- Thiền Tứ Niệm
Xứ
- Thích Trí Siêu
-6-
Kết luận
Pháp hành Thiền Tứ Niệm Xứ Minh Sát Tuệ
(Satipatthàna-Vipassanà) bao hàm việc thành tựu tri kiến bằng cách quan sát
trực tiếp, thấy sự vật đúng theo thực tướng của nó (yathàbhutam). Tri
kiến này vượt ra ngoài mọi lý luận hay suy tưởng có được do trí thức,
và tiến đến những chứng nghiệm thật sự về đời sống cùng sự vật
liên quan đến thực tại.
Hoàn toàn thấu triệt được thực tướng của
vạn pháp như vậy, hoàn toàn nhận thức được bản chất thật sự của
ngũ uẩn, hành giả sống an nhiên tự tại, không còn bám víu vào bất cứ
thư gì trên thế gian nữa. Không còn phiền não hệ lụy, đây há chẳng phải
mục tiêu của mọi Phật tử tìm cầu giải thoát?
Phụ Lục
Kinh Quán Niệm
(SatipatthanaSutta)
Như vầy, tôi nghe: Một thuở nọ Đức Thế Tôn
đang cư trú ở Kammassadhamma, một khu phố của dân Kuru. Lúc bấy giờ ngài
gọi chư tăng: "Này các thầy". Chư tăng đáp: "Dạ, thưa Đức
Thế Tôn". Phật nói:" Các thầy lắng nghe, có một con đường duy
nhất để thanh lọc bản thân, vượt thắng phiền não, tiêu trừ ưu khổ,
đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết Bàn, đó là bốn phép quán niệm.
Những gì là bốn?
Đó là, này các thầy, người hành giả:
1/ Quán niệm thân thể nơi thân thể, tinh chuyên
và ý thức rõ ràng về thân thể, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư
trong cuộc đời.
2/ Quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, tinh chuyên
và ý thức rõ ràng về cảm thọ, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư
trong cuộc đời.
3/ Quán niệm tâm thức nơi tâm thức, tinh chuyên
và ý thức rõ ràng về tâm thức, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư
trong cuộc đời.
4/ Quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối
tượng tâm thức, ý thức rõ ràng về đối tượng tâm thức, làm chủ
được mọi tham dục và ưu tư trong cuộc đời.
* * *
Này các thầy, người hành giả quán niệm thân
thể nơi thân thể bằng cách nào?
Người ấy đến một khu rừng hoặc một gốc cây,
hoặc một nơi thanh vắng, ngồi xuống theo tư thế kiết già, giữ lưng
ngay thẳng và đặt mình trong sự quán niệm. Thở vào người ấy ý thức
rõ ràng mình đang thở vào, thở ra người ấy ý thức mình đang thở ra.
Hoặc khi thở vào một hơi dài, người ấy ý thức: "Tôi đang thở vào
một hơi dài". Khi thở ra một hơi dài, người ấy ý thức: "Tôi
đang thở ra một hơi dài". Hoặc khi thở vào một hơi ngắn, người
ấy ý thức: "Tôi đang thở vào một hơi ngắn". Khi thở ra một
hơi ngắn, người ấy ý thức: "Tôi đang thở ra một hơi ngắn".
Người ấy tự mình tập luyện như sau: "Tôi sẽ thở vào và cảm nghiệm
toàn thân". "Tôi sẽ thở ra và cảm nghiệm toàn thân".
"Tôi sẽ thở vào và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể".
"Tôi sẽ thở ra và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể".
Cũng như khi xoay một vòng dài, một người thợ
tiện khéo tay ý thức rằng mình đang xoay một vòng dài; hoặc khi xoay một
vòng ngắn, ý thức rằng mình đang xoay một vòng ngắn. Cũng vậy, người
hành giả khi thở vào một hơi dài ý thức rằng mình đang thở vào một hơi
dài; khi thở ra một hơi ngắn ý thức rằng mình đang thở ra một hơi ngắn.
