- TƯ TƯỞNG VÀ PHONG CÁCH
THIỀN TÔNG
- Cự Tán
Từ khi Lục Tổ Huệ Năng chính thức
kiến lập môn đình Thiền tông về sau trải qua sự truyền đăng hoằng hoá
cuả Ngũ gia Thất tông, sử Phật giáo Trung Quốc cơ hồ trở thành sử Thiền
tông, âm ba vang dội của nó đến nay vẫn còn. Hơn một nghìn năm nay, Thiền
tông ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của Phật giáo Trung Quốc, không
phải là việc giản đơn khi muốn trình bày cặn kẽ về mặt tích cực cũng
như chỗ thiên chấp và biến đổi của nó. Nay tôi chỉ vận dụng thể
tài sử thoại để nói tổng quát về căn nguyên tư tưởng và vài đặc
điểm về phong cách Thiền tông.
Chương I
Thiền tông chiếm một vai trò trọng
yếu trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc là một sự thật mà ai nấy đều
công nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có rất nhiều
sự giải thích khác nhau. Có người nói: Thiền tông thuộc phạm vi của
Bát-nhã ba-la-mật, tham cứu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chẳng
đồng với thiền định, vì thế nó thịnh hành. Lại có người nói: Tư
tưởng Thiền tông và tư tưởng Phật giáo Ấn Độ có nhiều điểm khác
nhau, Thiền tông là một biểu hiện của Phật giáo sau khi truyền vào Trung
Quốc chịu sự đồng hóa của tư tưởng truyền thống Trung Quốc mà phát
sinh. Do vì Phật giáo đã đồng hóa với tư tưởng truyền thống của
Trung Quốc nên thích hợp với sự ưa chuộng của nhân dân Trung Quốc. Vì
thế Thiền tông chiếm một vai trò trọng yếu trong lịch sử Phật giáo
Trung Quốc. Hai quan điểm vừa kể cố nhiên là dựa vào sự thật lịch sử
và lý luận, nhưng nghiên cứu kỹ lại thì biết là chưa thỏa đáng. Tại
sao vậy ?
1. Đại triệt đại ngộ minh tâm
kiến tánh và thiền định không thể dứt khoát phân khai. Muốn giảng rõ
về vấn đề này, có thể chia làm 3 phần :
a/ Chữ Thiền của Thiền tông hoặc
Thiền định là dịch âm của tiếng Phạn chỉ cho hiện tượng ngưng tập
hoàn toàn của sinh lý và tâm lý con người. Các phương pháp tu tập thiền
định cho đến các tiến độ và giai đoạn của thiền định ở trong di sản
văn hóa cổ đại Trung Quốc và Ấn Độ đều có tư liệu vô cùng phong
phú. Nếu nói riêng ở Ấn Độ thì trước khi Đức Thế Tôn Thích-ca đản
sinh, các tôn giáo Ấn Độ đã có rất nhiều người chuyên tu thiền định
ở trong núi rừng, đồng nội. Như kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm 7
ghi: "Có vị tiên tên A-la-la với ba trăm đệ tử thường dạy họ tu
định vô sở hữu xứ". "Thành Vương Xá có tiên nhân Ma-la-chi tử
tên Vi-ô-đặc-ca với bảy trăm đệ tử, thường dạy tu định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ". Sau khi Thích-ca xuất gia đầu tiên Ngài có đến thỉnh
giáo với các tiên nhân như A-la-la... đây là một sự kiện lịch sử mà
Phật giáo đồ đều biết .
Theo kinh Phổ Diệu 5, A-la-la... tu tập
thiền định đều không thầy mà tự ngộ. Đủ thấy thiền định là một
hiện tượng phổ thông trên sinh lý và tâm lý của con người, bất cứ
người nào hễ chịu tu thì đều đạt đến, không có gì hiếm có, lạ
lùng cả. Vì thế, sau khi Thế Tôn Thích-ca theo A-la-la... tu tập tứ thiền,
bát định, Ngài từ giã họ, một mình đến dưới cội bồ-đề tư duy.
