Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
TƯ TƯỞNG VÀ PHONG CÁCH THIỀN TÔNG
Cự Tán

Chương VI

Có người hỏi ngài Bách Trượng: "Chặt cây giẫy cỏ, khẩn đất đào mương có tội hay không ?" Sư đáp : " Không được nói chắc chắn là có tội, cũng không được nói chắc chắn là không tội. Việc có tội hay không là do người: Nếu người ấy nhiễm tất cả các pháp hữu, vô, còn có tâm thủ xả, chẳng thấu qua ba câu thì người này nhất định có tội. Nếu thấu ra ngoài ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng nghĩ tưởng hư không thì người này chắc chắn vô tội.... Như trong luật ghi do mê mà giết người hoặc chuyển tướng sát còn chẳng bị tội sát sanh, hà huống người trong cửa Thiền tông trao nhau kế thừa tâm như hư không, chẳng trụ ở một vật, cũng không nghĩ tưởng hư không thì đem tội đặt ở chỗ nào?"

Lời nói này xét trên mặt lý luận, dường như đụng chạm đến giới Tỳ-kheo, nhưng lại thông v?i giới Bồ-tát Du-già, vì thế trong quy củ của Thiền môn có pháp phổ thỉnh. Phổ thỉnh nghĩa là người trên kẻ dưới đều cùng lao động. Trong truyện Bách Trượng có ghi :

" Mọi việc chấp tác nhọc nhằn, Sư đều làm trước đại chúng. Đại chúng bất nhẫn, một hôm giấu đi tác cụ, xin ngài nghỉ ngơi. Sư dạy : " Tôi không có đức, đâu nên làm nhọc mọi người". Sư tìm khắp nơi không thấy tác cụ, hôm đó Sư không ăn, cho nên có câu : "Một ngày không làm, một ngày không ăn, truyền đi khắp nơi".

Bách Trượng sáng lập pháp phổ thỉnh, lấy bản thân làm gương mẫu, đối với việc duy trì kinh tế tự viện, đặc biệt sau pháp nạn Hội Xương đời Đường Võ Tông có tác dụng vô cùng trọng yếu.

Tổ sư Thiền tông dường như không có vị nào không tham gia lao động, như Hoàng Bá khai điền, trồng rau; Quy Sơn hái trà, làm tương, trét vách; Thạch Sương sàng gạo; Vân Nham bện giày; Lâm Tế trồng tùng, cuốc đất. Ngưỡng Sơn chăn trâu, khai hoang; Động Sơn cuốc đất, trồng trà; Tuyết Phong đẽo máng, nấu cơm, bón ruộng, bổ củi, đều thấy ghi trong bản truyện hoặc ngữ lục. Đồng thời các Ngài kết hợp lao động và tu trì thành một khối, đem đạo lý đã ngộ được quán triệt trong lao tác, như Bá Trượng Thiền Sư Ngữ Lục ghi :

" Nhân một hôm phổ thỉnh cuốc đất, có vị tăng nghe tiếng trống, giơ cuốc lên, cười to,quay về. Sư nói : " Giỏi thay! Đây là môn quán âm nhập lý". Sau đó, Sư gọi vị tăng ấy đến, hỏi : " Hôm nay ông thấy đạo lý gì ?" Vị tăng đáp : " Sáng sớm con chưa ăn cháo, nghe tiếng trống quay về ăn cơm". Sư cười to ha hả.

Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư Ngữ Lục ghi :

" Thạch Sương ở Quy Sơn làm mễ đầu, một hôm đang sàng gạo. Sư ( Quy Sơn) nói : " Vật của tín thí, chớ làm rơi vãi". Thạch Sương thưa : " Chẳng làm rơi vãi". Sư nhặt được một hạt rơi trên đất, nói : " Ông nói không rơi vãi, vậy đây là cái gì?" Thạch Sương không đáp. Sư nói : " Chớ khinh một hạt này, trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh". Thạch Sương thưa : " Trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh, vậy chưa biết một hạt này từ cái gì sanh?" Sư cười to ha hả, quay về phương trượng".

Những công án loại này được ghi trong ngữ lục nhiều không kể xiết. Qua các công án này , chúng ta thấy các thiền sư lấy lao động làm nguồn cảm hứng sáng tác các phẩm nghệ thuật với tất cả tinh thần rồi cùng nhau thưởng thức không chút miễn cưỡng hoặc khó khăn. Đó là do các ngài đã thực chứng nguyên tắc tối cao của Bát-nhã hoặc Viên giáo nên biểu hiện được cụ thể giáo lí ấy trong sinh hoạt thực tiễn. Nhìn từ điểm này chúng ta có thể biết không phải ngẫu nhiên mà Thiền tông từ khi được thành lập về sau dần dần lấn át các tông phái khác của Phật giáo Trung Quốc.

Nhưng vì chịu sự hạn chế của thời đại nên hành động của thiền sư quán triệt chân tục viên dung cũng chỉ phát triển đến mức độ này thôi. Đồng thời tham thiền chẳng thể chẳng cầu tịnh và quá cường điệu " giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn t?", vì thế thời kì mới thành lập, Thiền tông còn mang sắc thái Thanh văn, Độc giác, truyền đến mười mấy đời thì hoàn toàn quên mất di huấn "Lăng-già ấn tâm" nên chẳng chú trọng nghiên cứu giáo lí; phổ thỉnh chỉ là lời còn ghi trong ngữ lục nên truyền thống tốt đẹp yêu lao động chẳng được phát huy, ý chí của thiền tăng xuống thấp, càng về sau càng đi vào con đường tiêu cực lánh đời, do đó khiến cho tông môn suy sụp. Nếu điều này có thể được gọi là điều giáo huấn của lịch sử thì Phật giáo đồ chúng ta phải nên ghi nhớ


Mục Lục | I | II | III | IV | V | VI

 


Vào mạng: 1-8-2004

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang