Xứ Phật Tình
Quê
Thích Hạnh Nguyện
Thích Hạnh Tấn
Bồ
Đề Đạo Tràng [Bodh-Gaya]
Ấn Độ huyền bí, linh thiêng và nổi bậc hẳn
trên các quốc gia khác trong lãnh vực phát triển tâm linh và triết lý.
Các thánh nhân đã thay nhau ra đời tại đây, những triết gia lỗi lạc đã
từng một thời sanh ra, lớn lên, sáng tác và ra đi tại đây. Nhưng có lẽ
nếu không có hiện tượng đã xảy ra trên 2500 năm về trước tại Bồ Đề
Đạo Tràng thì số người biết đến Ấn Độ ít hơn hiện tại rất nhiều.
Thế giới sẽ không biết gì đến một Long Thọ bồ tát siêu tuyệt với
những bản luận vượt xa những triết lý quá trừu tượng của các triết
gia khác. Một Vô Trước và một Thế Thân để tuyên dương Duy Thức học
cũng làm sao được biết đến thì còn nói chi đến tổ Bồ Đề Đạt Ma,
Nhựt Liên thánh tăng, bồ tát Thích Quảng Đức, Dalai Lama hay bất cứ một
nhân vật Phật Giáo nào nổi danh trên thế giới ngày nay. Và cả cái tên
Bồ Đề Đạo Tràng cũng sẽ không hiện hữu chứ đừng nói chi là được
ghi lại trên những trang giấy, truyền trao trong những lời nói.
Mục tiêu đầu tiên của người phật tử đến
Ấn Độ có lẽ chính là Bồ Đề Đạo Tràng, có những phật tử, tu sĩ và
không phật tử đã chỉ đến Bồ Đề Đạo Tràng rồi tâm tánh bỗng
nhiên biến đổi, bao nhiêu thiện tâm bỗng bừng dậy và họ trở thành những
nhà từ thiện tâm linh và xã hội một cách thiết thực. Trong đạo phật
không có sự bắt buộc phải viếng thăm các thánh tích Phật Giáo như truyền
thống của Hồi Giáo, trong đời phải một lần đến Mekka. Đức Phật vì
lòng từ đã bày phương tiện cho hàng đệ tử có thể tạo thêm công đức,
thêm chất liệu để phấn chấn hơn trên con đường mà thời gian để đi
phải trải qua ba a tăng ký kiếp (hàng ngàn thế kỷ); ngài đã dạy là phật
tử nếu đến được các nơi thánh tích thì phước đức sẽ tăng trưởng
rất nhiều. Tại sao vậy? Phật Giáo là một tôn giáo của tỉnh thức, của
thực tại và thực tiễn, có thể nói khoa học hơn cả nền khoa học văn
minh ngày nay vì khoa học của Phật Giáo không phải bị suy đi sét lại bởi
ảnh hưởng tàn hại môi sinh của chính nó, như những phát minh thời đại
đã làm ra. Thế thì làm gì có chuyện huyễn hoặc chỉ đến thăm một vùng
đất lại có thêm phước báo? Trong kinh đức Phật đã dạy chính niềm
tin là mẹ đẻ mọi công đức, vì vậy khi đến được thánh tích thì phước
báo chúng ta tăng bởi niềm tin chúng ta tăng. Niềm tin được tăng trưởng
bởi hai nguyên do: thứ nhất các thánh tích cho ta một chứng minh xác thực
về hiện hữu của một thái tử Sĩ Đạt Ta đã hiện thân nơi Ấn Độ và
từ một con người ngài đã phát triển và chuyển hoá thành một bậc
giác ngộ, một vị Phật; thứ nhì những thánh tích đều mang một từ
trường mạnh có ảnh hưởng lớn đến vấn đề phát triển tâm linh đó
là nơi chư Phật đều thay nhau xuất thế, ví dụ như chung quanh vùng Ca Tỳ
La Vệ chúng ta đã thấy có những nơi kỷ niệm của Phật Câu Lưu Tôn và
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni. Bồ Đề Đạo Tràng lại đặc biệt hơn cả, vì nơi
đây là nơi mà ánh sáng trí tuệ của chư Phật bắt đầu bừng dậy và từ
đó ánh hào quang các ngài đã toả đi đến muôn phương. chỉ bốn chữ
“Bồ Đề Đạo Tràng“ cũng đủ để sưởi ấm tín tâm của hàng phật
tử chứ đừng nói chi đến việc được viếng thăm nơi đây.
Tôi cũng đã đến Bồ Đề Đạo Tràng trong một niềm háo hức vô
biên. Nhưng lần đầu đến Bồ Đề Đạo Tràng là một kinh nghiệm khó
quên. Đặt chân đến Ấn Độ hơn hai tuần rồi mà lòng tôi lúc nào cũng
nôn đến Bồ Đề Đạo Tràng; mặc dầu, tôi đã giao phó cho thầy Hạnh
Nguyện sắp xếp tuyến đường. Dĩ nhiên những động đá Phật Giáo ở
Trung Ấn cũng đã làm cho tôi say mê, những tu viện Tây Tạng tại nam và bắc
Ấn cũng gieo vào tôi nhiều ấn tượng đẹp. Nhưng tâm trạng của tôi vẫn
là tâm trạng của một người về thăm quê ngoại (hay quê nội) đã đến
được đầu làng rồi nhưng vẫn còn phải ‘bị’ đi vòng vòng để xem
những hàng cây xanh, những rặng tre già đong đưa theo gió. Phong cảnh tuy hữu
tình, nhưng làm sao hấp dẫn bằng căn nhà của ngoại (hay nội) mặc dầu
nó chỉ là một căn nhà lá lụp xụp đi chăng nữa. Nhưng ở đây đâu phải
vậy, Bồ Đề Đạo Tràng nào phải là một căn nhà lá lụp xụp mà là cả
một gia sản khổng lồ, một thắng tích mà cả những người “mắt xanh
mũi lỏ“ cũng hăm hở tìm về chớ không riêng gì những người con Phật.
Chiếc xe buýt công cộng tuy gọi là Super Delux (tối
sang trọng) vẫn không làm sao so sánh được với những phương tiện sang
trọng của Âu Mỹ nhưng tôi cảm thấy nó rất dễ thương và đáng mến,
có lẽ vì nó chở tôi đến gặp hình bóng của người cha tinh thần
chăng? Sau khi đi thăm đồi Sanchi đẹp thơ mộng, chúng tôi đã lấy xe
buýt để đi Patna và từ Patna đi Gaya, một thị trấn nhỏ cách Bồ Đề
Đạo Tràng hơn 10 km. Chuyến xe Patna khởi hành lúc bốn giờ chiều. Chúng
tôi đã đến Patna lúc hai giờ sau khi tìm quán ăn chúng tôi lại phải tìm
xe để đi. Vì không rành Patna chúng tôi phải nhờ đến một anh hướng dẫn
người Ấn Độ, sau khi bằng lòng giá cả về tiền công giới thiệu của
anh ta, chúng tôi đã đến một trạm xe buýt tư nhân với những chiếc xe
Video Coach-Super Deluxe (xe tối sang trọng có máy video). Nhưng điều kiện đầu
tiên mà chúng tôi thoả thuận khi chúng tôi nhìn thấy chiếc xe là không
được bật cả nhạc lẫn phim ảnh Ấn Độ, thật là một cực hình khi
chúng ta phải đi trên một chiếc xe vừa dằn vừa bụi mà tai lại bị tra
tấn bởi những âm thanh cao vút và ầm ỉ của nhạc Ấn Độ, nếu thị
hiếu của chúng ta không phải tình cờ nằm trong tầng số đó. Chủ xe bằng
lòng, chúng tôi mua hai vé trực tiếp với anh tài và chỉ trả đúng số tiền
cò mồi cho anh Ấn dẫn đường, làm anh ta tiu ngiủ, vì anh ta nghĩ rằng sẽ
ăn thêm của chúng tôi một số tiền nữa khi chúng tôi nhờ anh ta mua giùm
vé như một số người Đài Loan hay Nhựt thường làm. Có lẽ hai dân tộc
này có những người lúc nào cũng sẵn sàng đưa cổ cho Ấn Độ chém,
nên điều đầu tiên mà họ thường hỏi có phải là Japanese hay không, nếu
không thì có phải là Taiwan? Nhưng ngày nay tại Bồ Đề Đạo Tràng thì sự
hiện hữu của những người Việt Nam không còn lạ nữa và cũng là những
con mồi hấp dẫn. Người Việt Nam tuy không nhẹ dạ nhưng đôi khi vì sống
ở Âu Mỹ lâu ngày nên quên đi nghệ thuật mặc cả chăng? Cũng may, thầy
Hạnh Nguyện đã sống tại Ấn Độ gần năm (và dĩ nhiên cũng vẫn bị lừa
dài dài) còn tôi thì nổi tiếng trùm sò cả nước đều biết, nên chúng
tôi không dễ gì sa vào những cái bẩy lúc nào cũng được giương sẵn chờ
đón những con mồi Tourist (du khách) béo bở.