Nhưng Luận Đại Trí Độ 7 ghi: "Tất cả chư Phật ở trong Đệ tứ
thiền hành kiến đế đạo, đắc A-na-hàm, tức thời trong mười sáu tâm
đắc Phật đạo.Trong Đệ tứ thiền xả bỏ thọ mạng , ở trong Đệ tứ
thiền khởi nhập Niết-bàn vô dư".Thành Duy Thức Luận Sớ Sao 9 ghi:
"Phật muốn biết tâm của tất cả mọi người ,phải nhập biên tế
định thượng phẩm Đệ tứ thiền mới có thể biết". Vậy Đức Thế
Tôn Thích-ca không có và cũng chẳng thể bỏ thiền định, vì thế thành
Phật rồi, Ngài luôn luôn khuyến khích đệ tử siêng tu thiền định. Đối
chiếu trước sau, dường như quá mâu thuẫn, nhưng thật ra không xung đột,
vì người tu tập thiền định cảm thấy các hiện tượng đối với thân
tâm mà trước đây chưa từng trải qua, như làđiều thân đặc biệt khinh
an thơ thới, ý niệm đặc biệt điều nhu rỗng lặng ..v..v... ,rất dễ
khiến cho người ta ở ngoài thế giới hiện thực , phát sinh ảo giác thần
bí. Nếu lấy những tứ ảo giác thần bí ấy làm thực tại, rồi kiến lập
tín ngưỡng sùng bái thần linh hoặc chủ nghĩa thần bí. Phật giáo gọi
đó là ngoại đạo, chẳng thể giải quyết vấn đề sinh tử. Trái lại,
nếu lấy các hiện tượng từ thiền định phát sinh tiến một bước thể
nhận cái lý của nó thì có thể thấu hiểu sâu sắc về vũ trụ và nhân
sinh, đó gọi là trí huệ. Trí huệ thấu triệt thì được gọi là bồ-đề.
Do đó nói " Định hay sanh huệ", mà thành Phật cũng chẳng lìa
"Đệ tứ thiền".
b/ Tứ Gia Ngữ Lục 1 ghi: " Niên
hiệu Khai Nguyên có sa-môn Đạo Nhất trụ ở Viện Truyền Pháp hằng ngày
tọa thiền, Sư (Nam Nhạc Hoài Nhượng) biết là pháp khí, đến hỏi:
"Đại đức tọa thiền để làm gì ?" Đạo Nhất đáp : "Để
làm Phật". Sư mới lấy một tấm gạch mài trên tảng đá trước am của
Đạo Nhất. Đạo Nhất hỏi : "Sư mài tấm gạch để làm gì ?" Sư
đáp : "Để làm gương". Đạo Nhất: "Mài gạch có thể làm gương
được sao?".Sư nói: "Mài gạch đã chẳng thành gương được thì
tọa thiền có thể thành Phật được sao ?" . Nhìn từ mặt ngoài của
câu chuyện nổi tiếng này thì thấy dường như Thiền tông phản đối thiền
định, nhưng kì thật không phải vậy đâu! Vì lúc ban đầu Phật giáo
truyền vào Trung Quốc khá chú trọng tu thiền, về sau đến các đời
Lương, Trần, Tùy cho đến đầu đời Đường, các thiền sư nổi tiếng
ở hai miền Nam Bắc sông Trường Giang (xem trong Thiên Tập Thiền, Tục Cao
Tăng Truyện) chính truyền 95 người, phụ 38 người, cộng chung 133 người,
so với 210 của Cao Tăng Truyện thì nhiều hơn 67 người thì có thể tưởng
tượng được sự chênh lệch cũng rất lớn. Như Lạc Dương Già Lam Ký 2
ghi :
"Tỳ kheo Huệ Ngưng ở chùa
Sùng Chân chết, bảy ngày sau sống lại, qua phán xét của vua Diêm La, vì gọi
lầm tên nên được miễn. Huệ Ngưng nói đủ về thời quá khứ, có năm
thầy tỳ kheo kết bạn. Một tỳ kheo là Trí Thánh ở chùa Bảo Minh, khổ
