...... ... | . | . | . | . | . |
Thọ, Tưởng, Tư, Xúc, và Tác ý, từ trích dẫn trên, là thuộc Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn; Sắc ấy là Sắc uẩn. Như vậy Danh sắc là Năm thủ uẩn. Trong kinh ‘Ðại Duyên’ Trường bộ kinh, đức Phật đã cắt nghĩa rằng:
Trong sự liên hệ của mười hai chi phần Duyên Khởi như được trình bày ở trên, sẽ không đúng nói rằng Danh sắc và Thức là giống nhau hay khác nhau, bởi vì cả hai không phải là những thực thể có ngã tính cố định, mà chúng chỉ liên hệ mật thiết với nhau: trong Thức có mặt mười một chi phần kia; cũng thế, trong Danh sắc có mặt mười một chi phần còn lại. Cả hai đều do Vô minh mà sinh, và cả hai đều dẫn đến khổ đau. Lục nhập (Salayatana): Lục nhập là gì?
Nói Lục nhập là nói sự gặp gỡ giữa sáu căn và sáu trần. Khi sự gặp gỡ xuất hiện thì Thức xuất hiện; như thế Lục nhập tự nó bao hàm Vô minh và khổ đau. Xúc (Phassa): Xúc là gì?
Xúc chỉ là sự gặp gỡ của ba yếu tố: căn, trần, và thức tương ưng với căn. Ðây cũng là ý nghĩa của sự gặp gỡ của chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức và nội dung nhận thức. Như vậy, Xúc là sự biểu hiện của Thức, Vô minh hay Khổ đau. Thọ (Vedàna): Thọ là gì? Ðức Phật dạy:
Có ba thứ cảm thọ như thường được giới thiệu trong nhiều kinh thuộc kinh tạng Nikàya: Cảm thọ hạnh phúc, cảm thọ khổ đau, và cảm thọ không hạnh phúc không khổ đau. Cảm thọ hạnh phúc thì luôn luôn sản sinh tham ái trong lòng người. Cảm thọ khổ đau thì luôn luôn đem lại sân hận. Cảm thọ không hạnh phúc không khổ đau thì luôn luôn nuôi dưỡng si mê. Như thế, Thọ là suối nguồn nuôi dưỡng tham, sân, si. Nó thực sự là yếu nhân tạo nên sinh tử và khổ đau. Tham ái (tanhà): Tham ái là gì? - Ðức Phật chỉ rõ:
Trong khi ‘Chánh Tri Kiến’ (Trung bộ I), Tôn giả Xá-lợi-phất bàn đến ba nhóm ái như sau:
Khát Ái các lạc thú có nghĩa là khát ái vị ngọt của sắc, thinh, hương, vị và xúc. Ðây là dục lạc. Khái ái hiện hữu (hay hữu ái) là sự khát ái có mặt và tồn tại ở một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc hơn và tinh tế hơn. Khát ái không hiện hữu (hay vô hữu ái) là khát ái sự không có mặt, không hiện hữu, bởi vì do nhàm chán hiện hữu. Như mọi người có thể kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày, con người sinh ra để sống với khát vọng hạnh phúc và lạc thú từ sáu trần. Chẳng may, mọi vật, mọi lạc thú đều vô thường qua từng sát na, và sự kiện này khiến con người sầu khổ và khiến dục vọng bốc cháy. Dục vọng càng bốc cháy thì khổ đau lại càng nhiều... Ðiều này thổ lộ Tham ái chính là căn gốc của khổ đau, nó chính là khổ đau. Chấp thủ là gì?
Sự thật khổ đau của cuộc đời đã khiến con người nắm giữ lòng ham muốn, và nắm giữ các đối tượng ham muốn, xem đấy là con đường tìm kiếm hạnh phúc. Rồi con người đi đến xem dục vọng và tư duy như là tự ngã của mình, thực ngã của mình. Hiện tượng này phát sinh từ sự chấp thủ dục vọng, chấp thủ sự thấy biết và chấp thủ các lý thuyết hữu ngã, và làm tăng cường Vô minh và khổ đau. Mặt khác, tư duy hữu ngã của con nguời cũng sản sinh lòng tham ái và chấp thủ. Hữu (bhava): Thế nào là Hữu? Hữu được định nghĩa rằng:
Hữu nghĩa là cảnh giới hiện hữu. Hữu chỉ các cảnh giới mà chúng sinh có mặt. Thế giới của cõi Dục (dục hữu) là các thế giới mà chúng sinh tham đắm sắc, thinh, hương, vị và xúc. Thế giới của cõi Sắc (Sắc hũu) là các cảnh giới mà chúng sinh tham đắm các sắc tế nhị, tham đắm sự hiện hữu và tồn tại. Thế giới của cõi Vô sắc (Vô sắc hữu) là các cảnh giới mà các chúng sanh nhàm chán dục lạc và nhàm chán hiện hữu; các chúng sanh ấy có khuynh hướng mong muốn không hiện hữu. Hữu như thế là sự biểu hiện của lòng khát ái. Sanh (Jàti): Sanh là gì? Sanh được cắt nghĩa như sau:
Ðối với con người, sự xuất hiện của Danh sắc hay Năm uẩn thì gọi là Sanh. Sanh như thế là sự xuất hiện của Vô minh và Khổ đau. Già chết (Jàra-marana): Già chết là gì? Nghĩa là:
Với con người, già chết tự nó đã khổ đau. Chính hình ảnh hủy diệt của mọi hiện hữu duyên sinh là trái với lòng ham muốn của con người, rất kinh khiếp đối với mọi người . Trên đây là ý nghĩa của mười hai chi phần Duyên Khởi đã được Ðức Phật giải thích. Sự vận hành của mười hai chi phần ấy sẽ tạo nên cái gọi là toàn bộ sự hiện hữu của con người sẽ được tác giả bàn tiếp. II.1.3: Sự vận hành của mười hai chi phần Duyên khởi Dưới cội Bồ đề, đức Phật khởi lên ý nghĩ: * Không có Sinh thì Khổ đau không có
mặt Như thế, Vô minh là suối nguồn của dòng đời khổ đau. Nhưng nó là do duyên mà sinh, chứ không phải là nguyên nhân đầu tiên như đức Phật đã giảng.