Trời từ từ sụp tối, chúng tôi kéo trong
giỏ ra chiếc radio nhỏ để nghe đài BBC. Thật là khủng khiếp khi nhìn ra
bầu trời tối đen (chỉ mới hơn 6 giờ chứ mấy), và nghe tin tức về một
vụ cướp tại vùng Bihar (tiểu bang mà chúng tôi hiện đang di chuyển). Một
toán cướp đã chận đường những xe buýt hành khách, ra lệnh cho đàn bà
con gái xuống xe và tất cả hành khách phải trao ra vật quý rồi thì nhả
đạn vào những người đàn ông còn lại trên xe. Tin tức thật hấp dẫn
và có lẽ chỉ làm chúng tôi rùn mình xót xa một thoáng rồi qua, nếu
chúng tôi đang ở Âu Mỹ xa xôi hay ở một nơi an toàn nào khác. Đằng này
chúng tôi đang ngồi trên một chiếc xe buýt hành khách, mà lại là loại tối
sang trọng nữa chứ và chạy bon bon như không có việc gì xảy ra trong
vùng Bihar. Tâm tư bỗng nhiên khuấy động những viễn ảnh của bao nhiêu
thứ chết lần lượt hiện ra như một cuốn phim, có thể một viên đạn
sẽ ghim vào óc chăng, thật thê thảm khi cái đầu be bét máu và mắt trợn
trừng như tiếc nối những hình ảnh sau cùng của trần thế. Hay là một
viên đạn sẽ xé tan lòng ngực ghim vào tim, làm tắt đi nguồn sống tức
khắc. Hay nó sẽ đi vào bụng làm máu chảy ra từng hồi với những cơn
ho khắc khoải thay cho lời trối trăn cuối cùng. Tôi phải rùn mình trước
những tư tưởng ‘đỏ’ đó, mặc dầu là một tu sĩ Phật Giáo được
học và nghe giảng về vô thường về sự hoại diệt của tất cả hiện
hữu, nhưng những thứ đó đều đã được nghe và đọc như những thu thập
về các loại khoa học giả tưởng mà thôi, tôi không có một khái niệm
thực tiễn nào về vô thường cả. Ngay cả trong những lúc thực hành các
đề mục thiền quán về vô thường thì hình ảnh vô thường vẫn thơ mộng
và đẹp quá. Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: “Hãy luôn luôn quán tưởng
tất cả các pháp hữu vi (hiện tượng) như là giấc mộng, như bọt nước,
như sương mai hay như tia điện chớp“. Tôi có lúc đã dùng nó để làm
đề mục quán sự vô thường (dĩ nhiên là cách hiểu biết hoàn toàn hạn
hẹp và không đúng mức về lời dạy cao siêu như thế!) và giấc mộng
tuy có mau qua nhưng âm hưởng của cái chăn ấm áp vẫn lấn cái vô thường
của giấc mộng, bọt nước trong chốc lát sẽ tiêu tan không có thật tướng
nhưng nó vẫn đẹp, vẫn trắng xoá khi từng đợt sóng biển lùa vào bãi,
hạt sương dưới ánh dương quang sẽ tan biến trong phút giây nhưng vẫn
long lanh như những viên ngọc quý đong đưa trên ngọn cỏ hay đầu lá và
tia điện thì mang nhiều màu sắc của thiên nhiên. Nhưng bây giờ thì sự
vô thường đến thật bất ngờ, đến vì tôi nghĩ rằng sinh mạng mình
đang bị đe dọa; thì ra người ta chỉ cảm nhận được giáo lý khi mà
nó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân hay nói đúng hơn, khi mà cái bản
ngã của chính mình bị đe dọa trong một hình thức nào đó thì mình mới
chịu khó suy sét giáo lý về khía cạnh đó [đúng với câu kệ “Trì niệm
Phật kinh duy khốn khổ“(chỉ nhớ nghĩ đến kinh điển của Phật khi bị
khốn khổ)], thật vô cùng xấu hổ. Nhưng khi ấy tôi đâu biết xấu hổ,
chỉ biết rằng có lẽ mình sẽ không đến được Bồ Đề Đạo Tràng chăng?
sẽ không đủ phước duyên đảnh lễ kim cương toà chăng? Ước vọng đến
được Bồ Đề Đạo Tràng bỗng trở nên to lớn vô cùng, có lẽ vì vậy
mà tôi đã phải trở lại Bồ Đề Đạo Tràng hai lần nữa, sau khi rời
khỏi nơi đây vài ngày sau đó để viếng thăm những thánh tích khác.
Cuối cùng thì xe đã đến Gaya an toàn (quý vị
cũng chắc rằng tôi đã đến an toàn phải không, nếu không vậy thì Vô
Thức nào ngồi đây để ghi lại những kỷ niệm này). Xe chạy qua những
đường phố ngoằn ngèo nhỏ xíu, đôi lúc tôi cứ sợ xe sẽ va vào tường
của một ngôi nhà nào đó. Những anh tài Ấn Độ thật là tài tình, có lẽ
lái xe giỏi nhất chính là tài Ấn Độ, khi còn ở Đức tôi vẫn thường
lái xe và nghĩ rằng mình lái không tệ, nhưng bây giờ so với các anh Ấn
Độ thì phải chịu thua xa. Xe vẫn tiếp tục chạy và ô kià, nó đã bỏ
lại thị trấn sau lưng. Tôi ngạc nhiên nhìn thầy Hạnh Nguyện, thầy ấy
hiểu ý cười: ‘có lẽ Hạnh Nguyện nhớ lộn, ở đây tỉnh nào cũng giống
tỉnh nào, nhất là trời tối nữa“. Tôi ngã ngưòi trở lại ghế ngồi
thư giản những căng thẳng chờ đợi để nhìn thành Dà Gia (Gaya). Nhưng
chỉ độ 15 phút sau thì xe đổ ở một bến nằm giữa một vùng tối đen
loe lét những ngọn đèn dầu. “Trạm chót, trạm chót“ anh lơ lùa hành
khách xuống xe. Chúng tôi ngỡ ngàng xách ba lô, leo xuống. “Hỏi lại coi
có chắc là Gaya không?“ tôi thúc thầy Hạnh Nguyện vì tiếng Anh tôi kém
lắm mà nói chuyện với Ấn Độ lại càng không đủ. Ai cũng bảo là Gaya
và chúng tôi dỡ khóc dỡ cười, vì trời tối đen như mực mà không anh
Ấn Độ nào chịu biết nói dùm tiếng Anh. Cuối cùng thì có một ông
hành khách có lẽ thương hại hai anh chàng ngoại quốc ngốc ngếch nên đã
đến bên chúng tôi bảo: “Đây cũng là một bến của Gaya, nhưng chỉ là
bến phụ; các anh phải đi qua bên kia cầu thì mới đến được Gaya, các
anh yên tâm mà ngồi lên xe xích lô đây, ông ta sẽ đưa đi không xa lắm
đâu.“ Chúng tôi nghe nhẹ cả người, ngồi lên chiếc xe xích lô cao nghiệu
để cho ông Ấn Độ già nua ì ạch đạp, không còn đâu tâm trí để tội
nghiệp ông ta khi màn đêm đang bao phủ và thân thể thì mệt nhoài sau tuyến
đường sáu tiếng đồng hồ (theo sách ghi lại và anh chủ xe nói thì chỉ
ba tiếng thôi vì chỉ có khoảng 180 km thôi mà); quả nhiên trong cảnh khổ
tột cùng thì chúng sanh sẽ không có cơ hội để phát bồ đề tâm!
Đến Gaya thì trời đã quá tối không anh xe
lôi nào chịu chở vào Bodh-Gaya cả. Chúng tôi đành phải thuê một khác sạn
cá kèo ngủ lại đêm, một phòng hai giường có nhà vệ sinh và bồn rửa
mặt nằm......bên ngoài, chỉ tốn 100 Rs mà thôi. Sáng hôm sau khi trời tờ
mờ lên, tôi đã thức dậy nôn nao, sau khi làm vệ sinh cá nhân xong tôi ra
phía lan can nhìn mặt trời bình minh, bầu trời mù sương tạo một mặt nhựt
hồng đỏ tươi thắm, khác với màu máu đỏ trong sự tưởng tượng của
tôi tối qua. Xí xọn tôi đã lấy chiếc máy chụp hình ra chớp một cảnh
để kỷ niệm “mặt trời lên nơi thành Dà Gia vào ban mai“, một việc
làm uổng phí vì thứ nhất máy tôi không đủ chuyên môn và tôi không phải
là chuyên viên nhiếp ảnh, kết quả là một tấm hình lờ mờ xam xám với
một bệt đo đỏ ngay chính giữa như cười vào mặt tôi về cái vụng về
của mình. Chúng tôi sau đó đã trả phòng và đi ra nhà ga xe lửa để thuê
xe lam. Xe lam là tôi tạm mượn danh từ dùng thôi, chứ Ấn Độ đâu có,
hay tôi chưa thấy có, dạng xe lam như ở Việt Nam. Xe lam ở đây có một
cái thùng được chia làm hai phần, phía trước anh tài ngồi trên máy xe
và có một bánh lái, phía sau là một băng dài vừa ngồi đủ ba người không
to con lắm. Những anh lái xe thấy chúng tôi như những con kênh kênh thấy
xác chết ùa cả lại, “Bodhgaya, Sir? please, please, come, come“ (các ông đi
Bồ Đề Đạo Tràng hả, xin mời, xin mời, lên xe). Chúng tôi không biết
phải đi xe nào, bỏ xe nào. Sau khi hỏi giá, các anh tài đều đòi giá quá
cao, chúng tôi liền bỏ đi và nghĩ rằng xe ở tại bến lúc nào cũng đắc
hơn bên ngoài. Đi ra một quán trà bên ngoài chúng tôi kêu hai ly trà Ấn Độ,
trong một ngôi quán lụp xụp húp ly trà sữa nóng khói nghi ngút thật là một
hạnh phúc khó tả. Có lẽ ngưòi Ấn Độ cũng nghĩ như chúng tôi, nên
quán chật ngẹt những anh Ấn Độ đang quấn chăn ngồi bó gối lim dim với
vị ngọt của từng hớp trà để cho cái ấm của ngụm nước thấm dần
vào bao tử để lại một vị chan chát của trà và vị béo thơm tho của sữa.
