- CHƯƠNG XV
-
- PHÁT SINH TRẠNG THÁI BỒ
TÁT
- (GENERATING BODHICITTA)
Nghi lễ để phát sinh lòng vị tha
ao ước được giác ngộ là một nghi lễ đơn giản. Mục đích của nó
là xác nhận và làm vững chắc khao khát đạt tới Cõi Phật của chúng ta
vì lọi ích của mọi sinh linh. Sự xác nhận này rất cần thiết cho việc
nâng cao luyện tập lòng từ bi.
Chúng ta bắt đầu nghi lễ đó bằng
cách hình dung ra một hình ảnh về Đức Phật. Một khi hình ảnh này đã
rõ nét, chúng ta cố gắng tưởng tượng rằng Đức Phật Shakyamuni đang thật
sự hiện hữu trước mặt chúng ta. Chúng ta tưởng tượng rằng ngài được
vây quanh bởi vô số những đệ tử Ấ n Độ xa xưa. Nagarjuna, người đã
sáng lập trường Triết học Phật giáo Muddle Way cùng những lời giải
thích sâu sắc về "sự trống rỗng" ; và Asanga, chuyên gia về
khía cạnh "bao la" mà chúng ta đã luyện tập cũng có trong số những
người vây quanh Đức Phật. Chúng ta cũng tưởng tượng rằng Đức Phật
được vây quanh bởi những nhân vật trong 4 truyền thuyết của Phật giáo
Tây Tạng: Sakya, Gelug, Nyingma và Kagyu. Sau đó chúng ta tưởng tượng rằng
mình được vây quanh bởi vô số sinh linh. Ở mức độ này, bạn bắt đầu
phát sinh một tâm hồn vị tha ao ước được giác ngộ, Những người luyện
tập có niềm tin mạnh mẽ có thể tham gia vào nghi lễ này đơn giản bằng
cách trau dồi một tấm lòng đầy nhiệt huyết, thái độ vị tha đối với
mọi sinh linh.
- BẢY BƯỚC LUYỆN TẬP
- (SEVEN LIMBS OF PRACTICE)
Nghi lễ bắt đầu với một cuốn
sách chứa đựng những lẽ phải trái. Chúng ta tham gia vào nghi lễ này qua
việc suy niệm về những điều cần thiết của bảy bước luyện tập.
BƯỚC THỨ NHẤT: LÒNG KÍNH
TRỌNG (HOMAGE)
Bước đầu tiên này, chúng ta tỏ
lòng tôn kính đối với Đức Phật về những phẩm chất tốt đẹp nơi lời
nói, thân thể và tâm hồn của ngài. Chúng ta có thể biểu lộ lòng tin
và sự hiến dâng của mình bằng cách cúi đầu hoặc nằm phục trước hình
ảnh Đức Phật mà chúng ta tưởng tượng ra.
BƯỚC THỨ HAI: LỄ VẬT
(OFFERING)
Bước thứ hai này là "lễ vật".