Người ấy tự mình tập luyện như sau: "Tôi sẽ thở vào và cảm nghiệm
toàn thân... Tôi sẽ thở ra và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể".
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường
trực quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài,
hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài thân thể. Hoặc quán niệm quá trình sinh
khởi nơi thân thể, hoặc quá trình hủy diệt nơi thân thể, hoặc quá
trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có thân thể
đây" đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể,
và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ
thứ gì trong cuộc đời. Cứ như thế mà người hành giả quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Lại nữa, này các thầy, khi đi, hành giả cũng
ý thức rằng mình đang đi; khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng; khi
ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi; khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm.
Bất cứ thân thể mình đang được xử dụng trong tư thế nào, hành giả
cũng ý thức được về tư thế ấy.
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường
trực quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài,
hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài thân thể. Hoặc quán niệm quá trình sinh
khởi nơi thân thể, hoặc quá trình hủy diệt nơi thân thể, hoặc quá
trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có thân thể
đây" đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể,
và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ
thứ gì trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm thân thể nơi
thân thể.
Lại nữa, khi đi tới hoặc đi lui, hành giả cũng
ý thức rõ ràng về việc ấy; khi nhìn trước hay nhìn sau...khi cúi xuống
hoặc vươn lên... khi mặc áo, mang y bát...khi ăn, uống, nhai, nếm thức
ăn...khi đi đại tiện hay tiểu tiện...khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói
năng hoặc im lặng, hành giả cũng đều ý thức rõ ràng về mỗi việc.
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Lại nữa, hành giả quán niệm rõ ràng về
chính thân thể này, bao bọc trong một lớp da và chứa đầy loại bất tịnh,
từ gót chân trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, có nào là: tóc,
lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc,
lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đờm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước
mắt, nước bọt, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Ví như có một bao tải đựng đủ nhiều loại
ngũ cốc, như gạo lứt, gạo hẻo rằng, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng
và hai đầu bao tải có thể mở ra. Một người có mắt tốt, khi mở bao
ra, thấy rõ mọi loại hạt đựng trong bao: đây là gạo lứt, gạo hẻo rằng,
đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng. Cũng như thế, khi quán sát về
chính thân thể mình, hành giả thấy được mọi thứ từ gót chân lên đỉnh
đầu và từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, bao bọc trong một lớp da
và chứa đầy loại bất tịnh: thuộc về thân thể này, có nào là tóc,
lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc,
lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đờm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước
mắt, nước bọt, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Lại nữa, trong bất cứ tư thế nào của thân
thể này, hành giả cũng quán chiếu về những yếu tố tạo nên thân thể:
"Trong thân thể này có yếu tố rắn chắc, yếu tố lưu nhuận, yếu tố
viêm nhiệt và yếu tố chuyển động". Như một người đồ tể rành
nghề giết một con bò, ngồi giữa ngã tư mà xẻ con bò ra thành nhiều phần,
hành giả cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, cũng quán
chiếu những yếu tố tạo nên thân thể: "Trong thân thể này có yếu
tố rắn chắc, yếu tố lưu nhuận, yếu tố viêm nhiệt và yếu tố chuyển
động".
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Lại ví như khi thấy một xác chết, bị liệng
bỏ vào bãi tha ma đã được một ngày, hai ngày hay ba ngày, sình lên, thâm
tím, thối rữa, hành giả liền quán chiếu về thân thể mình: "Chính
thân thể ta đây cũng vậy, sẽ trở thành như thế, không có lối nào
tránh thoát".
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ
trong bãi tha ma, bị quạ rỉa hoặc diều hâu, kên kên, hoặc chó sói rừng
ăn và các loài dòi bọ rúc rỉa, hành giả liền quán chiếu về thân thể
mình: "Chính thân thể ta đây cũng vậy, sẽ trở thành như thế, không
có lối nào tránh thoát".
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ
trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu, còn nối
liền nhau nhờ gân cốt; ... hoặc không còn thịt nhưng còn dính chút máu;
... hoặc không còn chút thịt và chút máu nào; ... hoặc các khúc xương bị
vứt rời rạc đó đây, không còn dính liền nhau nữa, chỗ này là xương
tay, chỗ kia là xương bàn chân, chỗ này là xương cẳng, chỗ kia là xương
mông, đây là xương sống, kia là đầu lâu, hành giả liền quán chiếu về
thân thể mình...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ
trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương trắng màu vỏ ốc... một mớ
xương khô đã hơn một năm ... một mớ xương mục tan thành bụi, hành giả
liền quán chiếu về thân thể mình ...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân
thể nơi thân thể.
* * *
Này các thầy, người hành giả quán niệm cảm
thọ nơi cảm thọ bằng cách nào?
Mỗi khi có một cảm thọ khoái lạc, hành giả
ý thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ khoái lạc". Mỗi khi có một
cảm thọ khổ đau, hành giả ý thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ
khổ đau". Mỗi khi có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ
đau, hành giả ý thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ không khoái lạc
cũng không khổ đau". Khi có một cảm thọ khoái lạc vật chất, hành
giả ý thức rằng mình đang có một cảm thọ khoái lạc vật chất. Khi
có một cảm thọ khoái lạc tinh thần, hành giả ý thức rằng mình đang có
một cảm thọ khoái lạc tinh thần. Khi có một cảm thọ khổ đau vật chất
... một cảm thọ khổ đau tinh thần, hành giả ý thức rằng mình đang có
một cảm thọ khổ đau vật chất ... một cảm thọ khổ đau tinh thần.
Khi có một cảm thọ vật chất ... một cảm thọ tinh thần không khoái lạc
cũng không khổ đau, hành giả ý thức rằng mình có một cảm thọ vật chất
... một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau.
Cứ như thế hành giả sống trong sự thường trực
quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, hoặc bên trong hoặc bên ngoài, hoặc cả
bên trong lẫn bên ngoài cảm thọ. Hoặc quán niệm quá trình sinh khởi của
cảm thọ, hoặc quá trình hủy diệt của cảm thọ, hoặc quá trình sinh khởi
lẫn quá trình hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có cảm thọ đây" đủ
để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ, và như vậy
người ấy sống một cách tự do, không bám víu vào bất cứ thứ gì trong
cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ.
* * *
Này các thầy, hành giả quán niệm tâm thức nơi
tâm thức bằng cách nào?
Mỗi khi tâm thức có tham dục, hành giả ý thức
là tâm thức mình có tham dục. Khi không có tham dục, hành giả ý thức là
tâm thức mình không có tham dục. Mỗi khi tâm thức có sân hận, hành giả
ý thức là tâm thức mình có sân hận. Khi tâm thức không có sân hận,
hành giả ý thức là tâm thức mình không có sân hận. Mỗi khi tâm thức
có si mê, hành giả ý thức là tâm thức mình có si mê. Khi không có si mê,
hành giả ý thức là tâm thức mình không có si mê. Mỗi khi tâm thức có
thu nhiếp ... là tâm thức mình có thu nhiếp. Khi tâm thức đang tán loạn
... là tâm thức mình đang tán loạn. Mỗi khi tâm thức trở thành rộng lớn
... là tâm thức mình trở thành rộng lớn. Mỗi khi tâm thức trở thành hạn
hẹp ... là tâm thức mình trở thành hạn hẹp. Mỗi khi tâm thức đạt đến
trạng thái cao nhất ... là tâm thức mình đạt đến trạng thái cao nhất.
Khi không đạt đến trạng thái cao nhất ... là tâm thức mình không đạt
đến trạng thái cao nhất. Mỗi khi tâm thức có định ... là tâm thức
mình có định. Khi không có định ... là tâm thức mình không có định. Mỗi
khi tâm thức được giải thoát ... là tâm thức mình được giải thoát.
Khi không có giải thoát ... là tâm thức mình không có giải thoát.
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường
trực quán niệm tâm thức nơi tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài,
hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài tâm thức. Hoặc quán niệm quá trình sinh
khởi nơi tâm thức, hoặc quá trình hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quá
trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có tâm thức
đây" đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức,
và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ
thứ gì trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm tâm thức nơi
tâm thức.