Chúng tôi trong những ngày ở Ấn Độ đã sống rất là Ấn Độ, không một
quán nào chúng tôi chưa thử qua, ăn một dĩa Thali chỉ 10 Rs (khoảng 30
Cent) hay một bữa ăn cả 100Rs cũng có. Khi đó thầy Hạnh Nguyện
thoáng thấy một chiếc xe lam chạy qua, thầy ấy mau mắn đứng dậy kêu lại
và ngã giá cho chuyến đi Bồ Đề Đạo Tràng cả luôn Linh Thứu Sơn và
Nalanda sau đó. Xe bằng lòng với giá 300 Rs, nhưng anh tài cũng bị một số
anh khác chửi rủa cho một trận vì các anh kia đã đòi chúng tôi chỉ đi
Bồ Đề Đạo Tràng thôi 100Rs mà chúng tôi không chịu đi. Chúng tôi trước
tiên đi đến chùa Việt Nam của Giáo Sư Quốc. Rồi ra tháp Đại Giác
(Maha Bodi).
Hình ảnh ngôi tháp cổ kính đã làm tim tôi rung
động bàng hoàng. Tôi không biết khi một anh thanh niên thông thường gặp
được người yêu thì tim đập như thế nào, nhưng cảm xúc của tôi đối
với hình ảnh của Bồ Đề Đạo Tràng có lẽ có phần hơn hoặc bằng chứ
không kém. Mua những bó nhang và nến xong tôi cố gắng đi thật chậm để
khỏi phải chạy ùa vào tháp, mà cũng để nuốt trọn vào tâm hình ảnh của
vùng kỷ niệm người xưa. Một ngọn tháp đứng sừng sững giữa một vùng
cây xanh biếc. Khác với những ngọn tháp kiều mỹ của vùng đông nam Á,
ngọn Đại Giác chỉ có bốn mặt và đi thẳng từ dưới nhọn dần đến
đỉnh chớ không có một mái cong nào tô điểm mỗi tầng. Trên tường của
tháp có khắc những hoa văn nổi theo hình vòm hay hoa sen thật là đặc biệt.
Một ngôi tháp Trung Quốc, Nhật Bản hay Việt Nam cũng thế đều mang vẻ
đẹp mềm mại và ẻo lã, trong khi ngọn Đại Giác lại hùng dũng như tuyên
chiến cùng thế gian. Ngọn tháp nhọn vút như trí tuệ của đức Phật, tột
cao và tột bén nên không có một chỗ đứng nào khác cho một thứ trí tuệ
thứ hai song song với nó cả, nó là tột đỉnh của các trí tuệ nằm bên
dưới; nhưng chính vì có cái nền rộng và đầy các hoa văn nên đỉnh nhọn
kia mới nổi bậc trong cái dáng oai hùng đơn giản của nó. Chung quanh tháp
Đại Giác còn vô số những tháp lớn nhỏ đã được tạo dựng sau đó.
Có thể là một vị quốc vương được toại ý một điều cầu nguyện nào,
nên đã xây tháp đáp lễ, có thể là một thủ tưởng, bộ trưởng nào
đó đã xây tháp vì thân nhân mình được qua một cơn hiểm nghèo qua sự
gia trì của đức Phật. Cũng có những tháp được dựng nên đơn thuần
chỉ vì sự cầu nguyện cho chúng sanh đều được vào quả vị giác ngộ
tối cao.
Bỏ lại sau lưng ngưỡng cửa vào khu tháp và những
người ăn xin Ấn Độ kêu la thảm thiết để kích động lòng từ của
khách hành hương, chúng tôi đến một cầu thang dẫn thẳng vào ngôi tháp.
Nơi đây tôi cũng có một so sánh (thật là khó bỏ được tập khí này phải
không? tuy giáo lý luôn nhắc nhở hãy bỏ đi những nhị nguyên của cuộc
đời mà người tăng sĩ như tôi lại cứ chạy theo những so đo!). Những
tháp mà chúng ta đã thấy qua, thường nằm trên những vùng cao hay ít nhất
cũng được tô bồi cho cao lên. Để vào tháp chúng ta phải vượt qua những
tam cấp cao rộng thênh thang, như người Việt chúng ta vẫn quen với ngôi
tháp Giác Duyên nổi tiếng của chùa Linh Mụ Huế. Nhưng ở đây thì
không, cầu thanh này cũng rộng đó nhưng lại dẫn đi xuống, vì ngôi tháp
nằm ở một vị thế thấp, tuy vậy nó vẫn sừng sững vươn lên, vẫn vượt
trội toàn vùng cao vút. Phải chăng đây cũng là hình ảnh của con người
mà ngôi tháp này đã được dựng nên để kỷ niệm, một con người đã
sanh ra trong nhung lụa giàu sang nhưng lại bỏ tất cả từ một vương vị
cao sang đã ‘bước xuống’ sống đời người khất sĩ, một danh từ hoa
lệ để chỉ cho kẻ xin ăn. Và cũng từ nơi tận cùng khốn khổ người
đã vượt cao lên, cao mãi, cao vút đến vô song như hình ảnh đoá hoa sen vượt
khỏi bùn nhơ nở hương thơm ngát như ta vẫn thường so sánh. Để tỏ ra
lòng tôn kính và thể hiện những cảm xúc dồi dào tôi cũng như bao người
đến chốn này đã phải hạ mình thật thấp, cuối rạp người cũng chưa
đủ thấp, phải duỗi hẳn người ra cũng dường như chưa đủ thấp, nên
cố ấn người mình thêm sâu vào lòng đá. Hầu như ai đến Bồ Đề Đạo
Tràng cũng cảm thấy mình phải ít nhất một lần tam bộ nhất bái quanh
tháp như vậy.
Khi con người gặp nhau trên cùng một lãnh vực
tâm linh thì sự xa lạ không còn là vấn đề nữa, đó là tâm trạng của
những người đến Bồ Đề Đạo Tràng. Tất cả mọi người trở nên như
bằng hữu hay quen biết, không một ngượng ngạo nào khởi lên khi cả hai
người tóc đen và tóc vàng cùng ngồi vào chiếc băng ghế ọt ẹt của cái
quán trà bên kia tháp để hưởng hương vị ly trà sữa Ấn Độ đặc biệt,
để cùng nhau đi đến một sự quen biết đậm đà hơn. Đã nhiều lần đến
Bồ Đề Đạo Tràng nên những anh bán trà, bán nước miá cho tôi uống chịu
là chuyện thường, đôi khi ông bán chuỗi hột còn cho tôi thiếu cả một,
hai trăm đô la đến mấy tháng trời đi biệt dạng. Đây phải nói là một
việc hy hữu vì đối với Ấn Độ vài mươi Đô đã là một số tiền lớn.
Trong những chuyến viếng thăm nơi đây tôi đã quen một cô người Pháp, mạnh
khoẻ và đã làm việc tích cực cho một hội Tây Tạng từ nhiều năm. Cô
ta mỗi năm đều sang Bồ Đề Đạo Tràng để tu tập một tháng, kinh hành
nhiễu Phật; mỗi ngày cô ta có thể đi hàng ngàn vòng chung quanh tháp Phật
và trì niệm thần chú cũng như danh hiệu của vị Phật mà cô đang tu tập.
Việc này tương đương với một người đi bộ khoảng vài mươi cây số
một ngày. Bẵng đi một thời gian hai năm tôi không gặp cô ta, có lẽ vì
cả hai đến Bồ Đề Đạo Tràng không cùng một thời gian.
Lại một mùa đông sắp đến trường cho nghỉ
hai tuần, tôi và một thầy nữa đã cùng đi Bồ Đề Đạo Tràng. Thật
không thể có một nơi nào mà mỗi lần viếng thăm, cảm xúc lại trào
dâng mạnh hơn như nơi đây. Cũng như mọi khi, đến nơi vào cất hành lý
xong là tôi vội vàng ra ngay tháp, như một đứa con đi xa nhà vội vã đến
chào cha mẹ sau một thời gian dài vắng bóng. Trời đang oi ả nắng, bóng
Bồ Đề toả rộng làm một nơi thu hút nhiều người tìm một ch‡ râm.
Tôi cũng đến ngồi nơi gốc tường dưới bóng mát thả hồn theo tiếng
lá rì rào. Trời đứng gió nhưng chú ý lắm thì ta vẫn có thể nghe được
tiếng lá reo, có lẽ do những chú sóc di chuyển hay những con chim chuyền
cành làm di động. Cái nóng Ấn Độ thật vô cùng khó tả, nó làm đôi mắt
tôi trĩu xuống sau một ngày du hành trên xe lửa mệt nhọc. Khi đó một
bóng người đổ dài vào tầm mắt tôi, một người đang từng bước xê dịch
vô cùng khó khăn, môi cắn chặt như cố giữ cho tiếng rên khỏi bậc ra cửa
miệng. Tôi ngạc nhiên chăm chú nhìn cô gái lạ. Nhưng kià, đâu lạ gì đôi
mắt thông minh đầy vui tánh đó. Tôi ngạc nhiên bật người dậy, tỉnh
ngủ hẳn và ngoắc cô ta đến chỗ tôi ngồi. Một khoảng ngắn hơn bốn
thước mà cô ta cũng phải mất vài giây để đến đích. Chuyện gì đã xảy
ra với cô, những năng động ngày nào đâu cả rồi?“ Tôi đã thắc mắc.
Cô ta cười thật tươi, gương mặt được trả lại những nét tôi quen biết:
Chỉ có trời mới biết, tôi về lại Pháp hai năm trước đây thì bỗng
nhiên ngã bệnh. Bác sĩ không thể chửa trị chỉ cho tôi uống thuốc Opium
để giảm đau mà thôi. Opium à, đó là thuốc phiện mà tôi ngạc nhiên.
