rường cột của Tổ đình này.
Năm 30 tuổi (1870),
nghĩa lý đã làu, đạo thiền đã thấu, Ngài được nghiệp sư cử vào tỉnh Ninh
Bình giảng dạy Phật pháp cho Tăng Ni, khi ở chùa Phượng Ban, lúc tới chùa
Hoàng Kim, lại về chùa Phúc Tỉnh v.v... Đến chỗ nào, Ngài cũng chỉ thiết
tha một niềm: lấy việc hoằng dương Chánh pháp, giáo hóa Tăng Ni làm phận
sự. Ngài luôn tâm niệm làm mọi việc lợi lạc cho tín đồ là sứ mệnh của
người xuất gia. Ròng rã ba mươi năm Ngài làm Pháp sư, đem đạo dạy đời.
Trong thì Tăng Ni, ngoài thì thập phương thiện tín, ai cũng được thấm
nhuần mưa pháp. Nhờ vậy mà đệ tử của Ngài nhiều người thành bậc đạo hạnh
thuần nhã, tín căn kiên cố.
Năm Canh Tý (1900),
Ngài 60 tuổi, sư huynh của Ngài là Hòa thượng Thanh Tuyền viên tịch. Ngài
trở về Tổ đình Vĩnh Nghiêm và được sơn môn suy cử vào ngôi kế đăng. Từ đó
Tăng chúng và tín đồ thường gọi Ngài là Tổ Vĩnh Nghiêm.
Trong cương vị đứng
đầu một ngôi Tổ đình lớn vào bậc nhất miền Bắc, công việc điều hành đa
đoan, Ngài vẫn không sao nhãng việc hoằng dương Chánh pháp, đào tạo Tăng
tài, bồi dưỡng lớp kế thừa. Ngài thường xuyên lui tới trường Viễn Đông Bác
Cổ ở Hà Nội, tìm tòi tam tạng kinh điển đại thừa, rồi xin phép ban Giám
đốc cho đồ chúng đem bút giấy vào sao chép về cho khắc ván ấn hành nhiều
bản. Bước đi tiên phong của Ngài đã gây nên phong trào các sơn môn lớn
trên đất Bắc đua nhau sao chép và in ấn kinh sách, giúp Tăng Ni và cư sĩ
có tài liệu tham cứu. Nhờ đó mà các thiền môn có được những bộ kinh quý
hiếm như kinh Hoa Nghiêm Sớ Tấu, kinh Đại Bát Nhã, kinh Đại Bảo Tích, kinh
Duy Ma Cật, kinh Trường A Hàm, luật Tứ Phần Tu Trì, luật Trừng Trị Tục
Khắc và các bộ luận về môn Duy Thức với bộ Phụ Giáo Biên v.v... Các bộ
kinh, luật, luận ấy được khắc ván và in, đều có mang lời tựa và lời bạt
của Ngài. Ngày nay chúng ta đọc lại những bài ấy sẽ thấy sức học của Ngài
rất uyên thâm, sự hiểu biết sâu sắc, lòng vị chúng của Ngài rất thống
thiết.
Ngài luôn quan tâm
đến việc chấn hưng Phật giáo, quy tụ các sơn môn về một mối. Hoạt động của
Ngài và Tăng hữu cho mục đích cao cả đó đã vang dội tận miền Nam, nên năm
1929, Hòa thượng Khánh Hòa đã cử Thiền sư Thiện Chiếu ra Bắc gặp các sơn
môn để bàn việc thành lập Việt Nam Phật Giáo Tổng Hội. Nhưng vì cơ duyên
chưa thuận, việc không thành. Sau đó miền Nam, rồi miền Trung lần lượt
thành lập các hội Phật giáo. Miền Bắc đến ngày 05-12-1934, Bắc Kỳ Phật
Giáo Hội mới chính thức được thành lập. Hội đã thỉnh cầu Ngài làm Thiền
gia Pháp chủ. Tuy tuổi Ngài lúc đó đã 94, sức khỏe đã giảm sút nhiều,
nhưng vì ước nguyện mấy chục năm nay của Ngài đã thành sự thật, nên Ngài
vẫn vui vẻ nhận lãnh nhiệm vụ nặng nề ấy. Trong lễ suy tôn, tổ chức rất
long trọng tại chùa Quán Sứ ngày 23-12-1934, Ngài đã kêu gọi Tăng sĩ theo
nguyên tắc lục hòa của Phật dạy mà bỏ hết dị biệt của tông nọ phái kia để
dốc lòng chấn hưng Phật giáo.
Tuy vậy, sự bất đồng
ý kiến của một số sơn môn với Bắc Kỳ Phật Giáo Hội vẫn xuất hiện. Đó là
việc hai chùa Linh Quang (Bà Đá) và Hồng Phúc cho phát hành tờ Tiếng
Chuông Sớm vào giữa năm 1935, lúc đó tờ Đuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của
hội Bắc Kỳ Phật Giáo chưa xuất hiện. Sự bất đồng ý kiến kéo dài từ giữa
cho đến cuối năm 1935, nặng nề nhất là việc hai Tổ đình Linh Quang và Hồng
Phúc phối hợp với các chùa chi nhánh tại Hà Nội và các tỉnh để tổ chức Bắc
Kỳ Phật Giáo Cổ Sơn Môn. Trước tình trạng đó Hòa thượng Thanh Hanh đã tìm
mọi cách hòa giải, Ngài thường xuyên lui tới các Tổ đình trên để đả thông
và thuyết phục. Nhờ vậy mà sự bất đồng ý kiến trước đó dần dần nhường chỗ
cho sự cộng tác. Đầu tháng chạp năm 1935, tờ Đuốc Tuệ ra mắt độc giả. Báo
Tiếng Chuông Sớm liền viết bài chào mừng và đăng những bài có tinh thần
hòa giải và cởi mở.
Sau bao năm tận tụy
phục vụ Đạo pháp, đào tạo Tăng tài, góp sức cho phong trào chấn hưng Phật
giáo, hòa giải những ý kiến dị biệt, đưa các sơn môn miền Bắc về chung một
mái nhà Phật giáo, công đức của Ngài vô cùng to lớn. Đã đến lúc Ngài có
thể trút bỏ thân tứ đại để trở về cõi Tây phương Cực Lạc, nên ngày mồng 8
tháng 12 năm Bính Tý (1936), Ngài đã viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, hưởng
thọ 96 tuổi đời, 86 tuổi đạo.
Ý nguyện hòa hợp
Tăng già, thạnh hưng Phật đạo để làm mẫu mực cho đời và hy vọng giải thoát
chúng sanh của Ngài còn mãi.
Chú thích :
1) Theo Nguyễn Lang
trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập III, Hòa thượng Thanh Hanh tên tục là
Nguyễn Thanh Đàm (trang 149). Nhưng theo tài liệu viết về Tổ Thuyền Gia
Pháp Chủ (Do Đại Đức Gia Quang ở Phân viện Nghiên Cứu Phật học Hà Nội cung
cấp) thì lại thuộc dòng họ Bùi.
***
HÒA THƯỢNG
(1880 - 1936)
Hòa thượng Giác
Tiên, họ Nguyễn, sinh năm Canh Thìn 1880 (năm Tự Đức thứ 33) tại làng Giạ
Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Song thân Ngài mất sớm, vì
vậy năm Giáp Ngọ (1894) khi vừa tròn 15 tuổi, Ngài đã đến chùa Từ Hiếu xin
xuất gia với Hòa Thượng Tâm Tịnh. Năm Canh Tý (1900), 21 tuổi Ngài thọ
giới Sa Di.
Năm Giáp Thìn (1904)
khi được 24 tuổi, Ngài theo Hòa thượng Bổn sư Tâm Tịnh về dựng Am Thiếu
Lâm để tu học, nhường chùa Từ Hiếu lại cho bản phái. Am Thiếu Lâm này gần
chùa Tây Thiên, rất hợp cho thầy trò an cư tĩnh tu.
Năm Mậu Thân (1908)
Đại giới đàn được tổ chức tại chùa Phước Lâm ở Quảng Nam, do Ngài Vĩnh Gia
làm Đàn đầu Hòa Thượng. Ngài được gởi vào thọ Cụ Túc giới tại giới đàn
này, Ngài tỏ ra là một giới tử xuất sắc nên được chọn làm Thủ chúng Sa Di.
Năm Quý Sửu (1913),
Ni Sư Diên Trường xây dựng xong chùa Trúc Lâm, liền xin phép Hòa Thượng
Tâm Tịnh thỉnh Ngài về làm trụ trì ngôi chùa mới cất này. Ngài về đây thu
nạp đồ chúng và mở rộng hoạt động hoằng dương Chánh pháp, tiếng tăm vang
xa, vượt ra khỏi làng Dương Xuân Thượng, đến khắp mọi nơi.
Năm Canh Thân
(1920), các khóa giảng được mở ra thường xuyên tại chùa Thiên Hưng do Hòa
thượng Huệ Pháp chủ trì, Ngài đã cùng nhiều vị Tăng khác nhanh chóng tìm
đến cầu học. Nơi đây, sau nhiều tháng ngày theo học, Ngài được Hòa thượng
Huệ Pháp khen tặng là người có túc căn thâm hậu.
Năm Quý Hợi (1923),
Ngài tổ chức Đại giới đàn tại chùa Từ Hiếu. Tại giới đàn này, đệ tử của
Ngài là Mật Khế thọ đại giới, và Bổn sư Ngài là Hòa thượng Tâm Tịnh làm
Hòa thượng truyền giới.
Năm Ất Sửu (1925),
năm Bảo Đại nguyên niên, Ngài được sắc chỉ triều đình làm trụ trì chùa
Diệu Đế.
Năm Kỷ Tỵ (1929),
năm Bảo Đại thứ 5 , sau khi trùng tu chùa Trúc Lâm và mở Phật Học Đường
tại đây, Ngài liền vào Bình Định cung thỉnh Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập
Tháp Di Đà ra làm chủ giảng. Từ đó, năm nào Hòa thượng Phước Huệ cũng được
thỉnh về Trúc Lâm giảng dạy. Các đệ tử của Ngài như thầy Mật Khế, Mật
Nguyện, Mật Hiển và Mật Thể đều được theo học và đã đóng góp tích cực
trong công cuộc chấn hưng Phật giáo sau này. Đặc biệt, cùng theo học tại
Trúc Lâm lúc này có cư sĩ Lê Đình Thám, Y sĩ trưởng tại viện Pasteur Huế.
Cư sĩ Lê Đình Thám đã quy y với Ngài từ năm 1928 được đặt pháp danh là Tâm
Minh (chính cư sĩ là người vâng lời Ngài triệu tập các bậc đồng lữ, thành
lập hội An Nam Phật Học năm 1932).
Ngài rất chú ý đến
việc đào tạo Tăng tài. Nhờ những cố gắng đó mà Ngài đã biến chùa Trúc Lâm
thành nơi phát tích nhiều cột trụ của nền Phật giáo cận đại. Tiêu biểu
trong số những Tăng sĩ lừng lẫy như : Quảng Huệ, Trí Thủ, Mật Thể, Chánh
Thông, Thiện Trí, Thiện Hoa, Thiện Hòa...
Năm Quý Dậu (1933),
năm Bảo Đại thứ 8, Ngài ủy thác cho thầy Mật Khế mở trường Tiểu học Phật
Học cho Sa Di các chùa tại chùa Vạn Phước, trường trực thuộc Hội An Nam
Phật Học.
Năm Giáp Tuất
(1934), Ngài lại cùng đệ tử Mật Khế tổ chức trường An Nam Phật Học tại
chùa Trúc Lâm, thu nhận được năm mươi học Tăng. Cuối năm này, Ngài lại quy
tụ được rất nhiều học Tăng có học lực và trình độ khá cao để mở ra cấp Đại
học Phật giáo, cũng tại Trúc Lâm.
Giai đoạn này là cao
trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung, nhờ vào uy đức của Ngài cùng tài
uyên bác của Tâm Minh - Lê Đình Thám, và sự hưởng ứng nồng nhiệt của các
bậc thức giả học Phật như : Ưng Bàng, Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân
Viễn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ứng Bình, Bửu Bác, Trần Đăng Khoa, Lê Thanh
Cảnh, Lê Quang Thiết, Trương Xướng, Tôn Thất Quyên, Nguyễn Xuân Tiếu,
Hoàng Xuân Ba, Lê Bá Ý và Tôn Thất Tùng. Qua Hội An Nam Phật Học và tạp
chí Viên Âm, Ngài và đệ tử mình đã khéo léo dung nạp được rất nhiều chánh
kiến khác nhau, về cùng chí hướng là tận dụng người tri thức để phục vụ
Phật pháp.
Khi sinh tiền, Ngài
được Bổn sư Tâm Tịnh trao cho bài kệ đắc pháp sau đây:
Giác đạo kiếp không
tiên
Không không Bát Nhã
thuyền
Quả nhân phù hạnh
giải
Xứ xứ đắc an nhiên.
Dịch :
Đường giác trước
không kiếp
Thuyền Bát Nhã không
không
Hạnh giải hợp nhân
quả
Ở đâu cũng thung
dung.
Ngài hướng đạo cho
Hội An Nam Phật Học được bốn năm. Năm Bính Tý (1936) ngày mồng 2 tháng 10
Âm lịch, Ngài cho triệu tập các môn đồ tứ chúng về đầy đủ và tụng bộ Pháp
Bảo Đàn Kinh, tụng đến phẩm Bát Nhã thì Ngài cho dừng lại để dặn dò những
điều cần thiết. Qua đến ngày mồng 4, Ngài an nhiên thị tịch. Thọ 57 tuổi
đời, 29 hạ lạp(1).
Tháp Ngài sau đó
được tôn trí nơi phía tả khuôn viên chùa Trúc Lâm.
Chú thích :
1) Ngài Giác Tiên
tịch vào năm 1936 chứ không phải vào năm 1934 như Lê Đình Duyên đã viết
trong bài “Tiểu sử đạo hữu Tâm Minh - Lê Đình Thám” in ở đầu trang sách
Kinh Thủ Lăng Nghiêm xuất bản tại Sài Gòn năm 1973.
***
HÒA THƯỢNG
(1864 - 1938)
Hòa thượng Thích Từ
Phong, thế danh Nguyễn Văn Tường, sanh năm Giáp Tý (1864) tại Sông Tra,
thôn Đức Hòa Thượng, tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, tỉnh Gia
Định, nay là huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Ngài là con trai út
duy nhất của gia đình gồm ba chị em, sống bằng nông nghiệp. Năm 16 tuổi,
nghe cha mẹ bàn bạc về việc lo gia thất cho mình, Ngài từ chối và xin song
thân cho được xuất gia học Phật. Được toại nguyện, Ngài tìm đến chùa Từ
Lâm ở làng Hiệp Ninh, châu thành Tây Ninh, xin quy y thọ giới với thiền sư
Minh Đạt (tục gọi Yết Ma Lượng) là một danh Tăng khả kính đương thời.
