- Thiền Tứ Niệm
Xứ
- Thích Trí Siêu
-4-
Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát đạo.
Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ Đề Tát
Đỏa dịch âm từ chữ Bodhisattva (Sanscrit) hay Bodhisatta (Pali). Bodhi là
giác, Sattva là hữu tình. Bồ Tát là những người phát tâm, nguyện đạt
cho được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác (Phật). Phát nguyện như vậy
có quá đáng không? Có kiêu ngạo quá không? Không! Chỉ vì Bồ Tát có tâm
Đại từ, Đại bi, muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử
luân hồi nên mới phát nguyện thành Phật. Xưa kia, đức Phật Thích Ca vì
lý do nào lìa bỏ cung thành đi tu? Phải chăng vì thấy cảnh sanh, già, bệnh,
chết của chúng sanh mà quyết ra đi tìm giải thoát cho mình và cho người?
Bồ Tát là người cầu thành Phật
hay chỉ là người có tâm Đại từ Đại bi thôi? Cầu thành Phật mà
không có tâm từ bi thì không thể được! Đại từ, Đại bi mà không có
trí tuệ thì cũng không thể cứu độ chúng sanh. Cứu khổ trong đạo Phật
cần được hiểu là cứu khổ sanh tử luân hồi, chứ không phải khổ vật
chất hay tinh thần. Muốn cứu khổ chúng sanh một cách trọn vẹn và rốt
ráo cần phải có trí tuệ toàn giác.
Vậy Bồ Tát là những người phát
Bồ Đề Tâm (Bodhicitta), tức tâm nguyện thành Phật để cứu độ chúng
sanh một cách toàn vẹn và rốt ráo. Đại Từ Bi chỉ là động lực đầu
tiên thúc đẩy hành giả tiến bước trên Bồ Tát Đạo, và mục tiêu cuối
cùng của Bồ Tát Đạo là quả vị Phật. Vì trong quả vị Phật, có đầy
đủ các đức tánh Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả, Đại Hùng, Đại
Lực để cứu độ chúng sanh.
Một khi phát Bồ Đề Tâm một
cách vững chắc rồi, Bồ Tát có thể lựa chọn tất cả pháp môn nào
tùy theo căn cơ, sở thích và tâm nguyện của mình. Bồ Tát không bắt buộc
phải tạo nhiều chùa to, tượng lớn, không bắt buộc phải đi khắp nơi
thuyết pháp, giảng đạo. Ngược lại cũng không bắt buộc phải vào rừng
núi tu ẩn dật cho đến ngày thành Phật mới ra độ đời. Từ lúc mới
phát tâm cho đến khi thành Phật, Bồ Tát vẫn tiếp tục phát triển tâm Bồ
Đề, trau dồi phước huệ, tiếp tục cứu độ và làm lợi ích cho chúng
sanh tùy theo căn cơ và khả năng của mình.
Bồ Tát không bắt buộc phải là
thượng căn, Thanh Văn không hẳn là hạ trí. Bồ Tát chỉ khác Thanh Văn
nơi Bồ Đề Tâm thôi. Tất cả pháp môn Đức Phật để lại, không có
pháp nào dành riêng cho Bồ Tát hay Thanh Văn cả. Thí dụ như Tịnh Độ
được coi là một pháp môn thuộc Đại Thừa, nhưng nếu người niệm Phật
cầu về Cực Lạc với tâm niệm giải thoát cho chính mình khỏi cái khổ
Ta Bà thôi, thì người này đang biến Tịnh Độ thành Tiểu Thừa vậy.
