- Thiền Tứ Niệm
Xứ
- Thích Trí Siêu
-5-
Phương pháp thực
hành
Điều kiện ban đầu
Như chúng ta đã thấy qua ớ các phần trước,
phương pháp hành thiền này trông rất tầm thường, không có gì cao siêu,
nên nhiều người cho nó thấp kém, vô ích và không đưa đến đâu. Vì vậy
không phải ai cũng thực tập dễ dàng được, mà phải tùy nhân duyên và
điều kiện :
1/ Điều kiện ban đầu là phải ý thức được
chân lý không thể có ngoài thực tại, ngoài những gì rất tầm thường.
Dù có tụng 3000 bộ Pháp Hoa mà không biết trớ về nhìn quán chiếu nội
tâm thì vẫn chưa nếm được mùi vị của Phật Pháp.
2/ Tin tưởng chắc chắn pháp hành thiền này sẽ
đưa đến giác ngộ giải thoát (lẽ dĩ nhiên trước đó hành giả phải
suy nghĩ thật chín chắn).
3/ Cần phát nguyện mạnh mẽ. Không cần phát những
lời nguyện văn hoa, dài giòng như trong các thời Kinh, chỉ cần nguyện hai
câu sau: "Nguyện đời đời kiếp kiếp không xa lìa Tam Bảo. Nguyện
mau giải thoát cứu độ chúng sanh".
4/ Phải cố gắng tạo cho mình một bối cảnh
thuận duyên. Nếu là tại gia cư sĩ thì nên theo học những khóa Thiền
Minh Sát Tuệ trong dịp nghỉ hè. Nếu là xuất gia thì nên xa lìa thế tục,
tìm những nơi thanh vắng để tham thiền nhập định, nếu có ai bảo mình
căn cơ Nhị Thừa, không có tâm độ đời cũng mặc, vì họ đâu có tu
giùm mình đâu mà phải sợ. Nếu không như thế, suốt ngày lăng xăng việc
này, việc nọ, đến tối có ngồi thiền đi nữa cũng chỉ làm mồi cho
hôn trầm, loạn tưởng.
5/ Tinh tấn và kiên nhẫn. Tu tập pháp Thiền
này rất cần sự trợ duyên ban đầu như nhắc nhở, giảng giải của thiện
tri thức là những người đã thực hành và trải qua rồi. Nếu chỉ đọc
sơ qua sách vở rồi thực hành theo thì sẽ mau chán nản vì không thấy
được sự tiến bộ.
Thực hành
Về phần thực tập, hành giả có thể y theo như
nguyên văn của Kinh Tứ Niệm Xứ chỉ dạy. Nhưng sợ có nhiều người thấy
văn tự trong Kinh quá giản dị mà xem thường hoặc không biết cách áp dụng
vào đời sống thực tại, nên ở đây tôi tạm đưa ra vài cách thức
giúp cho hành giả trong bước đầu.
Cần nhớ là trong tất cả bốn lãnh vực quán
niệm (thân, thọ, tâm, pháp) hành giả phải lấy chánh niệm (Sammà Sati)
làm đầu, và chỉ giữ chánh niệm mà thôi, có nghĩa là giác tỉnh quan
sát và ghi nhận một cách khách quan. Khi bắt đầu thực hành, hành
giả sẽ thấy sự xâm chiếm mạnh mẽ của thất niệm, hôn trầm (trạng
thái mơ mơ màng màng) và loạn tưởng (những ý nghĩ khởi lên ào ào,
liên tục lôi kéo ta theo).
Bắt đầu sự thực tập, hành giả nên tìm đến
một nơi vắng vẻ ngoài trời, trong rừng, dưới một cội cây, hay tất cả
những nơi nào yên tĩnh xa tiếng náo động ồn ào. Ngồi xuống theo tư thế
bán già hoặc kiết già rồi bắt đầu quán niệm.
1/ Niệm Thân
Hành giả có thể bắt đầu bằng phương pháp
chú niệm vào hơi thở vô-ra (ànàpànasati). Trong Kinh An Ban Thủ Ý
(Anàpànasati Sutta) có dạy 16 cách quán niệm hơi thở. Người nào muốn biết
rõ chi tiết có thể tìm đọc Kinh Quán Niệm Hơi Thở do Thầy Nhất Hạnh
đã dịch và chú giải. Riêng ở đây chỉ đưa ra nhưng cách thức rất giản
dị không nhất thiết phải y theo Kinh.
Hành giả bắt đầu hít vào ba hơi thật dài và
thở ra thật mạnh như để tống khứ ra ngoài mọi uế trược. Sau đó
hành giả hô hấp một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không nên gượng ép hơi
thở và làm cho nó phải như thế nào. Chỉ để cho luồng hơi thở thong thả
trôi ra rồi thong thả trôi vào dưới ánh sáng của tâm hoàn toàn giác tỉnh.
- Khi hít vào một hơi dài, hành giả niệm thầm
trong đầu: "Híííít". Chữ Hít phải được kéo dài theo hơi thở
vào, có nghĩa là trong suốt thời gian hít vào . [1]
- Khi thở ra, hành giả niệm thầm: "Thởởởởở".
Chữ Thở phải được kéo dài trong suốt thời gian thở ra.
Cứ thế hành giả hít thở trong chánh niệm.
Trong suốt thời gian ngồi thiền, không có một hơi thở "vô-ra"
nào mà hành giả quên niệm. Nếu trong lúc hít thở như vậy, chợt có một
ý nghĩ nào xuất hiện thì hành giả phải nhận biết liền rồi tức khắc
trở về sự chú niệm hơi thở "vô-ra".
Ban đầu hành giả có thể ngồi khoảng mười
lăm phút, đến lúc thuần thục phải tăng dần lên cho tới ít nhất là một
tiếng đồng hồ. Trong bước đầu khởi sự hành thiền, chắc chắn hành
giả sẽ cảm thấy chán nản, bực bội, thân tâm bị gò bó. Vì thường
ngày thân của ta hết làm việc này đến việc nọ, lăng xăng đủ thứ, tâm
của ta thì chưa nghĩ xong chuyện này đã nghĩ đến chuyện kia tựa hồ con
khỉ chuyền cành, con ngựa đứt cương (tâm viên, ý mã). Không phải chỉ
có ở kiếp này thôi, mà nó đã như vậy từ vô thỉ kiếp trước rồi, bây
giờ ta bắt thân ngồi im một chổ, bắt tâm chăm chú vào hơi thở, làm
sao tránh khỏi sự khó chịu dày vò. Vì vậy hành thiền cần phải tinh tấn
và kiên nhẫn mới đi tới đích, phải chịu cực nhọc khó khăn lắm mới
thành công, không phải một sớm một chiều mới tu mà thành Tổ Sư liền
được.
Sau khi hành giả thuần thục với pháp quán niệm
hơi thở vô-ra ở trên, thời gian ngồi từ một hay hai tiếng trở lên,
thì hành giả bắt đầu thực hành sang pháp "phồng xẹp" (của bụng)
[2], sẽ thấy sự phồng lên xẹp xuống của nó. Ban đầu, nếu hành giả
không thấy được sự "phồng-xẹp" này, thì có thể để một hay
cả hai bàn tay lên bụng để nhận thấy rõ ràng hơn. Khi cảm thấy rõ
ràng (chứ không phải tưởng tượng) được sự phồng xẹp rồi, hành giả
bắt đầu quan sát và ghi nhận nó.
- Khi bụng phồng lên, hành giả niệm thầm:
"bụng phồng" hay "phồồồồng", chữ phồng phải được
kéo dài trong suốt lúc bụng phồng lên.
- Khi bụng xẹp xuống, hành giả niệm: "bụng
xẹp" hay "xeeeẹp". Chữ xẹp được kéo dài trong suốt thời
gian bụng xẹp xuống.
Vì sao ở đây lại có nhưng chữ kéo dài như:
"Hiiiít", "Thơơởở", "Phôôôồng ", "Xeeeẹp"?
Vì với người sơ sơ mới tu tập, "ý thức suông" chưa phải hoàn
toàn chánh niệm. Khi hít vào mà hành giả chỉ ý thức "tôi đang hít
vào" hay chỉ niệm một chữ "Hít" thì ngay lúc đó hành giả
có chánh niệm, nhưng trong sát na sau hay giây phút kế tiếp hành giả có thể
mất chánh niệm dễ dàng, nên thay vì phải niệm liên tục "Hít, Hít,
Hít..." thì chỉ niệm một chữ nhưng kéo dài ra: "Hiiiít".
Cứ thế hành giả chú tâm quan sát, theo dõi và
ghi nhận sự phồng lên xẹp xuống của bụng trong suốt thời gian ngồi
thiền. Không có một cái "phồng-xẹp" nào mà hành giả quên ghi nhận.
Hành giả cố gắng thực hành và tăng lên thời
gian ngồi thiền. Ít nhất phải ngồi liên tục hai giờ đồng hồ trở lên,
hành giả mới thấy được những gì thay đổi và tiến triển. Và khi thấy
được những gì thay đổi, tiến triển đó thì hành giả mới cảm thấy
hứng thú trong việc thiền tập. Vì phải tinh tấn và kiên nhẫn nên ít
có người thực hành pháp này. Ngược lại có rất nhiều người tu theo
Thiền ngoại đạo, vì được quảng cáo mới tu đã xuất hồn, hoặc có
thần thông liền! Người tu chân chính cần biết rằng từ đời vô thỉ
đến giờ, ta đã bị vô minh, tà kiến, chấp trước bao phủ dầy đặc, làm
sao mà trong phút chốc có thể gột rửa cho hoàn toàn được. Còn những việc
như xuất hồn, hay thần thông đều là những ma chướng, vọng cầu của tà
ma ngoại đạo, ta đã tích lũy chúng từ nhiều kiếp, nên nay mới khởi vọng
cầu liền có một cách dễ dàng. Đó là lý do tại sao người tu theo chánh
pháp thì ít, mà tu theo tà đạo lại nhiều.
2/ Niệm Thọ
Khi hành giả ngồi lâu sẽ có những cảm giác
phát sanh như mỏi mệt, đau nhức, ngứa ngáy, khó chịu v.v... Lúc đó hành
giả hãy làm như sau :
Đang theo dõi sự "phồng xẹp", bỗng
nhiên hành giả cảm thấy đau nhức nơi chân. Hành giả liền niệm:
"có một cảm giác đau nhức đang phát sanh (nơi chân)", hoặc hành
giả có thể niệm một cách vắn tắt: "đau" hay "có sự
đau". Niệm như vậy cũng đủ để cho hành giả ghi nhận một cách
khách quan cảm giác đau đang có nơi chân. Hành giả tuyệt đối không được
niệm: "Tôi đang đau hay chân tôi đau", vì thực sự
không có cái Tôi nào đau cả. Sau khi niệm như vậy xong, hành giả lập tức
trở về sự "phồng-xẹp" của bụng. Tất cả những cảm giác đều
trải qua bốn tiến trình: phát sanh, tăng trưởng, suy yếu, và tan biến, chỉ
có lâu hay mau mà thôi. Sau một thời gian, cảm giác đó bỗng biến mất,
thì hành giả niệm: "cảm giác đau đã biến mất" hoặc "cái
đau đã hết". Nếu cảm giác đau không hết mà lại tăng thêm thì
hành giả niệm: "cảm giác đau đang tăng", rồi sau đó liền trở
lại công việc chính là quán niệm sự "phồng xẹp". Nếu cái đau
tăng lên quá mức chịu đựng thì hành giả có thể lấy tay gỡ chân ra,
hay sửa đổi tư thế, nhưng phải làm thật chậm, và giữ chánh niệm như
sau :
- Trước hết khi muốn lấy tay gỡ chân ra niệm:
muốn, muốn, muốn.
- Khi nhấc tay lên niệm: nhấc, nhấc, nhấc.
- Khi tay đụng chân niệm: đụng.
- Khi tay nắm chân gỡ ra niệm: gỡ, gỡ, gỡ.
- Khi gỡ ra xong, rút tay về niệm: rút, rút,
rút.
- Khi rút tay về xong, để lại chỗ cũ niệm: để,
để, để.
Trên đây chỉ là một sơ đồ giản dị, giúp
cho người mới tập giữ chánh niệm, chứ thật ra từ lúc muốn nhấc tay,
rồi gỡ chân, cho đến lúc kéo tay trở về chỗ củ, có rất nhiều cử
động khác cần phải niệm (chú ý). Trong lúc lấy tay gỡ chân ra hành giả
phải làm "thật chậm", vì thế nên mỗi cử động phải được
niệm ít nhất ba lần, giúp cho hành giả giữ được chánh niệm. Khi thuần
thục rồi thì hành giả không cần niệm như vậy nữa mà chỉ cần giác tỉnh
quán sát từng cử động trong từng sát na, muốn được vậy đương nhiên
các động tác phải được làm thật là chậm.
3/ Niệm Tâm
Niệm Tâm là một việc rất quan trọng trong Tứ
Niệm Xứ. Trong Thiền Đốn Ngộ có nói " Kiến tánh khởi tu" hay
"Đốn ngộ tiệm tu", tu ở đây là diệt trừ vọng tưởng. Niệm
Tâm chính là một phương pháp hay nhất để diệt trừ vọng tưởng. Niệm
Tâm là quan sát ghi nhận một cách khách quan những hoạt động của tâm.
Hoạt động của tâm là những tư tưởng hay ý nghĩ chợt khởi chợt biến.
Khi đang theo dõi sự "phồng xẹp" của bụng
bỗng nhiên có một ý nghĩ dù thiện hay ác khởi lên trong tâm, hành giả
liền ghi nhận (niệm) nó: "có một ý nghĩ (đang phát sanh)". Niệm
như vậy đủ để ý nghĩ đó tan biến, và hành giả phải lập tức trở
về với sự "phồng xẹp", không cần suy tư xem đó là tốt hay xấu.
Nếu sau đó ý nghĩ đó trở lại, hoặc có một ý nghĩ khác thì hành giả
cũng lại niệm: "có một ý nghĩ". Niệm một câu ngắn gọn như vậy
đủ làm cho hành giả giác tỉnh và không chạy theo vọng tưởng. Trường
hợp này giống như Thiền Sư Nhan mỗi ngày thường ngồi trên tảng đá,
lâu lâu tự gọi: "ông chủ". Tự đáp: "Dạ". Tự nhắc:
"Tỉnh tỉnh chớ để người lừa" [3].
Ban đầu hành giả có thể bị ý nghĩ đưa đi
xa, rồi sau đó mới sực tỉnh, thì lúc đó niệm: "Đó là một ý nghĩ".
Khỏi cần phải niệm "ý nghĩ đã diệt", vì khi ta niệm "đó
là một ý nghĩ" thì ngay khi đó nó đã diệt mất rồi.
Thực tập như vậy, lâu ngày hành giả sẽ
không còn bị ý tưởng đem đi quá xa nữa mà sẽ nhận ra chúng khi chúng vừa
phát sanh.
Người thường không biết tu Thiền, mỗi khi có
ý tưởng gì khởi lên thì liền đi theo nó ngay. Thí dụ đang ngồi yên bỗng
chợt nghĩ về một người hay một chuyện nào đó rồi khởi lên ưa ghét,
phải trái, và cứ thế suy nghĩ liên tu bất tận, bị phiền não vọng tưởng
lôi kéo mà không hề hay biết.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong đời sống hằng ngày,
nếu có những ý nghĩ tốt khởi lên trong đầu hành giả đừng mừng cho là
ta tốt, mà phải nhanh trí nhận ra đó là tâm khởi một ý nghĩ
tốt. Khi có một ý nghĩ xấu phát sanh trong đầu, đừng nghĩ là ta
xấu rồi ăn năn, bực bội, mà phải nhanh trí nhận ra đó là tâm khởi một
ý nghĩ xấu, xong rồi thản nhiên tiếp tục giữ chánh niệm.