Tu học tại chùa Từ
Lâm được một thời gian, Ngài đến chùa Giác Viên ở thôn Bình Thới, tổng Tân
Phong Trung, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường 9, quận Tân
Bình, thành phố Hồ Chí Minh) cầu pháp với Hòa thượng Hoằng Ân - Minh
Khiêm, được ban pháp danh Như Nhãn, pháp hiệu Từ Phong, truyền thừa đời
thứ 39 dòng Lâm Tế, chi phái Đạo Mẫn. Hòa thượng Hoằng Ân thường vân du
hóa đạo, ít trụ tại chùa, nên lập ban trụ trì để chăm lo Phật sự, Ngài
được cử làm thư ký.
Bấy giờ tại xóm Chợ
Gạo, làng Tân Hòa Đông, tổng Long Trung, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc quận
6,thành phố Hồ Chí Minh) có bà Trần Thị Liễu lập một cảnh chùa để tu tâm
dưỡng tánh, an hưởng tuổi già. Được một thời gian, bà cúng ngôi chùa ấy
cho Hòa thượng Hoằng Ân và thỉnh Hòa thượng tới trú trì để hoằng dương
Phật pháp. Hòa thượng Hoằng Ân cử Ngài về đó thay thế. Ngôi chùa của bà
Liễu mang hiệu là Giác Sơn Tự. Ngài thấy hai chữ Giác Sơn chưa đủ ý nghĩa,
nên đổi là Giác Hải Tự, lấy ý trong câu “Giác giả năng độ mê tân. Mê giả
tắc trầm khổ hải”(1). Từ đó Ngài vâng lệnh Bổn sư, nối nghiệp Tổ tông,
hoằng dương đạo pháp tại chùa Giác Hải(2).
Năm 29 tuổi (Quý Tỵ
1893), sau mùa an cư kiết hạ, tại chùa Giác Viên có Đại giới đàn, Ngài
được cử làm Yết Ma A Xà Lê. Vốn là người uyên bác lại tinh tấn nghiên cứu
học hỏi nên Ngài sớm trở thành một Pháp sư tinh thông kinh điển, có tài
hùng biện luôn thuyết phục được người nghe. Vì vậy ai cũng thích đến nghe
pháp với Ngài. Năm Kỷ Dậu (1909) chùa Long Quang ở Châu Thành - Vĩnh Long
khai trường Hương, thỉnh Ngài làm Pháp sư, nhân dịp này, Ngài viết bài
“Khải cáo phát minh văn”.
Năm Nhâm Tý (1912)
tại Tổ đình Giác Lâm khai trường Hương, Ngài được tôn làm Hòa thượng Pháp
sư. Sau mùa an cư này, Ngài nhờ hiệu Quảng Đồng An ở Chợ Lớn đặt bản đá in
bộ “Quy nguyên trực chỉ” do Ngài diễn Nôm, Bổn sư là Hòa thượng Hoằng Ân
hiệu đính. Bài “Khải cáo phát minh văn” được in lên đầu sách. Khoảng năm
1915, Ngài lại soạn bộ “Tông cảnh yếu ngữ lục” nhằm nhắc nhở những Tăng Ni
trẻ mới xuất gia cố gắng tu hành.
Năm Kỷ Mùi (1919)
Hòa thượng Chánh Hậu ở chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) khai trường Hương gia
giáo, Ngài được mời làm Pháp sư. Qua năm sau (Canh Thân 1920), Ngài lại
được thỉnh làm pháp sư trường Hương tại chùa Bửu Long ở thôn Trung Tín,
tổng Bình Trung, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, do bà Trần Thị Thọ một
thí chủ hằng tâm hằng sản cúng dường mọi sở phí. Đây là chùa tư của bà
Thọ. Sau mùa an cư bà cúng ngôi chùa cho Ngài. Em bà Thọ là bà Trần Thị
Sanh cũng cúng cho Ngài chùa Từ Lâm. Một số Phật tử khác ở Vĩnh Long cúng
cho Ngài chùa An Thạnh, chùa Giác Quang. Ở Mỹ Tho có gia đình ông Trần Văn
Thông cúng cho Ngài chùa Linh Phong. Ở Gò Công các Phật tử cúng chùa Phú
Thới v.v... Tổng số tự viện các nơi cúng cho Ngài có đến khoảng 20 ngôi.
Đạo đức , học vấn và
tài hùng biện của Ngài nổi tiếng đến độ có một số người Pháp thường đến
chùa tham vấn, tôn Ngài vào bậc thầy, như Ông Lamacs (lúc đó làm Thiếu tá
hải quân). Ông Doumergue (lúc đó làm Thống Đốc Nam Kỳ). Hoàng gia
Campuchia đã bốn lần thỉnh Ngài sang Phom Pênh thuyết pháp. Mặc dầu hoàng
tộc và triều thần thường nghe giáo lý Tiểu thừa. Nhưng do cả hai bên đều
thành tâm vì đạo pháp nên vẫn được kết quả cao. Một sự kiện khá hy hữu đã
xảy ra: vua Norodom cảm phục đạo hạnh cao cả và kiến thức uyên thâm của
Ngài đã thỉnh Ngài làm lễ xuống tóc để xuất gia tu học có hạn kỳ theo
phong tục nước Campuchia.
Trong những năm
1920-1925, thấy chùa Từ Lâm của thầy Tổ mình nằm trong khuôn viên châu
thành Tây Ninh quá chật hẹp, Ngài dựng một ngôi chùa mới tại Gò Kén, Thôn
Thái Hiệp Thạnh, gần châu thành. Ngôi chùa này qui mô đồ sộ, trang trí
đẹp, nằm trong khu vực yên tĩnh, rộng rãi, cũng mang tên Từ Lâm, ngụ ý của
Ngài là muốn tuyên dương công nghiệp của Thầy Tổ mình. Sau đó Ngài lại cải
táng hài cốt Sư phụ là thiền sư Minh Đạt về chùa mới, xây tháp tôn thờ.
Năm 1926, đạo Cao Đài thành lập ở Tây Ninh. Các chức sắc tiên phong thấy
Ngài đạo phong cao trọng, lại có sẵn ngôi chùa khang trang, có ý muốn tôn
Ngài chức Thái Chưởng Pháp và mượn chùa Từ Lâm 3 tháng để thiết đàn cầu
cơ. Ngài chỉ chấp nhận cho mượn chùa 3 tháng, sau gia hạn thêm 1 tháng để
tôn giáo bạn có đủ thời giờ xây dựng thánh thất.
Bấy giờ các tự viện
ở Nam bộ thường liên kết lại thành một hội gọi là Hội Lục Hòa, dựa vào
hình thức hội họp luân phiên qua lại mỗi lần tại một chùa để gây tình đoàn
kết, phát động phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài thường được các nơi
thỉnh làm Pháp sư thuyết giảng trong các lần hội họp đó.
Ngày 26-8-1931, do
sự hoạt động tích cực của Hòa thượng Khánh Hòa, Thầy Thiện Chiếu, các Hòa
thượng trong các Sơn môn, Tổ đình và một số Phật tử hữu tâm, Hội Nam Kỳ
Nghiên Cứu Phật Học được thành lập, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, gần chợ
Cầu Muối (Sàigòn). Lúc này Ngài đang trụ trì chùa Giác Hải, được bầu làm
Chánh Hội Trưởng. Nhưng sau đó hội không tiến hành được Phật sự như mong
muốn, vì một số cư sĩ ngăn trở. Năm 1933, các Hòa thượng Khánh Hòa, Từ
Phong, Chánh Tâm, Tâm Quang, Khánh Anh, Huệ Quang lui về miền Tây thành
lập Phật Học Đường lưu động gọi là Liên Đoàn Phật Học Xã để đào tạo Tăng
tài. Mỗi chùa luân phiên mở lớp học 3 tháng, thường thỉnh Ngài đến giảng
dạy. Chẳng bao lâu Liên Đoàn Phật Học Xã gặp khó khăn về tài chánh phải
tan rã. Hội Lưỡng Xuyên Phật Học ra đời năm 1934, khóa đầu tiên do Hòa
thượng An Lạc chùa Vĩnh Tràng làm Hội trưởng, Ngài làm Chứng minh Đạo sư.
Năm 1935, hội xuất bản tạp chí Duy Tâm, mở trường Phật học.
Ngoài Phật sự hoằng
dương Chánh pháp, Ngài còn là một bậc chân tu khổ hạnh khó ai sánh bằng.
Hằng ngày Ngài trì danh niệm Phật một muôn biến (10.000 lần), không có một
thời khắc nào ngơi nghỉ để lo những việc cho cá nhân Ngài, và không hề để
cho đồ chúng được chăm sóc phục dịch, dẫu đến khi tuổi già sức yếu.
Cuộc du hóa độ sanh
của một cao đức tài hoa vẫn đang đăng trình thì năm Mậu Dần (1938) Ngài
viên tịch, thọ 74 tuổi, trên 50 hạ lạp. Chùa Từ Lâm ở Gò Kén đón nhận nhục
thân Ngài, sau bao năm tích cực phục vụ phong trào chấn hưng Phật Giáo,
đào tạo Tăng tài. Để ghi nhớ công đức Ngài, đồ chúng xây tháp thờ tại chùa
Từ Lâm và chùa Giác Hải là hai trú xứ Ngài kiến tạo và dừng chân lâu nhất.
[1]Chú thích[1]
:
1) Nghĩa là : Người
giác dễ qua bến mê. Kẻ mê ắt chìm trong bể khổ.
2) Nay ở số 345/45
đường Hùng Vương - Quận 6 - TP.Hồ Chí Minh.
***
HÒA THƯỢNG
(1874 - 1939)
Hòa thượng An Lạc,
tự Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên, sinh năm Ất Hợi (1874) tại tổng
Thanh Phong, làng Mỹ Phong, là làng sở tại chùa Vĩnh Tràng, thành phố Mỹ
Tho.
Ngài sinh trưởng
trong một gia đình sùng kính đạo Phật. Cha là đệ tử Hòa thượng Tư Trung.
Mẹ là đệ tử Hòa thượng Chánh Hậu. Do đó từ thuở bé thơ, Ngài đã thường
xuyên các ngày sóc vọng theo cha mẹ lên chùa thắp nhang lễ Phật. Năm Ngài
15 tuổi (1889) được song thân dẫn tới quy y thế độ với Yết ma Chánh Hậu,
được Bổn sư ban cho pháp danh Tục Thông, pháp hiệu An Lạc. Từ đó Ngài ở
lại chùa Sắc Tứ Linh Thứu chuyên tâm tu học.
Qua năm sau, Hòa
thượng Chánh Hậu về trụ trì chùa Vĩnh Tràng, chú tiểu Tục Thông theo Bổn
sư về đây tiếp tục tu hành. Tuy được về chùa gần nhà, nhưng Ngài không bao
giờ xao nhãng công phu tu học. Rằm tháng 3 năm Canh Tý (1900), sau một
thời gian học hành công quả, Ngài lại được Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp
danh Kiểu Thuận, pháp hiệu Tâm Liễu (nối đời thứ 40 dòng kệ Đạo Mẫn, tông
Lâm Tế) và nhận Ngài làm pháp tử, phú cho bài kệ như sau:
Kiểu pháp phương tri
sắc tức không
Thuận thừa Phật
nguyệt đạt chân tông
Tâm thiền khổ hải
tòng siêu xuất
Liễu ngộ nguyên lai
hữu hà công ? (1)
Tạm dịch:
Kiểu pháp biết nên
sắc tức không
Thuận về Phật nguyệt
đạt chân tông
Tâm thiền biển khổ
cùng siêu xuất
Liễu ngộ nguyên lai
hỏi có công ?
Năm Nhâm Dần (1902),
Ngài thọ giới Cụ Túc tại giới đàn chùa Kim Tiên (xã An Hữu, huyện Cái Bè),
sau đó Ngài an cư tại chùa Hội Phước ở Sa Đéc (1904). Năm 1905, Ngài an cư
tại chùa Sắc Tứ Trường Thọ ở Gia Định và được cử làm Chánh Tri Sự, sau mùa
an cư Ngài được cử làm Đệ tam Tôn chứng Đại giới đàn. Mùa an cư năm Đinh
Mùi (1906) tại chùa Long Quang ở Vĩnh Long, Ngài được cử làm Thư ký. Năm
Mậu Thân (1907) sau mùa an cư tại chùa Bửu Long ở Sa Đéc, Ngài được cử Yết
ma tại Đại giới đàn ở đây.
Tháng 7 năm Quý Hợi
(1923), Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Ngài là trưởng tử được kế thừa trụ
trì chùa Vĩnh Tràng. Để báo đáp thâm ân Bổn sư, Ngài ra Đà Nẵng đặt làm
một cây tháp đá để thờ Hòa thượng Chánh Hậu. Năm 1925, Ngài đặt thêm một
cây bảo đồng hai tầng riêng thờ Tỳ kheo ni Diệu Tín.(2) Năm 1930, Ngài
trùng tu chùa Vĩnh Tràng với quy mô lớn, kết hợp hài hòa giữa nền kiến
trúc xứ chùa Tháp với nền kiến trúc chùa cổ truyền của Nam bộ, với những
kiểu dáng La Mã thời Phục Hưng, vừa có nét Ấn Độ - Á Đông. Ngày nay, chùa
Vĩnh Tràng là một trung tâm du lịch của thành phố Mỹ Tho. Công đóng góp
của Ngài không nhỏ.
Trong phong trào
chấn hưng Phật giáo tại Nam kỳ vào những năm của thập niên 1930, người
tiên phong và có công lớn là Hòa thượng Thích Khánh Hòa. Cộng tác với Ngài
một cách tích cực gồm nhiều Hòa thượng ở các Tổ đình, trong số đó có Hòa
thượng Thích An Lạc ở Tổ đình Vĩnh Tràng thuộc thành phố Mỹ Tho.
Năm 1931, Hòa thượng
Thích Khánh Hòa cùng với các Hòa thượng đồng chí hướng thành lập Hội Nam
Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn gần chợ Cầu Muối
Sàigon. Hội đã xây dựng xong sáu căn nhà sát bên chùa, sắm đủ bàn ghế
giường tủ trang bị cho các học Tăng, chỉ chờ ngày làm lễ khai giảng Thích
học đường, nhưng Hội đã gặp trở ngại, lớp học không tiến hành được.