“Phải, vì tay chân tôi bị co rút đau đớn vô cùng họ không tìm ra thuốc
trị, nên đành phải cho tôi uống thuốc phiện để làm giảm đau thôi, chỉ
làm giảm đau thôi, vì mỗi bước tôi đi vẫn giống như đi trên đinh vậy.
Chắc thầy còn nhớ câu chuyện nàng công chúa thuỷ tề của thần thoại
Đan Mạch chứ. Tôi bây giờ cũng giống như cô ta sau khi đã bán giọng
hát của mình cho bà phủ thuỷ để đổi lấy cặp giò. Chỉ khác là đôi
chân cô ta nguyên vẹn trong khi hai bàn chân tôi thì đang bị như chuột rút,
nhưng cả hai đều phải chịu đau đớn khi di chuyển trên đôi chân của
mình rồi cô ta cười thật sảng khoái sau cái so sánh của mình. Cô đến
đây bao giờ và đang làm gì? Tôi đến đã hơn mười ngày rồi, ngày nào
cũng ra đây đi kinh hành thôi, thầy đã biết pháp môn tu của tôi rồi
mà. Kinh Hành tôi không khỏi sửng sốt nhưng đôi chân của cô?. Đó là
nghiệp của tôi mà, tôi phải làm tròn lời phát nguyện, biết đâu đây
là mùa đông cuối cùng tôi có thể di chuyển và tu tập. Đức Phật đã
chứng minh cho tôi thấy sự cố gắng vượt bực của ngài. Tôi chỉ làm
theo những gì tôi có thể, trong khả năng hạn hẹp của mình thôi. Nhưng
thôi, tôi phải tiếp tục! Bây giờ một ngày tôi chẳng đi được bao nhiêu
vòng nữa, thật là tệ quá, tôi không thể bỏ phí thời gian. Chào thầy
nghe. Cô ta lại đứng lên lê từng bước nặng nhọc kinh hành.
Tôi nhìn theo bóng cô bồi hồi, theo tôi thì
cô ta kinh hành hôm nay nhiều hơn những năm trước và những bước chân của
cô như để lại trên nền những đoá sen mầu nhiệm. Nhìn cô tôi nhớ đến
một anh chàng người Pháp khác đã ngồi trên chiếc xe lăn được bạn bè
đẩy đi. Anh ta bị liệt toàn thân bặt cả ngôn ngữ. Nhưng đôi mắt đẩm
đầy nước mắt làm ngời lên niềm hạnh phúc phản chiếu trong đó khi
anh ta nhìn ngôi tháp thế tôn, đã nói lên tất cả những gì mà ngôn ngữ
khó thể diễn đạt. Sau khi ngồi lặng nhìn ngôi tháp một lúc lâu người
bạn của anh đã đẩy chiếc xe lăn đi dọc theo hành lang quanh tháp, trước
mỗi trụ đá xe đều ngừng lại như để anh ta có thể nghiêng mình đảnh
lễ trước di tích của Như Lai.
Những hình ảnh đẹp và cao thượng tại một nơi tôn nghiêm như là
những biện minh hùng hồn cho giá trị của nơi đó và xa hơn nữa là cho
những gì đã được dạy, bởi chính con người từ nơi đó ra đi. Ngày
nay trong mỗi mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 4, hàng ngàn phật tử muôn
nơi đổ về để lễ bái nguyện cầu. Không khí thật nhộn nhịp trong một
niềm vui đạo vị, khi mọi ngưòi vui theo từng giọt mồ hôi của những vị
lễ dài hàng ngàn lễ mỗi ngày quanh tháp, hay theo từng nhịp điệu cầu
kinh của những vị đi hay ngồi quanh tháp tụng niệm.
Một nơi mang tên
Uruvela.
Từ giã Ca Tỳ La Vệ thái tử Sĩ Đạt Ta đã băng qua vùng sinh sống
của dòng họ Thích, vượt qua vùng đất của dòng họ Krobiya và bỏ lại
sau lưng xóm làng dòng họ Malla. Ngài đã đến bên bờ A Nô Ma! xuống ngựa,
cắt tóc, cởi hoàng bào để đổi chiếc áo người thợ săn đã bạc màu
từ màng trắng đã ngã vàng, trong tiếng khóc nức nở của người hầu cận
Sa Nặc, ngay cả con ngựa Kiền Trắc cũng phải gục đầu trước cảnh biệt
ly để cho những giòng lệ yên lặng chảy hoà vào lòng đất thẳm ướt của
bồ sông. Phải chăng bờ sông cũng đã đưa những dòng lệ của nó vào bờ
để tỏ sự chia buồn với hai nhân vật kia. Tiếng sóng rì rào như bàn
tán nhau về sự kiện của một vị dòng cao quý đã từ bỏ giàu sang để
đổi lấy đời sống của Sa Môn. Tiếng gió rung cây như đang truyền nhau
nghe tin tức về một sự kiện hy hữu đang xảy ra.
Thôi đừng khóc nữa Sa Nặc à, đâu có gì phải buồn bã, ngươi nên mừng
cho ta, vì từ đây ta sẽ sống theo ước nguyện của mình. Ngươi hãy về
và thưa với phụ hoàng, bao giờ tìm được giải thoát khổ não cho tất cả
mọi loài ta sẽ trở về để tuyên nói nó cho phụ hoàng nghe.
Hạ thần cũng mừng cho thái tử, nhưng sao có thể
dằn lòng trước những thường tình của cảnh sanh biệt tử ly, thái tử
nhìn kià chính con ngựa vô tri kia mà cũng còn đổ lệ.
Ta rất hiểu tâm trạng của nhà ngươi, nhưng hãy nghe lời ta mà quay về
đi
Xin vâng, tuy nói thế nhưng Sa Nặc vẫn dõi trông theo hình bóng của Sa Môn
Sĩ Đạt Ta đi dần theo bờ sông, ánh bình minh làm bóng ngài đổ dài về
phiá hắn như một lời hứa hẹn rằng tuy thân thể có cách ngăn nhưng tình
chủ tớ vẫn luôn hiện hữu. Bóng ngài đã xa mờ trong sương sớm, hắn
quay về vuốt ve chiếc buồm con Kiền Trắc rồi thót lên lưng nó. Mặc dầu
hắn giật mạnh giây cương, con ngựa như mất hết sinh khí chỉ miễn cưỡng
lửng thửng đi theo sự điều khiển của hắn. Rốt cuộc hắn cũng bỏ mặc
để nó nện những chiếc vó câu chậm chạp xuống đường như điệu nhạc
hát lúc chia tay.
Thái tử Sĩ Đạt Ta giờ đã là một vị Sa Môn
tuấn tú, bước chân oai vệ của một vị vương giả sống trong chức trọng
quyền cao không vì chiếc áo tả tơi mà vơi đi. Đến một khúc sông cạn
ngài đã lội qua bên kia và đi dần về cương thổ Ma Kiệt Đà. Trước tiên
ngài đã đến Tỳ Xá Ly để theo học với Arda Kilapa nhưng ngài đã không
hài lòng về giáo lý của ông taẠ. Ngài sống cuộc đời như bao vị Sa Môn
khác, lặng lẽ đi, đến trưa thì dừng chân trước nhà những dân làng để
chờ sự cúng dường cũng trong im lặng rồi lại im lặng cất bước, trên
quảng đường du hành ngài đã nghe danh tiếng của tiên ông Bạt Già Bà
(Bhagavà), nhưng giáo lý của ông chỉ cầm chân ngài được một đêm. Rồi
ngài lại lên đường tìm đến những nhà học giả trứ danh của Ấn Độ
thời bấy giờ là A Ra La Ca Lan (Aralakalama) và Uất Đầu Ka La Ma Tử
(Udraka-Ramaputta) để học hỏi, nhưng triết lý cao diệu của những nhà hiền
triết này chỉ đặt trọng tâm vào sự thiền định để sanh vào những
cõi trời phi tưởng và phi tưởng phi phi tưởng mà thôi. Sau một thời
gian thực hành ngài đã xác định rằng đây không phải là cứu cánh. Thế
là ngài đã tiếp tục tiến bước dần vào thủ đô của Ma Kiệt Đà,
thành vương xá.
Một sáng khi bãi triều xong, vua Tần Bà Sa La, lên
thành cao để nhìn xuống sự sinh hoạt của dân. Nhà vua bỗng ngạc nhiên
phát hiện trên đường giữa những người dân hạ tiện có một bóng người
bước đi vô cùng oai vệ, giống như hình ảnh một con thiên nga cao quý
đang lội giữa bầy vịt trời hay như một thớt tượng oai dũng giữa những
con lừa lao xao. Nhà vua đã cho vời ngưòi hầu cận sai tìm ra tông tích vị
Sa Môn kia. Sau khi biết chỗ vị Sa Môn ấy trú ngụ nhà vua đã tìm gặp:
Kính lễ Sa Môn, trẫm từ trên bờ thành nhìn thấy Sa Môn có dung mạo
khác thường nên nghĩ rằng chắc xuất thân từ dòng dõi cao quý nên tìm
đến đây để luận bàn.
Ngài có thể cho trẫm biết nguồn gốc không?
Thưa bệ hạ trước kia, Sĩ Đạt Ta thuộc dòng họ Thích Ca con vua Tịnh Phạn
nước Ca Tỳ La Vệ nhưng hiện tại tôi chỉ là một Sa Môn mà dòng dõi của
Sa Môn là từ Phạm thiên, nhưng tôi không phải là một sa môn tốt, vì
tôi không hài lòng với những gì Phạm thiên đã truyền dạy
Nghe những lời trung thực của Ngài, vua Tần Bà
Sa La nghĩ rằng đây là một đấng quân vương đúng nghĩa, nên ngài đã đề
nghị: Thế thì ngài nên bỏ đi cuộc đời khất sĩ mà trở về với thế
tục. Nếu ngài bằng lòng ở lại đây cùng trẫm thì trẫm sẽ chia ngài nửa
giang san này để cùng cai trị.
Sa môn mỉm cười. Đâu có gì đáng lưu luyến trong cõi thế giả tạm, nếu
muốn vương vị thì tôi đã ở lại hoàng triều chứ đâu cần phải đến
đây để chịu ơn bệ hạ. Ý nguyện duy nhất của tôi là phải tìm ra con
đường giải thoát chân chánh
Nghe những lời cảm khái, nhà vua nghĩ rằng nếu trong đời này có người
đạt được giác ngộ, người đó phải có một quyết tâm dõng mãnh như
vị sa môn thái tử này, nên nhà vua đã thưa: “Ngài đã có chí, trẫm nghĩ
sẽ thành. Khi nào tìm ra đạo giác ngộ ngài hãy đến để dạy lại cho
trẫm. Trẫm chắc chắn sẽ mong chờ. Thái tử không ngần ngại nhận lời:
Bệ hạ yên tâm, khi nào giác ngộ tôi sẽ trở về truyền đạt sự hiểu
biết của tôi cho bệ hạ. Nghe nói vùng này có một vị đại Sa Môn
Rudraka nổi tiếng tôi muốn đến để tham học với ngài
Rồi ngài từ giã nhà vua ra đi, vua Tần Bà Sa La
đã kinh ngạc nhìn theo bóng ngài chững chạc bước đi trong nắng chiều với
tâm đầy ái mộ cũng như bao người trước đó cũng đã từng nhìn theo
và ái mộ ngài trên suốt quảng đường ngài đã đi qua.
Nhưng rốt cuộc ngài cũng không thể hài lòng với những gì Radraka giảng
dạy, nên đã lại ra đi cùng với năm vị đệ tử của Radraka vì họ quá
cảm mến ngài và không muốn rời ngài nữa sau một thời gian ngắn quen biết.
Cuối cùng họ đã vượt đường tìm đến làng Uruvela, nơi có nhiều ẩn
sĩ đang tu tập phép khổ hạnh. Bên dòng sông Ni Liên (Nairanjana) là một
khu rừng rất gần Bồ Đề Đạo Tràng ngày nay. Trong khu rừng đó có nhiều
người đang đứng một chân, không bao giờ thay đổi, có người đang đứng
bằng tay không bao giờ quay xuôi người lại, có người nằm ép mình sát
xuống đất không bao giờ trỗi dậy, có người lấy cây đập vào thân thể
mình không ngừng nghĩ một giây... Mục đích chung của mọi người là chế
ngự các cảm thọ của thân thể để có thể tập trung vào tâm linh mà
hoà nhập vào đại thể của Phạm Thiên. Sa Môn Cồ Đàm và năm vị sa môn
kia cũng đến đây và gia nhập vào sự tu tập khắc khổ kia. Sa Môn Cồ Đàm
đã vô cùng khắc khổ, mỗi ngày chỉ ăn một hạt gạo trong suốt hai năm
liền và bốn năm kế hoàn toàn không ăn gì cả. Trong hai năm đầu ngài đã
thực hành nhiều pháp môn để cảm thọ tận cùng các khổ đau của thân
thể. Sau những cố gắng tột cùng đó, ngài vẫn không thể tìm ra tia
sáng giác ngộ nào.
Một ngày nọ khi đang cảm nhận những khổ đau của
thân ngài nghe có tiếng một lão nhạc sĩ đang dạy người học trò: Khi căng
giây đờn con phải biết thế nào là mức độ vừa phải đúng đắn. Nếu
con làm quá căng giây sẽ đứt, nếu con để quá chùn đàn sẽ không kêu.
Chỉ khi nào giây con căng đúng mức đàn mới phát ra được âm thanh vi diệu“.
Nghe những lời như thế ngài quán chiếu lại quãng đời của mình, những
ngài sống trên nhung lụa chẳng khác nào dây đàn thả lỏng, nhưng đến
khi tu tập thì lại bị quá căng, ngài nghĩ phải tìm một lối nào khác hơn
chăng. Thế rồi ngài cố gắng rời chỗ ngồi đi đến bên sông Ni Liền
ngâm mình vào dòng nước mát. Mặc dầu trời đã nóng lắm vào tháng tư
nhưng ngài vẫn không thấy cái chói chang của mặt nhựt. Những dòng nước
chảy qua thân ngài làm mềm dần lớp cáu đóng trên người và tạo nên một
sự thoải mái cho thân, tinh thần ngài cũng phấn chấn hẳn lên. Tắm xong
ngài đi dần về phía bóng râm của làng Uruvela, nhưng mặc dầu tinh thần
ngài vô cùng phấn chấn thân thể ngài lại quá suy nhược khó lòng đi
được xa. Đến một gốc cây bên đường ngài ngồi xuống dưỡng thần,
sau khi tắm rửa ngài cảm thấy có nhu cầu phải an thần một lúc thế là
ngài để tâm rỗng rang thân thư thái, ngài lần lần đi sâu vào một trạng
thái định. Khi đó cô bé chăn dê đang đi dần đến, cô còn bé quá nhưng
gia đình ngèo nên phải làm việc để phụ giúp cho mẹ cha. Không như những
đứa trẻ khác có thời giờ để ngồi bên bà ngoại hay bà nội để nghe
kể những câu chuyện cổ tích, không có người kể thì cô hay tự kể cho
mình nghe. Trong những lúc bầy dê đang đi tìm ăn thì cô thường ngồi dưới
một gốc cây dệt những chuyện vô cùng kỳ thú để giải trí. Hôm nay
cô rất là vui vì cha cô cho cô một túi mật để dặm thêm cho bữa ăn
trưa. Đây là một việc rất hiếm hoi, chỉ khi nào ông bán được số
cũi mà ông đốn mới có mà thôi. Trong đầu cô đã tưởng tượng cảnh nếm
từng giọt mật ngọt ngào, để nó thắm dần qua đầu lưỡi đi sâu vào
huyết quản. Đang say sưa với ý nghĩ cô đi thẳng đến gốc cây mà Sa
Môn Cồ Đàm ngồi. Cô khựng lại khi chỉ còn cách ngài hai ba thước, cô
ngẻo đầu kinh ngạc ngắm nhìn người lạ mặt. Cô thấy trước mắt một
người có khuôn mặt hóp sâu, tóc đánh cao trên đỉnh đầu râu ria dài
quanh mặt. Tuy vậy trong vẻ hóc hác cô vẫn thấy ông ta toả ra một cái
gì vô cùng cao quý. Cô nghĩ chắc đây là một vị trời, thế rồi cô bỗng
nhớ đến những câu chuyện cô tự kể, trong đó có những cô bé ngèo như
cô nhưng đầy lòng trung hậu đã biết cúng dường những vị trời nên
được phước báo to lớn. Thế rồi cô cởi chiếc bầu đeo bên người xuống,
lấy chiếc bình bát đổ vào đó đầy cháo sữa mà cô đã mang theo để
ăn trong ngày, xong xuôi cô lại cởi chiếc bầu đựng mật trân trọng
trút ra từng giọt mật thơm ngậy vào bát cháo. Tất cả cô làm bằng
lòng thành kính và tâm ngây thơ của một cô bé tin vào chuyện thần thoại
mà cô thường tự sáng tác ra để giải buồn. Cô kính cẩn quỳ xuống
dâng lên bát cháo: “Hỡi đấng phạm thiên cao quý, con xin ngài hãy nhận
nơi con bát cháo sữa này với tất cả lòng thành và ban cho con khỏi sự
khổ đau“. Nghe tiếng cô bé, Sa Môn Cồ Đàm rời khỏi định: Ta không phải
là một vị trời ta chỉ là một đạo sĩ thường, trên con đường đi tìm
giác ngộ. Khi cô bắt gặp ánh mắt của ngài bỗng một luồng hơi ấm tràn
ngập tim cô, cô cảm nhận được một tình thương rộng lớn trong đôi mắt
ấy và giọng nói yếu ớt của ngài chứa đầy thiết tha. Có lẽ ngài sợ
cô phải thất vọng vì ngài không phải là một vị trời nên không thể
ban bố cho cô đặc ân hết khổ chăng? Nhưng bây giờ thì cô đâu cần nó
nữa cái cảm nhận mà ánh mắt ngài đã ban cho cô đã đủ lắm rồi: “Dầu
ngài là trời hay chỉ là đạo sĩ cũng xin nhận nơi con sự cúng dường này.
Con nguyện cầu cho ngài được giải thoát giác ngộ như mục tiêu hành đạo
của ngài“. Ngài đã nhận lời, cô bé vui vẻ đứng lên chạy theo bầy
dê đã đi khá xa, chạy một đỗi cô quay lại vẫy tay như chào tạm biệt.
Trong lúc Sa Môn Cồ Đàm dùng cháo thì năm anh em đạo sĩ theo ngài cũng
tìm đến nơi họ vô cùng khinh ngạc: Ngài phá bỏ lời nguyện à? Sa Môn Cồ
Đàm đã chịu thua trước sự hành xác và trở lại với cuộc đời lạc
thú sao? Rồi không đợi ngài nói lời nào, họ quày quả bỏ đi. Không như
đứa bé chăn dê, họ không hề ngoái cổ lại nhìn một lần cuối để có
thể bắt gặp ánh mắt sáng ngời đầy tình thương của ngài như thầm hứa
hẹn sẽ đem lại ánh sáng giải thoát cho họ khi ngài được giải thoát.