* * *
Này các thầy, hành giả quán niệm đối tượng
tâm thức nơi đối tượng tâm thức bằng cách nào?
Trước hết hành giả quán niệm đối tượng tâm
thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che. Quán niệm
bằng cách nào?
1. Khi có niệm ái dục, hành giả ý thức rằng
mình có ái dục. Khi không có ái dục, hành giả ý thức rằng mình không
có ái dục. Khi một niệm ái dục chưa sanh, nay bắt đầu phát sanh, hành
giả ý thức được sự phát sanh ấy. Khi một niệm ái dục đã sanh, đang
được khử diệt, hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm
ái dục đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, hành giả
cũng ý thức được điều đó.
2. Khi có sân hận, hành giả ý thức rằng mình
có sân hận. Khi không có sân hận, hành giả ý thức rằng mình không có
sân hận. Khi một niệm sân hận chưa sanh, nay bắt đầu phát sanh, hành giả
ý thức được sự phát sanh ấy. Khi một niệm sân hận đã sanh, đang được
khử diệt, hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm sân
hận đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, hành giả cũng
ý thức được điều đó.
3. Khi có mê muội và buồn ngủ, hành giả ý thức
rằng mình có mê muội và buồn ngủ....
4. Khi có giao động và bất an, hành giả ý thức
rằng mình có giao động và bất an....
5. Khi có nghi ngờ, hành giả ý thức rằng mình
có nghi ngờ....
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường
trực quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, hoặc
bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng tâm
thức. Hoặc quán niệm quá trình sinh khởi nơi đối tượng tâm thức, hoặc
quá trình hủy diệt nơi đối tương tâm thức, hoặc quá trình sinh khởi lẫn
quá trình hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có đối tượng tâm thức đây"
đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của đối tượng tâm
thức, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất
cứ thứ gì trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm đối
tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về sự bám víu
vào năm uẩn, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán
niệm bằng cách nào?
Hành giả quán niệm như sau: "Đây là hình sắc
vật chất, đây là sự phát sinh của hình sắc vật chất, và đây là sự
hủy diệt của hình sắc vật chất. Đây là cảm thọ, đây là sự phát
sinh của cảm thọ, và đây là sự hủy diệt của cảm thọ. Đây là tri
giác, đây là sự phát sinh của tri giác, và đây là sự hủy diệt của
tri giác. Đây là dẫn lực (hành), đây là sự phát sinh của dẫn lực, và
đây là sự hủy diệt của dẫn lực. Đây là ý thức, đây là sự phát
sinh của ý thức, và đây là sự hủy diệt của ý thức.
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm về sự
bám víu vào năm uẩn.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về sáu giác quan
và sáu loại đối tượng, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm
thức. Quán niệm như thế nào?
Hành giả ý thức về mắt và đối tượng của
mắt là hình sắc, về sự ràng buộc tạo nên do mắt và hình sắc. Hành
giả ý thức về sự ràng buộc chưa sanh nay đang phát sanh, về sự ràng buộc
đã phát sanh nay đang được khử diệt, về sự ràng buộc đã được khử
diệt và không còn tái phát lại nữa.
Hành giả ý thức về tai và âm thanh, ... ý thức
về mũi và mùi hương, ... ý thức về lưỡi và vị nếm, ... ý thức về
thân và sự xúc chạm, ... ý thức về ý và tư tưởng...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm về
sáu giác quan và sáu loại đối tượng.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về bảy yếu tố
của sự giác ngộ, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Quán niệm như thế nào?
1. Khi có yếu tố chánh niệm, hành giả ý thức
là mình có chánh niệm; khi không có chánh niệm, hành giả ý thức là mình
không có chánh niệm. Hành giả có ý thức về một chánh niệm chưa sanh
nay đang phát sanh, một chánh niệm đã phát sanh nay đang thành tựu.
2. Khi có yếu tố trạch pháp, hành giả ý thức
là mình có trạch pháp ...