Chúng ta có thể chuẩn bị những lễ vật vật chất hoặc tưởng tượng
rằng chúng ta đang dâng hiến những lễ vật quý hiếm cho buổi lễ thần
thánh trước mặt chúng ta. Lễ vật ý nghĩa nhất, thâm thuý và sâu sắc
nhất chính là việc không ngừng rèn luyện tâm hồn của chúng ta, là tất
cả những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta đã tích lũy được qua việc
tham gia những hành vi đạo đức. Những hành vi của lòng từ bi, những cử
chỉ chăm sóc, thậm chí là một nụ cười dành cho một ai đó hoặc biểu
hiện của sự quan tâm đến những người bệnh tật đều la ønhững hành
vi đạo đức. Chúng ta hiến dâng những điều này và cả những câu nói
đạo đức. Một số ví dụ về những câu nói đạo đức, như những lời
khen ngợi mọi người, những câu nói tạo sự yên lòng cho mọi người, những
lời an ủi, những lời khuyên… . Tóm lại mọi hành vi tích cực mà chúng
ta thực hiện qua lời nói. Chúng ta cũng có thể dâng hiến bằng những
hành vi đạo đức trong tâm hồn. Sự tu dưỡng rèn luyện lòng vị tha, ý
thức về sự chăm sóc mọi người, lòng từ bi, những đức tin sâu sắc
và sự hiến mình cho học thuyết của Đức Phật đều có thể là những
lễ vật. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng tất cả những lễ vật trên
đều ở hình thức những vật chất đẹp đẽ và chúng ta đem dâng hiến
cho Đức Phật và tuỳ tùng của ngài trước mặt chúng ta. Chúng ta có thể
tưởng tượng trong tâm hồn rằng chúng ta hiến dâng toàn bộ vũ trụ này,
những khu rừng, những đồi núi, những cánh đồng cỏ và những cánh đồng
hoa, bất chấp chúng có thuộc quyền sở hữu của chúng ta hay không, chúng
ta vẫn có thể dâng hiến trong tâm hồn mình.
BƯỚC THỨ BA: XƯNG TỘI
(CONFESSION)
Bước thứ ba là việc xưng tội. Yếu
tố quyết định của việc xưng tội là chúng ta phải thừa nhận những
hành vi tiêu cực của mình , những tội lỗi mà chúng ta đã gây ra. Chúng
ta nên trau dồi những ý thức sâu sắc về sự hối lỗi và sau đó hình
thành một cách quyết tâm mạnh mẽ rằng về sau không còn dung dưỡng những
thái độ, hành vi phi đạo đức như vậy nữa.
BƯỚC THỨ TƯ: VUI
MỪNG (REJOICING)
Bước thứ tư là việc rèn luyện
đức vui tươi bằng cách tập trung vào những hành vi đạo đức trong quá
khứ của chúng ta, chúng ta phát triển niềm vui vì những thành tựu của
mình. Chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta sẽ không bao giờ hối tiếc
về những hành vi tích cực mà chúng ta đã thực hiện,đúng hơn là chúng
ta có được niềm vui trong lòng khi chúng ta thực hiện những hành vi đó .
Thậm chí chúng ta nên vui mừng vì những hành vi tích cực của mọi người
khác, họ là những sinh linh thấp kém hơn chúng ta, yếu ớt hơn chúng ta hoặc
thậm chí mạnh mẽ hơn chúng ta hoặc ngang bằng với chúng ta. Điều quan
trọng là chúng ta phải đảm bảo được rằng thái độ của chúng ta đối
với những hành vi đạo đức của mọi người sẽ không bị lu mờ bởi
những ý thức về sự ganh đua và ghen tị; chúng ta nên cảm thấy và hoàn
toàn thán phục và vui mừng vì những phẩm chất tốt đẹp và tài năng của
mọi người.
BƯỚC THỨ NĂM VÀ THỨ
SÁU: THỈNH CẦU VÀ VAN XIN (REQUEST AND BESEECH)
Ở những bước tiếp theo này,
chúng ta thỉnh cầu những Đức Phật dạy bảo và phổ biến học thuyết
Dharma vì lợi ích chung của mọi sinh linh, sau đó chúng ta cầu khẩn họ
không tìm kiếm sự bình an nơi Niết Bàn cho riêng mình.
BƯỚC THỨ BẢY: HIẾN
DÂNG (DEDICATION)
Bước thứ bảy và là bước cuối
cùng là sự hiến dâng. Tất cả mọi hiểu biết, tài năng và những tiềm
năng tích cực mà chúng ta đã đạt được qua những bước phía trước và
tất cả những hành vi đạo đức mà chúng ta đã thực hiện đều được
hiến dâng cho mục tiêu chủ yếu: đạt được trạng thái Cõi Phật.