Khi nói về ba Thừa (Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát), người ta thường nói như vầy: Thanh Văn tu theo Tứ Đế,
Duyên Giác tu theo Thập nhị nhân duyên, và Bồ Tát tu theo Lục Độ. Nói như
vậy hơi đơn giản. Tứ Đế là một chân lý, trong đó có Đạo Đế, Đạo
Đế là con đường đưa đến Niết Bàn. Đạo Đế tức là Đạo Phật. Đạo
Đế không phải chỉ có Bát Chánh Đạo, hoặc 37 phẩm trợ đạo thôi, mà
tất cả 84.000 pháp môn đều được xem là Đạo Đế. Do đó Thập nhị
nhân duyên, và Lục Độ cũng thuộc Đạo Đế. Vậy pháp tu của Duyên
Giác hay Bồ Tát cũng không nằm ngoài Tứ Đế.
Trong 84.000 pháp môn của Đức Phật
để lại chỉ có một mùi vị, đó là vị giải thoát. Nhưng chúng ta có
thói quen hay phân chia, xếp hạng: pháp này là Tiểu Thừa, pháp kia Đại Thừa.
Nếu tu theo Đại Thừa mà giảng Tứ Đế thì không hay, phải giảng Pháp
Hoa, Kim Cang mới đúng. Từ sự phân chia và hiểu lầm danh nghĩa Bồ Tát
nên người tu theo Đại Thừa thường hay thích thọ "Bồ Tát giới"
và coi thường giáo lý Tiểu Thừa.
Theo Phật giáo, có ba hạng Bồ Tát
là: Trí Tuệ Bồ Tát (Pannadhika), Tín Đức Bồ Tát (Saddhàdhika) và Tinh Tấn
Bồ Tát (Viriyàdhika).
"Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng
phát triển trí tuệ và thực hành Thiền Định nhiều hơn là nhiệt thành
với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các ngài luôn luôn
đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp thuận điều gì một
cách mù quáng. Không tự bó tay quy hàng cho một lý thuyết nào, cũng không
làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ Kinh, hay một cá nhân nào. Trí Tuệ
Bồ Tát thích trầm tĩnh yên lặng để trau dồi thiền định. Từ nơi vắng
vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải những tư tưởng an lành, tuy trầm lặng nhưng
hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hổ trợ tinh thần cho nhân
loại đau khổ.
Tín Đức Bồ Tát đặt trọn niềm
tin nơi hiệu lực của tâm thành. Saddhà hay niềm tin chân thành là đặc
điểm chánh yếu của Ngài. Cùng với Saddhà (niềm tin nơi Tam Bảo) như
người bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả những
hình thức cụ thể lễ bái, thờ phượng là sở trường của Tín Đức Bồ
Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài.
Tinh Tấn Bồ Tát thì luôn luôn tìm
cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có gì làm cho vị Tinh Tấn Bồ Tát
hoan hỉ bằng tích cực phục vụ. Đối với các Ngài, "làm việc là hạnh
phúc, và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động phục vụ
tha nhân thì các Ngài không có hạnh phúc.
Theo Kinh sách thì con đường của bậc
Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất, Tín Đức Bồ Tát phải trải qua một thời
gian dài hơn, và Tinh Tấn Bồ Tát còn dài hơn nữa". [1]
Tứ Niệm Xứ là một phương pháp
hành thiền dẫn đến trí tuệ giải thoát, tự tánh nó không phải Thanh Văn
hay Bồ Tát, tuy nhiên nếu phải so sánh và xếp loại với Bồ tát đạo,
thì Tứ Niệm Xứ là một trong những con đường đi của Trí Tuệ Bồ
Tát.
Nếu hành giả theo Đại Thừa có
tâm địa Bồ Tát, thì song song với việc tu tập Tứ Niệm Xứ (tự thanh lọc
bản tâm), hành giả phải thường tự nhắc nhở, phát nguyện và noi theo
những gương Đại Bi của Quan Thế Ấm Bồ Tát, Đại Trí của Văn Thù Bồ
Tát, và Đại Hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát (nuôi dưỡng chí nguyện độ
tha).
Chú thích:
[1] trích Đức Phật và Phật Pháp.
Narada Maha Thera. Phạm Kim Khánh dịch
Mục lục và
giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6