Xứ Phật Tình
Quê
Thích Hạnh Nguyện
Thích Hạnh Tấn
Ca Tỳ
La Vệ [Kapilvastu]
Đã đến Lâm Tỳ Ni mà không vào Ca Tỳ La Vệ là
một thiếu sót không nhỏ. Với ý nghĩ đó tôi đã rời khỏi Lâm Tỳ Ni
trong niềm xót xa vì trời đã quá tối mà chúng tôi còn phải rời khỏi
Nepal để về lại Câu Thi Na Thành cho đúng hẹn với thầy Hạnh Nguyện.
Ngày xưa tôi không hiểu câu ‘tuy chân đã bước mà lòng còn quyến luyến’
cho lắm, vì với tuổi còn quá trẻ chúng tôi cũng chẳng có gì nhiều để
luyến lưu và nhất là đốivới một con người sống hời hợt với tất
cả như tôi. Thật sự bây giờ thì đã rõ, niềm bịn rịn làm khó chịu
vô cùng và tôi nguyện rằng đừng bao giờ phải có cái cảm giác ấy lần
thứ hai, vì nó thật không hợp với những nguyên lý sống của chúng tôi.
Dĩ nhiên lần thứ hai chúng tôi đến Lâm Tỳ Ni
và chuẩn bị đi Ca Tỳ La Vệ trong một niềm hân hoan nhẹ nhàng. Chúng
tôi viễn vọng một cố đố Huế qua kiến trúc của Ấn Độ, thật là một
hành động viễn vong, là con nhà Phật đúng ra chúng tôi không nên để cho
địch làm chủ tình hình mà phải thật chính chắn đếm từng hơi thở chờ
đến nơi. Nhưng than ôi, chúng tôi lại đi nhằm ngày lễ tạ điền của dân
bản xứ, trên đường phố chật đầy người, chưa bao giờ vùng này có
nhiều phụ nữ ngoài đường như thế! Những tà Sari muôn màu rực rỡ bay
phất phới như cánh bướm vờn hoa. Nam thanh nữ tú cùng ông cả bà già
và trẻ em người lớn, đều đổ cả ra đường hay đúng hơn ra đồng để
tạ ơn ruộng đã cho họ một mùa đầy lợi tức. Dĩ nhiên trong niềm hân
hoan đó họ đã hít vào buồng phổi những mạn bụi đỏ như sương đang
bay khắp nơi vì bị những gót giày vô tư khuấy động, và bởi mấy chiếc
bánh của chiếc xe buýt gắn máy lạnh của chúng tôi. Thật sự mà nói
thì Ấn Độ cũng còn tệ lắm, họ tưởng rằng những người đến từ
Âu Mỹ là người xứ tuyết, nên máy lạnh trong xe của họ chỉ có hai nấc,
mở và tắt. Những thanh niên nam nữ trong phải đoàn trên ngũ, lục tuần
đều phải khoác thêmáo lạnh khi bật máy. Nhưng trên đoạn đường này
thì không ai còn để tâm than lạnh nữa, vì nếu không mở máy thì phải mở
cửa sổ. Mà nếu mở cửa thì phái đoàn sẽ được nhìn thế giới qua
màu hồng.......của bụi. Dầu vậy cũng có những chàng bụi hiếu kỳ đã
lòn qua khe hở để làm quen với những cánh mũi xinh xinh (đầy nếp nhăn),
làm bà con phải sặc và ho dữ dội.
Từ Lâm Tỳ Ni đến Ca Tỳ La Vệ cũng không xa chỉ
19 km mà xe phải chạy gần một tiếng đồng hồ. Và đó cũng chính là
nguyên nhân mà chúng tôi đã bị thầy bổn sư khiển trách, khi dẫn phái
đoàn thứ hai đến thăm Ca Tỳ La Vệ hơn một năm sau đó. Lần này thì
chúng tôi quyết định đi Ca Tỳ La Vệ trước khi ghé lại Lâm Tỳ Ni vì bổn
sư chúng tôi có mối liên hệ mật thiết với GS Quốc, nên muốn dừng
chân lại Việt Nam Lâm Tỳ Ni Tự một thời gian kha khá. Khi tới ngã ba
đường rẽ trái đi Ca Tỳ La Vệ và phải đi Lâm Tỳ Ni. Tôi đinh ninh là
gần tới rồi, vì chỉ còn 19 Km thôi mà. Thế là tôi tạm gọi là nhắm mắt
dưỡng thần, bất thình lình xe giồng làm tôi thức giấc ngó ra phong cảnh
quen quen, tánh nào tật nấy tôi mau mắn buột mồm bảo gần tới rồi, bà
con hăm hở lắm. Tôi lại yên chí ‘dưỡng thần’. Qua hai ba lần gần tới
của tôi ông cụ bổn sư nhẹ lời ‘mắng yêu’, “mấy chú này thiệt
là dỡ quá đi thôi, đã đi rồi đi lại mà còn không nhớ đường“ làm
chúng tôi thẹn đỏ cả người. Nhưng cũng may không bao lâu nữa thì xe dừng
lại làm tôi nhẹ nhõm.
Từ chỗ xe đậu phải đi bộ thêm
vài phút băng qua một làng quê giống như những làng mạc miền tây, có những
rặng tre gai đong đưa trong gió rì rào, có những chú trâu nằm gác mõm
trên thành chuồng đưa đôi mắt với hàng mi dài, mà bao thiếu nữ mong
mình có được, ngơ ngác nhìn khách bộ hành và dĩ nhiên là có những bãi
phân trâu, phân bò trên đường đất đỏ. Phái đoàn bước vào khuôn
viên của cố đô Ca Tỳ La Vệ. Lần đầu tiên nhìn thấy Ca Tỳ La Vệ,
trong tôi chết đi một phần nào sự hy vọng ở thời gian, nó quá phủ
phàng không biết lịch sự với bất cứ ai, không biết vuốt ve mơn trớn
một người nào. Thời gian tàn nhẫn xóa đi lịch sử. Tôi còn nghe như
văng vẳng bên tai những câu hát của các em trong gia đình Phật tử hát về
kinh thành của thái tử Sĩ Đạt Ta, mà hình ảnh đó chỉ còn trong thơ và
nhạc. Ngày nay không còn gì nữa cả. Cảnh tiêu sơ làm chạnh lòng người.
Một vương quốc mà còn phải chịu sự chi phối của định luật thế
gian nữa là những con người bé nhỏ. Nếu ai còn chưa hẳn tin tưởng lời
dạy của Thế tôn về sự ‘thành trụ hoại không’ của cuộc đời thì
hãy đến Ca Tỳ La Vệ. Vài hòn gạch lơ thơ nằm rãi dài theo bờ kẽm gai
sét rỉ. Những tàng cây sum xuê với hoa màu lửa vào những tháng xuân
sang, cũng không làm vơi đi sự hoang tàn. Một vài tấm bảng với những
hàng chữ ghi lại những nơi quan trọng, chẳng hạn thái tử đã vượt thành
từ đây. Từ ngày đó chúng tôi nghĩ rằng mình có thể sẽ không trở lại
đây nữa. Trừ một kiếp nào còn xa diệu vợi, khi thời cơ đã đến, khi
chính bản thân mình sẽ thị hiện để chuẩn bị chuyển pháp luân. Tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, có khả năng thành Phật, nhưng lâu hay
chậm là tuỳ theo từng cá nhân thôi. Nơi đây cũng có nhiều dấu tích để
kỷ niệm những vị Phật thời quá khứ đã thị hiện, như Phật Ca Diếp,
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni. Thì chắc chắn rằng một ngày nào đó trong vài ba
a tăng kỳ kiếp nữa thì chúng tôi và quý vị cũng được lập bia kỷ niệm.
Nhưng dĩ nhiên chúng ta đều phải nổ lực thực hành lời dạy của Thế
Tôn.
Ca Tỳ La Vệ
Một Thời Vang Bóng.
Sắc, thanh, hương,
vị, xúc,
Thật vui sướng nhiệm mầu,
Phước Bồ Tát cùng cực,
Vui chơi trong hoan lạc.
Kinh thành Ca Tỳ La Vệ tuy không phải là một vương
quốc lớn nhưng cũng vô cùng trù phú. Tương truyền rằng khi xưa Ca Tỳ La
Vệ là một khu rừng hoang, khi đó một vị thánh giả Kapil Gautama (tạm dịch:
Ca Tỳ Cồ Đàm) đã khuyên thái tử Ikshwaku đến đó để lập nghiệp. Thái
tử được mọi người biết qua tên Shakya đã nghiễm nhiên trở thành
Shakya Gautama và đặt tên cho vương quốc của mình là Kapilvastu (Ca Tỳ La Vệ).
Thái tử Sĩ Đạt Ta đã xuất thân chính từ dòng dõi này.
Thái tử đã sống một thời gian trong kinh thành vô cùng hoan lạc.
Ngài đã là niềm vui của nhà vua và là niềm an ủi vô vàn; Khi hoàng hậu
Maha Maya từ trần sau bảy ngày thái tử đản sanh, nhà vua đã đặt tất cả
tình thương vào thái tử. Dì của ngài, Maha Ba Xà Ba Đề đã làm nhũ mẫu
nuôi ngài.
Thái tử càng lớn càng thông minh, không bao lâu tất
cả các vị thầy dạy ngài về toán học, triết học và binh thư giáo lý
v.v tất cả những gì một vị vua tương lai phải biết, đã phải thừa nhận
rằng mình không còn gì để truyền đạt nữa. Đôi khi cái nhìn của thái
tử còn sâu hơn sự hiểu biết của những vị thái học sinh. Không những
ngài có năng khiếu về văn học mà ngay cả các môn thể thao võ nghệ
ngài đều thông suốt. Mọi người trong hoàng tộc đều phải công nhận
thái tử quả là một người xứng đáng để thừa kế ngai vàng mai hậu.
Một mùa xuân đẹp trời, sau khi những tia nắng ấm đã xua đi cái lạnh
lẽo của một mùa đông khắc nghiệt, vua Tịnh Phạn đã cho mở một hội
thi thể thao. Các vương tôn công tử của dòng Thích Ca đã nô nức đi dự
cuộc tranh tài, nhất là khi có tin công chúa Da Du Đà La con vua Thiện Giác
cũng có mặt trong hàng khán giả. Công chúa nổi tiếng là người đẹp
đương thời và bao nhiêu vương tôn quốc thích đều ao ước được mắt
xanh nàng lưu ý.
Quả nhiên tiếng đồn không ngoa, trên hàng
khán đài công chúa đã nổi bậc trong màu áo màu xanh nõn nà như cái tuổi
của nàng. Ánh nắng ban mai làm hồng đôi má đào tơ, hai cặp mắt thơ ngây
đang từ từ đi vào tuổi mộng mơ say mê theo dõi cuộc tranh tài. Sở dĩ nàng
hiện diện trong buổi tranh tài ngày hôm nay cũng vì tò mò muốn một lần
nhìn tận mắt con người mà các thể nữ của nàng cho là rồng phụng
trong loài người. Những câu chuyện về người đó đã được bọn thể nữ
chuyền nhau kể và đã đến tai nàng. Trong các chuyện nàng thích nhất là
hình ảnh của một thái tử nhỏ mặt mày thanh tú đang ôm một chú thiên
nga trắng toát một bên cánh lại trúng tên và màu máu nổi bật trên màu
tuyết của những chiếc lông vũ. Con chim không may mắn kia đã bị hoàng tử
Đề Bà Đạt Đa bắn rớt và thái tử đã đón được khi nó rơi xuống.
Không chần chờ, thái tử đã rút mũi tên và băng bó con chim tội nghiệp
kia. Từ đó cô công chúa bé đã có cảm tình với chú thái tử nhỏ nhưng
đầy tình thương kia. Ngày qua ngày hình ảnh kia đã thay vào bằng bóng của
một chàng thái tử oai hùng với đôi mắt chứa đầy linh mẫn.
Tâm tư nàng bị cắt ngang vì tiếng reo hò vang dậy
khi từ xa một đoàn ngựa đang phi đến. Dẫn đầu là thái tử trong một
bộ đồ kyã bó sát thân màu hoàng kim. Thân hình chàng như được tạo
bằng ánh sáng, từ đôi mắt chàng tia ra những luồng chói lọi, công chúa
dường như ngột đi vì cái cảm xúc chợt đến khi bắt gặp ánh mắt của
chàng. Con ngựa bạch của chàng có màu lông sáng như bạc, nó khôn ngoan ngừng
lại khi thái tử đến đích. Thái tử vung cánh tay rắn chắc và phóng một
ngọn lao. Tiếng lao xé gió nghe như tiếng rú của một làn sét, mọi người
đua nhau vỗ tay tán thưởng, tiếng cổ võ của khán giả làm rung chuyển một
vùng nhưng lạ thay vẫn không át nổi tiếng rú của ngọn lao. Khi ngọn lao
rơi xuống, một tia nước từ nơi đó đã phụt ra.
Trong khi đó thì những vị vương tôn cũng đã
lần lượt đến và phóng lao, nhưng không ai nào có thể phóng xa như thái
tử. Mọi người đều ào lại để chúc mừng thái tử thắng giải. Trong
lúc mọi người vui cười thì quốc thích Đề Bà Đạt Đa lại lặng lẽ
bỏ đi trong niệm hận và giận vô biên. Chàng ta lấy làm tức giận và
trách Phạm thiên, đã tạo một Đề Bà Đạt Đa lại còn sanh thêm một Sĩ
Đạt Ta. Từ bé đến giờ Sĩ Đạt Ta luôn là một cái gai trong mắt của
chàng, bất cứ hành động gì mà chàng lỡ phạm đều bị khiển trách và
thái tử đều được đem ra làm tấm gương để chàng noi theo. Không có
gì đáng chán và đáng bực hơn thế, thay vào lòng xấu hổ ban đầu là
lòng tức giận và căm hận. Ngày càng lớn thì niềm hận càng sâu, vì thật
sự chàng đâu phải là người không có khả năng, nhưng khổ nỗi thái tử
lúc nào cũng hơn chàng, từ diện mạo cho tới tài năng. Trong buổi thi này
chàng đã cố gắng đạt giải, để cho mọi người biết rằng Đề Bà Đạt
Đa cũng có mặt hơn Sĩ Đạt Ta chứ. Nhưng không may, khi gần đến đích
thì vì quá nóng nảy nên chàng đã thả lỏng dây cương hơn, và con tuấn
mã của chàng bị vấp! Chàng không còn tâm trí nữa để mà nhìn cảnh mọi
người tung hô vạn tuế thái tử đáng hận kia. Trong tư tưởng đăm chiêu
chàng bị một thớt voi chận đường, chàng lách sang phải thì thớt voi lại
tràn sang phải, chàng lách trái thì con tượng lì lợm kia lại quay sang
trái, mặc dầu anh cai voi tha hồ hò hét điều khiển. Bực mình chàng nhìn
thớt voi được trang hoàng lộng lẫy kia, chàng hỏi anh cai là voi của ai.
Anh cai trong sự vô tư đã trả lời voi đi rước thái tử và lại còn nổ
ra một tràng lời ca tụng. Đang cơn hận Đề Bà Đạt Đa vung tay vỗ vào
đầu con vật khốn nạn kia, con vật của người mà chàng hận, con voi chỉ
kịp rống lên một tiếng ngắn và gục xuống ngay giữa đường bít cả lối
đi. Hả nư chàng bỏ đi và nghĩ rằng để xem thái tử sẽ làm sao với
con voi chết kia. Trong khi đó thì trên đường xe cộ bị ứ lại và mọi
người xôn xao bàn tán về tánh hung bạo của chàng và về sức mạnh đáng
sợ kia. Hoàng tử Nan Đà cũng bị chận đường nên rẽ đám đông tiến tới,
khi chàng nghe dân chúng thuật lại chuyện con voi bị đánh chết, chàng chỉ
cười và hất con voi sang vệ đường để tạo lại giao thông. Sau đó
thái tử đến và hỏi tại sao con voi lại chết, mọi người đã thuật lại:
‘chính hoàng tử Đề Bà Đạt Đa đã đánh nó chết và dùng thân nó bịt
cửa thành không cho mọi người ra vào, hoàng tử Nan Đà đã hất nó sang
bên để dọn đường’. Thái tử trong niềm xót thương đã nâng cao con
voi lên và quẳng nó ra khỏi tường của kinh thành. Khi von voi rơi xuống
nơi đó đã bị ấn sâu xuống thành một hố sâu và rộng. Mọi người từ
đó gọi nơi đó là hố voi rơi.
Sau cuộc thi thái tử trở về cung điện mùa
xuân của chàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa, những mùi hương hoa thơm ngát
đã làm ngất ngây hồn người. Chàng thích nhất là Xuân Hoa Điện này, nơi
đây mỗi khi chàng ngự lại tiếng chim hòa cùng tiếng nước chảy làm cho
tâm thần chàng sảng khoái. Những cây hoa đượm đầy cành đua nhau khoe sắc.
Chàng đôi khi không hiểu tại sao phụ vương chỉ cho mở cửa điện này
trong bốn tháng đầu năm. Dĩ nhiên chàng vẫn thích những cung điện mùa
hè mát mẻ với những nền gạch lúc nào cũng được giữ mát lạnh bởi
những dòng nước chảy bên dưới nền. Những thân cây bàng tươi mát, những
gốc Phong với các nhành lá reo vui trong gió, những cây bách ưởn ẹo như
những cô gái đang ẻo lã nô đùa. Lúc nào tai chàng cũng được nghe những
tiếng hát ngọt ngào của bọn thể nữ hoà cùng cung điệu của tiếng đàn
tiếng sáo. Cung điện mùa đông của chàng cũng không kém đẹp não nùng;
đứng bên sau song cửa nhìn xa xa lên ngọn Hy Mã Lạp Sơn trắng xoá, chàng
cảm nhận một sự tinh khiết tuyệt trần. Màu tuyết trắng làm thư thái
thần kinh của chàng. Trong cung điện mùa đông này mọi màu sắc đều nhắc
nhở chàng đến những ngày nắng ấm của những tháng trước. Chiếc thảm
nhung đỏ vương giả, những cây cột gỗ cẩn ngọc long lanh, những lò sưởi
bập bùng.
Hầu như chàng đều có cái cảm nhận tự nhiên, khi nào phụ vương sẽ
cho người đến vời chàng sang một điện khác và đóng cửa một cung điện
mà cái tên của nó đi liền theo với thời tiết của thiên nhiên. Hôm nay
chàng cảm thấy tù túng lạ, sau cuộc thi tài ngoài thoáng, cung điện đẹp
đẽ của chàng bỗng trở nên chật hẹp. Trái với thông lệ, chàng không
tâu qua cùng phụ vương mà cho Sa Nặc thắng xe tứ mã trở ra ngoài cung
thành. Sa Nặc đã lanh lẹ cho xe đến và hai chủ tớ ra đi. Mọi người không
ai ngạc nhiên khi thấy thái tử lại ra khỏi thành, khi vừa mới trở về.
Trong đầu dĩ nhiên ai cũng nghĩ thái tử đi thăm nàng Da Du Đà La kiều diễm
vừa mới làm quen sáng nay. Thái tử thì lại không nghĩ gì cả về nàng
công chúa kiều diễm kia, tâm trạng chàng hiện giờ chỉ muốn thoát khỏi
cái nguyên tắc khắt khao của đời sống vương cung. Nhất nhất phải tuân
hành theo thời gian, nên không gian đã dường như cũng bị đong lại làm
nghẹn cả buồng phổi chàng. Nhưng tâm tư chàng không phải bận lâu, vì
những cảnh sinh hoạt của thần dân làm chàng kinh ngạc vô cùng. Bao nhiêu
lần chàng xuất cung nào đâu có những cảnh như ngày hôm nay. Hôm nay đâu
là những tà áo hội xinh tươi đẹp đẽ, dân chúng thành Ca Tỳ La Vệ dường
như xuống sắc hẳn đi trong những bộ y phục mà chàng chưa từng nghe nói
đến chứ nói chi là thấy qua. Những người đàn ông trong những chiếc
doti bạc màu và những chiếc áo không còn nhận ra sắc thái nguyên thỉ, dĩ
nhiên thấp thoáng đâu đây những màu áo mà chàng quen thuộc. Ngạc nhiên,
chàng đã hỏi Sa Nặc: ‘Hôm nay là ngày đặc biệt ư, sao dân chúng Ca Tỳ
La Vệ lại trang phục dị kỳ?’. Sa Nặc cũng ngạc nhiên không kém: ۡ
thái tử, đây mới là trang phục bình thường của hàng hạ dân. Ngày
ngày vẫn là cảnh trạng như thế này không khác’. Thái tử không tin hỏi
vặn tiếp: ‘Nhưng những khi trước ta nào thấy cảnh tượng này?’. Sa Nặc
vỡ lẽ: ‘Những lần trước vì nhà vua đã ra lệnh cho chúng dân không
được làm việc khi thái tử xuất cung và phải y trang thật lộng lẫy để
đón chào thái tử’. Trong tâm thái tử bỗng trống trải lạ thường, thì
ra từ trước đến nay phụ hoàng đều sắp đặt tất cả, ngài muốn tạo
cho ta một cái hiểu biết sai lạc về đời sống của thần dân, là vì lẽ
gì? Làm sao ta có thể trị vì khi không hiểu rõ cảnh sinh hoạt của dân
mình? Hôm nay ta phải đi khảo sát cho thật tận tường. Thế là chàng cho
xe đi khắp các cửa thành, ngắm nhìn dân chúng sinh hoạt, nào kẻ cày người
cấy, nào kẻ gánh người khuân, những cảnh chân lấm tay bùn thay nhau hiện
ra dưới mắt chàng. Đặc biệt là những người có vẻ khác biệt đều gợi
cho chàng không ít tò mò. Chàng đã được giải thích, người nằm kia co
quắp chính là ông lão bệnh phong cùi mà Sa Nặc vẫn thường ghé cho mấy
mẩu bánh khi hắn về thăm gia đình. Nọ là bà lão làng hạ vì không có
con cháu nên vẫn phải ngày ngày lủi thủi lê cái thân ốm yếu run rẩy
vào chợ xin cho một buổi ăn. Cảnh thiêu người chết làm chàng hãi hùng
hơn cả, trong phút chốc cô thiếu nữ yểu mạng xinh đẹp kia chẳng còn lại
gì ngoài những nắm tro bay tản mát trong gió chiều. Tâm tư triểu nặng chàng
cho Sa Nặc quay xe về kẻo phụ hoàng chờ mong. Chiều hôm đó, trong bữa
ăn chàng luôn luôn nhớ đến những việc mình vừa phát hiện. Đã hai lần
chàng không nghe phụ hoàng nói gì phải hỏi lại. Nhà vua ngạc nhiên hỏi
chàng có điều gì băn khoăn, chàng chỉ cười: ‘thưa phụ hoàng chỉ vì
hài nhi buổi trưa này đã lén cha ra thành, thấy một số cảnh trạng lạ
mắt đến giờ vẫn còn nhớ mà thôi’. Nhà vua không nói gì, nhưng hôm
sau khi lâm triều ngài đã truyền các quan cận thần bàn phương cách, vì
nhà vua vẫn không sao quên lời tiên tri của bậc thánh giả A Tư Đà, nhất
là khi nhìn thấy đôi mắt đăm chiêu của thái tử một niềm lo sợ đã
len vào xương tuỷ nhà vua. Quan thượng thư liền tâu: ‘tâu bệ hạ, theo
hạ thần nghĩ là bệ hạ nên cưới cho chàng một vương phi, khi con vợ đùm
đề thì chàng sẽ say trong niềm hạnh phúc của gia đình mà quên đi tất
cả chăng!’, thừa tướng cũng thưa: ‘tâu bệ hạ, thần nghe nói nhan sắc
của công chúa Da Du Đà La nguyệt thẹn hoa nhường, sáng hôm qua thái tử cũng
đã làm quen với nàng. Theo ngu ý, nàng là nhân tuyển thích hợp nhất.’
Hai tháng sau kinh thành Ca Tỳ La Vệ treo đèn kết
hoa mừng ngày công chúa Da Du Đà La được phong vương phi. Mọi người đều
vui vẻ chúc mừng cặp trai tài gái sắc có một không hai. Chàng thái tử
oai hùng làm tăng vẻ yêu kiều của vợ mình và nàng công chuá nhan sắc
làm tăng nét dũng mãnh của nhà vua tương lai như mọi người mong đợi.
Thái tử mãi mê trong niềm vui mới, nàng Da Du Đà La rất mực chiều
chồng, một người vợ lý tưởng. Không bao lâu thì niềm hạnh phúc của
cặp vợ chồng trẻ được tăng thêm qua tin Da Du Đà La mang thai. Sau khi
hoàng tử La Hầu La được sanh ra thái tử cảm thấy đời mình đầy đủ
tất cả, vợ đẹp con thơ. Chàng không thấy chán khi nhìn La Hầu La, nó
là sự nối kết giữa chàng và nàng, là một sản phẩm của tình yêu hai
người. Bỗng nhiên trong niềm vui một hình ảnh đã len lén đi vào tâm khảm
của chàng. Hình ảnh của những cảnh già chết mà chàng đã mục kích khi
trước. Tim chàng thắt lại, khi nghĩ đến cái thân hình yêu kiều của Da
Du Đà La phải bị ngọn lửa thiêu rụi, hay La Hầu La bụ bẫm kia phải gầy
nhom dưới cơn bệnh hoành hành. Chàng suy nghĩ đến một con đường đưa
những người thân yêu của mình ra khỏi những quy luật của thiên nhiên.
Một buổi sáng khi chàng đang trầm tư theo dõi những
suy nghĩ về cách giữ lại những niềm vui vĩnh cửu thì chàng thấy thấp
thoáng một bóng vàng ngoài cổng hoàng cung. Từ ngày thái tử mục kích cảnh
sinh hoạt hằng ngày của dân chúng, nhà vua không còn ngăn cấm chàng nữa
và cửa thành cung cũng không còn im lìm đóng chặt. Cái dáng thong dong kia dừng
lại trước cổng hoàng cung, đứng lặng yên. Một con người rất lạ, chàng
chưa từng thấy qua bao giờ. Hiếu kỳ chàng gọi một người cận vệ
đang đứng gần: ‘này, người kia là ai xem rất lạ, sao ta chưa từng gặp
qua bao giờ?’. Tên cận vệ kính cẩn thưa: ‘bạch thái tử, đó là một
trong những người Sa Môn, họ là những người lià bỏ đời sống bình thường
và đang trên đường đi vào đại thể của Phạm thiên. Họ chỉ mới đến
Ca Tỳ La Vệ được hai ngày thôi, thần nghe họ sẽ rời nơi đây ngày mai
để tiếp tục lên đường.’ Thái tử vội đi đến gặp người sa môn
kia: ‘xin chào sa môn, tại sao ngài lại đứng lặng yên nơi đây’, sa
môn kia mắt vẫn nhìn xuống tay nâng bình bát nhẹ nhàng đáp: ‘xin thưa,
những người sa môn sống nhờ vào khất thực, tôi đứng đây cũng đang
chờ ngài bố thí cho’. Chàng hỏi tiếp: ‘tại sao ngài lại làm Sa Môn
mà không sống đời sống gia đình?’ Sa môn đáp: ‘vì tôi muốn thoát khỏi
luân hồi, sanh lão bệnh tử.’ ‘Làm sao có thể thoát được?’ thái tử
hỏi dồn. ‘Khi đã đi vào đại thể của bậc Phạm thiên thì tất cả
sanh già bệnh chết đều dứt’. Nghe được điều đó thái tử vui mừng
ra lệnh ban cho sa môn đồ ăn rồi quay vào hoàng cung.
Ngay sau đó chàng đã vào hội kiến nhà vua và tỏ
ý định xuất ly của mình. Nhà vua đã sững sờ nghe chàng nói, trong đầu
ông ta không ngớt làm việc trong khi những lời phân trần của thái tử chỉ
thoáng qua bên tai ông. Trong ông là cả một trời tan vở. Bao nhiêu tháng năm
hoài vọng, bao nhiêu công phu giữ gìn, bao nhiêu tâm huyết đã bỏ ra để
ngày hôm nay không trở thành sự thật, nhưng tất cả đều không tránh khỏi
định mệnh khắt khe! ‘Nhưng ta không thể nào bỏ cuộc, không thể chịu
thua trước định mệnh’ ông quyết định như thế. Với tất cả nghiêm
nghị ông ta ra lệnh: ‘ta không cho phép con bỏ tất cả trách nhiệm, giang
san này, gia đình này và con nhỏ của con!’ Thái tử liền thưa: ‘chính
vì trách nhiệm mà con phải ra đi, không những đối với quốc gia này mà
còn đối với tất cả mọi người, chính vì tất cả những người thân
mà con phải ra đi. Cha à, cha có thể cho con những gì? Cha với quyền uy của
một vị vua có thể giữ cho tất cả mọi người đều tươi trẻ vĩnh cửu
chăng, có thể ban bố cho thần dân sức khoẻ tương tục không, và quan trọng
hơn hết có thể giữ mạng của tất cả mọi người đời đời không? Những
gì quý nhất đã không giữ được thì còn giữ gì nữa chứ. Cha có thể
giữ xác thân con nhưng còn tâm hồn con thì sao, con sẽ héo mòn trong cung cấm’.
Nhà vua trong cơn thất vọng không muốn nghe thái tử nói thêm, ngài khoác
tay ra hiệu cho chàng lui ra và ra lệnh cho lính canh đóng các cửa thành,
không cho bất kỳ một ai xuất thành mà không có lệnh nhà vua. Thái tử
sau khi thấy vua cha không vui, ngài đã cúi đầu chào biệt trong niềm thương
tiếc, ngài cũng tự nhủ đây là cái chào để ra đi, chàng tự nhủ sẽ
trở về khi đạt được giác ngộ giải thoát.
Tin thái tử muốn xuất gia loan đi trong hoàng thành như một đám
cháy, như một bệnh dịch nguy hiểm. Mọi người đều phập phòng, hồi hộp
và lo sợ. Nàng Da Du Đà La đã sướt mướt trách chàng không thương tưởng
vợ con. Hoàng Hậu Maha Ba Xà Ba Đề đã khuyên chàng nghĩ đến công ơn vua
cha và để vận mệnh quốc gia trên hàng đầu. Nhưng một khi thái tử đã
quyết chí thì không có gì ngăn cản chàng được nữa. Chàng không nói gì
cả sau những lời trách móc, khuyên lơn. Chàng ra lệnh bày yến tiệc. Mọi
người nghĩ rằng chàng muốn nhận chìm sự thất vọng không toại ý trong
chum rượu, nên đã tích cực tham gia vào cuộc vui đêm. Hoàng cung như tưng
bừng ngày tết đến, đàn ca rượu thịt ê hề. Quá nửa đêm mọi người
đều say mèm, duy chỉ có tên giữ ngựa Sa Nặc là tỉnh táo vì đã được
thái tử dặn trước, con ngựa Kiền Trắc cũng đã yên cương sẵn sàng.
Trời chưa sáng tỏ chàng đã cùng Sa Nặc lên ngựa vượt thành đông.
Tiếng vó ngựa nện đều trên
đường đất giữa cảnh tịch mịch của đêm khuya, làm chàng nhớ lại
hình ảnh đứa con thơ nằm ngủ vùi trong tay vợ. Hình ảnh này chàng ghi
sâu vào tâm khảm và nguyện sẽ đem lại niềm vui vĩnh cửu cho con, đứa
con yêu dấu của chàng. Cuối cùng chàng cũng đã ngoái đầu lại để nhìn
hình ảnh cung thành Ca Tỳ La Vệ lần sau cuối, trước khi cho ngựa đi vào
một khúc quanh của đoạn đường còn lại mà cũng là của cuộc đời chàng.
Ca Tỳ La Vệ
theo Dòng Lịch Sử.
Ca Tỳ La Vệ là một di tích lịch sử quan trọng
của Phật Giáo. Thái tử Sĩ Đạt Ta đã sống nơi đây một thời gian dài
(theo nguyên thỉ 29 và theo Đại Thừa 19 năm). Không những chỉ thái tử
mà còn những vị Phật trước cũng có vị đã thị hiện đản sanh và niết
bàn ở vùng này. Thành Ca Tỳ La Vệ phải nói là đã đi vào sụp đổ ngay
sau khi thái tử Tỳ Lưu Ly đánh phá và giết chết hầu hết dòng họ
Thích Ca. Đây là một bi kịch cho chúng ta thấy rõ những cực đoan của xã
hội Ấn Độ ngày xưa cũng như ngày nay.
Tương truyền vào thời đức Phật vua dòng
Ikshvaku tên Prasanjit (Ba Tư Nặc) vì muốn bang giao với dòng họ Thích nên
đã cho người đến để cầu hôn. Ngược lại, dòng họ Thích lại cho rằng
vua Ba Tư Nặc không phải thuộc dòng Sát Đế Lợi nên không muốn gã công
chúa, nhưng vì khiếp phục nước Kosala là một cường quốc nên đã cho
Vasbhaktiya, một thị nữ, cải trang làm công chúa về với vua Ba Tư Nặc.
Vua Ba Tư Nặc đã phong nàng làm hoàng hậu và không lâu sau đông cung thái
tử Tỳ Lưu Ly được sanh ra. Khi Thái tử Tỳ Lưu Ly trưởng thành và muốn
về thăm quê ngoại, bà Vasbhaktiya hết sức cản ngăn, nhưng chàng nhất định
đi. Thái tử Tỳ Lưu Ly cũng được tiếp đón theo thể chế của một quốc
khách và được cho ngụ tại sứ quán. Khi thái tử ra về thì sứ quán
được rửa bằng sữa tươi. Một người hầu của thái tử vì bỏ quên
đồ và trở lại sứ quán đã chứng kiến cảnh này về thuật lại cho
thái tử. Chàng ta vô cùng tức giận và nguyền rằng không phải chỉ rửa
sứ quán mà sẽ rửa cả Ca Tỳ La Vệ bằng máu.
Sau đó chàng đã âm mưu tướt ngôi vua nhân dịp
nhà vua đi thăm đức Phật để nghe giảng pháp. Khi vua hay tin này đã phải
chạy đi Ma Kiệt Đà để lánh nạn nhưng không may giữa đường thì băng
hà. Thái tử Tỳ Lưu Ly đã ba lần mang quân đi đánh Ca Tỳ La Vệ nhưng
hai lần đầu đều bị đức Phật ngăn cản. Truyền thuyết ghi lại rằng
khi thái tử đem binh đi lần đầu đã gặp đức Phật ngồi giữa đường
dưới một tàng cây khô. Thái tử ngạc nhiên hỏi tại sao thế tôn lại
ngồi dưới một tàng cây không có bóng. Đức Phật nói rằng: © bệ hạ,
cái bóng mát của giai cấp vô cùng thoải mái.’ Nghe xong câu nói đầy ý
nghĩa này chàng đã lui binh. Trong lần thứ ba thì chàng đã thành công.
Thành Ca Tỳ La Vệ đã rửa bằng máu của dòng họ Thích, chỉ một số
ít là thoát chạy đi đến vùng Kathmandu. Ngài Huyền Trang ghi rằng số tử
vong lên đến 9990, cho đến đứa trẻ sơ sinh cũng không thoát khỏi lưỡi
gươm quái ác kia.
Từ đó Ca Tỳ La Vệ đã trở thành một nơi hoang dã, dầu vậy vẫn
có một số người vì cảmnhớ ân giáo dưỡng của đức Phật mà đã đến
đó xây những đền kỷ niệm. Tuy nhiên không một di tích lịch sử liên
quan đến cuộc đời của đức Phật nào hoang tàn như nơi đây. Có lẽ phải
vài mươi năm nữa, Ca Tỳ La Vệ mới trở thành một trung tâm chiêm bái. Dầu
vậy, những học giả chiêmbái thời xưa đã không ngại gian lao tìm đến
nơi này và giữ lại những kỷ niệm qua nét bút nên chúng ta mới có cơ hội
tìm về vết xưa và xin hãy đứng yên nơi đây cho dòng tư tưởng dõi theo
những ký sự xa xưa.
Khi ngài Pháp Hiển đến Ca Tỳ La Vệ thì nơi đây có: “Những ngọn
núi đầy tuyết trắng của dãy Hi Mã Lạp Sơn nhìn xuống Ca Tỳ La Vệ, một
thành phố nằm dọc theo bờ dòng sông. Những bức tường đổ nát bằng gạch
được bao bọc bởi một hào thành. Những bức tường của cung thành thì
lớn hơn và biểu hiện một trung tâm văn hoá cao. Ngài đã đến Ca Tỳ La
Vệ, một nơi không có vua và không có cả thần dân. Ranh giới của thành
phố được nhận biết qua những bờ thành mục nát. Một vài tăng sĩ và
một số tín đồ đang ở đây. Đây là nơi mà thái tử Tất Đạt Đa đã
mục kích một người già, và đây là cửa thành đông, nơi thái tử đã
ra đi bỏ lại sau lưng những dục lạc dương trần. Đây là nơi mà ngài A
Tư Đà thiền định. Nơi mà Đề Bà Đạt Đa đã giết chết con voi. Đây
là nơi mà mũi tên của thái tử đã ghim xuống sau đoạn đường bay trên
30 lý (4,8 dặm) và nơi đây đã phun lên một vòi nước, cũng là nơi mà
500 người họ Thích quy y theo Phật giáo. Những nơi như đất rung động sáu
lần, nơi đức Phật đã gặp vua cha sau khi giác ngộ, nơi đức Phật giảng
pháp cho chư thiên, nơi trời Đế Thích Indra đã đứng hầu Phật và nơi mà
Tỳ Lưu Ly sát hại dòng họ Thích, tất cả những nơi này đều được các
tín đồ Phật Giáo xây đền kỷ niệm.Ϡ
Tây Du Ký của ngài Huyền Trang ghi chép tận
tường hơn: “Nước này có một chu vi khoảng hơn 4000 lý. Trong đó có
trên 10 thành phố đều hoang phế và điêu tàn tột độ. Thủ đô cũng bị
đất lấp và đổ nát. Cấm cung nằm trong thủ đô và có chu vi khoảng 14,
15 lý. Hoàng cung được xây dựng bằng gạch đỏ. Những nền tường vẫn
còn cứng cáp và cao. Nơi nầy có lẽ đã bị bỏ phế từ lâu. Những
làng mạc có dân cư rất là ít và tiêu điều.
Nơi đây không có ai trị vì cả; mỗi một
phố có một người trưởng phố riêng. Đất đai rất là mầu mỡ và được
khai thác theo từng mùa. Người dân ở đây rất là hiền và ngoan ngoãn.
Có lẽ có trên 1000 tăng xá bị bỏ hoang. Gần nơi cung thành vẫn còn một
tăng xá có khoảng 3000 phật tử đang tu học theo truyền thống tiểu thừa.
Ở đây cũng có một số đền thờ Đế Thích và được cúng tế (đồ
thịt sống). Bên trong hoàng thành còn những tường nhà đổ nát. Có lẽ
đây là cấm cung của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) vì một ngôi đền với hình
ảnh nhà vua đã được dựng lên nơi đây. Không xa mấy là tàn tích của
nơi mà hoàng hậu Ma Ya cư ngụ. Trên nền đã cũ người ta đã xây một
ngôi đền có hình hoàng hậu.
Bên hông ngôi đền này là nơi bồ tát đã thị
hiện vào trong thai của hoàng hậu. Cảnh này cũng được vẽ lại bên
hông tường của ngôi đền. Theo truyền thống Mahasthavira thì bồ tát đã
hạ thai vào đêm 30 của tháng Uttarashadha - tương đương với ngày 15
tháng 5 theo lịch của ta [Trung Quốc]. Những trường phái khác thì ghi rằng
sự kiện đã xảy ra vào ngày 23 cùng tháng - tương đương với mùng tám lịch
ta.
Phía đông bắc của hoàng cung là một ngôi tháp, kỷ niệm nơi nhà
tiên tri A Tư Đà đã chiêm đoán cho thái tử. Vào ngày thái tử hạ sanh
có những điềm lành đã xảy ra. Vua Tịnh Phạn đã cho gọi tất cả các
chiêm tinh gia lỗi lạc và phán rằng: ‘Hãy tôn trọng đứa bé này, những
điềm gì tốt và những điềm gì xấu? Các ngươi hãy trả lời ta thật
rõ ràng“. Họ đều đáp: ‘Theo dự đoán của chúng thần thì có rất
nhiều điều vô cùng đặc biệt. Nếu thái tử sống ở đời thế tục
người sẽ trở thành một bậc chuyển luân thánh vương; nếu người xuất
gia sẽ trở thành một vị Phật’.