Sau khi đã thực hiện bảy bước
trên, chúng ta sẵn sàng bắt đầu phát sinh một tâm hồn vị tha mong ước
được giác ngộ. Tiết thứ nhất của nghi lễ bắt đầu với lễ vật là
một động cơ thúc đẩy chính đáng:
‘‘Với lòng mong ước giải thoát
tất cả mọi sinh linh’’
(With the wish to free all beings)
Dòng thứ hai và thứ ba hợp nhất
với ba nơi nương tựa: Đức Phật, Dharma, Shangha. Lời cam kết tìm kiếm nơi
nương tựa cũng được thiết lập trong những dòng này:
‘‘Tôi sẽ luôn tìm kiếm nơi
nương tựa’’
(I shall always go for refuge)
‘‘Từ Đức Phật, Dharma và
Shanga’’
(to the Buddha, the Dharma and Shangha)
Tiết thứ hai chính là sự phát
sinh một tâm hồn vị tha mong ước được giác ngộ:
‘‘Chứa chan lòng từ bi và thông
suốt’’
(Enthused by wisdom and compasion)
‘‘Hôm nay, trước sự hiện thân
của Đức Phật’’
(Today, in the Buddha’s presence)
‘‘Tôi phát nguyện một tâm hồn
mong ước được hoàn toàn giác ngộ’’
( I generate the Mind Wishing Full
Awakening)
‘‘Vì lợi ích của mọi sinh linh’’
(For the benefit of all sentient beings)
Tiết này nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc kết hợp lòng từ bi và sự thông suốt. Sự giác ngộ không thể
là lòng từ bi màkhông có sự thông suốt hoặc sự thông suốt mà không
có lòng từ bi. Đặc biệt là sự thông suốt về nhận thức "sự trống
rỗng". Có được nhận thức hoàn toàn về "sự trống rỗng"
hoặc thậm chí một hiểu biết trong khái niệm tâm hồn về "sự trống
rỗng" - giới hạn của sự tồn tại tối tăm của chúng ta, lòng từ
bi của chúng ta lại càng mạnh mẽ hơn nhiều. Từ ngữ "chứa
chan" ở đoạn này ngầm chỉ một lòng từ bi sẳn sàng-không cón là một
trạng thái trong tâm hồn nữa.
Dòng tiếp theo,
"Hôm nay, trước sự hiện thân
của Đức Phật"
(Today, in the Buddha’s presence)
Ngầm chỉ rằng chúng ta đang khao
khát đạt tới Cỏi Phật. Cũng có thể hiểu rằng gọi sự chú ý của những
Đức Phật trước mặt chúng ta để họ chứng giám sự kiện này khi
chúng ta phát biểu:
"Tôi phát nguyện một tâm hồn
mong được hoàn toàn giác ngộ"
(I generate the Mind Wishing Full
Awakening)
"Vì lợi ích của mọi sinh
linh"
(For the benefit of all sentient beings)
Tiết cuối cùng được trích từ
cuốn "Hướng dẫn sống một cuộc đời Bồ Tát" (guide of the
Bodhisattva’s way pf life) của thạc sĩ Aán Độ Shantideva của thế kỷ thứ
8, là:
"Miễàn là vu õ tru ï tồn tại"
(As long as space remains)
"Miễn là loài người tồn tại"
(As long as sentient beings remain)
"Tôi sẽ tồn tại đến khi đó"
(Untill then, I will remain)
"Và xua tan mọi điều đau khổ
của trần gian"
(And dispel the miseries of the world)
Những dòng này bày tỏ một tình cảm
mạnh mẽ. Một vị Bồ Tát phải tự xem bản thân mình như là thuộc quyền
sở hữu của mọi sinh linh. Phải hiểu là mọi điều trên thế gian tồn tại
là để được mọi người hưởng thụ và sử dụng, vì vậy nên toàn bộ
cuộc đời và sự tồn tại của chúng ta phải sẳn sàng vì mọi người.