hạnh tọa thiền được lên Trời. Có một tỳ kheo tên Đạo Phẩm ở chùa
Bát- nhã đã tụng kinh Niết-bàn cũng được sanh lên trời. Có một tỳ
kheo tên là Đàm Mưu Tối ở chùa Dung Giác giảng kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm
cho hàng nghìn người, vua Diêm-la nói: "Người giảng kinh tâm còn bỉ
ngả, kiêu mạn khinh người là hạnh thô lỗ bậc nhất trong hàng tỳ
kheo". Nay chỉ thử tọa thiền tụng kinh, không hỏi giảng kinh. Đàm Mưu
Tối nói: "Từ lập thân đến nay bần đạo chỉ thích giảng kinh, thật
chẳng quen tụng." Vua Diêm-la sai đem giam vào ngục tối, liền có mười
người áo xanh giải Đàm Mưu Tối đến cửa Tây Bắc, phòng ốc đều tối
đen, dường như không phải chỗ tốt... Hồ Thái Hậu nghe kể lại, sai
quan Hoàng Môn Thị Lang tên Từ Hột, dựa theo lời của Huệ Ngưng tìm đến
chùa Bảo Minh. Phía Đông thành có chùa Bảo Minh,trong thành có chùa Bát
Nhã, phía Tây thành có chùa Dung Giác. Hỏi các thầy Trí Thánh, Đạo Phẩm,
Đàm Mưu Tối đều là người có thật. Thái Hậu nói: "Người chết có
tội phước", bèn thỉnh 100 vị Tăng tọa thiền thường đến cung điện
cúng dường. Từ đó về sau, tỳ kheo ở Kinh Ấp đều tọa thiền, tụng
kinh, không còn muốn giảng kinh nữa."
Huệ Ngưng là một vị Thiền tăng
bình thường, không có địa vị trên lịch sử Phật giáo, Hồ Thái Hậu cũng
chỉ có kiến thức của một bà già ăn chay thờ Phật. Việc làm của họ,
chúng ta cố nhiên bất tất phải xem trọng, nhưng Cao Tăng Truyện 16 ghi :
" Ngài Tăng Trù tuổi quá 70,
tinh thần thanh cao khoáng đạt cảm hóa lòng người, khiêm cung đối với
chúng sinh , giáo hóa hợp cơ : Vua ( Văn Tuyên Đế, Bắc Tề) rước Ngài
vào cung luận đàm chính lý, nhân đó Ngài dạy ba cõi vốn không, đất nước
cũng vậy, vinh hoa phú quý không thể giữ mãi, rồi giảng kĩ về pháp tứ
niệm xứ. Vua nghe qua, tháo mồ hôi, nổi gai ốc, liền thụ nhận thiền đạo,
tu học chẳng bao lâu chứng được định sâu...
Vua nói : "Đại tông của Phật
pháp lấy tĩnh tâm làm gốc. Các pháp sư truyền pháp giáo hóa rộn ràng chưa
đáng gọi là xiển dương, nên cần dẹp hết".
Bắc Tề ,Văn Tuyên Đế được thiền
sư Tăng Trù (đại đệ tử của thiền sư Bạt-đà, người khai sáng chùa
Thiếu Lâm ) truyền cho Thiền đạo, và kiến giải của nhà vua, cao hơn nhiều
so với Hồ Thái Hậu thời Bắc Ngụy, may mà nhờ thiền sư Tăng Trù hết
sức can gián, nhà vua mới không thực hiện việc phế bỏ giảng kinh. Đến
thời đại ngài Đạo Tuyên cách Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế, Bắc Tề Văn
Tuyên Đế hơn một trăm năm.trong Tục Cao Tăng Truyện, Ngài phê bình các
thiền sư đương thời như sau: " Người tu thiền thời gần đây phần
nhiều phế bỏ nghĩa học, chỉ nghe theo lời chỉ dạy của Thầy mà tu tập...