Người đời không biết về vọng tưởng, không
hiểu giáo lý Vô Ngã nên mỗi khi trong tânm khởi lên những ý tưởng
hay suy nghĩ thì lầm cho đó là ta hay tôi suy nghĩ. Trên thực tế không hề
có một cái Ta hay Tôi nào suy nghĩ mà chỉ có những ý niệm khởi lên
trong tâm mà thôi. [4]
4/ Niệm Pháp
Trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta), trong phần
Niệm Pháp có đưa ra năm đề mục quán niệm, nhưng ở đây tôi chỉ đưa
ra vài thí dụ cụ thể áp dụng vào sự thực tập.
- Đang ngồi thiền, bỗng bên ngoài có tiếng động
như tiếng xe hơi, thì lúc đó hành giả niệm: "nghe, nghe, nghe" (đó
là nương theo nhĩ căn), hoặc niệm "có tiếng động" (đó là nương
theo thanh trần). Sau khi niệm như vậy xong, hành giả phải liền trở về sự
"phồng xẹp" của bụng.
- Khi cảm thấy buồn ngủ, hành giả niệm:
"có sự buồn ngủ đang phát sanh" hoặc niệm vắn tắt "có sự
buồn ngủ". Tuyệt đối không được niệm "Tôi đang buồn ngủ".
Trên đây chỉ là gợi ý cho hành giả tu tập
ban đầu. Về phần niệm pháp này khá phức tạp, vì chữ Pháp (Dhamma) có
thể chỉ tất cả những sự vật trên cõi đời này, muốn nói dễ hiểu
hơn là những đối tượng của tâm thức đều gọi là pháp. Ngay cả ba phần
niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm cũng có thể được xem thuộc niệm Pháp.
Người hành giả khôn ngoan, khéo léo, sẽ từ những
thí dụ trên tự sáng chế ra những phương thức áp dụng chánh niệm vào
tất cả sự việc trong ngày.
Sau đây là một thí dụ khác giúp cho hành giả
giữ chánh niệm trong lúc ăn. Hành giả phải cử động một cách chậm chạp
và để ý ghi nhận và niệm trong đầu tất cả những chi tiết về hành
động đang diễn tiến :
- Khi đưa mắt nhìn đồ ăn, niệm: "nhìn,
đang nhìn".
- Khi đưa tay gắp đồ ăn, niệm: "đưa,
đang đưa tay".
- Khi tay gắp trúng đồ ăn, niệm: "gắp".
- Khi đem đồ ăn lên miệng, niệm: "đem,
đang đem".
- Khi cúi đầu xuống gần đồ ăn, niệm: "cúi,
đang cúi".
- Khi há miệng ra, niệm: "há, đang há miệng".
- Khi để đồ ăn vào miệng, niệm: "để,
đang để".
- Rút đũa ra, ngậm miệng lại, niệm: "ngậm,
đang ngậm".
- Rút tay về để lại trên bàn, niệm:
"rút, đang rút tay".
- Khi tay đụng xuống bàn, niệm: "đụng".
- Bắt đầu ngẩng cổ lên lại ngay thẳng, niệm:
"ngẩng, đang ngẩng".
- Khi nhai đồ ăn, niệm: "nhai, nhai,
nhai..." (niệm tối đa trong lúc nhai).
- Khi nuốt đồ ăn, niệm: "nuốt".
Sau khi đọc những hàng trên, đọc giả có thể
buồn cười, cho rằng đó là một việc làm kỳ cục", ăn thì cứ việc
ăn tội gì phải để ý làm chậm chạp mất thì giờ và phải niệm tới
niệm lui. Trong số chúng ta đây, có rất nhiều người ăn mà không biết
mình đang ăn. Vì trong bữa ăn, miệng nói chuyện, mắt nhìn "ti
vi", đầu óc nghĩ chuyện này, chuyện nọ, tay gắp đồ ăn mà mắt chẳng
nhìn, rồi bỏ vào miệng nhai như một cái máy. Tất cả những hành động
đều "vô ý thức", được làm như một cái máy, và ta cho đó là
một cái gì rất tự nhiên. Chính cái rất tự nhiên này là nghiệp dẫn dắt
ta đó. Những người nào có thiện chí và ý thức được là từ xưa đến
nay mình đã làm không biết bao nhiêu hành động "vô ý thức", thì
hãy bắt đầu từ bây giờ trở về làm chủ lại tất cả những hành động
cũng như ý nghĩ của mình, hãy tập sống giác tỉnh như đức Phật.