Chỉ khi chúng ta bắt đầu suy nghĩ theo cách trên, chúng ta mới có thể
phát sinh được tư tưởng: "Mình sẽ cống hiến cả cuộc đời mình
vì lợi ích của mọi người. Mình sống chỉ để giúp đỡ mọi người mà
thôi". Những tình cảm mạnh mẽ như vậy sẽ được biểu hiện qua thực
tế, qua những hành vi vì lợi ích của mọi người. Ngược lại, nếu chúng
ta sống một cuộc đời hoàn toàn ích kỷ, cuối cùng chúng ta sẽ không thể
nào thực hiện được những khát vọng vì bản thân chứ đừng nói chi đến
việc vì lợi ích của mọi người.
Nếu Đức Phật Shakyamuni, vị Phật
trong lịch sử mà chúng ta sùng kính, cũng ích kỷ như chúng ta thì chúng
ta, đã đối xử với ngày như cách mà chúng ta đối xử với người khác,
và có lẽ chúng ta đã thốt lên với ngài: "Im đi!!". Nhưng thực
ra lại không phải như vậy. Bởi vì Đức Phật Shakyamuni hoàn toàn vì mọi
người, yêu mến mọi người, chúng ta xem ngài như một thần tượng đáng
kính.
Đức Phật Shakya, Nagarjuna và Asanga
– những thạc sĩ Ấ n Độ trứ danh và những thạc sĩ Tây Tạng nổi tiếng
trong quá khứ, đều đã đạt được sự giác ngộ – kết quả của những
thay đổi cơ bản về thái độ đối với bản thân và mọi người. Họ
đã tìm nơi nương tựa. Họ đã vì phúc lợi của mọi sinh linh. Họ đã
nhận ra lòng ích kỷ và tham lam là hai kẻ thù, là hai nguồn gốc của mọi
hành vi phi đạo đức. Họ đã chiến đấu với hai kẻ thù này và họ đã
đẩy lùi được chúng. Kết quả việc rèn luyện của những vị này là họ
trở thành những mục tiêu của lòng ngưỡng mộ và khát khao . Chúng ta phải
theo gương của họ và phải cố gắng nhận ra được rằng lòng ích kỷ
và tham lam của bản thân chính là hai kẻ thù mà mình cần phải trừ diệt.
Vì vậy, trong khi đem những tư tưởng
này vào tâm hôn và suy ngẫm về chúng, chúng ta đọc ba tiết thơ sau đây
ba lần:
"Với lòng mong ước giải thoát
tất cả mọi sinh linh
Tôi sẽ luôn tìm kiếm nơi nương tựa
Từ Đức Phật, Dharma và Shanga
Cho đến lúc tôi được giác ngộ
hoàn toàn
Chứa chan lòng từ bi và thông suốt
Hôm nay, trước sự hiện thân của
Đức Phật
Tôi phát nguyện một tâm hồn mong
ước được hoàn toàn giác ngộ
Vì lợi ích của mọi sinh linh
Miễn la ø vũ trụ tồn tại
Miễn la ø loài người tồn tại
Tôi sẽ tồn tại đến khi đó
Và xua tan mọi điều đau khổ của
trần gian"
(With the wish to free all beings
I shall always go for refuge
To the Buddha, the Dharma and Shangha
Untill I reach full enlightenment
Enthused by wisdom and compassion
Today, in the Buddha’s presence
I generate the Mind Wishing Full Awakening
For the benefit of all sentient beings
As long as space remains
As long as sentient beings remain
Untill then, I will remain
And dispel the miseries of the world)
Đọan thơ này thiết lập nên
buổi nghi lễ để phát sinh một tâm hồn vị tha ao ước được giác ngộ.
Chúng ta nên cố gắng suy ngẫm về ý nghĩa của đoạn thơ trên hàng ngày
hoặc mỗi khi chúng ta có thời gian. Tôi đã làm như vậy và tôi nhận thấy
rằng việc đó rất quan trọng đối với sự luyện tập của tôi.
Xin cám ơn!
HẾT