Dùng xong bát cháo ngài lia cái bát xuống giòng nước
nhìn cái bát theo giòng trôi ngài phát lên lời nguyện: Ta nguyện đạt được
giác ngộ rốt ráo, nếu lời nguyện ta thành thì bát nước hãy trôi ngược
giòng. Khi đó bỗng nhiên từ đâu xuất hiện một con rắn hổ mang bơi đến
bên chiếc bát và đưa nó đi ngược lại phiá ngài, trên bầu trời lại
có tiếng chim kêu vang. Một bóng chim với đôi cánh vàng ánh như kim loại
đang lượn vòng trên không rồi nó xà xuống thật nhanh cấp chiếc bát
ngài bay vút vào hư không.Ạ Ngài băng qua bên kia sông đến bên một gốc
cây cao su định ngồi xuống bỗng có người bán cỏ đi ngang dâng cho ngài
một bó cỏ Kusa (kiết tường). Lấy cỏ làm nệm ngài phát nguyện phải
đạt đạo trước khi rời chỗ ngồi này. Sau 49 ngày ánh sáng trí tuệ đã
bừng dậy trong ngài. Từ đó tên làng được nhiều người biết đến,
nhưng không phải cái tên Uruvela mà là Bodh-Gaya, nơi thành đạo; cây cao su
ngài ngồi cũng đã được đổi tên thành cây Bodhi (Bồ đề, giác ngộ).
Quá trình tu tập
và chứng đắc.
Trong kinh đức Phật đã tường thuật về những
nỗ lực của ngài như sau: Này Aggivessana, rồi ta suy nghĩ: ‘ta hãy nghiến
răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục
tâm, đánh bại tâm!’ Này Aggivessana rồi ta nghiến răng, dán chặt lưỡi
lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi
ta đang làm như thế, mồ hôi toát ra ướt đẫm nách của ta. Này
Aggivessana như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay
nắm lấy hai vai, có thể chế ngữ, nhiếp phục và đánh bại người ấy.
Này Aggivessana, dầu ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm
được an trú không dao động, nhưng thân của ta vẫn bị khích động, không
được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại
khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi ta, được
tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.
Này Aggivessana, rồi ta suy nghĩ như sau: ‘ta hãy tu
thiền nín thở’. Và này Aggivessana, rồi ta nín thở vô, thở ra ngang qua
miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi ta nín thở như thế thì một tiếng
gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana giống như
tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn.
Cũng vậy này Aggivessana tiếng gió thổi ngang lỗ tai ta khi ta nín thở
như thế. Này Aggivessana, dầu ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực,
dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của ta vẫn bị
khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do
tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy
khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.
Này Aggivessana rồi ta suy nghĩ như sau: ‘ta hãy tu
thiền nín thở’. Và này Aggivessana, rồi ta nín thở vô, thở ra ngang qua
miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi ta nín thở như thế
thì ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu ta. Này Aggivessana ví
như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc,
cũng vậy này Aggivessana, khi ta nín thở như thế thì ngọn gió kinh khủng
thổi lên đau nhói trong đầu ta. Này Aggivessana, dầu ta có chí tâm tinh cần,
tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân
của ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi
sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này
Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi
phối tâm ta.
Khi đó Bồ tát đã liên tục dùng đủ loại hình
thức để cảm thọ sự khổ trong việc tu nín thở, những cảm giác nóng
kinh khủng cắt ngang qua bụng như một người đồ tể thiện xảo hay đệ
tử người đồ tể cắt ngang qua bụng với một con dao cắt thịt bò sắc
bén, những cảm giác nóng kinh khủng khởi lên trong thân như bị hai người
lực sĩ sau khi nắm cánh tay một người yếu hơn nướng người ấy đốt
người ấy trên một hố than hừng
Lại nữa chư thiên thấy vậy nói như sau: ‘Sa Môn Gotama đã chết rồi.’
Một số chư thiên nói như sau: ‘Sa Môn Gotama chưa chết, nhưng Sa Môn
Gotama sắp sửa chết’. Một số chư thiên nói như sau: ‘Sa Môn Gotama chưa
chết. Sa Môn Gotama, cũng không phải sắp chết. Sa Môn Gotama là bậc A La
Hán, đời sống một A La Hán là như vậy’
Sau đó thì bồ tát quyết định tuyệt thực và
chư thiên đã đến và nói như sau: “Này thiện hữu, Hiền giả chớ hoàn
toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu Hiền giả có hoàn toàn tuyệt thực,
chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Hiền
giả, nhờ vậy Hiền giả vẫn sống.“ Nhưng ngài đã suy nghĩ: “Nếu ta
hoàn toàn tuyệt thực và chư thiên này đổ các món ăn chư thiên ngang qua
các lỗ chân lông cho ta và nhờ vậy ta vẫn sống, thời như vậy ta tự dối
ta“ và ngài đã bác bỏ những điều thỉnh cầu ấy của chư thiên.
Đức Phật đã giảng về quá trình tuyệt thực của
ngài bắt đầu từ cách dùng từng giọt súp đậu và vì vậy mà thân
ngài trở nên vô cùng gầy yếu. Tay chân ngài trở thành như những ngọn cỏ
hay những đốt cây leo khô héo: bàn trôn của ngài trở thành như móng
chân con lạc đà, xương sống phô bày giống như một chuỗi banh, xương
sườn gầy mòn giống như rui cột một nhà sàn hư nát, con ngươi nằm sâu
trong hố mắt giống như nước long lanh nằm sâu thẳm trong giếng nước thâm
sâu, da đầu trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị
cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn khô cằn. Ngài nói rằng
khi đó ngài rờ vào bụng mình thì gặp phải xương sống nếu rờ xương
sống thì gặp phải da bụng, vì ngài ăn quá ít nên da bụng bám chặt vào
xương sống. Khi ngài muốn đứng dậy để đi đại tiện hay tiểu tiện
thì liền ngã quyuống vì quá yếu. Nếu ngài muốn xoa dịu thân thể, lấy
tay xoa bóp chúng, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân ngài. Có người thấy
ta thì gọi là Sa Môn Gotama có da đen. Một số người gọi ta là Sa môn
Gotama da không đen nhưng có da màu xám. Một số người khác thì cho rằng
Sa môn Gotama da không đen, không xám mà lại vàng sẫm.
Khi đó bồ tát đã suy nghĩ: “Thuở xưa có những
sa môn hay bà la môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ
đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không
thể có gì hơn nữa. Về tương lai và trong hiện tại, có những sa môn hay
bà la môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt,
khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn
nữa. Nhưng ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế vẫn không chứng
được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc thánh. Hay
là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?Ϡ
Và ngài lại hồi tưởng về thuở trước khi vua Tịnh Phạn đang cày
và ngài ngồi dưới gốc cây Diêm Phù Đề đã ly dục, ly pháp bất thiện
chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm, có tứ. Khi nhớ đến điều đó ngài đã tự hỏi hay đó chính
là con đường dẫn đến giác ngộ. Và ngài đã khẳng định chính con đường
ấy đưa đến giác ngộ. Ngày lại cân nhắc về những lạc thọ có được
khi ly dục và ly pháp bất thiện và biết rằng không thể chứng đạt được
lạc thọ đó với một cái thân yếu gầy như hiện trạng. Khi ấy ngài đã
dùng thô thực và dùng cơm chua, nên năm vị sa môn theo ngài bấy lâu đã bỏ
ngài đi trong tâm chán ghét: “Sa môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất,
từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc.
Khi ngài đã hồi phục sức khoẻ, ngài liền dùng phương pháp ly dục,
ly pháp bất thiện thiền định, tâm ngài đã dễ dàng chứng nhập vào sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền rồi tứ thiền. An trụ trong tứ thiền, tâm
ngài vô cùng nhu nhuyễn, trong sáng như một mặt gương mà trong đó mọi vật
đều soi tỏ một cách trung thực. Khi tư tưởng ngài trở nên lắng dịu,
tinh khiết, trong sạch, không còn tham ái và ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh,
vững chắc và không thể lay chuyển, ngài đã hướng tâm về sự hiểu biết
những đời sống thời quá khứ (túc mạng minh). Ngày đã dần nhớ được
kiếp thứ nhất, kiếp thứ hai, thứ ba rồi trăm kiếp ngàn kiếp cho đến
vô lượng kiếp về trước mỗi mỗi ngài đều nhớ rõ, trong mỗi kiếp
tên ngài là gì, cha mẹ ngài là ai, lối sống ngài thế nào và chết thế
nào, rồi tái sanh như thế nào. Từ đó ngài biết rõ về sự tái sanh và
các đời quá khứ.
Vào canh một đêm giác ngộ sự hiểu biết về
đời quá khứ của ngài hoàn toàn viên mãn tột cùng. Đây là sự chứng
đắc thứ nhất: Túc Mạng Minh. Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến
quá khứ. Ngài hướng tâm thanh tịnh về ‘sự tri giác hiện tượng Diệt
và Sanh của chúng sanh’ (thiên nhãn minh) với tuệ nhãn tinh khiết và siêu
phàm ngài đã nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào một kiếp
khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người
xấu, kẻ hạnh phúc người khổ đau, tất cả đều trải qua sanh và diệt,
tuỳ hành vi tạo tác của mỗi người. Ngài biết rằng những người này
do hành động lời nói và tư tưởng xấu xa nguyền rủa bậc thiện trí
cao thượng, tin tưởng không chơn chánh và có nếp sống của người tà kiến,
sau khi thể xác phân tán và sau khi chết, đã tái sanh vào những trạng
thái bất hạnh. Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói
và tư tưởng tốt đẹp, không nguyền rủa bậc thiện trí cao thượng, tin
tưởng chơn chánh và có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thể
xác phân tán và sau khi chết, đã tái sanh vào những cảnh trời an vui hạnh
phúc.