3. Khi có yếu tố tinh tấn, hành giả ý thức
là mình có tinh tấn ...
4. Khi có yếu tố hoan hỷ, hành giả ý thức là
mình có hoan hỷ...
5. Khi có yếu tố khinh an, hành giả ý thức là
mình có khinh an ...
6. Khi có yếu tố định, hành giả ý thức là
mình có định ...
7. Khi có yếu tố hành xả, hành giả ý thức
là mình có hành xả ...
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm về
bảy yếu tố của sự giác ngộ.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về bốn sự thật
cao quý như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm
như thế nào?
Khi sự kiện là khổ đau, hành giả quán niệm:
"Đây là khổ đau". Khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến khổ
đau, hành giả quán niệm: "Đây là nguyên nhân đưa đến khổ
đau". Khi sự kiện là sự chấm dứt khổ đau, hành giả quán niệm:
"Đây là sự chấm dứt khổ đau". Khi sự kiện là con đường dẫn
đến sự chấm dứt khổ đau, hành giả quán niệm: "Đây là con đường
dẫn đến sự chấm dứt khổ đau".
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường
trực quán niệm về bốn sự thật cao quý như đối tượng tâm thức nơi
đối tượng tâm thức, hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên
ngoài, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng. Hoặc quán
niệm quá trình sinh khởi nơi đối tượng tâm thức, hoặc quá trình hủy
diệt nơi tâm thức, hoặc quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt. Hoặc
quán niệm: "Có đối tượng tâm thức đây" đủ để quán chiếu
và ý thức được sự có mặt của đối tượng tâm thức, và như vậy
người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ gì trong
cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm về bốn sự thật cao
quý như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
* * *
Này các thầy, người nào thực hành bốn phép
quán niệm như trên trong bảy năm, người ấy có thể đạt được quả vị
chánh trí [1] ngay ở đây và trong đời này, hoặc nếu còn dư báo
thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại [2]. Này các thầy,
đừng nói gì đến bảy năm, người nào thực hành bốn phép quán niệm
trên trong sáu năm, hoặc năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm hoặc một năm
thì cũng có thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây
và trong đời này. Này các thầy, đừng nói gì đến một năm, người nào
thực hành bốn phép quán niệm trên trong bảy tháng, hoặc sáu tháng, năm
tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, hoặc nửa tháng thì cũng
có thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ...
Này các thầy, đừng nói gì đến nửa tháng, người
nào thực hành bốn phép quán niệm trên trong một tuần, người ấy cũng có
thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong đời
này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.
* * *
Chính vì lý do đó mà tôi đã nói: "Có một
con đường duy nhất để thanh lọc bản thân, vượt thắng phiền não,
tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo, chứng nhập Niết Bàn, đó là
con đường của bốn phép quán niệm". Đức Thế Tôn nói xong, chư
tăng hoan hỷ ghi nhận và làm theo lời ngài.
-ooOoo-
Chú thích:
[1] Chánh trí có nghĩa là A La Hán
[2] Quả Thánh thứ ba, Bãt Lai (A Na Hàm).
Vài nét về tác
giả
Thích Trí Siêu (Hoàng Quốc Bảo) sinh năm 1962 tại
Sài Gòn. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự-Viện Linh-Sơn, tỉnh
Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ Cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi.
Mặc dù xuất thân từ Đại Thừa, Thầy vẫn thích
tầm sư học đạo, không ngần ngại du phương tham vấn học hỏi với các
thầy thuộc nhiều truyền thống khác như: Nguyên Thủy, Zen, và Kim Cang thừa
Tây Tạng.
Để chia xẻ kinh nghiệm và kiến thức của
mình, thầy đã viết và dịch:
Thiền Tứ Niệm Xứ (1987)
Bố Thí Ba La Mật (1988)
Đại Thủ Ần (1989)
Vô Ngã (1990)
Bồ Tát Hạnh (1990)
Xin Cứu Độ Mẹ Đất (1993)
Đạo Gì? (1996)
Góp Nhặt (1997)
Mục lục và
giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6