Nôn nóng với việc
đào tạo Tăng tài, chuẩn bị đội ngũ Tăng Ni cho phong trào chấn hưng Phật
giáo, Hòa thượng Thích Khánh Hòa lui về Trà Vinh, cùng các pháp hữu thành
lập Phật học đường lưu động lấy tên là Liên Đoàn Phật Học Xã, lớp học đầu
tiên đặt tại chùa Long Hòa, hai lớp sau tại chùa Thiên Phước (ở Trà Ôn),
và chùa Viên Giác (ở Bến Tre). Sau đó trường phải giải tán vì thiếu tài
chánh. Rút kinh nghiệm, Hòa thượng Thích Khánh Hòa cùng các pháp hữu nghĩ
đến việc thành lập một hội Phật học có đông đảo hội viên thường xuyên đóng
góp tài chánh mới có thể duy trì một Phật học đường được lâu dài. Kết quả
Hội Lưỡng Xuyên Phật Học được chính thức thành lập ngày 13-8-1934, đặt trụ
sở tại chùa Long Phước ở Trà Vinh. Ngài được công cử làm Hội trưởng khóa
đầu và Hòa thượng Thích Từ Phong làm Chứng minh Đạo sư.
Ngày 22 tháng 6 Ất
Mão (1939), Ngài viên tịch tại chùa Vĩnh Tràng, thọ 65 tuổi với 37 hạ lạp.
[1]Chú thích[1]
:
1) Các chữ đầu của
mỗi câu trong bài kệ này là pháp danh và pháp hiệu của Hòa thượng Thích An
Lạc.
2) Bà Phan Thị Lê
sau khi xuất gia có pháp hiệu Diệu Tín (xem thêm tiểu sử Hòa thượng Thích
Chánh Hậu).
***
TỔ TRUNG HẬU
(1861 - 1940)
Hòa thượng thế danh
Nguyễn Ất, pháp hiệu Thanh Ất, sinh năm Tân Dậu (1861) tại làng Thượng
Trưng, tổng Thượng Trưng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên(1). Năm Ngài lên
12 tuổi (1873), nhân một hôm được thân mẫu dẫn tới vãng cảnh chùa Trung
Hậu ở Phúc Yên. Thấy Ngài có cốt cách khác phàm, vầng trán cao rộng, với
đôi mắt sáng, Hòa thượng đệ nhị Sư Tổ đem lòng yêu mến thọ ký và cơ duyên
tốt lành đó khiến Ngài phát tâm bước vào cửa thiền với tâm nguyện chí
thành cao đẹp.
Được gia đình chấp
thuận, Ngài xuất gia đầu Phật, thế phát quy y với đệ nhị Sư Tổ chùa Trung
Hậu. Từ đó ngày đêm Ngài chí tâm học đạo, tinh tấn tu hành. Năm 15 tuổi
(1876), Ngài thọ Sa Di giới, và năm 20 tuổi (1881) thọ Cụ Túc giới. Sau đó
Ngài đến tham học ở trường Phật học Hạ Lôi, rồi xuống chùa Bồ Đề ở huyện
Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh ( nay thuộc Hà Nội) tiếp tục nghiên cứu kinh tạng.
Thời gian sau, Ngài lại sang chùa Liên Phái ở Hà Nội, chuyên tu theo pháp
môn niệm Phật hướng nguyện sinh về Tây phương Lạc quốc.
Về công phu niệm
Phật, Ngài thâm đắc hơn người. Thường khi rảnh rỗi công việc, Ngài chỉ
hướng mặt về phương Tây, lần tràng niệm Phật, cứ mỗi hơi một tràng. Chuỗi
hạt trên tay Ngài luân chuyển không ngừng, chứng tỏ đạo lực hành trì của
Ngài đã đi sâu vào chánh niệm.
Năm 1901, lúc 40
tuổi, sau khi Bổn sư qua đời, Ngài trở về tiếp đăng trụ trì chùa Trung Hậu
và ở đó luôn cho đến ngày viên tịch. Do đó chúng Tăng và thiện tín thường
gọi Ngài là Tổ Trung Hậu, hay Tổ Trung.
Ngài là một trong
những vị Hòa thượng có công trong phong trào chấn hưng Phật giáo trên miền
Bắc vào đầu thế kỷ XX . Ngài quan niệm và thấu hiểu rằng Tăng già tu học
Phật pháp cốt yếu phải hiểu luật trước tiên, nên khi bắt tay vào việc
hoằng pháp, Ngài liền khởi công cho đệ tử vào trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà
Nội để sao chép bộ Tứ Phần Tiêu Thích đem về khắc bản ấn hành cho học Tăng
các nơi có sách khảo cứu tu học.
Ngài lại nhận thấy
Phật giáo từ lâu trên đà suy vi vì Tăng già chia ra nhiều sơn môn. Sơn môn
nào biết sơn môn ấy, làm sai ý nghĩa Tăng già là hòa hợp. Do đó hàng ngũ
Tăng Già như nắm cát rời, không còn có sự nhất trí trong Thanh qui, thiếu
đi tinh thần đồng sự của Tứ nhiếp pháp.
Chính vì vậy mà Ngài
rất tha thiết và sốt sắng, đem những ngày còn lại của tuổi đời, hoạt động
cho phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài đã thân hành đi khắp các sơn môn,
kêu gọi Tăng già đoàn kết với nhau, họp thành một khối thống nhất, chấn
chỉnh lại gia phong Phật tự. Khoảng năm 1930, Ngài lập ra một chốn tùng
lâm, ở ngoại vi Hà Nội xung quanh có hào lũy, phía trong xây dựng từng khu
Tăng viện, Ni viện, Phật điện. Chỗ học, chỗ tu phong quang mát mẻ. Có
ruộng để sản xuất lấy thóc ăn, có đất làm nghĩa địa. Tùng lâm mở rộng cửa,
đón nhận tất cả Tăng Ni vô sở trụ vào đấy mà nương bóng từ bi, trọn đời tu
học, không còn chịu cái vòng cương tỏa của ngu tục nữa.
Khi phong trào chấn
hưng Phật giáo dâng cao khắp ba miền Nam Trung Bắc, tuy đã ngoài bảy mươi
Ngài vẫn tinh tấn dũng mãnh góp phần cùng với một số Tăng hữu và cư sĩ vận
động thành lập hội Bắc kỳ Phật giáo cuối năm 1934, và cung thỉnh Tổ Vĩnh
Nghiêm - Hòa thượng Thích Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ . Sau đó , năm
1938 là Hòa thượng Thanh Tường trú trì chùa Vô Thạch ở Hà Nội nối tiếp
ngôi đệ nhị Thiền gia Pháp chủ.
Trong buổi sơ khai,
hội Bắc kỳ Phật giáo đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, công việc hết sức bề
bộn. Ngài đã góp phần quan trọng, trên giúp Tổ Vĩnh Nghiêm cùng Ban quản
trị chỉnh đốn mọi việc, dưới thù tiếp Tăng tục thập phương. Ngài lại đảm
nhiệm chức Trưởng ban Thiền học, tổ chức các trường Phật học. Lắm phen
kinh tế nhà trường gặp khó khăn, nhiều vị đôi phen bàn việc giải tán. Ngài
vẫn cương quyết duy trì, tìm mọi phương sách chống đỡ để Tăng Ni yên tâm
tu học. Công việc đa đoan, nặng nhọc như thế, mà hai ba năm đầu cùng chư
Tăng dự các khóa hạ, Ngài vẫn lên ba khóa lễ mỗi ngày không hề trễ nải.
Công việc của hội
vừa đi vào nề nếp, thì Thiền gia Pháp chủ Thanh Hanh viên tịch. Trong lúc
chờ cung thỉnh vị Pháp chủ mới. Ngài phải đứng đầu ban Kỳ Túc mà làm thay
mọi việc. Nhất là việc khởi công tu tạo chùa Hội Quán. Bấy giờ Ngài phải
đảm nhiệm Chánh Đốc công ròng rã hai năm trong hoàn cảnh trăm bề thiếu
thốn. Công việc sắp hoàn thành thì vào ngày mồng 3 tháng chạp năm Canh
Thìn (1940), Ngài không đau ốm gì mà viên tịch, hưởng thọ 80 tuổi đời, 60
tuổi hạ.
Tổ Trung Hậu, ngoài
công hạnh kiến tạo tòng lâm tiếp Tăng độ chúng, Ngài còn có công xây dựng
hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ khắp miền Bắc. Trong phong trào chấn hưng Phật
giáo tại miền Bắc, Ngài là bậc khai sơn đặt nền tảng cho bao lớp Tăng Ni
kế thừa lợi lạc quần sinh, góp công lớn với lịch sử giai đoạn chấn hưng
Phật giáo nước nhà. Ngày nay, hầu hết các chùa ở Hà Nội đều thờ tượng Ngài
để tưởng nhớ bậc khai sơn những ngôi Tam Bảo còn lưu mãi với thời gian.
[1]Chú thích[1]
:
1) Nay là tỉnh Vĩnh
Phú .
***
TỔ BẰNG SỞ
(1871-1942)
Bằng Sở là tên Chùa
(1), Ngài họ Phan, húy Trung Thứ, pháp danh Chân Như, sinh năm 1871 ở
làng Hoành Đông, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Ngài vốn thuộc dòng thi
lễ, về đời hậu Lê tổ tiên Ngài có vị đã làm đến Quận công. Từ nhỏ Ngài đã
được theo học chữ Nho. Nhờ có tư chất thông minh, nên Ngũ Kinh, Tứ Thư cho
đến Bách Gia Chư Tử Ngài đều thông suốt cả.
Tuy nhiên Ngài đã
không lấy văn chương thi phú làm phương tiện tiến thân nhập thế, mà lại
tìm chốn thiền môn để tu thân cứu đời. Năm 19 tuổi (1890- Canh Dần) Ngài
đến chùa Liên Tỉnh ở Nam Định xin làm lễ thế phát, thọ giới Sa Di. Sau vài
năm, Ngài được Bổn sư cho tới thọ giáo với Hòa thượng chùa Thịnh Quang là
một vị chân tu giới luật tinh nghiêm. Vài năm sau, Ngài được thọ giới Cụ
Túc tại Đại giới đàn chùa Linh Quang. Ngài ở lại đây tu học một thời gian,
trau giồi giới luật. Sẵn có trình độ Hán học uyên thâm, lại chí tâm tu
trì, nên Ngài thâm nhập kinh tạng nhanh chóng và trở nên một bậc lương
đống trong thiền gia.
Khi ngoài 40 tuổi,
nhận thấy trong hàng ngũ thanh niên Phật tử nhiều người thất học, giáo lý
không thông, giới luật không rõ, Ngài bắt đầu lưu tâm đến việc dìu dắt lớp
hậu tiến. Do đó, khi Ngài an trụ ở chùa Bằng thì khai tràng thuyết pháp
tại chùa Bằng, khi an trụ ở chùa Sở thì khai tràng thuyết pháp tại chùa
Sở. Quanh năm tận tụy với sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp, không lúc nào
ngơi nghỉ.
Ngài giảng kinh cốt
cho người nghe được rõ nghĩa, không nệ lối thuyết giảng xưa theo tập tục,
nên các đệ tử xuất gia cũng như tại gia đều nức lòng theo học. Trường học
lúc nào cũng đông đảo. Ngài lại lưu tâm về khoa sư phạm, vừa có ân vừa có
uy, nên đệ tử vừa mến lại vừa sợ. Mỗi khi lên Phật điện, giảng đường hay
xuống trai đường, ai nấy đều giữ oai nghi tế hạnh nghiêm trang như luật
định.
Ngài lại ra làm Chủ
hạ ở chùa Linh Quang, tại đây, Ngài đã kiểm san bộ Đại Bảo Tích để báo đức
Tổ Linh Quang. Ngài lại được Tổ Vĩnh Nghiêm đặc trách giao phó công việc
cắt nghĩa bộ Phương Đẳng Bát Nhã, bộ Tứ Phận Hành Sự Sao, là những bộ kinh
luật lớn. Đây là công việc nặng nề, nếu không phải là người tinh thâm văn
nghĩa, thấu hiểu giáo lý Phật đà, và có tính nhẫn nại chuyên cần thì không
thể làm được.
Đối với chúng đệ tử
tại gia, Ngài cũng để tâm săn sóc dạy bảo. Ngài lập ra một Ban tại gia Bồ
Tát, truyền giới Bồ Tát cho hàng thiện nam tín nữ, chỉ dạy họ hiểu nghĩa
lý Phật pháp, biết quy củ thiền gia, trợ thủ cho Tăng Ni tu hành. Ngài
cũng quan tâm đến công tác từ thiện xã hội. Ngài lập một Ban Tế Thí, mỗi
vị “ Bồ tát “ tùy tâm tùy lực, cúng một số tiền, làm việc sinh lợi chân
chính. Khi nào có thiên tai, hoạn nạn thì trích một phần quỹ cứu giúp.
Thật là một phép phương tiện rất quý hóa trong thiền gia ở nước ta thời
bấy giờ.
Vốn là vị thiền sư
hằng quan tâm đến việc hoằng pháp độ sinh, Ngài là một trong những Hòa
thượng hoạt động tích cực cho việc thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, được
chính thức ra đời vào ngày 18 tháng 11 năm 1934 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội,
do Hòa thượng Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ. Để giúp hội về mặt hành
chánh trong bước đầu thành lập, Ngài nhận chức Kỳ Túc Đạo Sư. Bấy giờ hội
hoạt động rất mạnh. Nhiều trường Phật học lần lượt được mở ở các Tổ đình.
Một lớp Đại học Phật giáo được mở tại chùa Bằng Sở ở Thái Hà ấp, chính
thức khai giảng năm 1936 do Ngài làm Đốc giáo. Chương trình học trong ba
năm. Sau khi tốt nghiệp, học Tăng có thể ở lại trường nghiên cứu thêm 5
năm nữa. Chương trình này gọi là chương trình Bác Học Cao Đẳng. Trong khi
trường mới mở, thiếu thốn nhiều thứ, chẳng những Ngài đã bố thí pháp,
không quản thân già sức yếu, thuyết giảng kinh pháp suốt ngày, Ngài lại
còn bố thí cả tài vật, cúng dường cho chư Tăng tu học, Ngài lo cung cấp
đầy đủ mọi thứ, chẳng quản nhọc nhằn. Tất cả đều vì đạo pháp, vì sự thành
tựu của phong trào chấn hưng Phật giáo.
Về sau, khi chùa Bồ
Đề ở Gia Lâm chuyển thành cơ sở một trường Ni học, Ngài cũng hết lòng chăm
sóc cho được thành tựu.
Tháng chạp năm 1935,
tờ Đuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận truyền bá Phật giáo của hội ra đời do ông
Nguyễn Năng Quốc làm chủ nhiệm, Ngài được mời làm chủ bút, chịu trách
nhiệm về nội dung bài vở. Tờ Đuốc Tuệ đã quy tụ được nhiều Tăng Ni và nhà
văn tân cựu học có khả năng viết bài, hoạt động cho đến trước Cách mạng
tháng tám mới đình bản.
Ngoài việc hoạt động
cho công cuộc hoằng pháp, đào tạo Tăng tài, bồi đắp các thế hệ kế thừa
bằng các trường Phật học và diễn đàn Đuốc Tuệ, Ngài còn có công trùng tu
một số chùa, nhất là tiếp nối Hòa thượng Trung Hậu, trùng tu chùa Quán Sứ
nơi đặt trụ sở của Hội Bắc Kỳ Phật Giáo.
Ngày 25 tháng 02 năm
Nhâm Ngọ (1942), Ngài cùng một số đệ tử mở cuộc hành hương chiêm bái thánh
tích Yên Tử. Bấy giờ Ngài đã ngoài thất tuần, sức khỏe đã kém sút, nhưng
Ngài vẫn quyết chí ra đi. Qua Lân Động đến Hoa Yên, các đệ tử thấy Ngài có
vẻ suy yếu, đều xin Ngài nghỉ lại ở Hoa Yên. Nhưng Ngài không nghe, vẫn
tiếp tục cuộc đăng sơn bái Tổ, theo nẻo Ngọa Vân mà đi. Khi lên đến Chân
Cảnh, tự nhiên Ngài đứng ngẩn người ra, không nói không động. Các đệ tử
theo sau vội vực Ngài về Hoa Yên tìm thuốc men chạy chữa, rồi rước Ngài về
chùa Sở điều dưỡng.
Đến 3 giờ 30 sáng
ngày 16 tháng 3 năm ấy Ngài viên tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời, 50 tuổi hạ.
Tổ Bằng Sở là một
cao Tăng uy danh vang khắp Bắc kỳ, công hạnh của Ngài đối với những lớp
người sau không thể kể bàn được. Chỉ có thể nói phong trào chấn hưng Phật
giáo miền Bắc ở giai đoạn đầu không thể thiếu Ngài mà thành công. Dù Ngài
đã đi về nơi Tịnh cảnh, nhưng sự nghiệp và công hạnh mãi còn trong lòng
mọi người.
[1]Chú thích[1]
:
(1) Bằng Sở là 2
chùa : - Chùa Thịnh Quang tức chùa Sở, hiện là Phúc Khánh Tự, quận Đống
Đa, Hà Nội.
- Chùa Bằng ở huyện
Thường Tín, Hà Tây.
***
HÒA THƯỢNG
(1882 - 1943)
Hòa thượng thế danh
NGUYỄN VĂN ĐỒNG, pháp danh Trí Thiền, pháp hiệu Hồng Nguyện, sinh năm Nhâm
Ngọ (1882) tại làng Vĩnh Thanh Vân, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá, (nay
là tỉnh Kiên Giang), trong một gia đình nông dân. Thân phụ là Cụ Nguyễn
Văn Trinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Trường. Hai ông bà chính gốc từ Cái
Dầu xứ Cao Lãnh đến đây lập nghiệp, sinh hạ năm người con. Ngài là con út.
Năm Nhâm Tý (1912)
lúc 30 tuổi, Ngài xuất gia đầu Phật, làm đệ tử Hòa thượng Vĩnh Thùy ở chùa
Thập Phương. Nhờ bản tính cương trực, chí hướng đại hùng, chẳng bao lâu
đạo nghiệp của Ngài càng thêm sáng tỏ. Năm nào Ngài cũng vào hạ tu học
trau giồi giới đức, năm nay tỉnh này, năm sau tỉnh khác. Đạo tràng nào
cũng có Ngài tham dự. Ngoài thời gian kiết hạ an cư, mỗi năm Ngài thường
vào tịnh thất cấm túc tham thiền, trường trai khổ hạnh. Bởi đạo nghiệp
tinh chuyên nên người đời đều cảm đức của Ngài. Người mộ Phật đến xin quy
y thọ giới với Ngài rất đông.
Năm 1915 do cảm mến
đạo hạnh của Ngài, bà Dương Thị Oán cúng cho Ngài ngôi chùa cũ được Sắc Tứ
từ thời vua Gia Long. Ngài khuyến giáo thập phương tín hữu đóng góp, xây
dựng lại ngôi chùa, từ mái tranh vách lá thành một cảnh già lam khang
trang tráng lệ, và đổi tên là chùa Tam Bảo. Mấy năm sau, trên bước đường
hoằng pháp lợi sanh, Ngài còn tạo dựng thêm được nhiều ngôi chùa khác như
Tam Bảo Hòa Thanh Tự ở Vĩnh Hiệp, Vĩnh Phước Tự ở Tà Niên, Bửu Hưng Tự ở
Cầu Cà, Bờ He, Gò Đất, Phước Hưng Tự ở Ngăn Gừa , Tam Bảo Từ Tôn Tự ở Sóc
Xoài, Tam Bảo Kỳ Viên Tự ở Hòn Quéo, Tam Bảo Long Sơn Tự ở Hòn Đất.
Ngài cũng là người
tha thiết với công cuộc chấn hưng Phật giáo, đã nhiệt tình ủng hộ và khích
lệ Hòa thượng Khánh Hòa trong công tác này. Ngày 26-8-1931, hội Nam Kỳ
Nghiên Cứu Phật học được chính thức thành lập, trụ sở đặt tại chùa Linh
Sơn gần chợ Cầu Muối (Sài Gòn). Ngài được mời làm cố vấn cho hội cùng với
Hòa thượng Huệ Định. Năm ấy Ngài 50 tuổi. Trong thời gian hoạt động cho
hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, Ngài quen biết một nhà sư trẻ tuổi, có tư
tưởng cấp tiến là thiền sư Thiện Chiếu. Ngài đã chịu ảnh hưởng nhiều của
vị sư này.
Sau khi hội Nam Kỳ
Nghiên Cứu Phật Học bị lực cản của Ông Trần Nguyên Chấn, không khai giảng
được Thích học đường, các vị Hòa thượng uy tín ( như Thiền Sư Khánh Hòa,
Thiện Chiếu v.v...) của hội lần lượt bỏ về chùa ở các tỉnh để tìm phương
thành lập các hội khác. Ngài cũng trở về chùa Sắc Tứ Tam Bảo ở Rạch Giá.
Sư Thiện Chiếu không
đồng tình với chủ trương bảo thủ của các Hòa thượng trong hội Nam Kỳ
Nghiên Cứu Phật Học, trong ban biên tập báo Pháp Âm, báo Từ Bi Âm, đã đi
khắp các chùa để tìm đồng chí, nhưng không nơi nào toại nguyện cả. Năm
1936, Sư xuống Rạch Giá tìm gặp Ngài, người mà Sư thấy có nhiều tư tưởng
tiến bộ. Qua trao đổi, hai vị tỏ ra tâm đầu ý hợp, Ngài đồng ý thành lập
hội Phật Học Kiêm Tế vào ngày 23-3-1937, và đầu năm 1938 cho xuất bản tạp
chí Tiến Hóa. Ngài lãnh nhiệm vụ Chánh Tổng Lý của hội và tu sĩ Phan Thanh
Hòa làm Chủ bút tạp chí.
Với tên gọi Phật Học
Kiêm Tế cùng với tạp chí Tiến Hóa - cơ quan ngôn luận của hội, tổ chức này
hoàn toàn là một tổ chức “cách mạng” trong Phật giáo. Tên Phật Học Kiêm Tế
được giải thích như sau : “Đây không phải là một cái hội chỉ để học Phật,
mà còn là một cái hội để thực hành kinh bang tế thế nữa”. Cụ thể hóa tôn
chỉ đó, hội đã tổ chức ba lớp học miễn phí cho con em nhà nghèo quanh
vùng, nhà chùa trả lương cho giáo viên. Hội còn lập ra phòng thuốc phước
thiện và bệnh xá cho bệnh nhân nằm điều trị. Lần đầu tiên trong cả nước,
hội lập ra một viện mồ côi ngay tại chùa. Ngoài ra hội còn tổ chức cứu trợ
nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá, nuôi ăn từ hai trăm đến ba trăm người trong
thời gian ngắn.
Chính do những tư
tưởng tiến bộ như thế, mà chùa Tam Bảo đã trở thành nơi lui tới của các
cán bộ cách mạng, làm nơi chế tạo vũ khí, in truyền đơn chống chế độ thực
dân Pháp.
Ngài cũng thường hay
qua lại một số chùa trên đất Campuchia và Thái Lan để trao đổi đạo pháp
với các vị sư sãi các xứ này. Năm nào các chùa có mở trường Hương, trường
Kỳ, Ngài thường được mời Chứng minh. Phật sự khắp các tỉnh như Sài gòn,
Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Châu Đốc
v.v..Ngài đều tham gia .
Để giúp hội Phật Học
Kiêm Tế và báo Tiến Hóa có phương tiện hoạt động, trong phiên họp ngày
20-3-1938 của hội, Ngài đã hiến tài sản của chùa gồm có chùa chiền, ruộng
vườn, và số tiền mặt tổng cộng 19.973 đồng (vào thời điểm năm 1938 đó là
số tiền lớn ) cho hội, sau khi được bổn đạo của chùa đồng ý.
Cuối năm 1939, do
tên Tư Chà làm nội gián, cơ sở cách mạng ở chùa Tam Bảo vị vỡ. Chùa bị mật
thám Pháp khám xét. Tài liệu, truyền đơn và lựu đạn bị tịch thu. Hòa
thượng Trí Thiền, Đại đức Thiện Ân tục danh Trần Văn Thâu và nhiều người
khác bị bắt. Ngài và Đại đức Thiện Ân bị chúng giải lên Sài Gòn, đưa ra
tòa xét xử. Đại đức Thiện Ân bị kết án tử hình, còn Ngài bị 5 năm biệt xứ
lưu đày Côn Đảo. Lúc ở trong tù, Ngài nói với ông Lê Hoàng Minh, tức Ông
Ký ở Nhị Bình, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho rằng “Ông còn nhỏ, sau này được
thả ra, còn hoạt động được. Còn tôi già rồi, kỳ này ra Côn Đảo, chắc
chết”.
Đúng vậy, ra Côn
Đảo, Ngài bị giam trong phòng cấm cố, Ngài tuyệt thực mấy ngày liền đến
kiệt sức để phản đối chế độ lao tù hà khắc. Ngày 26-6-1943 (Quí Mùi) Ngài
viên tịch, hưởng thọ 61 tuổi đời, 30 tuổi hạ.
Từ lúc Ngài bị bắt,
chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau Cách mạng tháng tám,
chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ
cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Ngài và các đồng chí của Ngài đã
chết vì đạo pháp và dân tộc. Lịch sử còn ghi mãi tâm nguyện cao cả của Hòa
Thượng Đồng, rạng danh trong phong trào chấn hưng Phật giáo và còn mãi với
phong trào cách mạng kháng Pháp.
***
QUỐC SƯ
(1869-1945)
Quốc sư tên thật là
Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn,
nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân
phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh,
ông bà đều là những Phật tử thuần thành.
Năm 12 tuổi (1881),
Ngài được cha mẹ cho phép xuất gia tại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa
thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian
sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định
theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài
trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa
Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng
Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892
với Hòa thượng Luật Truyền.
Khi Bổn sư viên
tịch, Ngài trở về Tổ đình Thập Tháp thọ tang, rồi ở lại tham học cùng sư
huynh là Tăng Cang Vạn Thành vừa mới được suy cử tân trụ trì Tổ đình này .
Sau mười năm chuyên
tâm tu học, phát huy đạo tâm và trí tuệ sẵn có, Ngài đã bác thông kinh
luận Tam Tạng giáo điển, lại thông suốt cả Bách Gia Chư Tử, và có khả năng
giáo hóa nhuần nhuyễn, đạo vị vào bậc nhất thời bấy giờ, nên người đương
thời tặng Ngài mỹ hiệu “Phật pháp thiên lý câu” (Con ngựa tinh thông Phật
pháp chạy được ngàn dặm).
Năm 1894 Ngài được
cử làm trụ trì chùa Phổ Quang ở huyện Tuy Phước, nay ở xã Phướng Thuận.
Chùa này là ngôi cổ tự do Thiền sư Minh Giác - Kỳ Phương (đệ tử Tổ Nguyên
Thiều) khai sơn từ đời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691). Năm
1901 (Tân Sửu) Ngài được triều đình ban cho giới đao độ điệp làm Tăng Cang
cho chùa Thập Tháp. Năm 1908 Ngài được mời ra Hoàng cung thuyết pháp, đồng
thời cũng để khai mở một khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm. Các vua Thành
Thái, Duy Tân và Khải Định đều mời Ngài vào cung giảng pháp. Vì vậy Ngài
được triều đình, sơn môn đồ chúng tôn xưng Quốc sư.
Năm 1920 Ngài mở các
lớp nội điển tại chùa Thập Tháp và Long Khánh. Năm 1929 Hòa thượng Giác
Tiên mở Phật học đường tại chùa Trúc Lâm ở Huế, vào tận chùa Thập Tháp mời
Ngài ra làm chủ giảng. Từ đó, năm nào Ngài cũng được thỉnh về chùa Trúc
Lâm để giảng dạy Tăng sinh. Các đệ tử của Hòa thượng Giác Tiên là các Sư
Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Hiển và Mật Thể đều theo học với Ngài, và sau này
đều trở thành những sứ giả Như Lai trụ cột cho phong trào chấn hưng Phật
giáo. Về hàng cư sĩ theo học tại Trúc Lâm, nổi bật nhất có Bác sĩ Tâm Minh
- Lê Đình Thám.
Nhờ có cơ sở hoằng
pháp này mà năm 1932, Quốc sư cùng với các bậc tôn túc ở đất Thần kinh
thành lập Hội An Nam Phật Học và xuất bản tờ báo Viên Âm, cổ xúy phong
trào chấn hưng Phật giáo. Nhiều Phật học đường từ Tiểu học đến Đại học
được mở ở các chùa Trúc Lâm, Tây Thiên, Kim Sơn, Báo Quốc, Diệu Đức
v.v...Cuối năm 1934 một lớp Đại học mở tại chùa Trúc Lâm do Thiền sư Giác
Tiên làm Giám đốc và một lớp Trung học mở tại chùa Tường Vân do Hòa thượng
Thích Tịnh Khiết trông nom. Quốc sư được cử làm Đốc giáo giảng dạy cả hai
lớp này. Lớp Trung học có nhận những học Tăng trong Nam do hội Lưỡng Xuyên
Phật Học gửi ra như các vị Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không,
Chí Thiện v.v....
Năm 1937, sau khi
Tăng Cang Vạn Thành liễu đạo, sơn môn đồng lòng cung thỉnh Quốc sư về Tổ
đình Thập Tháp kế vị. Từ đó Ngài ở hẳn tại Bình Định, không ra Huế giảng
dạy nữa, phần vì tuổi cao sức yếu, phần vì phải đảm nhận làm Đốc giáo cho
Phật học đường cấp Trung đẳng mở tại chùa Long Khánh, do Hội Phật Học Bình
Định thiết lập. Chính vì vậy mà nhiều học Tăng lớp Đại học ở Huế trong đó
có cả các vị do hội Lưỡng Xuyên Phật học gửi ra, cùng theo vào tiếp tục
học nơi Phật Học Đường Long Khánh, Bình Định.
Về các Phật sự khác,
Quốc sư trùng tu lại Tổ đình Thập Tháp được khang trang, tạo nơi đây thành
một trung tâm Phật giáo của tỉnh Bình Định. Ngài khai sơn chùa Phước Long
tại thị trấn Phú Phong thuộc xã Bình Phú, huyện Bình Khê, nay là huyện Tây
Sơn, tỉnh Bình Định.
Quốc sư Phước Huệ là
cây đại thụ của nền Phật giáo không chỉ ở Trung kỳ, mà còn tỏa bóng xuống
phần đất Nam kỳ nữa. Chính Ngài là vị giảng sư nòng cốt của các trường Đại
học Phật giáo ở Huế và Bình Định trước và sau thời điểm khởi xướng phong
trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung.
Sau bao năm cống
hiến tài năng, sức lực, và tâm huyết cho công cuộc xây dựng tòa lâu đài
Phật giáo, tháng giêng năm Ất Dậu (1945) Quốc sư Phước Huệ viên tịch tại
Tổ đình Thập Tháp, thọ 76 tuổi đời, được 64 giới lạp. Đồ chúng và thiện
tín xây tháp trong vườn chùa để tôn thờ Ngài. Bấy giờ Hòa thượng Trí Hải
trụ trì chùa Bích Liên Bình Định đề 4 câu thơ tại tháp như sau :
Nguy nhiên nhất cao
tháp
Độc tọa Đồ Bàn đông
Ngoại thị hữu vi
tướng
Trung tàng vô tướng
Ông.
Tạm dịch :
Cao thay một ngọn
tháp.
Độc chiếm đông Đồ
Bàn.
Ngoài bày hữu vi
tướng.
Trong ẩn vô tướng
Ông.
Năm 1970, để tưởng
niệm và ghi công Quốc sư Phước Huệ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
tỉnh Bình Định đã chọn pháp hiệu của Ngài đặt tên cho một Phật học viện
mới thành lập tại Tổ đình Thập Tháp : Phật học viện Phước Huệ.
Cái tướng Hữu, Vô
trong tâm pháp của Ngài đã thống nhất, nó giúp cho hạnh nguyện độ thoát
quần mê và tự tồn dân tộc qua Duy Tân (vua), Tâm Minh (cư sĩ), Mật Thể,
Thiện Hoa (tu sĩ) v.v... trở thành ngọn nguồn bất tận, đến muôn đời sau
của Phật giáo Việt Nam.
***
HÒA THƯỢNG
(1891-1946)
Hòa thượng Thích Huệ
Pháp thế danh Võ Văn Phó, húy Hồng Phó, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ
40. Ngài sinh năm Tân Mão (1891), tại xã Khánh Hòa, tổng An Lương, huyện
Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc tỉnh An Giang, trong một gia đình trung
nông, nho phong lễ giáo. Thân phụ là ông Võ Văn Huỳnh và thân mẫu là bà
Nguyễn Thị Đồng.
Thuở thiếu thời,
Ngài đã có những biểu hiện khác thường so với các bạn cùng lứa tuổi. Đặc
biệt, khi đã biết ăn, Ngài hoàn toàn không đụng đến thịt cá, và như vậy,
đặc điểm này Ngài đã giữ cho đến hết cuộc đời. Thú vui giải trí của Ngài
lúc này chỉ là niềm mơ tưởng về Phật pháp, được gởi gắm trong những tượng
Phật bằng đất do tự tay Ngài nắn tạo.
Năm Mậu Tuất (1898),
khi được 8 tuổi Ngài đã học thông chữ quốc ngữ. Nhận thấy bản tính thông
minh nhạy bén của Ngài vượt hẳn các bạn đồng học nên năm sau Kỷ Hợi
(1899), thân phụ gởi Ngài đến thầy giáo Bửu, vừa là nhà Nho kiêm lương y
để ngài học chữ Nho và Đông y dược.
Cuộc sống hướng
thượng của Ngài không còn thích hợp với gia đình, Ngài buồn chán trước nỗi
thống khổ vô thường nay còn mai mất của nhơn sinh. Nhất là sau 5 năm đèn
sách theo thầy Bửu, đã nắm vững được các tánh dược, phương thang và y lý
Đông y cùng suốt thông được đạo lý Nho học rồi, Ngài thiết nghĩ cần phải
ly gia cắt ái để tìm thầy cầu học Phật pháp diệu thâm hơn.
Do đó, năm lên 13
tuổi (1904) Giáp Thìn, Ngài quyết chí trốn nhà ra đi. Để noi gương Thái tử
Tất Đạt Đa, Ngài đã tự cạo tóc xuất gia tu hành và tầm sư học đạo, tạm
thời ở vùng lân cận. Một hôm, may gặp người thân chèo ghe đi buôn trên Nam
Vang, Ngài liền quá giang sang Cao Miên. Ở xứ này một thời gian, học đạo
chưa thỏa mãn nên Ngài lại vượt qua Ai Lao, rồi thẳng sang Thái Lan.
Nhờ túc duyên, đến
nơi nào Ngài cũng được các sư sãi rất thương mến và tận tình truyền dạy
đạo pháp, kể cả dạy các pháp thuật để làm phương tiện độ đời. Do đó qua
hai năm tu học, Ngài đã thu thập được rất nhiều những tinh ba Phật pháp
của giáo hệ Nam Tông Phật Giáo và những bí pháp của Miên, Lào và Thái. Đối
với người Việt ở ba nước ấy lúc bấy giờ, thật không ai bì kịp.
Năm sau, Bính Ngọ
(1906), Ngài trở lại đất nước Ai Lao để đi du khảo tại cố đô Luangprabang,
cánh Đồng Chun, Sầm Nứa, Phong Xa Ly, Xiêng Khom và Vientiane. Chính nơi
thủ đô này, Ngài được gặp Sư tổ Như Tâm là người Việt chơn tài lỗi lạc về
Nho học, Tây học và Phật học. Ngài cầu học về quẻ Dịch và yếu lý Đại thừa
Phật giáo, trong những ngày Sư Tổ lưu trú tại nhà của người thân ở Vạn
Tượng. Sau đó, Sư Tổ trở về Việt Nam, khai sơn chùa Định Long ở Núi Sam,
tỉnh Châu Đốc.
Năm Đinh Mùi (1907),
sau khi tiễn thầy một dặm đường, Ngài vẫn ở lại Ai Lao tiếp tục tu học và
tiếp độ những tu sĩ từ Trung Việt sang lúc này rất đông. Đặc biệt nơi tỉnh
Savanakhet, Ngài đã được lòng hàng Phật tử bản xứ nhờ công đức tu tập. Do
đó Ngài đã chấp thuận cho họ quyên góp để xây dựng một ngôi chùa Việt Nam
đầu tiên tại đây với mục đích thỉnh cầu Ngài lưu trú lâu dài để hóa độ. Và
ngôi chùa được mang tên của tỉnh (Savanakhet). Trong thời gian 7 năm lưu
trú tại đây, nhờ vào uy đức lẫn những phương pháp trị bệnh bằng Đông y
dược nên tiếng lành đồn xa và trong cộng đồng người bản xứ có lúc đã gọi
Ngài là vị Phật sống cứu độ chúng sanh.
Năm Quý Sửu (1913)
do danh tiếng đó, Toàn quyền Đông Dương thời bấy giờ là Pasquere, cùng hai
viên Khâm Sứ của Lào và Cao Miên, được vua Hoàng Lân của Cao Miên nhờ cung
thỉnh Ngài sang nước họ để trị bệnh cho bà Hoàng Thái Hậu. Hoàng gia Cao
Miên đón rước ngài như một vị Thánh y, đủ thành phần xã hội đứng chào đón
Ngài như một thượng khách từ bến tàu về tận Hoàng cung, đủ nói lên tài ba
y pháp và đức độ của Ngài lừng lẫy biết dường nào. Đó còn là niềm tự hào
to lớn của không riêng gì giới Phật Giáo Việt Nam. Trong thời gian chữa
bệnh cho Hoàng Thái Hậu, Ngài được mời trú tại chùa Vua Sãi. Được vua cho
người hướng dẫn viếng thăm các di tích như Núi Phật Tổ, đền Angcovat, núi
Tà Lơn hùng vĩ v.v... Sau khi chữa lành bệnh cho bà Hoàng Thái Hậu, vua
nước Cao Miên làm lễ phong chức Chef de Bonze (tương đương Tăng Cang hoặc
Tăng Thống ở nước ta) và kèm nhiều phẩm vật hoàng gia quý giá, lẫn huy
chương vàng. Đến chứng kiến ngày ấy có đầy đủ vua ba nước Cao Miên, Lào và
Bảo Đại của Việt Nam.
Năm Giáp Dần (1914)
sau 10 năm vân du hóa độ, từ đất nước Cao Miên, Ngài quyết định trở về
nước. Ngày tiễn đưa Ngài về nước cũng được Hoàng gia tổ chức long trọng,
lại còn thông báo về Việt Nam cho Tỉnh trưởng Châu Đốc hay để chuẩn bị đón
tiếp. Nhờ đó, khi về lại quê nhà là xã Khánh Hòa, huyện Châu Đốc, Ngài
được đón tiếp trọng thể, công việc hữu ích cho đạo pháp cũng nhờ đó mà
phát triển. Ngài nhanh chóng cho mở phòng chẩn trị từ thiện tại chùa Đức
Lâm để giúp đỡ dân nghèo, mọi người hay tin tìm đến ngày càng đông. Vì thế
người Pháp có phần lo ngại và tìm đủ mọi cách để khống chế. Sau đó Ngài
tìm đến chùa Định Long trên núi Sam để bái kiến Bổn sư. Tổ Như Tâm nhân đó
mới chính thức phú pháp cho Ngài là hàng thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ
40 với pháp danh Huệ Pháp, húy Hồng Phó. Tiếp đó Ngài được Bổn sư công cử
làm Thủ tọa chùa Định Long, và khuyên Ngài nên tìm nơi trú xứ để độ chúng
tiếp Tăng. Vì nhiệm vụ quan trọng ấy Ngài phải bắt đầu trở lại dùng cơm
theo thời khóa sau hơn 10 năm chỉ ăn toàn rau quả.
Năm Mậu Ngọ (1918)
sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài tạm giao chức Thủ tọa chùa Định Long cho
thầy Thiện Ngọc để về xã Khánh Hòa tìm nơi xây cất chùa theo di huấn của
Bổn sư. Các nhà hảo tâm ở địa phương hết lòng hỗ trợ công cuộc xây cất
này. Mãi đến năm Ất Sửu (1925) chùa mới thực sự hoàn thành và được đặt tên
là chùa Long Khánh. Ngày khánh thành cũng là ngày mở Đại giới đàn tại đây
và Ngài được cử làm Đường đầu Hòa thượng, truyền giới cho Tăng Ni, Phật tử
đến thọ pháp. Sau đó Ngài cho mở các khóa học Phật pháp thường kỳ và đã
đào tạo được rất nhiều vị tinh chuyên Phật học tại đây.
Năm Kỷ Tỵ (1929),
Hòa thượng Khánh Hòa cùng với Sư Thiện Chiếu chùa Linh Sơn - Sài Gòn và
ông Cò Mi Chấn (Dinh Đốc Lý Sài Gòn) khởi xướng việc chấn hưng Phật Giáo,
Ngài hỗ trợ bằng cách cho thành lập Phật Học Thư Xã và cho ra đời tập san
Phật Học đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ.
Năm Canh Ngọ (1930),
để chuẩn bị cho Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học ra đời, Hòa thượng Khánh
Hòa công cử Ngài đi khắp các tỉnh Nam kỳ vận động chư Tôn đức tham gia
phong trào Chấn Hưng Phật Giáo. Đến ngày 26.8.1931, Thống đốc Nam kỳ mới
ký giấy phép cho hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành lập. Ngài được
mời làm hội viên chính thức, mỗi năm thường kỳ Ngài phải lên Sài gòn để dự
đại hội một lần.
Năm Nhâm Thân
(1932), đại hội bầu lại Ban Trị Sự Trung Ương Hội, Ngài được cử làm Hội
Trưởng chi nhánh tỉnh Châu Đốc.
Năm Bính Tý (1936).
Ngài lại được cử giữ chức Chánh Hội trưởng HNKNCPH sau ba năm gián đoạn.
Cùng năm đó, Hội đề cử Ngài đại diện mang kinh sách sang tặng cho hai
vương quốc Cao Miên và Ai Lao để góp phần cổ xúy phong trào Phật học đang
thịnh phát ở đó. Chuyến đi này trải qua một tháng hai mươi ngày, Ngài được
tiếp đón trọng thể.
Năm Ất Hợi (1935),
kinh tế và uy tín chùa Long Khánh ngày càng phát triển, ruộng đất của chùa
lên đến trên 12 mẫu do các Phật tử hảo tâm hiến cúng đền ơn Ngài chữa lành
bệnh nan y cho họ. Nhờ đó việc tiếp Tăng độ chúng ngày thêm sung mãn như ý
nguyện của Ngài và Ngài có phương tiện để trùng tu và kiến tạo thêm các
công trình của chùa, làm tăng vẻ trang nghiêm hùng vĩ.
Năm Bính Tý (1936),
nhân giỗ Tổ Bổn sư (ngày 2-9 ÂL) có mặt rất nhiều chư Tôn đức cùng cư sĩ
Phật tử ở địa phương, Ngài đã ân cần phó chúc, dặn dò các đệ tử những điều
trọng yếu để sống đúng đạo hạnh của người con Phật hộ đạo giúp đời. Từ đó,
Ngài chuyên tâm tu niệm và sách tấn đại chúng tu hành cho đến ngày mãn
duyên.