Ban đầu thực tập chánh niệm, hành giả sẽ nhận
thấy có rất nhiều động tác bị quên niệm, nhưng với sự kiên nhẫn
và tinh tấn, dần dần những động tác bị quên niệm đó sẽ bớt lần.
Trong cuộc sống thường ngày, khi lục căn tiếp
xúc với lục trần, hành giả phải tập niệm :
- Khi mắt thấy một vật hay hình dáng gì, hành
giả không cần biết nó đẹp hay xấu, chỉ cần niệm: "thấy, thấy,
thấy ".
- Khi có một âm thanh gì lọt vào tai, không cần
biết nó hay hay dở, dễ chịu hay khó chịu, chỉ cần niệm: "nghe,
nghe, nghe".
Lâu lâu hành giả có thể nhắc nhở mình bằng
cách tự hỏi:
- Thân bây giờ đang làm gì, ở trong tư thế nào?
- Có cảm giác gì không?
- Tâm đang nghĩ gì?
- Có nghe thấy gì không?
Cứ như vậy, trong lúc ngồi cũng như khi đi, đứng,
tiếp xúc, hành giả phải luôn luôn nhớ niệm. Đó gọi là chánh niệm.
Vì thế, hành thiền này không cố định ở ngồi
mà trong tất cả các thời khác, đi, đứng, nằm, hành giả đều có thể
tu tập được.
Những khó khăn ban đầu
- Chân sẽ bị đau nhức như có ai lấy dao chặt
chân mình, như xương sắp gẫy lìa v.v...
- Cảm giác khó chịu: như bọ hay kiến làm ngứa
ngáy...
- Ngồi lâu mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ gục...
- Vọng tưởng, ý nghĩ khởi lên tới tấp,
không ngừng.
Còn nhiều những hiện tượng khác nữa, đó là
tùy theo dòng nghiệp của mỗi người, không thể tả hết được. Tuy nhiên
hành giả chỉ cần nhớ giữ chánh niệm, theo dõi và ghi nhận thôi. Tất cả
những gì đến thì sẽ phải đi, không sợ hãi, cũng không vui mừng. Sau một
thời gian cố gắng, hành giả sẽ vượt qua mọi trở ngại trên.
Những điều nên tránh
- Bỏ qua không suy nghĩ đến Bản lai diện mục,
tánh giác, hay những lý Thiền..., đó chỉ là những danh từ gắng gượng
diễn tả những gì không thể diễn tả được. Những gì bất khả tư nghì
mà cứ được đem ra bàn luận, giảng giải thì nó không thực là bất khả
tư nghì, và chỉ gây thêm thành kiến sai lầm về nó.
- Sự mong cầu. Hành Thiền này không có gì để
mong cầu, mà chỉ ghi nhận một cách khách quan tất cả những gì xẩy đến,
không bám víu mà cũng không xua đuổi. " Gặp Phật biết Phật, gặp Ma
biết Ma ", chỉ cần biết và ghi nhận, rồi sau đó liền trở về với
thực tại. Không cần phải quá hung bạo như Thiền Tông "gặp Phật giết
Phật, gặp Ma giết Ma".
Vì không có sự mong cầu, bám víu hay xua đuổi
nên người hành thiền này không thể điên được, vì lúc nào cũng làm chủ
được mình, không chạy theo vọng tưởng điên đảo. Người tu thiền mà
bị điên là vì trong tâm có sự mong cầu bất chánh (vọng cầu), mong được
thần thông hay quyền năng nào đó, không hiểu giáo lý Vô Ngã và Như Huyễn
nên khi có vọng tưởng hay gặp cảnh giới kỳ lạ thì phóng tâm theo nên
dễ bị điên.