Khi đó A Tư Đà cũng từ xa đến, đứng trước cổng thành xin vào gặp
mặt nhà vua. Nhà vua vô cùng mừng rỡ đã thân hành ra rước và lễ ngài
sau đó đã thỉnh ngài ngồi vào một ghế đặc biệt rồi nói: ‘Trẫm
nghĩ rằng một đại thần tăng như ngài không phải đến đây không có
nguyên do’. Tiên ông đáp: ‘Tơi đang nghỉ (hay đang ngủ qua mùa hè) trong
cung thành của Đế Thích, bỗng nhiên thấy vô số chư thiên đang nhảy múa
vui mừng. Tôi đã hỏi tại sao họ lại vui mừng như chưa từng có thế
này, khi đó họ đáp: hỡi tiên ông ngài hãy biết ngày hôm nay nơi cõi Nam
Diêm Phù Đề hoàng hậu Maya đã sanh cho vua Tịnh Phạn dòng họ Thích một
thái tử, người sẽ đạt được giác ngộ giải thoát hoàn toàn, sẽ trở
thành một vị toàn giác. Khi nghe đều đó tôi liền đến để chiêm ngưỡng
thái tử; Ô hô, tuổi tôi đã quá già để chờ đợi xem quả vị thiêng
liêng.“
Nơi cổng nam của hoàng thành cũng có một
tháp, nơi đánh dấu thái tử sau cuộc thi với các hoàng tử dòng họ
thích đã ném con voi đi xa. Thái tử đã thi đấu với các hoàng gia nơi công
cộng và đã bỏ xa tất cả trong mọi lãnh vực. Đại đế Tịnh Phạn đã
chúc mừng ngài liền trở về cung thành.
Khi đó một tên nài đang cho con voi chuẩn bị rời khỏi cung thành. Đề
Bà Đạt Đa lúc nào cũng tự kiêu về sức khoẻ của chàng, đang bước vào
cổng thành và hỏi tên nài voi: ‘Ai sẽ cỡi con voi được trang hoàng lộng
lẫy như thế này’. Tên nài đáp: ‘Thái tử sắp trở về, và thần
đang trên đường đi đón ngài’. Đề Bà Đạt Đa trong lòng ghen tức đã
kéo con voi xuống đập vào đầu nó và đá vào bụng nó, sau đó thì bỏ
con voi giữa đường không cho ai đi qua được. Bởi vì không ai có thể di
chuyển con voi nên số người bị kẹt lúc càng đông. Khi đó Nan Đà cũng
đến và hỏi: ‘Ai đã giết con voi?’ họ đáp: ‘chính Đề Bà Đạt Đa’.
Nan Đà đã hất con voi qua một bên đường. Sau đó thì thái tử cũng đến
và hỏi: ‘Ai đã nhẫn tâm mà giết con voi như thế này?’. Mọi người
đáp: ‘Đề Bà Đạt Đa đã giết và dùng nó để lấp đường, sau đó
thì Nan Đà đã hất nó sang bên để dọn đường’. Thái tử khi đó liền
nhấc bổng con voi lên và quăng nó ra khỏi bờ thành. Nơi con voi rơi xuống
trủng thành một hố sâu và rộng. Từ đó người ta quen gọi nơi đó là
hố voi rơi.
Bên hông nơi này là một ngôi đền có tượng của thái tử. Kế bên
ngôi đền này lại là một ngôi đền, nơi hoàng phi và thái tôn ngủ.
Trong đó có hình của hoàng phi Da Du Đà La và thái tôn La Hầu La. Bên hông
ngôi đền này lại là ngôi đền có hình chú bé đang học. Nó đánh dấu
nền đá cũ của thái miếu, nơi các vị hoàng tử học tập.
Phía đông nam của kinh thành là một ngôi đền thờ tượng thái tử
đang cỡi trên một con tuấn mã trắng. Đây là nơi thái tử đã rời cung
thành. Bên ngoài mỗi cổng thành đều có một ngôi đền, mỗi ngôi đền
đều có tượng của một lão già, một người bệnh, một người chết và
một sa môn. Đó chính là những nơi mà thái tử trên đường du ngoạn đã
mục kích các cảnh lão bệnh tử và sa môn. Khi đó thái tử mất cả những
nhả hứng của chuyến đi và quyết định quay về trong niềm suy tư đầy
đạo vị.
Phía đông bắc cách cung thành khoảng 40 lý
có một ngôi tháp đánh dấu sự kiện thái tử trong một ngày lễ hạ điền,
đã ngồi dưới gốc cây và đạt được sơ thiền. Nhà vua đã chứng kiến
cảnh thái tử ngồi trầm lặng dưới gốc cây trong khi ánh dương quang chiếu
rọi chung quanh ngài, trong khi bóng cây hoàn toàn không xê dịch. Nhà vua vô
cùng lo lắng khi nhận ra thái tử có một đời sống nội tâm cao.
Phía đông nam của cung thành có trăm ngàn ngọn tháp, đáh dấu nơi dòng
họ Thích bị sát hại. Vua Tỳ Lưu Ly đã đánh chiếm và bắt tất cả
dòng họ Thích 9990 người sau đó ra lệnh xử chém tất cả. Thây họ chất
thành đống như rơm và máu họ chảy thành hồ. Các vị Đế Thích đã
kích động lòng người để họ thu thập xương tàn mà đem chôn.
Phía tây nam của nơi dòng họ Thích bị tàn sát
có bốn ngôi tháp nhỏ. Đây là nơi bốn người dòng họ Thích đã chống
lại một quân đội. Ban đầu khi vua Ba Tư Nặc (cha của Tỳ Lưu Ly) gởi một
sứ thần sang để tìm bang giao với dòng họ Thích qua một cuộc hôn nhân.
Dòng họ Thích cho rằng nhà vua không phải thuộc người trong tộc nên đã
gã cho nhà vua một đứa con của người thị nữ và kèm theo của hồi môn
rộng rãi. Vua Ba Tư Nặc đã phong bà làm hoàng hậu và phong con bà Tỳ Lưu
Ly làm thái tử. Khi lớn lên thái tử Tỳ Lưu Ly muốn về thăm cậu để học
hỏi với các hoàng tử họ Thích. Khi đến phía nam của hoàng thành chàng
thấy một giảng đường mới nên cho xe dừng lại. Những người dòng họ
Thích biết thế nên đã đuổi chàng: ‘Vô lễ kẻ hạ tiện kia! dám
choáng chỗ của người dòng họ Thích, nơi để đón rước đức Phật’
Sau khi lên ngôi Tỳ Lưu Ly quyết định trả thù. Ngài đã triệu tập
quân lính và chiếm đóng nơi này. Bốn người dòng họ Thích đang tát nước
dưới ruộng đã đứng ra chống lại quân đội và đánh đuổi không cho họ
xâm nhập hoàng thành. Những người trong tộc nghĩ rằng họ là dòng dõi của
những vị vua và không thể chấp nhận một hậu duệ của dòng vua có thể
hành động thô lỗ dã man như giết hại một cách không nhân nhượng nên
đã đuổi bốn người kia đi và cho rằng họ đã làm nhơ danh của dòng tộc.
Bốn người kia đã đi về phía bắc, nơi có những ngọn núi tuyết
và trở thành bốn vị vua của Bamya, Udyana, Himatala và Sambi [Kosambi?]. Dòng
dõi của họ đã được truyền nối không gián đoạn.