Không biết rằng mọi hiện hữu là do duyên mà sinh là Vô minh. Từ sự vô minh này, con người đi đến chấp thủ cái tự ngã tưởng tượng kia rồi lại sinh khởi Vô minh và nuôi dưỡng Vô minh. Do tà kiến và tà tư duy này con người đi tìm kiếm sự thật của tự ngã của mình, và tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của thế giới. Cái tư duy hữu ngã đó làm dấy lên lòng tham ái, sân hận và si mê vốn là động cơ của các hành động thân, miệng, ý của con người. Sự kiện này gây ra cho con người lắm phiền não. Một khi tư duy hữu ngã vận hành, thì Thức có mặt và vận hành; sự vận hành của Thức đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức (Thức), đối tượng nhận thức (Danh sắc hay Lục nhập hoặc thế giới bên ngoài) và sự gặp gỡ của chủ thể và đối tượng nhận thức (Xúc). Bấy giờ Cảm thọ tức thì xuất hiện. Như thế, các chi phần Duyên Khởi: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ cùng có mặt trong mọi quá trình vận hành của tâm lý. Cảm thọ bao gồm phản ứng của tâm lý, đó là Ái hay Sân, hay Si, hoặc hai trong ba thứ ấy. Ái tự nó bao hàm chấp thủ. Chúng là vô cùng và biểu hiện dưới vô vàn hình thức bất tận. Ðiều này đòi hỏi sự hiện hữu của các thế giới, hay Tam hữu (tibhava). Nói tóm, một khi tư duy hữu ngã vận hành thì mười hai chi phần Duyên Khởi vận hành. Các chi phần ấy đều vô ngã, vô thường và dẫn đến khổ đau. Thế nên, con người chẳng là gì khác hơn sự vận hành của mười hai chi phần Duyên Khởi dẫn đến khổ đau, nếu tâm con người bị tư duy hữu ngã chế ngự. Nếu tư duy vô ngã, hay sự giác tĩnh Duyên Khởi, vận hành thì sự vận hành này sẽ dẫn tới sự đoạn diệt của mười hai chi phần ấy, hay sự đoạn diệt khổ đau. Bấy giờ con người xuất hiện là con người của cái nhìn vô ngã về sự vật và của hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. Con người thực sự chứng tỏ rằng giấc mơ dài và thiết thân của mình và giáo dục trở thành hiện thực. Thực tế, chính tư duy hữu ngã hay vô ngã của con người tạo ra các giá trị của vạn hữu, đánh giá vạn hữu, và mở ra hướng văn hóa của nhân loại. Nhìn tổng quát, nền văn hóa hiện nay đã được tạo nên, đã và đang bị chế ngự bởi tư duy hữu ngã (hay vô minh), cái nhân tố đã sản sinh ra vô số nhân sinh quan, vũ trụ quan, giá trị con người, và cả các cuộc khủng hoảng này có thể tìm thấy trong sự vận hành của tư duy vô ngã đến từ cái nhìn trí tuệ của Duyên Khởi sẽ được bàn đến trong phần tiếp theo của tác phẩm này. Chú thích: (1) : Kindred Sayings, Vol. II., PTS, London, 1990, pp 1-2.
Dưới ánh sáng Duyên khởiCác vấn đề thường được bàn đến trong một nền văn hóa là nhân sinh quan, vũ trụ quan, các vấn đề cá nhân, môi sinh và giá trị. Các vấn đề này giữ vai trò quyết định hướng phát triển của văn hóa, sẽ được soát xét lại trong chương ‘Dưới ánh sáng Duyên Khởi’ này. II. 2. 1. Nhân sinh quan và Vũ trụ quan Khảo sát nguồn gốc, hay bản chất, của nhân sinh và vũ trụ là công việc chính của lãnh vực siêu hình học. Nó giữ một vị trí quan trọng trong triết học. Vấn đề nhân sinh và vũ trụ đã được khảo sát từ buổi bình minh của tư tưởng Hy-Lạp, Ấn Ðộ và Trung Hoa. Ðấy là sự tìm hiểu bản chất của vạn hữu liên quan đến vấn đề ‘thường’ và ‘đoạn’, ‘ngã’ và ‘vô ngã’, ‘thực tại’ và ‘hư vô’, ‘sáng tạo chủ’ và ‘sáng tạo vật’, v.v... Ðức Phật Thích Ca, đấng đã tự mình chứng đạt chân lý tối hậu, xem các vấn đề siêu hình là trống rỗng. Ngài thường im lặng và không trả lời các câu hỏi siêu hình như thế, bởi vì theo Ngài, các vấn đề siêu hình không thiết thực liên hệ đến mục tiêu giải thoát sau cùng mà một tu sĩ Phật giáo nhắm đến. Thái độ tâm lý thực nghiệm này của Ngài đã được đề cập trong nhiều kinh thuộc kinh tạng Pàli. Tuy thế, trên đường tìm hiểu con người và vũ trụ, tác giả thấy cần đề cập đến vài vấn đề triết học, về tâm lý (hay tâm linh) và vật chất. Khi con người khảo sát vũ trụ, thì con người đang cùng vũ trụ hiện hữu trong hiện tại và tại đây. Làm sao con người có thể biết được sự thật của vũ trụ khi con người không thể biết được sự thật của chính mình? Thế nên, điều thực tiễn cho con người là quay trở về với chính mình để biết mình là ai, đang ở đâu để có thể loại trừ hết thảy các thứ ngăn che mình khỏi sự thật vạn hữu. Muốn làm thế, con người phải đi theo phương pháp thực tiễn của Hiện tượng luận và phương pháp chứng nghiệm tâm lý của đức Phật. Về vật chất, đức Phật tuyên bố thế giới vật chất do tứ đại hình thành như nhiều tư tưởng Ấn trước Ngài đã tuyên bố: đó là yếu tố đất, nước, gió, lửa. Các yếu tố này là vận động và vô thường, nên vạn hữu do chúng làm nên cũng vô thường. Câu hỏi về nguồn gốc của Tứ đại đói với sự thật Duyên khởi do đức Phật phát hiện thì trở nên vô nghĩa và không được chấp nhận. Theo Duyên khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sinh, là vô ngã và rỗng không; con người chỉ là tập hợp của Năm thủ uẩn, là vô ngã và rỗng không; con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể tách rời nhau. Sự thật này đã được đức Phật chứng tỏ trong kinh Mahàpunnama (Trung bộ III) và trong kinh Giới Phân Biệt (Dhàtuvibhanga, Trung bộ III) rằng: Sắc uẩn gồm có nội sắc là cơ thể vật lý của mỗi cá nhân, ngoại sắc là thế giới vật lý; điều này có nghĩa là vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con người. Do vì tư tưởng của con người bị hạn chế bởi tư duy hữu ngã và bởi sự giới hạn của các giác quan, nó không thể đặt chân đến thế giới chân thật của vạn hữu, nên nêu ra câu hỏi: có phải vũ trụ đang hiện hữu như con người nhận thức không? Hay, vũ trụ hiện hữu độc lập với nhận thức con người? Trả lời cho câu hỏi ấy, các nhà thực tại luận cho rằng vũ trụ hiện hữu đúng như những gì cho con người nhận thức nó; các nhà duy tâm luận phương Tây cho rằng con người chỉ có thể biết được thế giới được nhận thức qua các giác quan, mà không bao giờ có thể biết được thế giới tự thân, như Platon đã bảo; Immanuel Kant là một nhà duy lý nhưng lại chấp nhận quan điểm của các nhà duy tâm luận. Dù có cái nhìn sự vật khác nhau, các nhà giáo dục và triết học phương Tây đều tin rằng có một thế giới khách quan độc lập với con người mà con người không bao giờ có thể biết được. Ðây là điểm khác biệt căn gốc, theo tác giả, giữa giáo lý của đức Phật và các trường phái tư tưởng khác cho tác giả một niềm hy vọng tìm thấy các giải đáp cho các cuộc khủng hoảng do tư duy hữu ngã gây ra. Một lần trong kinh Pàtigamiya (Tiểu bộ kinh), đức Phật Thích Ca nói đến thế giới vô vi (asamkhàra) là thế giới hiện hữu ngoài các phạm trù ‘đi’ và ‘đến’, ‘sanh’ và ‘diệt’ v.v... Và Ngài tuyên bố đó là thế giới của đoạn tận khổ đau, đoạn tận chấp thủ. Ðiều này nói lên thế giới mà con người đang thấy và biết là thế giới của chấp thủ, của điên đảo tâm, điên đảo tưởng, điên đảo tình và điên đảo kiến, phát sinh do vô minh (avijjà) Như thế, thế giới như thật là thế giới hiện tượng này mà vắng bóng chấp thủ, tham ái của con người. Ðức Phật đã xác định:
Lời dạy trên hiển lộ rằng quan điểm giáo dục của đức Phật là: giáo dục con người, là giúp con người tu tập tâm mình để giải thoát khỏi các phiền não, lậu hoặc. Khi tâm thanh tịnh, con người sẽ thấy cái thanh tịnh của thế giới hay thế giới chân thật: đối với người thanh tịnh ấy, hạnh phúc và chân lý xuất hiện cùng lúc. Không phải là vấn đề giáo dục con người theo một lý thuyết Nhân Tính hay một mẫu người giáo dục nào. Cũng không phải là vấn đề đi tìm kiếm nguồn gốc của con người hay vũ trụ. Rồi một vấn đề khác có thể được đặt ra, tinh thần đến sau vật chất hay vật chất đến sau tinh thần?. Ðây là vấn đề triết học. Như đã được đề cập, tư duy con người vận hành trên cơ sở khái niệm hữu ngã. Ngoài khái niệm hữu ngã, tư duy không thể hoạt động. Chính khái niệm hữu ngã đã tạo ra khái niệm trật tự của sự vật, khái niệm ‘trước’, ‘sau’ và ‘nguyên nhân đầu tiên’ (trước nhất). Thực tại tự nó không liên hệ gì với khái niệm hữu ngã. Thực tại luôn luôn nói rằng tin thần hay vật chất là do duyên mà sinh, như sự thật Duyên Khởi đã nói. Nếu Sắc uẩn không thể tách rời khỏi bốn uẩn kia, thì vật chất cũng không thể tách rời khỏi tinh thần: cả hai cùng hiện hữu. Tuy thế, để đặt nặng vấn đề tu tập tâm, đức Phật dạy:
Tâm được nói đến trong hai lời dạy trên cần được hiểu rõ là do duyên mà sinh, cả đến Tam hữu (tibhava) - vũ trụ - cũng do duyên mà sinh; hết thảy mọi hiện hữu, tinh thần và vật chất là vô ngã, nên rỗng không. Chỉ có vấn đề khổ đau và chấm dứt khổ đau, mà không phải các vấn đề lý luận, là được đức Phật chú trọng trên đường giáo dục của Ngài. Kiến thức, hay tri thức, là một vấn đề quan trọng khác được xét đến. Nó liên hệ đến các hiện hữu và gần gũi với con người đến độ con người xem nó như là cái gì thuộc tự ngã của mình. Tri thức ấy là gì? Một sự hiểu biết thế giới bên ngoài chỉ là một sự tổng hợp các nguồn thông tin do các giác quan đem lại. Nhưng các giác quan không phải là các nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy. Giả như khi một người nhúng bàn tay trái trong một chậu nước lạnh, bàn tay phải trong một chậu nước nóng; rồi nhúng cả hai bàn tay vào một chậu nước hẩm; hai bàn tay ấy sẽ không cho cùng một cảm giác. Ðấy là sai lầm. Tương tự đối với các giác quan khác. Tổng hợp trên lại do tư duy hữu ngã thực hiện, nên nó là thuộc Vô minh. Vì thế tri thức không thuộc về thực ngã của con người, không thuộc về thế giới chân thật. Dưới ánh sáng của Duyên khởi, tri thức hiện rõ là nhân tố chỉ dẫn dắt con người đến khổ đau; nó không phải là những gì con người mong đợi. Một hệ thống giáo dục, như hầu hết các hệ thống giáo dục của thế giới ngày nay, chỉ cung cấp kiến thức sẽ không đem lại hạnh phúc cho con người. Hệ thống giáo dục như thế cần được điều chỉnh càng sớm càng tốt. Ngoài sự soi tỏ trên, giáo lý Duyên khởi, với tác giả, có thể đề bạt nhiều cái nhìn mới mẻ về các vấn đề cá nhân, xã hội và môi sinh, sẽ được bàn tiếp. II. 2. 2: Duyên khởi và các vấn đề cá nhân Các vấn đề lớn của xã hội hiện đại mà các nhà tư tưởng, giáo dục, lãnh đạo hằng quan tâm là các vấn đề cá nhân và liên hệ giữa cá nhân với xã hội, lịch sử, môi sinh, bởi các vấn đề này liên hệ mật thiết với hạnh phúc và sự tồn tại của cá nhân, hiện hữu như là một phần đời sống của con người, thế nên các vấn đề ấy cần được khảo sát dưới ánh sáng của Duyên khởi. Cá nhân và hạnh phúc: Thật hiển nhiên rằng mọi người sinh ra là để hạnh phúc mà không phải để khổ đau, để phục vụ cho mục tiêu hạnh phúc thực tiễn mà không phải phục vụ các mục tiêu nào khác không có gắn liền thiết thân với hạnh phúc. Cũng hiển nhiên rằng con người tìm kiếm sự thật cuộc đời vì sự an lạc của tâm hồn trong hiện tại và tại đây. Vậy nên đối tượng chính của giáo dục và văn hóa phải là các cá nhân, và mục đích cơ bản của giáo dục phải là hạnh phúc của cá nhân. Từ xa xưa, con người đã quần tụ nhau lại thành các bộ lạc để sinh tồn, để cải thiện đời sống, và để thích ứng với thời tiết, môi sinh và thiên nhiên. Chính vì các lý do đó mà xã hội, văn hóa và văn minh được hình thành. Do vì dòng đời trôi chảy mãi, nên nỗ lực của con người để xây dựng xã hội và hạnh phúc phải thay đổi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Bấy giờ các cá nhân phải hoạt động để phục vụ hai mục tiêu riêng lẻ: một cho cá nhân, và một vì xã hội. Khi hai mục tiêu ấy không được đáp ứng hữu hiệu, thì các vấn đề cá nhân dấy khởi và đòi hỏi có giải đáp. Dù thế, cái nhìn của con người về cá nhân, xã hội và hạnh phúc thì khác nhau. Sự việc này khiến cho các vấn đề ấy trở nên càng phức tạp và khiến cho sự tìm kiếm giải đáp trở thành lý do để các tôn giáo và các trường phái tư tưởng ra đời và phát triển. Hãy theo dõi những cái nhìn tiêu biểu về các vấn đề vừa nói từ các vùng văn hóa lớn của nhân loại. P. T Raju, trong tác phẩm nhan đề, ‘Khái niệm về con người’ do Raju và S. Radhakrishnan ấn hành, đã nhận định: Về tư tưởng Hy Lạp: ‘Các triết lý trước thời ngụy biện không đề cập nhiều đến liên hệ con người và xã hội... Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình.... Mỗi con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức, mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platon và Socrates chống lại ‘chủ nghĩa cá nhân’ và ‘chủ nghĩa tương đối’ cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con người, thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã) của con người phản ánh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã hội được xếp đặt theo trật tự duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá nhân không thể tách rời xã hội và ‘Nhân Tính’ là hình thành do xã hội và phát triển trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh trong tư tưởng Hy Lạp... Socrates và Platon thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất con người trên tấm vải thô lớn, hay sự phản ánh được khuếch đại của bản chất con người. Con người chỉ thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã hội. ... Aristotle, một nhà duy lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của Platon. Con người không thể là con người nếu không có xã hội...’ (2). Với tư tưởng Trung Hoa: ‘Ðối với con người, mối quan tâm của con người là mạnh mẽ nhất, là làm sao con người tự lo liệu đủ cho chính mình... làm thế nào để có một hình thức quốc gia, xã hội tốt nhất, ở đó con người có thể sống đạo đức, là vấn đề mãi được đặt ra trong lịch sử triết học Trung Hoa. ‘Nghiên cứu liên hệ con người để tổ chức một xứ sở tốt đẹp’ là lời khuyên của Khổng Tử... Khi Mạnh Tử nói rằng vũ trụ, vũ trụ của các liên hệ với con người, là vũ trụ được tìm thấy trong tâm con người, Mạnh Tử muốn nói rằng vũ trụ có thể tìm thấy nơi con người mà không phải là vũ trụ sinh ra từ một thực tại nào ở bên ngoài con người. Tuân Tử thì khác hẳn Mạnh Tử, ông cho rằng bản chất của con người là xấu xa, vị kỷ, do đó con người cần đến văn hóa giáo dục để thành người tốt.... Bản chất con người là con người xã hội, con người chỉ có thể sống đạo đức trong xã hội loài người, dù Thượng Ðế có mặt hay không có mặt cũng thế’ (3). Với tưởng Ấn Ðộ, hầu như là tư tưởng sâu sắc nhất thế giới như đã đề cập ở phần (I. 2). Về tư tưởng Marx, P. T. Raju đánh giá: ‘Triết lý Marx bắt nguồn từ tiền đề cho rằng cá nhân là một sinh vật xã hội... Mars và Engels xem cá nhân và đời sống xã hội của cá nhân không phải là điều khác biệt, dù hai cá thể ấy có những hình thức biểu hiện khác nhau... ‘con người chỉ có thể ổn cố trong xã hội’. Marx viết: ‘chỉ trong xã hội, cá tính của cá nhân mới có thể hiển lộ tùy theo các điều kiện xã hội’ (4). Với tác giả của tác phẩm này, tư tưởng Hy Lạp, là thuộc tư tưởng ‘nhị nguyên’ (duaslism) cho rằng mỗi hiện hữu có bản chất riêng của nó, dù là quan điểm cho rằng cá nhân và xã hội tùy thuộc lẫn nhau hay không. Vì thế nên các tư tưởng hệ ấy thuộc về sự vận hành của Vô minh chắc hẳn dẫn đến khổ đau. Các tư tưởng Trung Hoa vốn nhấn mạnh đến con người đức hạnh sống trong trật tự của xã hội được khéo tổ chức. Các tư tưởng ấy cũng chỉ là sản phẩm của tư duy hữu ngã, mà không phải là sản phẩm của chính thực tại. Hẳn chúng đem lại phiền não, khổ đau cho các cá nhân như chúng ta có thể thấy trong lịch sử Trung Hoa: nhiều mâu thuẫn đầy bi kịch của tương hệ con người đã xảy ra. Ðức Phật Thích Ca đã đánh giá về các quan điểm tư tưởng của nhân loại rằng: ‘Khi các Sa - môn, Bà - la - môn ấy, những người tư duy về quá khứ (hiện tại hay tương lai), có các định kiến về quá khứ (hiện tại và tương lai) đã có sáu mươi hai quan điểm khác nhau, đó chỉ là cảm thọ của những người không biết, không thấy, đó là sự lo nghĩ dao động của những người bị nhận chìm trong tham ái’ (5). Ðức Phật với trí tuệ toàn giác đã thấy và biết sự thật của vũ trụ và đã giải thích sự hình thành của trái đất và xã hội loài người, có thể được tóm tắt như sau: * Vào thời kỳ hoại diệt của thế giới này, các chúng sanh được sanh về Quang Âm Thiên. Ở đó chúng sanh sống, do tâm tạo, nuôi sống bằng tự hỷ, chói sáng, du hành giữa hư không, rực rỡ... * Vào thời kỳ hình thành thế giới này, các chúng sanh ở Quang Âm Thiên sau khi qua đời thì sanh vào thế giới này. Ở đây, các chúng sanh ấy sống, do tâm tạo, nuôi sống bằng hỷ lạc, thân chói sáng, du hành giữa hư không rực rỡ.. * Vào thời kỳ thế giới này hình thành, chỉ có nước; tất cả đen ngòm..., chưa có sự biện biệt đêm và ngày, chúng sanh được xem là chúng sanh, chưa có sự phân biệt nam, nữ... * Rồi đất xuất hiện là một lớp mỏng phủ trên mặt nước với sắc màu của bơ và vị ngọt của vị mật. Rồi một số ít chúng sinh có lòng tham lam nếm vị của đất, đắm trước vào vị của đất; lòng tham ái bắt đầu dấy khởi lên trong tâm các chúng sinh ấy. Lòng tham lam càng nhiều thì đất trở nên càng thô xảm; các chúng sanh ấy trở nên thô xấu hơn đi. * Trong các chúng sanh đó, những ai có ít lòng tham thì dung sắc trở nên đẹp đẽ hơn, những người khác thì xấu đi. Những người có dung sắc đẹp thì khinh khi các người có dung sắc xấu (kém); sự việc này khiến hương vị của đất biến mất. Rồi mọc lên một thứ nấm màu sắc đẹp, hương lành và vị ngon. * Rồi lòng tham ái của các chúng sinh gia tăng, đất trở nên càng xấu đi, các chúng sinh trở nên ngày càng thô xấu ra. * Rồi tiếp đến lúa tự mọc giữa các khoảng đất trống, không có vỏ, không có cám, hạt tinh và thơm. Những phần lúa nào con người lấy dùng cho bữa ăn tối sẽ mọc trở lại và chín vào buổi sáng hôm sau, và những phần lúa nào con người dùng cho bữa ăn sáng thì sẽ mọc và chín trở lại vào buổi tối hôm ấy. Bấy giờ con người trở nên thô xấu hơn; các nữ nhân phát triển bộ phận sinh dục nữ, và nam nhân phát triển bộ phận sinh dục nam; các ham muốn khởi dậy và cơ thể con người bốc cháy nhục dục; giao cấu giữa nam và nữ xuất hiện. * Vào buổi đầu, những kẻ nam nữ ân ái bị nguyền rủa, bị ném vào đất và tro, và không được phép sống chung với những người (không ân ái) khác trong các ngôi làng, thị trấn trong vòng hai tháng. * Con người dần trở nên lười biếng, muốn gặt lúa càng nhiều càng tốt để giữ làm của riêng và dùng riêng cho mình..., các ruộng lúa biến mất..., đời sống dục tính của nam nữ được công khai chấp nhận. Con người bắt đầu xây dựng nhà cửa để che kín các sinh hoạt dục tính. * Rồi xảy ra chuyện người này đánh trộm lúa của người kia: trộm cắp và nói dối xuất hiện. * Bấy giờ con người chọn người có dung sắc đẹp đẽ nhất (nghĩa là ít lòng tham nhất) làm người ‘luật sư’ hay ‘trọng tài’ để phân xử các vụ trộm cắp lúa. Người ‘luật sư’ hay ‘trọng tài’ này được nhận phần lúa phụ cấp của các thôn dân mà không phải canh tác ruộng lúa. Ðây là sự khởi đầu của giai cấp lãnh đạo. (Khattiya). * Một số ít người tránh xa đời sống dục ái, sống trong các chòi lá ở những nơi cô tịch trong các cánh rừng và thực tập thiền định. Họ được gọi là các Bà-la-môn (Brahmins). Một số Bà-la-môn không thể hành thiền định ở những nơi xa vắng, đã trở về sống trong các làng mạc, thị trấn để trước tác các kinh sách; họ cũng được gọi là Bà-la-môn. * Các người khác làm nghề buôn thì được gọi là thương nhân (vessas). Các người khác đi săn bắn để sống thì được gọi là các Thủ-đà-la (suddas). Như thế, lúc trái đất này hình thành, các chúng sanh xuất hiện đầu tiên từ Quang Âm Thiên, không cần thực phẩm. Rồi vị ngọt của đất và lúa đã cám dỗ họ khiến lòng ham muốn các hiện hữu khởi lên và phát triển trong tâm họ. Sau đó các bộ phận sinh dục cùng xuất hiện với các ham muốn dục tính. Khi dục vọng con người phát triển, các nhu cầu xã hội phát triển và yêu cầu có tổ chức các xã hội: xã hội con người được hình thành từ đó và các giai cấp xã hội xuất hiện: xã hội chỉ là sự đáp ứng các yêu cầu cá nhân. Ðây là vai trò đầu tiên và cuối cùng của xã hội. Ðây là lý do tại sao đức Phật chỉ quan tâm đến khổ đau của những cá nhân trong đời này, và quan tâm đến các hành động vì hạnh phúc cho họ. Ðức Phật vì thế đã dạy:
Xã hội không phải làm gì khác hơn giúp đỡ các cá nhân giải quyết các vấn đề cá nhân do các việc làm của họ gây ra. Văn hóa và truyền thống vốn là thuộc tính của xã hội cũng phải làm tương tự. Ðây là ý nghĩa truyền thống nhất của vai trò xã hội, văn hóa và truyền thống. Và ý nghĩa nguyên thủy và truyền thống nhất về mục đích ở đời của các cá nhân là có một tâm hồn an tịnh của sự tự hỷ, ít ra là như đã xuất hiện vào buổi ban đầu của trái đất này. Thế giới hôm nay như là một xã hội rất lớn có nhiều vấn đề cần được giải quyết như ngôn ngữ, các hệ thống chính trị, phong tục tập quán, nếp sống, tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, phái tính... và môi sinh. Tất cả những vấn đề này, vốn ảnh hưởng rất mạnh đến con người, đang hiện diện như một đại dương dậy sóng đánh đắm các con thuyền cá nhân. Giữa điều kiện sống ấy, các cá nhân cảm thấy mình trở nên xa lạ với chính mình đến nỗi kinh ngạc thắc mắc về nguồn gốc của chính mình giữa khi mình đang hiện hữu rõ ràng thế, và sự thật của cuộc đời đang hiện diện trước mắt. Vì lý do đó, đức Phật đã thấy và biết rõ quá khứ và tương lai của vũ trụ này đã tuyên bố:
Quả thực, khi nền văn hóa này không thể giúp cá nhân trở về chính mình và không thể đem lại hạnh phúc cho cá nhân, thì nhân loại sẽ không có chọn lựa nào khác hơn là chấp nhận nỗi khổ đau định mệnh như đang là, nếu hướng vận hành của văn hóa không thay đổi. Một bằng chứng hiển nhiên về hậu quả của nền văn hóa này là hiện tượng ô nhiễm môi sinh trầm trọng đang xảy ra có thể hủy diệt sự sống trên trái đất này. Hẳn là phải có cái gì sai lầm trong hướng tư duy và hành động của con người cần được điều chỉnh để bảo vệ môi sinh thoát khỏi tình trạng ô nhiễm này. Ðây là đề tài thảo luận nóng bỏng của thời đại chúng ta mà tác giả sẽ đề cập ở phần (II. 2. 3). Tác giả nghĩ rằng không hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa con người và thiên nhiên, con người sẽ không thể hiểu được sự thật của chính mình; không bảo vệ môi sinh thoát khỏi ô nhiễm như là bảo vệ con người đi ra khỏi khổ đau, thì nhân loại sẽ đi đến sự hủy diệt. II.2.3: Cá nhân và Môi sinh Môi sinh là gì? Thế nào là ô nhiễm môi sinh? Chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu. Môi sinh là một ‘từ’ mới chỉ thiên nhiên. Một ngành học mới về môi sinh của thời đại gọi là ‘môi sinh học’. Vài khái niệm về môi sinh học: Môi sinh học là một khoa học tương đối mới mẻ liên quan đến nhiều nguyên lý chế ngự mối liên hệ giữa các sinh vật và môi trường sống của chúng. Frederich Clements (1916), một nhà môi sinh học người Mỹ, xem môi sinh học là ‘khoa học về cộng đồng của con người’; Charles Elton, nhà môi sinh học người Anh, định nghĩa môi sinh học là ‘Khoa lịch sử có tính chất thiên nhiên và khoa học’ liên quan đến ‘xã hội học và sự phân phối và tiêu thụ của các loài động vật’; Woodbury (1954) thì xem ‘Môi sinh học’ là một khoa học nghiên cứu các sinh vật trong mối liên hệ với môi sinh, một triết học mà ở đó thế giới của sự sống được cắt nghĩa bằng các quá trình tự nhiên’. Krebs (1972) định nghĩa ‘Môi sinh học’ là con đường khoa học khảo cứu các sự tương tác thuộc môi sinh vốn chế ngự sự an sinh của các sinh vật, điều chỉnh sự phân phối, sự thừa thãi, sự tái sản sinh và sự tiến triển của chúng’. P. D. Sharma (F. N. I. E) (Phân ban thực vật học, Ðại học Delhi) đã viết trong tập sách của ông nhan đề ‘Môi sinh học và môi trường sốngỂ rằng: ‘Ngày nay 'môi sinh học' đã và đang đóng góp rất nhiều cho chính sách về xã hội, kinh tế, chính trị và các chính sách tương tự của thế giới. Thật rất phổ biến kiếm tìm các tham khảo về môi sinh học trong các bài viết, tạp chí, tuần báo và nhật báo về xã hội, kinh tế học. Môi sinh thật sự giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề an sinh của con người. Ðây chủ yếu là chủ đề của một ngành học và ngành học môi sinh hiện đại chú trọng đến chức năng các tương thuộc giữa các sinh vật và môi trường sống của chúng’. (8) P. D. Sharma đã giới thiệu nhiều khái niệm cơ bản về môi sinh, phần này tác giả chỉ trích dẫn vài khái niệm tiêu biểu: - ‘Tất cả sinh vật và môi trường sống của chúng có phản ứng hổ tương và ảnh hưởng nhau qua nhiều cách. Loài động vật, quần hoa cỏ và cây cối là tương thuộc qua môi sinh và phản ứng hổ tương’ (9) - ‘Môi sinh, nó vốn là một phức thể của nhiều nhân tố tương hệ, và nó năng động (nghĩa là thay đổi theo thời gian và không gian), có chức năng như một cái sàng chọn lọc các sinh vật cho sự phát triển qua rất nhiều hình thái làm nên sự hình thành của nó, hoặc một sự hình thành khác trở nên nhân tố quyết định ở các giai đoạn phát triển quyết định của chu kỳ sự sống của các loài’ (10). - ‘Không phải chỉ có môi sinh ảnh hưởng đến đời sống của các sinh vật, mà các sinh vật cũng bổ sung cho môi sinh như là kết quả của sự phát triển, phân tán, tái sản sinh, chết, tan hoại v.v.. của các sinh vật. Như vậy, môi sinh được gây nên sự đổi thay do các hoạt động của các loài sinh vật. Môi sinh và các sinh vật năng động mở đường phát triển cho nhiều loại sinh vật khác qua một quá trình được gọi là kế thừa. Quá trình ấy tiếp tục cho đến sự phát triển của cộng đồng như hiện tại tự nó có thể tự điều chỉnh cân bằng với môi sinh. Giai đoạn cuối này của cộng đồng được gọi là đỉnh cao của phát triển (11). Các trích dẫn trên chứng tỏ rằng giữa con người và môi sinh có một sự liên hệ sinh động, liên tục, tự nhiên và không thể tách rời nhau. Mối liên hệ mật thiết ấy nói lên rằng gây rối môi sinh có nghĩa là gây rối đời sống của cá nhân như chúng ta có thể thấy qua cuộc khủng hoảng môi sinh hiện nay. Cuộc khủng hoảng môi sinh: Cuộc khủng hoảng môi sinh hiện tại là sự ô nhiễm môi sinh: ô nhiễm không khí, nước và đất. Như đã được các sách, báo v.v... ghi lại các ô nhiễm ấy do các cuộc thí nghiệm bom nguyên tử, các vũ khí hóa học, các hơi độc thoát ra từ các xưởng kỹ nghệ, và do sự gia tăng dân số trên thế giới gây ra. Từ ngữ ‘ô nhiễm’ đã được ‘nhóm ô nhiễm môi sinh’ của Hội đồng cố vấn khoa học của Tổng thống định nghĩa trong bản báo cáo của nhóm, nhan đề: ‘Phục hồi phẩm chất môi sinh của chúng ta’, tổ chức vào tháng 11, năm 1965 như sau: - ‘Ô nhiễm môi sinh là sự thay đổi không thuận lợi về môi trường sống chung quanh, như là toàn thể, hay phần lớn, hậu quả của các hoạt động con người qua các ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp về sự thay đổi các mẫu hình năng lượng, các cấp độ phóng xạ, qua sự cấu thành thuộc vật lý hay hóa học và qua sự thừa thãi của các tổ chức. Các đổi thay này có thể trực tiếp ảnh hưởng đến con người, hay ảnh hưởng qua sự cung cấp nước và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp, sinh vật, qua các tư hữu hay đối tượng vật lý, hay qua các dịp con người giải trí, tìm hiểu thiên nhiên’. (12) Edward J. Kormondy ghi lại sự ô nhiễm không khí do các nguyên nhân tạo hằng năm ở Mỹ như sau: (13)