- Tránh những cuộc đàm luận không ích lợi
(hý luận). Xưa kia đức Phật có dạy: "Này các Tỳ Khưu, khi gặp
nhau, các thầy có hai việc nên làm: một là nói về Phật Pháp, hai là giữ
sự im lặng". Ngay cả về sự hành thiền này cũng vậy, có ai hỏi mới
nói, không hỏi thì thôi. Hành giả luôn giữ tâm vắng lặng để ghi nhận
sự vật.
Những điều cần biết
Trong khi tọa thiền, nếu có những trở ngại về
phần thể xác (sắc), hành giả có thể nhận biết dễ dàng, nhưng về phần
tâm thức (danh) thì hành giả cẩn thận để ý những điều sau :
- Khi có những ý nghĩ khởi lên tới tấp, hành
giả phải giác tỉnh nhận diện ra liền, nếu không thế thì hành giả có
thể trở nên khổ sở, khó chịu về chúng.
- Có nhiều hành giả cố gắng bắt tâm ngưng
suy nghĩ, để đầu trống rỗng, sau một thời gian sẽ rơi vào hai trạng
thái hôn trầm:
* ngủ gục hay ngủ ngồi, thân tuy còn ngồi đó
mà chẳng khác gì người ngủ trên giường.
* mơ mơ màng màng, không tỉnh hẳn, cũng không
ngủ hẳn (vô ký), thân thì không còn cảm giác, tâm thì không khởi ý nghĩ,
như ngưng hoại động, cùng lúc hành giả cũng không còn niệm, không còn
ý thức được mình đang làm gì, quên niệm thân, niệm hơi thở, niệm
"phồng xẹp", niệm tâm... Nếu hành giả nào mà trụ ở trạng
thái này lâu thì chỉ mất thì giờ ngồi thiền, không lợi ích gì cả,
vì trí huệ không phát sanh, cùng lúc tâm ngưng làm việc, có thể làm nhân
đời sau sanh ra làm súc sanh...
- Có hành giả sau một thời gian tu tập quán niệm
hơi thở, dần đà thân tâm trở nên yên tịnh, rồi cảm thấy an lạc và
trụ ở đó, quên đi việc niệm và ghi nhận. Đó là hành giả đang đi vào
Thiền Định hay Thiền Chỉ (Samatha). Hơn 90% người tu thiền, sau khi điều
phục được hôn trầm và loạn tưởng đều rơi vào một trạng thái an lạc,
rồi cố gắng kéo dài sự nhập định (từ hai ba tiếng đồng hồ cho tới
một ngày hoặc hơn nữa) để hưởng an lạc. Khi đến trạng thái an lạc
này, cần phải đi tìm thầy hoặc thiện tri thức, trình chỗ sơ đắc của
mình để được chỉ dẫn thêm.
Tứ Niệm Xứ thuộc về Thiền Tuệ hay Thiền
Minh Sát (Vipassanà-Bhàvanà). Chỉ có Thiền Tuệ mới làm phát sinh trí tuệ,
giúp cho hành giả thấy rõ được thực tướng của vạn hữu, diệt trừ
tận gốc của vô minh và ái luyến, đưa đến giải thoát. Còn Thiền Định
(Samatha) chỉ đưa hành giả đến những cơn định (Samàdhi) trong đó hành
giả hưởng sự an lạc nhất thời, không tạo thêm nghiệp mới, nhưng trí
huệ không phát triển, và những phiền não gốc vẫn còn nguyên chưa diệt
trừ, do đó không thể đưa đến giải thoát.
Chú thích:
[1] Sự kéo dài chữ Hít và Thở ở đây là do
kinh nghiệm cá nhân của tác giả chứ không phải từ truyền thống Thiền
Minh Sát
[2] pháp quán niệm sự phồng xẹp của bụng đúng
ra không có trong Kinh Niệm Xứ, nó được Đại lão thiền sư Miến Điện
Mahasi Sayadaw phát minh và ngày nay trở thành một pháp tu phổ biến cho Thiền
Minh Sát
[3] Trích "Trung Hoa chư Thiền Đức Hành Trạng".
HT Thanh Từ
[4] xin xem "Vô Ngã". Thích Trí Siêu
Mục lục và
giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6