Năm Bính Tuất
(1946), sau thời gian nhuốm bệnh, Ngài đã thâu thần viên tịch vào lúc 15
giờ 20 phút chiều ngày 26 tháng 3 ÂL. Trụ thế 56 năm,42 tuổi đạo. Bảo tháp
Xá lợi Ngài được tôn trí ngay trong khuôn viên chùa Long Khánh, xã Khánh
Hòa, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay.
Một bậc danh Tăng
của Việt Nam với đức độ và công hạnh đã làm cho vua Cao Miên và Ai Lao qui
ngưỡng kính phục. Điều đó góp phần gieo giống Bồ đề khắp ba nước Đông
Dương để Phật giáo được hoằng dương rộng rãi.
***
HÒA THƯỢNG
(1877 - 1947)
Hòa thượng Khánh Hòa
thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm
Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Ngài sinh trong một
gia đình trung lưu, có nề nếp Nho học, từ nhỏ đã được tiếng thông minh và
nết hạnh. Là người anh cả, sau Ngài còn có hai em, một trai, một gái.
Người em trai kế cũng xuất gia tu học sau này, người em gái đã mất lúc còn
nhỏ.
Năm Ất Mùi (1895),
khi 19 tuổi, Ngài đến chùa Long Phước, quận Ba Tri, xin xuất gia học đạo.
Sau đó đến tham học tại chùa Kim Cang, tỉnh Tân An, nơi đây được Hòa
thượng Long Triều trực tiếp giảng dạy. Thời gian này Ngài rất chăm chỉ và
năng nổ trong việc học đạo, nên nghe đâu có bậc thạc đức thì Ngài luôn tìm
đến cầu học, không ngại gian khó, chẳng nài xa cách. Nhờ tinh thần tiến
thủ đó mà Ngài đi đến đâu cũng đều được các bậc trưởng thượng quý mến.
Năm Giáp Thìn
(1904), Ngài nhập hạ đầu tiên tại chùa Long Hoa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia
Định. Nơi đây, được sự khuyến khích của chư Tôn đức, Ngài đã giảng kinh
Kim Cang Chư Gia, rất được các vị Pháp sư và đại chúng ở trường hạ quý
mến. Từ đó về sau mỗi lần nhập hạ, Ngài đều có giảng kinh. Nhờ đó mà bảo
hiệu Khánh Hòa đã sớm vang khắp nơi.
Năm Bính Thìn
(1916), lúc này Ngài đang trụ trì chùa Tuyên Linh, tỉnh Bến Tre. Với trình
độ thâm đạt Phật lý và đức tính ôn hòa, Ngài luôn trăn trở trước viễn cảnh
ngôi nhà chánh pháp có nguy cơ sụp đổ, thường hay than rằng : “Phật pháp
suy đồi, Tăng đồ THẤT HỌC và không ĐOÀN KẾT”. Do đó, Ngài quyết tâm thi
hành nhiệm vụ của một Sứ giả Như Lai, mong muốn thực hiện thống nhất Phật
giáo và chỉnh đốn Tăng già. Mong muốn rất to lớn và chính đáng này, trong
hoàn cảnh chung thời bấy giờ, không phải ai cũng có. Biết được Ngài đang
ôm ấp hoài bão thiết tha đó, một vị Hòa thượng hỏi Ngài với đại ý việc cổ
động chấn hưng Phật giáo ấy có mấy người đồng tình đồng tâm hưởng ứng và
tại sao nhiều chùa giàu có không đứng ra chung lo với Ngài? Ngài từ tốn
đáp rằng: “Ở đời, vàng bạc bao giờ cũng ít, ngói đá lúc nào cũng nhiều.
Chúng ta dù ít nhưng cố gắng sẽ thành công. Khó gì bằng lìa bỏ tình yêu
cha mẹ vợ con và đời sống cao sang quyền quý, vùi thân trong núi tuyết
rừng già mà đức Bổn Sư ta còn bỏ được và làm được thay!”.
Năm Canh Thân
(1920), Ngài cùng quý Hòa thượng khác lập ra Hội Lục Hòa. Đó là mục tiêu
ban đầu nằm trong hoài bão, nhằm tạo sự đoàn kết, tương thân theo đúng
pháp Phật trong giới Tăng sĩ. Ngài còn lo mở trường gia giáo để đào tạo
Tăng tài hầu đảm nhiệm trọng trách hoằng dương chánh pháp, dìu dắt người
sau. Bên cạnh đó Ngài cần mẫn dịch Kinh, Luật, Luận ra chữ quốc ngữ để phổ
cập được trong mọi tầng lớp quần chúng.
Năm 1927, Ngài cử Sư
Thiện Chiếu ra Bắc bộ để vận động chấn hưng Phật giáo. Không thành công,
năm 1928 Sư Thiện Chiếu về Sài gòn.
Năm 1928, Ngài cùng
các vị Thiện Chiếu, Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lập Thích Học Đường và
Phật Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn (Cầu Muối). Cùng năm này, chư Tôn đức
tỉnh Bình Định mở trường hạ tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn), đã cung
thỉnh Ngài làm Pháp sư chủ giảng suốt 3 tháng tại đây.
Tháng giêng năm Kỷ
Tỵ (1929), khi trở lại quê nhà, vẫn không nản lòng với ước nguyện cao cả,
Ngài quyết định đi cổ động chấn hưng Phật giáo khắp các tỉnh Nam bộ, kêu
gọi sự đồng tình, ủng hộ với ba phương châm:
1/ Chỉnh đốn Tăng
già.
2/ Kiến lập Phật học
đường.
3/ Diễn dịch và xuất
bản kinh sách Việt ngữ.
Tâm lực cao cả đó là
hành trang theo Ngài trên mọi nẻo đường từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngài
đem hết can tràng tha thiết chỉ rõ sự suy đồi và nguy cơ bị tiêu diệt của
Phật giáo nếu không sớm CHẤN HƯNG. Tuy nhiên chỉ có các vị Huệ Quang, Kim
Huê, Vạn An, Liên Trì, Viên Giác... tỏ ra đồng tình ủng hộ triệt để và hết
lời ca ngợi việc làm cao đẹp này. Ngoài ra, hầu hết chỉ nghĩ đến tông môn
mình, chùa mình và từ chối thoái thác cộng tác. Đôi khi Ngài còn bị những
người ấy công kích hủy báng hết sức thậm tệ. Có lúc Ngài tự than rằng: “Ôi
! Phật pháp suy vi, Tăng đồ hủ bại đến thế là cùng. Rồi đây, họ sẽ bị trào
lưu đào thải !”. Nhưng Ngài vẫn không nản chí, mà ngược lại càng nhẫn nại
và sáng suốt hơn bao giờ hết.
Để đẩy mạnh việc
truyền bá Phật pháp, Ngài cùng các Hòa thượng khác cho xuất bản tập san
Phật Học bằng chữ quốc ngữ tên là Pháp Âm. Số đầu tiên ra ngày 13.8.1929.
Sau đó là tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên ra đời năm 1930 cũng bằng chữ
quốc ngữ nhưng có nội dung tiến bộ hơn, nhắm vào hàng cư sĩ trí thức và
Tăng sĩ trẻ. Không lâu sau, nhiều nội ngoại chướng dồn dập, hai tập san
đều ngưng hoạt động.
Năm Tân Mùi (1931),
Ngài cùng nhiều vị Tôn đức và các cư sĩ học giả, thành lập Hội Nam Kỳ
Nghiên Cứu Phật Học đặt Hội quán tại chùa Linh Sơn - Sài Gòn, sau đó cho
xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Ngài được cử làm Đệ nhứt Phó Hội trưởng
kiêm Chủ nhiệm báo Từ Bi Âm. Ngài đã cổ động hàng cư sĩ Phật tử Trà Vinh
thỉnh và hiến cúng Tam Tạng kinh điển cho hội để có tài liệu nghiên cứu và
diễn dịch. Bước đầu hội không có tài chánh để xây thư viện hầu lưu trữ Tam
Tạng Kinh, Ngài bèn về chùa Tuyên Linh thương lượng với bổn đạo, hiến ngôi
chánh điện cho hội, để xây Pháp Bảo Phường, lưu trữ Pháp Bảo Tam Tạng
kinh. Hiện Tam Tạng kinh và Pháp Bảo Phường vẫn còn tại chùa Linh Sơn -
Sài Gòn.
Thế rồi sau hai năm
hoạt động. Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đang có chiều hướng tiến triển,
thì có sự độc tài của một vài cá nhân kỳ thị, khuynh loát Thích Học Đường
không khai giảng được. Nhận thấy nguy cơ không có khả năng chỉnh đốn lại
nên Ngài cùng Tổ Huệ Quang lui gót trở về Lục tỉnh.
Năm Quý Dậu (1933),
vẫn không nản lòng, Ngài cùng các Tổ Huệ Quang, Pháp Hải, Khánh Anh...
thành lập Liên Đoàn Phật Học Xã nhằm tiếp tục con đường đào tạo Tăng tài.
Tổ chức này có hình thức di động không trú xứ, luân phiên mỗi chùa 3 tháng
phải chu toàn, đài thọ các mặt hoạt động của Liên Đoàn, sau đó lại đến
chùa khác. Tổ chức này ra đời bằng nghi thức khai Gia Giáo, bắt đầu từ
chùa Từ Hòa (chùa Tổ Huệ Quang) thuộc làng Long Hòa, huyện Tiểu Cần; rồi
đến khai giảng tại chùa Thiên Phước, quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, sau đó
đến chùa Viên Giác, tỉnh Bến Tre. Nhưng công việc đang hanh thông giữa
chừng thì lại gặp chướng duyên, xem như gãy đổ hoàn toàn (năm 1934).
Năm Giáp Tuất
(1934), Ngài lại cùng các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải... và các cư
sĩ tỉnh Trà Vinh thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học do Ngài làm Pháp sư.
Ngài cho xuất bản tạp chí Duy Tâm và thỉnh Đại Tạng, Tục Tạng để làm tài
liệu nghiên cứu và dịch giảng. Bên cạnh đó Ngài còn kiến tạo Phật Học
Đường và khóa đầu tiên được khai giảng năm Ất Hợi (1935) với số lượng học
Tăng ba mươi vị. Trong số đó có các Ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ...
Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và tạp chí Duy Tâm tồn tại cho đến khi chiến
tranh xảy ra năm 1945.
Thời gian sau, do
sức khỏe có phần suy giảm, Ngài tạm thời lui về chùa Vĩnh Bửu, huyện Mỏ
Cày, tỉnh Bến Tre để tịnh dưỡng chuyên tu. Những ngỡ Ngài đã phần nào yên
lòng với những thành công nhất định đã đạt được, và những thất bại đã trải
qua để dừng chân ngơi nghỉ. Nào ngờ, nơi đây Ngài lại cho mở Ni trường
Phật Học để chuyên chú cho Ni giới. Các Ni Sư tốt nghiệp trường này có
Diệu Ninh (Thường gọi là Ni Sư Vĩnh Bửu sau là Quản lý trụ sở Ni bộ chùa
Từ Nghiêm - Chợ Lớn).
Trong thời gian trú
xứ tại chùa Vĩnh Bửu, Ngài cùng chư Tôn đức khác đã hết lòng sát cánh bên
Ngài tổng kết quá trình phấn đấu cho tương lai Phật giáo. Riêng Ngài,
trong lịch sử phôi thai của công cuộc chấn hưng Phật giáo đáng nhớ, đã nổi
bật lên ba đức tính làm gương soi cho các thế hệ đi sau làm bài học tiến
thủ không ngừng đó là:
1/ Mỗi lần thất bại
là mỗi lần cố gắng đứng lên, kiên tâm nhẫn nại, cương quyết như sắt đá,
không hề thối chí nản lòng.
2/ Suốt đời hy sinh,
hiến thân cho đạo pháp, không nề gian lao, chẳng từ khó nhọc, hy sinh cả
tài sản chùa mình để sung vào của công, góp phần chấn hưng, không màng
danh lợi, quyền tước và danh vọng.
3/ Thân già nhiều
bệnh nhưng chí hướng không già, lúc nào cũng tỏ ra hăng hái trước mọi
việc, không chán nản với Phật sự.
Sau đó, Ngài trở lại
chùa Tuyên Linh tiếp tục tịnh dưỡng. Năm Đinh Hợi (1947), thời gian nước
nhà bị chiến tranh loạn lạc, Ngài đã ghi lại những hàng di chúc đầy tha
thiết chứng tỏ ước nguyện lớn lao của Ngài :
“Phật Giáo đang hồi
suy vi, nước nhà vào cảnh loạn ly, mà tôi không làm được việc gì, nên sau
khi tịch rồi, chỉ tẩn liệm tôi với bộ y hậu vải thường, không nên dùng gấm
lụa, đừng làm long vị sơn son thếp vàng, vì cần phải tiết kiệm để bố thí
cho người nghèo. Còn ngôi chùa tôi khai sáng thì phải giao cho thầy Tỳ
Kheo đủ tài đức, giới hạnh tinh nghiêm, trụ trì kế nghiệp. Bao nhiêu tài
sản của chùa, phải đem ra nuôi chúng Tăng tu học, không được dành làm của
riêng. Đệ tử nào không y theo lời di chúc, thì không phải là môn đồ của
Phật giáo”.
Năm ấy, Ngài viên
tịch vào ngày 19 tháng 6 năm Đinh Hợi (1947), tại chùa Tuyên Linh, hưởng
thọ 70 tuổi đời, 40 tuổi đạo.
Năm Ất Mùi (1955),
Tổ Huệ Quang (Lúc này đang là Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt) hướng
dẫn phái đoàn về Bến Tre hợp cùng môn đồ pháp quyến Tổ đình Tuyên Linh làm
lễ trà tỳ linh cốt Ngài vào ngày 10, 11, 12 tháng 5 năm Ất Mùi. Sau đó tro
xá lợi được tôn thờ các nơi như Tổ đình Tuyên Linh (trú xứ), chùa Long
Phước (trụ sở Hội Lưỡng Xuyên Phật Học), chùa Ấn Quang (trụ sở Giáo Hội
Tăng Già Nam Việt), Tháp Đa Bảo (chùa Phước Hậu - Trà Ôn), chùa Vĩnh Bửu
(Phật Học Ni Trường), chùa Từ Nghiêm (trụ sở Ni bộ Bắc tông).