Hoặc trở lại đắm trước định thế gian cho là tu tập chân không; niệm
tụng Tây phương ý muốn diệt phiền não; cổ đeo tràng hạt, lần chuỗi
gọi là thiền số; nạp y khất thực cho đó là tâm đạo. Lại có một số
người nương tựa tự viện dốc lòng tu theo lối tà để được an thân rồi
cho đó là đúng, các việc học khác là sai, cố chấp như thế, sự sai trái
của mình ai biết ?" Như vậy đủ thấy trước khi Thiền tông thành lập,
người tu tập thiền định trong giới Phật giáo Trung Quốc phần đông
không có sự kết hợp với Bát-nhã ba-la-mật, do đó mà ưa chuộng thần
thông, thoát ly thực tế, rơi vào khô thiền hoặc Tiểu thừa thiền. Lúc
Mã Tổ chưa gặp thiền sư Hoài Nhượng, ngồi một mình trong núi, toan
tính thành Phật chính là trúng nhằm cái bệnh khô thiền hoặc Tiểu thừa
thiền . Hoài Nhượng theo bệnh cho thuốc, uốn nắn lại cho đúng, vì thế
nói : " Ngồi thiền há có thể thành Phật", nhưng chẳng phải hoàn
toàn phản đối thiền định.
c/ Sơ tổ Thiền tông, mọi người
đều biết là Bồ-đề-đạt-ma. Về việc chân ngụy của sự tích Ngài,
các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến bất đồng, ở đây không bàn đến.
Ở đây chỉ muốn dẫn dụng trong Tục Cao Tăng Truyện vài câu của
"Nhập đạo tứ hạnh" tương truyền là của Bồ-đề-đạt-ma :
"Nếu bỏ vọng về chân, ngưng
trụ bích quán, không mình không người, phàm thánh bình đẳng, kiên trụ
chẳng động, chẳng còn chạy theo văn tự thì thầm phù hợp với lý,
không có phân biệt, lặng lẽ vô vi, gọi là lý nhập"
"Bích quán" nghĩa là
"ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách
", đây là một phương pháp tu thiền cùng vói thiền định nói chung ,
chỉ có tiến độ sâu cạn hoặc đốn tiệm bất đồng, không có sự
khác nhau trên bản chất, đủ thấy Đạt-ma cũng chẳng bỏ thiền định.
Trong truyện Nhị Tổ Huệ Khả không có ghi chép Ngài tu tập thiền định
nhưng Ngài đã từng theo học chủ trương "Bích quán" của Bồ-đề-đạt-ma
suốt 6 năm, và đạt đến trình độ "sự lý kiêm dung, khổ lạc vô
ngại", nhất định là Ngài đã tu pháp Bích quán và đạt đến thành
quả kể trên . Các đệ tử của Ngài là thiền sư Na và thiền sư Huệ Mãn
đều là người khắc khổ tu thiền . Cuộc đời và sự nghiệp Tam Tổ Tăng
Xán và Tứ tổ Đạo Tín tuy đơn giản, nhưng chúng ta cũng thấy ghi lại
trong truyện ký là các ngài cũng chú trọng tu thiền. Thế thì Thiền tông
từ lúc bắt đầu là theo lời dạy của Phật Thích–ca phải chuyên cần
tu thiền nên gọi là Thiền tông, rất đúng với sự thật. Tổ sư Thiền
tông đã bảo trì truyền thống tu thiền, về sau mới thấy tư thái của
phái sơn lâm xuất hiện trong giới Phật giáo. Điều này có ảnh hưởng rất
lớn trong toàn bộ giới Phật giáo nói chung và đối với tác phong của
Thiền tông từ khi chính thức thành lập về sau. Do đó cần phải giải
thích rõ ràng. cho đến những điểm bất đồng giữa Thiền tông và thiền
nói chung, sẽ được trình bày ở tiết sau.
Mục
Lục | I | II
| III | IV
| V | VI