Như vậy với thiên nhãn minh, ngài mục kích sự phân tán và sự cấu
hợp trở lại của chúng sanh.
Đây, hẳn vậy, là tuệ giác thứ nhì mà ngài đã
ngộ trong canh giữa đêm thành đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến tương lai, ngài hướng tâm
về thanh tịnh về ‘tuệ hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm luân’
(lậu tận minh).
Tuỳ trường hợp ngài nhận thức: ‘Đây là phiền não, đây là sự
chấm dứt phiền não, đây là con đường dẫn đến chấm dứt phiền não’.
Cùng một thế ấy, ngài nhận định: ‘Đây là ô nhiễm, đây là sự chấm
dứt ô nhiễm, đây là con đường dẫn đến chấm dứt ô nhiễm’. Nhận
thức như thế tâm ngài giải thoát khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng),
hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm
của vô minh).
Được giải thoát, ngài biết rằng: “ta đã được giải thoát“
và ngài nhận thức: “tái sanh đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã
được viên mãn, đã làm xong những việc phải làm, không còn trở lại trạng
thái này nữa“.
Đây là tuệ giác thứ ba mà ngài đã chứng ngộ
trong canh ba, đêm thành đạo.
Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã
tan và ánh sáng đến.
Từ đây trên thế giới đã có thêm một nhà hiền triết với trí tuệ
siêu phàm bậc nhất, một thánh giả với khả năng cứu độ không ai hơn,
một vị chiến thắng, một vị đáng để nhận đồ cúng dường, một vị
mà mọi người nhìn lên với tất cả niềm tôn kính, một vị thầy của
trời và người, một vị Phật.
Sau khi chứng đạo: trong tuần lễ đầu sau
khi thành đạo đức Phật đã ngồi bất động nơi Kim Cang toà, theo kinh
điển đại thừa thì trong ba tuần lễ đầu ngài đã thuyết kinh Hoa
Nghiêm cho chư thiên và bồ tát ở các cõi trời nghe, nhưng vì kinh lý quá
cao siêu khó người lãnh hội nên thế tôn đã chuẩn bị nhập niết bàn.
Khi đó thì những vị đế thích đã hiện ra để cung thỉnh Phật trụ thế
mà thuyết kinh vì hai nguyên nhân: nguyên nhân thứ nhất vì các vị Phật
thời quá khứ cũng dùng phương tiện chia thành nhiều cấp bậc giáo lý để
giảng dạy, nguyên nhân thứ hai là để thực hiện lời nguyện độ sanh của
ngài trước khi bước vào tu tập cũng như những lời hứa của ngài với
vua Tần Bà Sa La và bao nhiêu người khác nữa. Đức Phật vì thế đã bằng
lòng và bắt đầu thuyết những phép tu thuộc về tứ diệu đế (bốn chân
lý tuyệt hảo)Ạ rồi sau mới dần giảng dạy những kinh điển có tính
cách triết lý đại thừa cao hơn theo như bài kệ:
Hoa Nghiêm tối sơ
tam thất nhật
A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát,
Nhị thập nhị niên bát nhã đàm,
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Đây là cách phân chia của ngài Thiên Thai thánh giả
bên Trung Quốc. Nhưng trên thực tế thì kinh điển đức Phật đã thuyết
ở nhiều nơi và nhiều đề tài khác nhau tuỳ theo trình độ của thính
chúng. Về sau ngài A Nan mới hệ thống hoá thành những bộ kinh.
Riêng về truyền thống của Nam Tông thì lấy
năm bộ Nikaya làm gốc. Trong đó phần chính yếu nói về lý duyên khởi
và những giáo lý nhân duyênẠ mà theo họ thì đức Phật đã nghiền ngẫm
trong tuần lễ đầu sau khi giác ngộ.
Trong tuần lễ thứ hai đức Phật đã đứng cách cây bồ đề một
khoảng xa để có thể nhìn cây một cách chăm chú biết ơn đã che chở
cho ngài trong những ngày thiền định. Hàng phật tử ngày nay cũng đem lòng
kính trọng cây bồ đề này vì chính nơi đó mà đức Phật ra đời. Cũng
như trong kinh cũng ghi lại sự tích cây bồ đề A Nan, đức Phật đã từng
dạy có thể dùng những vật mà gợi nhớ đến Phật để tôn thờ cũng
được phước báo lợi lạc, thì việc thờ cúng cây bồ đề cũng nằm
trong ý nghĩa này.
Vào tuần thứ ba ngài đã đi kinh hành dọc theo bên trái cây bồ đề.
Tương truyền rằng vì chư thiên thấy ngài không rời khỏi Bồ Đề Đạo
Tràng nên đã hoang mang không biết ngài đã chứng ngộ chưa và vì để
chư thiên hiểu rõ sở đắc của mình, ngài đã dùng thần lực tạo ra
đường kinh hành bằng ngọc này.
Trong tuần thứ tư đức Phật đã suy gẫm về những vấn đề thuộc
về siêu hình học của A Tỳ Đạt Ma. Truyền thuyết cho rằng khi ngài tư
duy về những lý nhân quả tương duyên thì thân tâm ngài vô cùng tinh khiết
và phóng ra những vùng hào quang quý báu vô cùng.
Tuần thứ năm ngài ngồi dưới cây Ajapala để chứng
nghiệm hạnh phúc giải thoát. Khi ngài xuất định có một vị Bà La Môn
ngã mạn đã hỏi ngài: “Này tôn giả Cồ Đàm, làm thế nào để trở thành
một Phạm thiên và những điều kiện nào để trở thành phạm thiên?. Đức
Phật đáp: “Người kia đã xa lánh mọi điều xấu xa tội lỗi, không
còn ngã mạn, đã thanh lọc mọi ô nhiễm, thu thúc lục căn, thông suốt
các pháp học và đã chơn chánh sống đời phạm hạnh thiêng liêng, người
ấy được coi là thánh nhơn (phạm thiên). Đối với người ấy không còn
có sự bồng bột, dầu ở nơi nào trên thế gian“
Từ cây Ajapala đức Phật đến bên cây Mucalinda để chứng nghiệm về
hạnh phúc giải thoát. Khi đó trời bỗng mưa tầm tã. Con mãng xà vương
Mucalinda liền bò lên và dùng thân quấn quanh đức Phật bảy vòng và dùng
đầu để làm tàng che mưa đỡ gió cho ngài.
Vào tuần thứ bảy ngài ngụ tại cây
Rajayatana để chứng nghiệm an lạc của quả vị giải thoát hoàn toàn. Sau
khi nhận sự cúng dường của hai vị thương gia đức Phật đã rời khỏi
Bồ Đề Đạo Tràng đi về thành Ba La Nại để tìm năm người đồng tu
trước kia mà truyền đạt những gì ngài đã chứng ngộ.
Trong suốt thời gian đức Phật đi tìm giác ngộ thì tin tức về
ngài cũng được liên tục đưa về cung thành Ca Tỳ La Vệ. Khi hay tin thái
tử bỏ vương phục đổi lấy y vải thì nàng Da Du Đà La cũng như thế từ
bỏ vương phục mặc chiếc áo bằng vải, khi thái tử tu tập khổ hạnh
thì nàng cũng hành xác mình tương tự. Bao nhiêu vương tôn đến để dạm
hỏi nàng nhưng nàng đều từ khước. Trước khi tin đức Phật giác ngộ
truyền về đến Ca Tỳ La Vệ thì một tin khác về cái chết của ngài đã
làm toàn thể kinh thành khóc than thương tiếc. Sự kiện này nói lên cái bản
tánh của thái tử Sĩ Đạt Ta phải là một con người vô cùng đặc biệt
trước khi ngài ra đi để có thể để lại bao nỗi nhớ nhung như thế cho
mọi người. Là một con người đặc biệt nên khi chứng ngộ quả vị của
ngài cũng là quả vị tột cùng, quả vị Phật.
Dữ kiện lịch sử của
Bồ Đề Đạo Tràng.
Người đến Bồ Đề Đạo Tràng để tỏ lòng
tôn kính đầu tiên mà sách sử biết đến có lẽ là vua A Dục. Nhưng
cũng chính vì vậy mà ngày nay có nhiều ý kiến về những tác phẩm của
ngài tại đây. Khi A Dục vương đến đây chiêm bái thì ngài đã cho xây dựng
những gì? Nhiều nhà học giả cho rằng chỉ có Kim Cương toà và một vài
trụ đá là của chính vua A Dục xây dựng, còn những kiến trúc khác là
tác phẩm của hậu nhân.