***
HÒA THƯỢNG
(1881-1947)
Hòa Thượng thế danh
là Nguyễn Văn Kim, Pháp danh Như Kim, Pháp hiệu Bửu Chung, sinh năm Tân Tỵ
(1881) tại Rạch Cái Đầm, xã Hiệp Xương, huyện Tân Châu, tỉnh Long Xuyên
(nay là An Giang). Thân phụ là cụ ông Chánh bái Nguyễn Văn Phước. Thân mẫu
là cụ bà Lê Thị Dậu.
Khi tuổi thiếu niên,
Ngài đã được song thân cho xuất gia với Tổ Minh Thông - Hải Huệ ở chùa Bửu
Lâm, Rạch Cái Bèo, xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong,
(nay là tỉnh Đồng Tháp ) và được ban pháp hiệu là Bửu Sơn.
Thấy Ngài nhỏ tuổi,
vóc dáng ốm yếu, Tổ thương và giao trách vụ hương đăng trong chùa.
Tổ Minh Thông - Hải
Huệ có biệt hạnh là đi tới đâu Tổ cất chùa ở đó, tuy chỉ là mái tranh vách
đất mà thôi. Khi cất chùa xong, Tổ bổ nhiệm các đệ tử phần nhiều mới xuất
gia đến trú trì. Vì phải ra làm trú trì quá sớm, phần đông đệ tử của Tổ ít
được dịp tu học kinh luật đến nơi đến chốn.
Nhận thấy đó là điều
thiệt thòi cho kẻ xuất gia, sợ về sau khó lòng đảm trách được vai trò và
nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, nên trưởng tử của Tổ là Yết Ma Cả Như Khả
- Chân Truyền, trú trì chùa Khải Phước(1), đã tìm cách xin phép Tổ đưa 5
Sa Di, gồm hai anh em ruột Bửu Sơn, Bửu Phước(2), Bửu Quang(3) và Bửu
Tín đang theo học tại chùa Khải Phước lên Sàigòn, chùa Long Thạnh(4) ở
đường Bà Hom thuộc xã Phú Lâm để gửi vào học đạo với Tổ Minh Hòa - Hoan
Hỷ. Từ đó Ngài được đổi Pháp hiệu là Bửu Chung.
Ba năm sau, vì bệnh
duyên, Ngài đành phải từ giả Bổn Sư và học chúng, để về Nha Mân ở Sa Đéc
dưỡng bệnh và cầu y chỉ với Tổ Phổ Minh ở chùa Hội Phước. Hàng ngày ngoài
thì giờ tu học, Ngài vẫn được giao trách vụ hương đăng trong chùa.
Được ít lâu, Ngài
xin phép Tổ Phổ Minh lên Lấp Vò thăm Yết Ma Cả Như Khả - Chân Truyền và
trình bày lý do vì sao Ngài lại rời khỏi chùa Long Thạnh về chùa Hội
Phước. Yết Ma Như Khả dạy Ngài rằng: “Nếu muốn ở yên trong chúng và sau
thành tựu sự nghiệp tu học thì phải nhớ lời dạy của Thiền Sư Đại Huệ:
Cung người chớ cầm
Ngựa người đừng cưỡi
Việc người đừng biết
Thường tự biết quấy
để sửa.
Ngài thành kính thụ
giáo và lui về.
Năm Tân Sửu (1901)
Ngài thọ giới Cụ túc và được bổ nhiệm trú trì chùa Thiền Lâm ở Nha Mân.
Năm Ất Tỵ (1905) Ngài lại được mời làm trú trì chùa Phước Long ở Rạch Ông
Yên cũng thuộc Nha Mân. Bốn năm sau, năm Kỷ Dậu (1909) Ngài lo trùng tu
chùa, cất thêm Tăng xá, mở trường gia giáo. Tăng chúng khắp nơi tới tu học
rất đông. Trong số các đệ tử của Ngài, có các vị sau này trở nên trụ cột
của Phật giáo các tỉnh miền Tây như Hòa Thượng Thích Thành Chí trụ trì
chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường, Hòa thượng Thích Thiện Tài, viện chủ chùa
Bửu Lâm ở Rạch Cái Bèo, chứng minh đạo sư của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng
Tháp, Hòa thượng Thích Huệ Từ, trú trì chùa Phước Long ở Rạch Ông Yên,
chứng minh đạo sư của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Tháp, Hòa thượng Thích
Phước Minh, Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Cần Thơ.
Ngài là một Pháp Sư
danh tiếng, được Tổ Phi Lai - Chí Thiền mời thuyết giảng tại chùa Phi Lai
trong Đại Trai đàn về “ Pháp đếm hơi nhiếp tâm niệm Phật tam muội “ mà
Ngài thường truyền dạy cho các đệ tử. Sau Đại Trai đàn, bài pháp này được
ghi lại thành sách lưu tại chùa Phi Lai, Châu Đốc.
Trong cuộc đời tu
hành, Ngài chủ trương tham gia lao động làm kinh tế để chùa có đủ lương
thực tự túc. Nhận thấy ruộng của chùa đều là ruộng gò, năng suất rất thấp.
Ngài bèn ra sức cải tạo đất, bằng cách làm lò gạch, đào đất đúc gạch ngói
vừa bán có tiền vừa hạ sâu ruộng để có thể cấy lúa hai vụ, đem lại kết quả
rất khả quan. Gạch ngói mang hiệu Bửu Tân Long của chùa nổi tiếng, sản
phẩm được tiêu thụ tận Sàigòn.
Tuy nhiên, Ngài coi
đó chỉ là phương tiện trợ duyên, còn việc tu học mới là căn bản, cho nên
sau khi đã đạt mục đích cải tạo ruộng cho chùa, Ngài giao lò gạch lại cho
bổn đạo để chuyên chú vào việc tu hành và dìu dắt các đệ tử. Tháng giêng
năm Nhâm Thân (1932) Ngài lại trùng tu chùa một lần nữa được khang trang
bằng kết quả làm kinh tế của thời gian qua để phụng trì Tam Bảo.
Ngài cũng là một nhà
Sư yêu nước, từng tham gia tổ chức Thiên Địa Hội chống Pháp và bị bắt giam
tại bót Thị Đinh. Nhờ Ngài trả lời bằng trí tuệ khôn khéo, nên sớm được
trả tự do. Còn em Ngài là ông Sáu Phụng bị đày ra Côn Đảo. Sau cuộc Cách
mạng đảo chính Nhật, giành được chính quyền Ngài ủng hộ phong trào Thanh
niên Tiền phong, tiến hành Cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Khi thực dân
Pháp trở lại gây hấn ở Nam bộ, chúng thẳng tay đàn áp cán bộ và khủng bố
dân chúng.
Vốn có tài thợ mộc,
Ngài nghĩ ra cách giúp đỡ Cách mạng, bằng sáng kiến đóng một cái hộc “đựng
lúa của chùa hình vuông, có hai lớp vách để khi quân Pháp đi ruồng bố, Cán
bộ chạy đến trốn vào. Còn Ngài thì mắc võng nằm xem kinh. Nhờ vậy, quân
Pháp vào chùa chỉ thấy nhà Sư với ông già bà lão và trẻ em, nên không nghi
ngờ gì.
Để thể hiện lòng từ
bi cứu khổ ban vui, Ngài còn làm các công tác từ thiện xã hội giúp đỡ nhân
dân. Ngài cho cất nhà dưỡng lão, tập trung các cụ già, người đau ốm bệnh
hoạn không người chăm sóc, kêu gọi bổn đạo phát tâm giúp Ngài lập một
nghĩa trang để những người cô thế này có nơi an nghỉ khi họ từ trần.
Công hạnh hóa đạo
đến hồi viên mãn, ngày 14 tháng 4 năm Đinh Hợi (tức ngày 2-6-1947) vào lúc
canh năm, tứ chúng vừa công phu khuya xong, Ngài đang nằm trên võng, tay
cầm quyển kinh, đưa mắt nhìn khắp tứ chúng đang bao quanh, và nhỏ giọng
niệm “A Di Đà Phật Vô Lượng Y Vương “ rồi nhắm mắt an nhiên thị tịch,
hưởng thọ 66 tuổi đời, 46 hạ lạp.
Các dịch phẩm của
Ngài gồm có:
- Đốn ngộ nhập đạo
yếu môn.
- Vạn pháp qui tâm
lục.
- Phật học dị
giải....
[1]Chú thích :[1]
(1) Chùa Khải Phước ở
xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, chùa này hiện không còn dấu
tích gì. Tháp và di cốt của Yết Ma Cả được dời về chùa Phước Ân năm 1989.
(2) Khai Sơn chùa
Phước Ân ở Rạch Cai Bường, xã Vĩnh Thạnh, huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng
tháp.
(3) Khai Sơn chùa Kim
Liên, xã Bình Thủy, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ.
(4) Hiện nay chùa
Long Thạnh ở số 3/265 tỉnh lộ 10 xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí
Minh.
***
HÒA THƯỢNG
(1872-1949)
Hòa thượng, thế danh
là Phạm Văn Vịnh, pháp danh Đạt Thới, pháp hiệu Chánh Thành, sinh năm Quý
Dậu (1872) tại làng Tân Nhuận Đông, tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp,
trong một gia đình Nho học kiêm lương y đương thời.
Từ thuở nhỏ, Ngài
được phụ thân hướng dẫn dạy bảo theo đường Nho học. Sẵn có thiên tư đĩnh
ngộ, lại được sự chăm sóc chu đáo của nghiêm đường, Ngài nổi tiếng học
giỏi, thông minh xuất chúng được mọi người khen ngợi.
Năm Ngài 11 tuổi
(1883) song thân lần lượt qua đời, trong lúc việc học hành của Ngài đang
tiến triển bình thường. Ngài lâm vào hoàn cảnh côi cút, tràn ngập đau
thương. Cảm thấy thấm thía sự vô thường của tạo vật, cuộc sống ở cõi Ta Bà
này chỉ là giả tạm, Ngài liền nghĩ đến việc xuất gia đầu Phật. Ngài đến
đảnh lễ Sư Tổ Liễu Ngọc - Châu Hoàn Thượng Nhân chùa Hội Phước ở Rạch Nha
Mân, thị xã Sa Đéc và xin được thế phát quy y.
Với bản chất thông
minh, lại thêm quyết chí tu học, ngoài những thời công phu hàng ngày và
chấp tác phụng sự Bổn sư, Ngài dành cả thì giờ còn lại cho việc nghiên cứu
kinh điển, tìm hiểu những điều cao siêu thâm thúy của Phật pháp. Nhờ vậy
việc tu học của Ngài ngày một tiến triển, giới luật càng tinh nghiêm, được
các bậc tôn túc thương yêu và đại chúng quý mến. Chẳng bao lâu Ngài đã trở
thành một vị Pháp sư tài đức vẹn toàn.
Năm 23 tuổi (1895),
Ngài được Sư tổ Liễu Ngọc truyền trao Chánh pháp Nhãn tạng với bài kệ như
sau:
Đạt đắc Bồ Đề trí huệ
khai
Thới nhiên tâm địa
xuất trần ai
Chánh pháp tạng trung
chơn thật nghĩa
Thành năng tham thấu
tức Như Lai.
(Tư Chỉ tạm dịch)
(Đắc quả Bồ Đề trí
huệ khai
Hoát nhiên tâm địa
vượt trần ai
Trong lòng chánh pháp
chơn thật nghĩa
Năng sở vô nghì rõ
Như Lai.)
Năm 1896 Sư Tổ Liễu
Ngọc bổ xứ Ngài về trú trì chùa Vạn An ở xã Tân An Đông, Sa Đéc. Về sau
Tăng tín đồ thường gọi Ngài là Hòa thượng Vạn An.
Năm 1902 sau khi Bổn
sư Liễu Ngọc thị tịch, Ngài đến xin y chỉ với Sư tổ Hải Huệ - Minh Thông ở
chùa Linh Thứu ở Mỹ Tho và được ban pháp hiệu Như Vịnh - Diệu Liên.
Năm 1914, hưởng ứng
phong trào yêu nước chống thực dân Pháp do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để hô hào ở
Nam bộ, Ngài bị người Pháp bắt giam 9 tháng, sau vì không có chứng cớ,
chúng phải trả tự do cho Ngài.
Năm 1934, phong trào
chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ phát triển mạnh. Các Hòa thượng Khánh Hòa,
Khánh Anh, Huệ Quang, Pháp Hải v.v... thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học ở
Trà Vinh, mở Phật học đường để đào tạo Tăng tài, Ngài được mời làm Pháp sư
tham gia giảng dạy.
Năm 1937, Phật Học
Đường Lưỡng Xuyên gặp khó khăn về tài chánh phải đóng cửa. Ngài quay về
bổn tự mở trường gia giáo tại chùa Vạn An, tiếp tục truyền đạt giáo lý cho
Tăng sinh. Năm 1940 Ngài lại mở Phật học Ni trường ở Tây đường chùa để đào
tạo Ni chúng. Số Tăng Ni sinh xuất thân từ trường gia giáo Vạn An rất
nhiều, trong số đó có những vị danh tiếng như các Hòa thượng Kiểu Lợi, Huệ
Hưng, Phước Cần... các Sư bà Chí Kiên, Như Hoa, Huyền Học, Như Chơn...
Năm 1945, Liên đoàn
Phật giáo Cứu quốc Nam bộ được thành lập, phát triển các chi hội khắp các
địa phương, trong đó có huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp, mặc dầu tuổi già sức yếu (lúc đó Ngài đã 73 tuổi, Ngài vẫn hăng hái
lãnh nhiệm vụ cố vấn, động viên tinh thần yêu nước cho hàng ngũ Tăng tín
đồ ở huyện nhà.
Năm 1947, chiến tranh
lan khắp nơi. Quân viễn chinh Pháp mở các cuộc càn quét vùng nông thôn.
Khu vực chùa Vạn An mất an ninh, Ngài phải cùng các đệ tử lánh cư về chùa
Hội Phước. Năm Kỷ Sửu (1949) Ngài lâm bệnh nhẹ và thị tịch vào lúc 3 giờ
khuya ngày 25 tháng 6, trụ thế 77 năm, được 54 hạ lạp.
Trong cuộc đời hoằng
pháp lợi sanh của Ngài, ngoài việc tham gia giảng dạy ở các Phật học
đường, Ngài còn có công lớn trong việc diễn Nôm một số kinh lưu hành ở
miền Nam thời bấy giờ. Các tác phẩm của Ngài hiện còn lưu giữ tại Tổ đình
Vạn An (Sa Đéc) gồm có:
Kinh:
- Di Đà Sớ Sao.
- Pháp Hoa
- Pháp Bảo Đàn.