Phiá nam của thủ đô khoảng 3 hay 4 lý là một vườn
cây Ni Câu Đà (Nyagrodha) [?] nơi thế tôn sau khi thành đạo đã hội ngộ với
vua cha và giảng dạy giáo pháp. Vua Tịnh Phạn hay tin thái tử đã chiến
thắng ma quân và du hành khắp mọi nơi để truyền trao giáo pháp của
mình, bỗng nhiên cảm thấy nhớ ngài và muốn gặp lại thái tử cũng như
tỏ bày lòng tôn kính. Nhà vua đã gởi một sứ thần đến gặp Như Lai với
lời nhắn: ‘Trước kia người đã hứa, khi đắc đạo giải thoát sẽ trở
về quê nhà. Những lời hứa kia đến nay vẫn chưa được thực hiện; bây
giờ chính là lúc người hạ giá đến thăm ta.’ Sứ thần đã đến gặp
Phật và chuyển lại lời của vua. Như Lai đáp: ‘trong vòng bảy ngày ta sẽ
về lại quê’. Sứ giả quay về và thông báo cho nhà vua. Vua Tịnh Phạn
đã ra lệnh rãi nước, quét dọn, rãi dầu thơm và trang hoàng đường xá
bằng những loại bông hoa. Đến ngày nhà vua đã cùng đoàn tuỳ tùng ra khỏi
hoàng cung 40 lý xuống xe và đợi tăng đoàn. Khi Như Lai đến thì có tám
Kim Cang Thủ bồ tát đi kèm, bốn bị thiên vương đi trước, những vị đế
thích và trời cõi dục giới đi phiá bên trái, những vua trời phạm thiên
và đế thích cõi sắc giới đi phiá bên phải. Những vị tỳ kheo đi phiá
sau thế tôn. Trong đoàn tuỳ tùng, đức Phật xuất hiện như mặt trăng sáng
giữa muôn sao. Trí tuệ của ngài làm rung chuyển tam giới, hào quang của
ngài làm mờ cả ánh sáng của bảy hành tinh [trời, trăng và năm hành
tinh]. Ngài đã trở về sinh quán của mình trong ánh hào quang như thế. Sau
khi nhà vua và các quan ra mắt ngài họ đều trở về hoàng cung, họ đã
nghỉ lại tại vườn cây Ni Câu Đà (Nyagrodha).
Không xa bên hông của tăng xá là một ngôi tháp kỷ niệm nơi đức
Phật khi ngồi dưới gốc cây lớn hướng mặt về phương đông đã nhận
một tấm y bằng chỉ kim tuyến của dì và cũng là nhũ mẫu của ngài
dâng cúng. Không xa nơi đó là một tháp khác đánh dấu nơi đức Phật cảm
hóa tám vị vương tử cùng năm trăm người họ Thích.
Bên trong cổng thành đông phía bên trái của đường cũng có một
ngôi tháp, nơi thái tử Sĩ Đạt Ta đã chơi các cuộc thể thao.
Bên ngoài thành là một ngôi đền thờ Đế Thích
Isvara. Trong đền có một bức tượng đế thích trong tư thế đang khởi
người dậy từ trạng thái quỳ. Đây là ngôi đền mà khi thái tử còn sơ
sanh đã vào. Vua Tịnh Phạn sau khi đi đến vườn Lâm Tỳ Ni để gặp
thái tử trở về, khi đi ngang qua ngôi đền nhà vua đã nói: ‘Ngôi đền
này nổi tiếng là linh thiêng. Những đứa trẻ dòng họ Thích đều cầu sự
gia hộ của thần đền và cúng dường những gì thần yêu cầu. Chúng ta
phải đem thái tử đến đây để cúng bái.’ Khi đó người vú bồng
thái tử vào đền, bỗng nhiên bức tượng đứng dậy và chào thái tử.
Khi thái tử đi khỏi thì bức tượng trở về nguyên vị.
Bên ngoài cửa thành nam phía bên trái đường là một ngôi tháp đánh
dấu nơi thái tử đã cùng các hoàng tử tranh tài và mũi tên của ngài đã
chẻ đôi cái đích bằng sắt.
Từ nơi tháp này đi về phía đông nam 30 lý có một ngôi tháp khác. Nơi
đây có một vòi nước, nước nơi đó trong như mặt gương. Đây chính là
nơi mũi tên của thái tử sau khi chẻ đôi cái đích đã ghim sâu xuống, từ
đó một vòi nước đã chảy ra. Thông thường người dân ở đây gọi đó
là tiễn tỉnh (Sarakupa). Những người bệnh phần đông nhờ uống nước này
mà được khỏi. Một số người đã đến từ phương xa để lấy một chút
bùn nơi đây mà đắp lên chỗ đau của họ cũng đều lành lặn.
Dĩ nhiên từ ngày ngài Huyền Trang chiêm bái Ca Tỳ
La Vệ đến nay đã trải qua bao nhiêu thế kỹ, bao nhiêu thăng trầm của
cuộc đời đã xảy ra. Hai thế chiến lớn đã nối tiếp nhau khai mở và
kết thúc, biết bao tang tóc và đau thương đã chất chồng trên chuỗi
ngày khắt khoải. Ca Tỳ La Vệ cũng không nằm ngoài định luật đào thảy
vô tình của thiên nhiên. Ngày nay nếu chúng ta đến đó thì chỉ có những
bụi cỏ hoang dại và những hàng cây không thành hàng, bởi không người
chăm sóc, chào đón chúng ta. Những ngôi tháp mà ngài Huyền Trang đã miêu
tả chỉ còn là hình ảnh của ngàn xưa, giống như ta đọc truyện của
Kim Dung rồi đi sang Trung Quốc để tìm vẻ đẹp của Tô Hằng nhị châu
mà ông ta đã diễn tả là tiên cảnh ở nhân gian. Ngay cả khi phái đoàn của
ngài Minh Châu sang chiêm bái hơn 20 năm về trước, nơi đây cũng chẳng còn
gì, ngoài những “đồi rất cao có thể là đền đài ngày xưa. Hiện tại
toàn vùng bị cây cối mọc bao trùm. Chúng tôi chỉ thấy xa xa một khu rừng
rậm rạp. Đến gần nhìn thấy nhiều gạch đá vụn, có lẽ đây là một
khu nhà rộng lớn của thành.
Những Di
Tích.
Ca Tỳ La Vệ:
Dĩ nhiên di tích đầu tiên chính là Ca Tỳ La Vệ. Ngày nay chúng ta đến đây
có thể nhìn lại một góc tường của thành tây và một hàng gạch với tấm
bảng ghi rằng: đây là cửa thành đông nơi thái tử đã thoát ra khỏi
kinh thành để tìm đường xuất gia. Ngoài ra những nhà sử khảo cổ học
vẫn còn chưa nhất trí với nhau về địa thế của Ca Tỳ La Vệ. Hiện
nay có hai nơi được nghi ngờ là Ca Tỳ La Vệ, thứ nhất nằm tại Nepal
cách Lâm Tỳ Ni 27 km về phía tây và Taulihawa 4,8 Km về phía tây bắc (đây
là Ca Tỳ La Vệ mà tôi đã viếng thăm và ngay cả ngài Minh Châu và phái
đoàn cũng đã đến). Ngoài ra còn một địa thế tên là Piprahwa thuộc
vùng Basti của tiểu bang Uttar Pradesh, cách nhà ga Naugarh trên chuyến đường
Gorakpur Gonda 25 km và cũng cách Ca Tỳ La Vệ tại Nepal 25 Km nhưng không có
gì để có thể khẳng định nơi nào là đúng cả.
Niglihawa.
(Nơi kỷ niệm Câu Na Hàm Mâu Ni Phật): cách Ca Tỳ La Vệ khoảng 6 hay 7 km
về hướng bắc. Nơi làng này có một hồ nước vây phủ bởi những bụi
cây. Bên hồ nước người ta đã tìm thấy hai phần trụ đá của A Dục vương
vào năm 1895. Phần trên của trụ dài hơn khoảng 4m5 và phẳng, đã được
tìm thấy nằm trong lòng đất. Trên nó có hình hai con công và hàng chữ của
ngài Ripu Malla. Những dòng chữ trên phần trên của trụ gồm hai phần một
là câu ‘Om Mani Padme Hum’ (Án Ma Ni Bát Di Hồng) của Đại Thừa giáo và
hai là ‘Shri Ripu Malla, người đã chiến thắng từ lâu, 1234 (thời đại
Saka = 1312 tl). Phần dưới của trụ 1m52 ghim sâu dưới đất và nghiên về
phiá tây. Phần này lú khỏi mặt đất khoảng 0m76 và mang hàng chữ:
1. “Đức vua Priyadarsin vào năm trị vì thứ 14 đã tu bồi lần thứ hai
tháp thờ Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và vào năm trị vì thứ 20 đã thân hành
đến đây để dựng trụ đá kỷ niệm và lễ bái. (do V.Smith dịch)
2. “Vua Priyadarsin vào năm trị vì thứ 14 đã tu sửa tháp thờ Phật Câu
Na Hàm Mâu Ni lớn gấp đôi nguyên khổ và đã đến để lễ bái vào năm
trị vì thứ 20. (do E.J. Thomas dịch)
Làng Niglihawa được công nhận trong quá khứ
là xóm dưới của tỉnh Shobawati, nơi Phật Câu Na Hàm Mâu Ni hạ sanh.