Theo những nhà nghiên cứu thì có rất nhiều
dữ kiện để suy luận, nhưng rốt cuộc đến nay vẫn chưa có một kết
luận nào có thể gọi là chính xác 100% cả. Tuy nhiên vẫn có hai đường
hướng kết luận được đưa ra, một là của ông Cunninghamvà một của
ông Barua. Ông Cunningham thì cho rằng ngôi tháp hiện nay chúng ta thấy
chính do vua A Dục xây dựng vào thế kỹ thứ III trước tây lịch. Trong
khi ông Barua thì nghĩ rằng ngôi tháp hiện tại chỉ được xây dựng sau
khi ngài Pháp Hiển đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng và hoàn thành trước khi
ngài Huyền Trang đến đấy. Tuy nhiên vẫn có một giả thuyết khác được
xem như là đáng chú ý, đó là giả thuyết của ông R.L.Mitra. Ông Mitra nghĩ
rằng theo những chữ khắc ở những nền tượng hay trụ đá cho ta thấy
những văn hoá thời Gupta. Tuy nó không phải là một dẫn chứng cụ thể
cho niên đại của ngôi tháp, nhưng nó vẫn tạo cho ta cái ấn tượng là
tháp ấy phải đã hiện hữu từ thế kỹ thứ hai sau tây lịch, và như thế
nếu ta tiếp tục kết luận thì ngôi tháp phải được xây dựng khoảng
vào thế kỹ thứ nhất sau tây lịch. Vì vậy ông ta nghĩ rằng: “Chính nơi
ngọn tháp ngày nay đứng, đã có một kiến trúc của A Dục vương xây
nên, nhưng chắc chắn nó đã không phải là một ngôi tháp. Về sau không
hiểu vì nguyên nhân nào nơi đó đã được nhường chỗ cho ngọn tháp
[mà như ông đã kết luận] vào khoảng thế kỹ thứ nhất sau tây lịchϬ
ông ta còn dựa theo một bức tượng Phật đã được tìm thấy trong một
miếu nhỏ cửa thành nam của khu tháp. Tượng đá rất cũ và mang những chữ
khắc bằng tiếng Phạn thời Gupta (thế kỹ thứ II sau tây lịch).
Có rất nhiều lập luận được đưa ra đồng
thời với những dẫn chứng để biện minh cho tư tưởng của mình về
ngôi tháp này. Tuy đây không phải là một sách nghiên cứu lịch sử theo
khuôn khổ khoa học, nhưng chúng tôi cũng xin đưa ra một số dữ kiện để
quý đọc giả tham khảo.
Bia ký thứ VIII của vua A Dục ghi rằng: “Trôi
theo giòng thời gian, nhà vua đã làm một chuyến du hành để săn bắn cũng
như thực hiện một số mục đích khác. Nhà vua Priyadarsin, người yêu dấu
của chư thiên, đã khởi hành đến Sambodhi. Từ đó nó trở thành nơi chiêm
bái của những người ngoan đạo. Dĩ nhiên lối văn thơ cổ Ấn Độ đã
gây không ít bàn luận trong giới nghiên cứu vì đoạn khởi hành đến
Sambodhi mang hai ý nghiã, một là nhà vua đi đến Bồ Đề Đạo Tràng để
chiêm bái nơi đức Phật đã đạt được giác ngộ (Sambodhi), hai là nhà
vua bắt đầu quá trình tu tập của mình hầu đạt được giác ngộ như
Phật.
Theo một số lập luận thì vua A Dục đã cho xây
một loại điện thờ dưới gốc cây bồ đề theo mô hình giống như
nhà thuỷ tạ không có nóc. Có nghĩa là chỉ có những cột trụ vây quanh
toà mà thôi. Theo sách ghi lại thì nhà vua đã cho làm một toà kim cang bằng
đá, bên trên có khắc các hoa văn. Phía trước toà có bốn cây trụ dẹp,
bên sau toà là cội bồ đề. Mỗi bên cội bồ đề đều có biểu tượng
của tam bảo và bánh xe pháp trên hai cây cột ngắn. Hai bên kim cang toà lại
có hai nhà thuỷ tạ tương tự như tại kim cang toà. Bên trên kim cang toà
được ghi nhận rằng không hề có an trí tượng Phật bởi vua A Dục. Điện
Kim Cang Toà nằm trong đền thờ chánh ngày nay. Nếu chúng ta tinh ý sẽ thấy
những trụ đá gãy nơi những góc tường.
Ngoài ra những nhà khảo cổ đã đào được nơi nền của kim cang toà
một cục đất nung trong đó có nhiều tiền vàng, đồ đất, đá v.v. tất
cả đều là những y cứ để họ tìm hiểu thêm về niên đại của tháp.
Nhưng không phải chỉ những khai quật tại trung tâm Bồ Đề Đạo Tràng
đã làm những nhà khảo cổ lưu tâm mà ngay cả một tấm dĩa bằng đất
đào được gần Patna, cũng như những mô hình đại tháp được đào lên
tại Mrohoung và Bồ Đề Đạo Tràng cũng đã làm nhức óc các nhà nghiên cứu.
Cái dĩa bằng đất chôn sâu sáu inch dưới mặt
đất gần Patna trình bày nhiều họa đồ, có ngôi tháp đại bồ đề tại
trung tâm. Ngôi đền hình như có một vòm cong với một tượng Phật ngồi
chính giũa. Hai bên là hai trụ đá tròn với ba đỉnh nhọn bên trên và những
thiên thần bay lơ lững giữa không gian. Khung viên của điện được diễn
tả trên tấm diã được bao bọc bởi một hàng rào đá vuông vức và một
lối vào phía trước. Hai bên cửa vào là hai tượng người đứng phiá
trong của chu vi điện thờ. Cả hai đều có một vòng hào quang giống hệt
như của tượng ngồi bên trong điện. Bên trong khuôn viên của điện có một
trụ đá vua A Dục đứng bên phải lối vào với tượng voi trên đầu
trụ và những dòng chữ chạy dài theo chiều của cột..... Ngôi đền được
bao bọc chung quanh bởi những ngôi đền khác, trong đó những sự kiện
liên quan đến cuộc đời đức Phật và tiền thân của ngài được trình
bày một cách mỹ thuật. Tất cả các ngôi đền đều có tường vây bằng
đất hay đá...
Hai mô hình đại tháp được tìm thấy rất giống
đại tháp hiện nay nhưng lại không có bốn tháp nhỏ ở bốn góc tháp và
hiện nay đang được tàng trữ tại viện bảo tàng Calcutta.
Để xác định niên đại của ngôi tháp những sử
liệu của các nhà chiêm bái Trung Quốc cũng đã đóng góp không ít, nhất
là hai cuốn ký sự của ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang. Nhân đây
chúng tôi cũng xin dịch lại để chư vị có thể tham tường.
Ngài Pháp Hiển đã ghi lại như sau: “Trong thành phố [Gaya] này mọi
nơi đều điêu tàn và bỏ hoang như nhau. Từ đó đi về phía nam 20 lý
chúng tôi đã đến nơi bồ tát khi còn sống đã thực hành sáu năm khổ hạnh.
Nơi đây cây cối mọc um tùm. Từ nơi này đi về phía tây ba lý là đến
nơi đức Phật đã bước xuống nước để tắm và phạm thiên đã oằn
nhánh cây xuống để ngài vịn vào đó mà leo lên. Đi về phía bắc thêm
hai dặm nữa chúng ta sẽ đến nơi mà cô bé quê đã dâng cho ngài bát
cháo sữa. Đi thêm hai lý nữa về phiá bắc là tảng đá nơi đức Phật
ngồi tựa vào gốc cây nhìn về hướng đông để dùng bát cháo sữa. Gốc
cây và tảng đá ngày nay vẫn còn. Tảng đá có diện tích khoảng sáu
chân độ vuông (feet) và cao hai chân độ. Ở trung Ấn nóng và lạnh tương
đối đều nhau nên thực vật có thể sống đến cả mấy ngàn năm, và một
số có thể sống cả mười ngàn năm. Từ đây đi về phía đông bắc nửa
Yojana chúng tôi đến một hang đá, trong đó ngài đã ngồi kiết già nhìn
về hướng tây và tự nhủ rằng: ‘Nếu đã đến thời tôi đạt được
giác ngộ, thì hãy hiển lộ một vài uy lực của tâm linh’. Lập tức
ngay trên bức tường đá hiện lên bóng của đức Phật, dài độ ba feet.
Cái bóng này vẫn còn thấy rõ. Khi đó tất cả cõi trời và quả đất
rung động chư thiên trên không trung đã gọi to rằng: ‘Đây không phải
là nơi mà một vị Phật (quá khứ và tương lai) chứng đắc giác ngộ;
Không tới nửa Yojana về phía tây nam phía bên dưới cây Pei-to chính là nơi
mà chư Phật (quá khứ và tương lai) đến địa vị giải thoát.’ Khi chư
thiên đã nói những lời trên liền hiện ra trước ngài, vừa đi vừa ca
muá để dẫn ngài đến nơi mà họ đã đề nghị. Bồ tát đã đứng dậy
và đi theo họ. Còn cách gốc cây độ ba mươi bước phạm thiên đã giao
cho ngài nắm cỏ Kusa. Bồ tát nhận nắm cỏ đi mười lăm bước thì 500
con chim xanh bay về hướng ngài, sau khi bay nhiễu quanh ngài ba vòng liền bay
đi. Bồ tát đã đi đến dưới gốc bồ đề trải nắm cỏ kiết tường
và ngồi quay về phía đông. Khi đó chúa loài quỷ, Mara, đã khiến ba cô
thiếu nữ mỹ miều từ phương bắc đến để dụ dỗ ngài, trong khi Mara
thân hành đến từ phía nam. Khi đó bồ tát đưa một ngón chân chạm vào
đất cả quân đội của Mara đều khiếp đảm và ba cô gái trở nên xấu
xí như mấy bà phù thuỷ. Tất cả những nơi đã nêu trên, như nơi ngài
tu khổ hạnh sáu năm, và những nơi khác đều có xây đài để kỷ niệm
và đặt trong đó những tượng Phật mà ngày nay vẫn còn. Sau khi ngài đã
giác ngộ, đức Phật ngồi bất động bảy ngày dưới gốc cây để hưởng
an lạc của vị giải thoát; Nơi đây người ta đã dựng một ngọn tháp,
cũng như ở những nơi ngài đã đi kinh hành dưới bóng cây bồ đề bảy
ngày từ hướng đông về hướng tây....