- Phật Tổ Tam Kinh
- Quy Nguyên Trực
Chỉ.
- Long Thơ Tịnh Độ.
Luật:
- Tứ Phần Như Thích
- Bồ Tát Giới Kinh
- Tỳ Kheo Giới Kinh.
- Sa Di Sớ.
- Tỳ Ni Hương Nhũ.
Sám:
- Quy Mạng
- Khể Thủ v.v...
***
HÒA THƯỢNG
(1879 - 1949)
Hòa thượng pháp danh
Như Đắc, pháp tự là Giải Tường, pháp hiệu là Thiền Phương, thuộc dòng Lâm
Tế Chúc Thánh đời thứ 41, Ngài họ Dương, sinh năm (Kỷ Mão) 1879, tại làng
Phong Thắng, huyện Tuy An, thuộc tỉnh Phú Yên, Trung Việt. Ngài lớn lên
trong một gia đình Nho phong, lễ giáo, có lòng kính Phật trọng Tăng.
Năm Ất Dậu (1885) khi
lên 7 tuổi, Ngài đã theo thân mẫu đến chùa lễ Phật và quy y Tam Bảo với Tổ
Pháp Tạng, và được Tổ đặt pháp danh là Như Đắc. Trong lúc đảnh lễ Tam Bảo,
mắt Ngài không rời tượng Phật, mặt đượm vẻ vui tươi sùng kính. Xem thấy
khí sắc như thế, Tổ Pháp Tạng biết là đã gặp người có túc thế thiện căn.
Tổ bèn tỏ ý với thân mẫu Ngài nên cho Ngài xuất gia. Mẹ Ngài hoan hỷ thuận
lời và việc chuẩn bị cũng bắt đầu từ hôm ấy.
Ngài bước vào nếp
sống thiền gia được nhiều cơ duyên thuận lợi. Truyền thống gia đình cùng
sự hỗ trợ tích cực của song thân và đặc biệt là Ngài được trực tiếp thọ
giáo với Tổ Pháp Tạng, bậc tu hành lừng lẫy với công hạnh to lớn thời bấy
giờ. Đó là niềm vinh dự rất lớn không riêng cho bản thân mà cả gia đình
Ngài. Do đó, Ngài luôn tỏ ra xứng đáng với sự tin yêu của Bổn sư và càng
chuyên cần tu học. Trong thời gian chấp tác, chưa bao giờ Ngài để Bổn sư
và gia đình buồn lòng.
Chẳng bao lâu sau,
Ngài được Bổn Sư cho thọ Sa Di giới để khuyến khích sự tinh tấn. Đặc biệt,
Ngài còn được Bổn sư tận dụng những lúc Ngài gần gũi hầu Thầy, để đưa ra
những bài trắc nghiệm về Phật học nhằm khảo sát một cách nhẹ nhàng với
Ngài. Trong những lúc ấy Tổ thường đặt những câu hỏi đúng vào nơi yếu chỉ
của Kinh, Luật và lần nào Ngài cũng làm cho Tổ hài lòng. Nhờ năng khiếu
biện luận cũng như khả năng nhận thức giáo lý tinh thông. Tổ Pháp Tạng
biết rằng người đệ tử thông minh này mai sau sẽ là người đống lương cho
Phật giáo.
Năm Mậu Tuất (1898),
Ngài 20 tuổi, Tổ Pháp Tạng cho Ngài thọ Cụ Túc giới. Từ đây Ngài luôn phát
tâm dõng mãnh, bồi lực chuyên tu, sưu tầm diệu nghĩa kinh điển. Sự học hỏi
đối với Ngài không bao giờ đủ, Ngài thường tạo ra nhiều thắc mắc để được
đồng môn giải thích hoặc tầm thầy truy thông. Nhờ vậy nơi Ngài đã có được
một cung cách, một sức tiến nổi bật hơn hẳn các bạn đồng môn. Bấy giờ, Bổn
sư phú pháp cho Ngài, ban pháp tự là Giải Tường, hiệu Thiền Phương, đồng
thời cử Ngài làm trụ trì Tổ đình Phước Sơn tại thôn Đồng Tròn, làng Phú
Phong, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Với việc tiếp Tăng độ
chúng, Ngài thường dùng những lời thâm thiết trong kinh luật để nhắc chúng
tu hành. Do công hạnh quý báu đó Ngài được Tăng chúng và Phật tử bấy giờ
tôn Ngài là Cụ Nhãn Tôn Sư.
Để mở rộng phạm vi
hoằng pháp, Ngài khai Phật học đường gia giáo, quy định mỗi khóa học 3
tháng, hết khóa này đến khóa khác liên tục thường xuyên dung nạp Tăng Ni
hiếu học từ khắp nơi về. Tại đây đã đào tạo được rất nhiều tầng lớp Tăng
sĩ có đủ tài đức khả dĩ thừa kế Phật sự ngày mai. Phần đông đã trở thành
những bậc cao Tăng danh đức, làm cho cảnh Tòng lâm Phước Sơn một thời hưng
thạnh.
Ngoài việc đào tạo
Tăng tài cho Phật giáo, Ngài còn quan tâm đến việc mở mang trùng tu tự
viện, chùa chiền. Biết chùa nào bị hư hao sụp đổ Ngài liền dùng mọi phương
tiện, đem hết tâm lực và khả năng của mình mà tô bồi xây đắp. Trong rất
nhiều những công trình ấy, điển hình đáng kể nhất là nét đồ sộ trang
nghiêm của hai ngôi chùa nổi tiếng Từ Quang và Bửu Sơn.
Hành trạng oai đức
của Ngài ai nghe cũng mến phục, uy danh lừng lẫy khắp Phật giáo Trung Việt
thời bấy giờ. Do đó chư Tôn đức xa gần thường hay tìm đến thưa hỏi đạo
tình và thỉnh ý Phật sự cần thiết.
Năm Đinh Sửu (1937),
do mến tài cảm đức, Hội Phật Học Thừa Thiên (Huế) cung thỉnh Ngài làm
Chứng minh Đạo sư cho toàn kỳ, truyền thọ quy giới và làm mô phạm cho tất
cả Tăng Ni và thiện tín khắp Trung Việt.
Trong thời kỳ phôi
thai của công cuộc chấn hưng Phật giáo, Ngài đã đóng góp rất nhiều ý kiến
thiết thực với chư Tôn đức có trách nhiệm, và gởi gắm nhiều hoài vọng của
mình vào tương lai Phật giáo. Ngài là một bậc cao Tăng có nếp sống chuẩn
hạnh, nhưng sự cởi mở, biết nhìn xa trông rộng cũng là điều Ngài hằng quan
tâm. Lúc nào Ngài cũng mong sao cho Phật giáo và tông môn có được nếp sống
thiền gia đúng nghĩa. Bởi Ngài đã và đang sống lầm than như đồng bào mình
trong bối cảnh đất nước bị xâm lăng, đô hộ của thực dân. Do đó nên Ngài có
nhiều trăn trở về tiền đồ đạo pháp. Giáo huấn một đội ngũ kế thừa có khả
năng đức độ truyền bá giáo pháp để mọi nơi mọi xứ đều được học hỏi vượt
qua đau khổ tìm được an vui là hoài vọng tha thiết của Ngài.
Ngài đã có công đào
luyện được những bậc Tăng tài khả kính, đóng góp nhiều công lao cho Giáo
Hội, cho công cuộc hoằng hóa độ sinh, như Hòa thượng Phúc Hộ, Hòa thượng
Phước Bình (Hành Trụ), Phước Trí, Phước Cơ, Phước Ninh...
Thời kỳ hóa duyên đã
mãn, Ngài đã ung dung thâu thần thị tịch vào ngày 10 tháng 08 Â.L năm Kỷ
Sửu (1949). Hưởng thọ 70 tuổi đời, 55 tuổi đạo. Bảo tháp được xây dựng tại
Tổ đình Phước Sơn, nơi mà Ngài đã sống và hoằng hóa trọn cuộc đời của một
bậc cao Tăng, vang danh Phật giáo Phú Yên và tiêu biểu cho miền Trung nước
Việt.
***
HÒA THƯỢNG
(1876 - 1950)
Hòa thượng Bích Liên,
thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16
tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo
Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngài sinh trưởng
trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú
Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình
với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng
huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ
Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong
trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học,
mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui
cùng tuế nguyệt.
Nhưng rồi đột nhiên
bà Lê Thị Hồng Kiều từ trần vào tuổi 40, để lại cho Ngài một trai hai gái.
Sống trong cảnh đau buồn vì thiếu vắng người thân, Ngài càng thêm thấm
thía cái lẽ “ Sinh tử vô thường” nên ý định xuất gia nẩy mầm từ đó.
Năm Ngài 41 tuổi
(Đinh Tỵ - 1917) tình cờ một hôm có người đánh cá đem cho Ngài một tượng
Phật bằng sứ trắng, nhưng chỉ có từ cổ xuống tòa sen. Vài tháng sau lại có
ngư phủ khác chài được cái đầu tượng Phật cũng bằng sứ, đem tặng Ngài.
Ngài ráp hai phần lại thì khít với nhau, vì nguyên đó là một pho tượng
Quán Thế Âm. Qua năm sau (1918) lại có một nhà sư đem cho Ngài hai quyển “
Long Thơ Tịnh Độ” là bộ sách thuyết minh pháp môn niệm Phật để cầu sanh về
cõi Tây phương Cực Lạc.
Càng ngẫm nghĩ những
việc trùng hợp này, Ngài càng tin rằng cơ duyên xuất gia đầu Phật đã đến.
Cho nên, sau khi thu xếp xong việc nhà, năm 1919 (năm 43 tuổi), Ngài đến
chùa Thạch Sơn ở Quảng Ngãi quy y thọ giới với Hòa thượng Hoằng Thạc. Ngài
được ban pháp danh Chơn Giám, tự là Đạo Quang, pháp hiệu là Trí Hải.
Nhờ tinh thông Hán
học, lại gặp thiện duyên, sau vài năm tham học và đắc pháp với Hòa thượng
Hoằng Thạc (năm 1921), Ngài đã diệu nhập Phật tạng, thông suốt yếu lý giải
thoát. Tuy mới xuất gia, nhưng Ngài đã sớm trở thành một Tăng sĩ quảng
kiến đa văn, đạo cao đức trọng.
Năm 1928, Hòa thượng
Khánh Hòa, pháp danh Như Trí, trụ trì chùa Tuyên Linh ở Bến Tre, ra làm
Pháp sư tại trường Hương chùa Long Khánh ở Qui Nhơn, gặp và mến phục tài
đức Ngài, bèn cùng nhau kết làm pháp hữu, rồi mời Ngài vào Nam hoạt động
cho phong trào chấn hưng Phật giáo. Chính do sự đóng góp công đức của Ngài
mà Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đã tặng Ngài danh hiệu Tán trợ hội viên
(vì Ngài không thuộc Sơn môn Nam kỳ).
Năm 1931, Hòa thượng
Khánh Hòa cùng các pháp hữu thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và
xuất bản tờ báo Từ Bi Âm để làm công cụ hoằng dương chánh pháp, phục vụ
phong trào chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng Khánh Hòa được cử làm Đệ nhất
Phó Hội trưởng kiêm chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm. Tuy làm Chủ nhiệm, Hòa
thượng Khánh Hòa không có nhiều thời giờ chăm sóc tờ báo, mà Ngài phó thác
cả cho người cộng sự đắc lực là Hòa thượng Bích Liên giữ chức chủ bút.
Tờ Từ Bi Âm ra mắt
ngày 01-3-1932, do Ngài phụ trách về nội dung trong sáu năm, tuy chưa làm
nên ý thức văn hóa dân tộc, nhưng cũng đã làm được việc phổ thông hóa Phật
học bằng Quốc ngữ, giữ vai trò hoằng pháp đáng kể trong giai đoạn chấn
hưng.
Năm 1934, Ngài về quê
một thời gian ngắn để khai sơn chùa Bích Liên tại sinh quán (Bình Định).
Xong việc, Ngài lại vào Nam tiếp tục điều khiển tòa soạn báo Từ Bi Âm. Từ
công đức đó, để tỏ lòng kính trọng, trong tòng lâm ít người gọi đạo hiệu
của Ngài, mà thường tôn xưng Ngài là Hòa thượng Bích Liên (tên ngôi chùa
do Ngài khai sơn).
Năm 1937, Ngài trở về
chùa Bích Liên, nhằm lúc Hội Đà Thành Phật Học xuất bản tạp chí Tam Bảo,
mời Ngài làm chủ bút. Tạp chí này thường đề cập đến nhu cầu thống nhất các
đoàn thể Phật giáo trong xứ thành một hội “ Phật Giáo Liên Hiệp”. Nửa năm
sau (1938) tạp chí Tam Bảo bị đình bản. Từ đó Ngài dành thì giờ cho công
tác Phật sự tại tỉnh nhà. Năm 1939, Ngài phụ giảng tại Phật học Đường Long
Khánh do Hòa thượng Chánh Nhơn thành lập. Ngài giảng dạy tại đây trong hai
năm, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng phần lớn Tăng sinh ở đây thọ ơn pháp
vũ của Ngài, tinh tấn tu học sau này nhiều vị là Cao Tăng trong Giáo Hội.
Hóa duyên đã mãn,
ngày mồng 3 tháng 6 năm Canh Dần (1950) Ngài viên tịch tại chùa Bích Liên,
thọ 74 tuổi, xuất gia 31 năm. Ngài có kệ truyền thừa:
Chân ngọc hồng sơn
chiếu
Trừng châu bích hải
viên
Lý minh tri tánh diệu
Trí mật ngộ tâm huyền
Tịch duyên hoài túy
liễu
Lạc quốc ngự kim liên
Thánh cảnh quy lai
nhật
Tông phong chấn cổ
truyền.
Về công việc trước
tác và phiên dịch, ngoài những bài đăng trên báo Từ Bi Âm, Ngài còn viết
các sách bằng chữ Hán :
- Liên Tông Thập Niệm
Yếu Lãm.
- Tịnh Độ Huyền Cảnh.
- Tây Song Ký.
- Tích Lạc Văn.
Văn phong chữ Nôm của
Ngài rất chỉnh. Ngài đã sáng tác nhiều áng văn hay cùng nhiều bài sám
nghĩa lưu truyền. “Qui Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi” là
hai tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng hơn cả, tiêu biểu sự nghiệp văn chương của
Ngài.
Mục lục | Lời giới thiệu |
Ý kiến |
Lời nói đầu | Phần I | Phần II |
Phần III |
Phần IV |
Phần V |
Phần VI |
Phần VII.