Tương truyền thân Phật cao 9m1 và tuổi thọ ngài đến 30 ngàn năm. Câu Na
Hàm Mâu Ni là vị Phật thứ 23 trong cõi Nam Diêm Phù Đề.
Mặc dầu vậy vẫn có những sự chênh lệch trong vấn đề phân định
chỗ kỷ niệm của ngài. Trong khi nơi này nằm khoảng 8 dặm về phía tây
của Ca Tỳ La Vệ thì ngài Pháp Hiển ghi nhận rằng nơi Phật Câu Na Hàm
Mâu Ni hạ sanh nằm cách Ca Tỳ La Vệ về phía nam không quá 8 dặm và ngài
Huyền Trang lại cho là nơi đó phải nằm về phía đông bắc của nơi Phật
Câu Lưu Tôn hạ sanh khoảng 30 lýẠ.
Trong ký sự của ngài Pháp Hiển không nhắc gì đến một trụ đá,
trong khi ngài Huyền Trang ghi nhận có trụ đá đầu sư tử. Ngoài ra người
ta còn phát hiện nơi đây nền đá của ngôi tháp xưa. Chính trụ đá vua A
Dục nơi đây đã xác nhận vị trí đản sanh của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni
và gián tiếp giúp việc xác định vị thế của Ca Tỳ La Vệ.
Gotihawa.
(nơi đản sanh Phật Câu Lưu Tôn): Đi từ Ca Tỳ La Vệ về phía tây nam khoảng
4 km là làng Gotihawa, Phật Câu Lưu Tôn đã thị hiện nơi đây. Vị Phật
thứ tư trong hàng bảy vị Phật quá khứ. Ngay trung tâm làng là trụ đá
vua A Dục. Không may phần trên của trụ đã bị gãy đổ và không tìm ra
được. Phần còn lại cao khoảng 3m04, đường chu vi khoảng 2m6. Cây trụ
được dựng nên để kính mừng sự ra đời của đức Phật nhưng ngày
nay nó đã đánh mất vẻ hào nhoáng của thời xa xưa. Cũng chính nơi này
người ta tin rằng đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ đã trở lại và gặp
vua cha. Cây trụ này được nhà khảo cổ Carllyle phát hiện vào năm 1904.
Gần trụ đá về phía nam có một cái bể (bồn) dưới đáy bể lại
có một căn hầm kỳ lạ được đậy bằng một thớt gỗ. Tương truyền
rằng vị thủ tướng tiền nhiệm của Nepal đã tìm đến để khám phá sự
bí mật nhưng rốt cuộc đành phải lấp lại như cũ.
Bên phiá tây của bể cũng còn một số tàn tích của một ngôi đền.
Nhưng đến nay những nhà khảo cổ cũng chưa tìm ra dấu tích của ngôi
tháp mà vua A Dục đã dựng nên như trong du ký ngài Huyền Trang có ghi
chép. Năm 1898 Waddell và Mukerjee có đào bới được một số nền đá và
nghi rằng đấy chính là di tích của ngôi tháp, nhưng không thể nào xác định
chính xác, vì chung quanh Ca Tỳ La Vệ có vô số tháp như ngài Huyền Trang
đã miêu tả.
Kudan.
(Nơi Đức Phật gặp vua Tịnh Phạn - Vườn cây Nigrodharna): Cách Tulihawa
khoảng 1km về hướng tây nam là làng Kudan. Nơi đây ông P.C.Mukherjee đã
khai quật được nền móng của những bức tường và một số bể nước.
Ông ta cho rằng đây chính là di tích của vườn Nigrodharna nơi vua Tịnh Phạn
gặp đức Phật. Nhưng di tích này cũng có thể là phần còn lại của
ngôi tháp kỷ niệmnơi bà dì ngài đã dâng chiếc y kim tuyến. Nhưng không
có một yếu tố tiêu biểu nào để xác định rõ ý nghĩa của từng nơi
cả. Debal Mitra đã tiếp nối việc đào bới nơi này và đã phát hiện ra
một ngôi đền bằng gạch nung vào thế kỷ thứ 8. Những viên gạch này
đều mang nhiều hoa văn đẹp tuyệt vời. Ngoài ra Kudan vẫn được nghi là
nơi đản sanh của Phật Câu Lưu Tôn. Mukherje đã y cứ vào tài liệu của
hai nhà chiêm bái Pháp Hiển và Huyền Trang để khẳng định rằng nơi đản
sanh của Phật Câu Lưu Tôn phải nằm tại Pipari cách Taulihawa 4km8 về hướng
tây nam.
Ngoài ra còn có truyền thuyết cho rằng Kudan chính
là nơi nghị viện của vua Tịnh Phạn và nơi đây đã từng có tượng của
đức Phật nhưng về sau lại bị Adi-Shankaracharya thay thế vào đó bằng một
biểu tượng Linga (một hình ảnh dương vật tượng trưng cho thần Shiva).
Dân làng bảo rằng có những khai quật đã được thực hiện nhưng rất
khó mà đem các di tích lên và sau đó đã bị cát lấp trở lại. Dầu vậy
người ta vẫn tin chắc rằng đã tìm ra ngọn của một ngôi tháp hay của
một trụ đá.
Sagarhawa.
(Nơi dòng họ Thích bị tàn sát): Từ Taulihawa đi về phiá bắc 5km chúng ta
sẽ đến một khu rừng, nằm giữa khu rừng là một cái bể hình chữ nhật
dài có tên là Lambu Sagar. Di tích này đã được nhà khảo cổ người Đức
tiến sĩ Fóhrer phát hiện, khi ông ta được giao phó cho việc phụ tá thiếu
úy Bir Jung người Nepal phụ trách về việc khai quật, vào năm 1898.
Nơi này được ghi nhận là nơi thái tử Tỳ
Lưu Ly, vua của nước Kosala, đã tàn sát dòng họ Thích. Nơi đây còn có
17 ngọn tháp cổ và một di tích dài. Những tảng đá mang hình hoa sen nở
và các vũ khí thời xa xưa cũng được tìm thấy nơi đây. Căn cứ vào đây
ông V.Smith và nhiều học giả khác cho rằng nơi đây có thể có ngôi tháp
kỷ niệm cuộc chiến tranh hay ít ra kỷ niệm những người đã hy sinh
trong trận chiến. Bên dưới những tảng đá họ còn phát hiện ra những
hòm chứa đồ cổ quý giá. Trong một rương bằng đất nung phát hiện
trong một ngôi tháp còn có xương xá lợi, một tượng rắn bằng vàng và
bạc, đá quý và đồ trang sức, một ít hột gạo, v.v. Người ta tin rằng
đó là xương của ngưòi dòng họ Thích bị Tỳ Lưu Ly giết.
Baradhawa.
(giếng tên rơi - tiễn tĩnh): Cách Taulihawa 6km4 về hướng tây nam là làng
Baradhawa, nơi đã được phát hiện một số di tích cổ xưa. Người ta tin
rằng nơi đây có ngôi tháp chứa xá lợi của chính đức Phật. Không xa nơi
này là một bể nước được xác định là nơi mũi tên của thái tử Sĩ
Đạt Ta đã ghim xuống trong cuộc thi tài ngày xưa. Nhưng dĩ nhiên có nhiều
điểm đáng nghi ngờ về vị trí này, bởi vì trong ký sự của hai ngài
Pháp Hiển và Huyền Trang có những sai biệt nên rất khó mà xác định cho
đúng.
Ngoài ra còn có một số làng quanh
vùng được phát hiện có di tích lịch sử như làng Hardewa cách Taulihawa
5km về phiá nam, làng Bikuli cách Taulihawa 12km8 về phiá đông bắc, làng
Chatradei cách Taulihawa 4km8 về phiá tây bắc, làng Araurakot cách Ca Tỳ La Vệ
9km về phiá đông bắc,v.v. nhưng những nơi này đều không được xác định
một cách chắc chắn về ý nghĩa của chúng. Có thể đây là mục tiêu cho
những nhà thích nghiên cứu tìm hiểu tận tường và có đầu óc quan sát
tỉ mỉ, nhưng hoàn toàn không thích hợp cho những phái đoàn chiêm bái.