Ðề cập vấn đề ‘năng lượng hạt nhân - sự cứu rỗi hay sự trừng phạt’ E. F. Schumacher, trong tập sách của ông nhan đề ‘Small is Beautiful’ (những cái nhỏ bé là tốt đẹp), viết: ‘Về tất cả những đổi thay mà con người đã đưa vào ngôi nhà thiên nhiên thì sự phân hạch hạt nhân với quy mô lớn đã hẳn rõ là điều sâu xa và nguy hiểm nhất. Các bức xạ hạt nhân là hậu quả đã và đang trở nên một nhân tố nghiêm trọng nhất cho vấn đề ô nhiễm môi sinh, và là sự đe dọa lớn nhất cho sự tồn tại của loài người trên trái đất. Không còn ngạc nhiên gì nữa, bom nguyên tử đã thu hết sự chú ý của người đời, dù đang còn ít nhất một cơ hội mà nó sẽ không bao giờ được sử dụng nữa. Cái nguy hiểm đối với nhân loại gây ra do việc dùng năng lượng nguyên tử phục vụ hòa bình có thể còn to lớn hơn nhiều’ (14). Ðối với sự ô nhiễm đất và nước E. F. Schumacher viết: ‘Cho đến nay vẫn chưa có một sự thỏa ước quốc tế nào đạt được về sự phế thải. Hội nghị của ‘Tổ chức năng lượng Quốc Tế’ tại Monaca, tháng 11, 1959, đã kết thúc trong sự bất đồng ý kiến, phần chính do các chống đối mạnh mẽ của đa số các nước chống lại sự phế thải vào đại dương của Anh và Mỹ. Các đồ phế thải ở ‘cấp độ cao’ tiếp tục được vứt bỏ vào biển, trong khi đó số lượng các phế thải thuộc ‘cấp độ trung bình’ hay ‘cấp độ thấp’ thì vứt vào sông hay trực tiếp vào lòng đất. Báo cáo của ‘tổ chức năng lượng quốc tế’ ấy khảo sát ngắn gọn rằng các phế thải chất lỏng ngấm dần vào đất, nước, để lại toàn phần hay một phần các bức xạ thuộc hóa học hay vật lý trong lòng đất’ (15). Từ các trích dẫn trên, chúng ta có thể hình dung ra sự ô nhiễm môi sinh hiện nay nguy hiểm biết bao! Ðe dọa đời sống nhân loại trên hành tinh biết bao! Sự ô nhiễm ấy là hậu quả hiển nhiên của nền văn học khoa học hiện đại với sự phát triển kỹ nghệ, kinh tế nhanh chóng mà không thể kiểm soát được. Nền văn minh ấy, đến lượt nó, là hậu quả của sự phát triển cao đỉnh của tư duy hữu ngã, con đường tư duy và hưởng thụ lạc thú của con người. Thế nên, nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng lớn về môi sinh, như đang được báo động, là vô minh và lòng tham ái. Tại đây, chúng ta có thể nêu ra vấn đề liệu các lời dạy của Ðức Phật về sự thật Duyên khởi có thể cung cấp lời giải đáp cho vấn đề khủng hoảng môi sinh không? Như phần trước đã đề cập, chi phần Danh sắc (Nàmarùpa) của Duyên khởi được xem là Năm thủ uẩn của con người và được đức Phật định nghĩa rằng:
Hai mươi sáu thế kỷ qua đức Phật đã cho nhân loại một định nghĩa vô cùng tuyệt vời và cực kỳ kinh ngạc rằng: sắc uẩn của một người là bao gồm thân vật lý của người ấy và toàn thể thế giới vật lý. Ðịnh nghĩa ấy xác định rằng thiên nhiên hay môi sinh thực sự là cơ thể của con người, hay một phần rất lớn của cơ thể con người, con người không thể hiện hữu và tồn tại được nếu không có môi sinh. Nếu môi sinh hay thiên nhiên bị ô nhiễm trầm trọng, thì cơ thể vật lý của con người, hay đời sống của con người, sẽ tức khắc đi đến hủy diệt. Vậy nên, nếu con người hiểu rõ sự thật Duyên khởi, hay nếu các phương tiện truyền thông của con người giới thiệu Duyên khởi, thì con người sẽ tự nguyện cật lực bảo vệ môi sinh khỏi ô nhiễm, bởi vì đó là ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc và sự tồn tại của chính mình. Có thể nói rằng khoa môi sinh học và mối nguy hiểm của sự môi sinh bị ô nhiễm đang cống hiến cho nhân loại cái thấy biết rằng không có ranh giới của cơ thể vật lý con người: cơ thể vật lý không thể giới hạn ở cái thân vật lý riêng của từng người ấy, ở bất cứ một xứ hay đại lục nào: đây là ý nghĩa đích thực của vô ngã tính của cái thân sắc con người. Tương tự với bốn thủ uẩn kia. Phải chăng sự thật này nói lên rằng giáo lý vô ngã hay Duyên khởi của đức Phật là lời giải đáp cho vấn đề khủng hoảng môi sinh? Tác giả thiết nghĩ, Duyên khởi còn có thể là lời giải đáp cho nhiều vấn đề khác của nhân loại. Hãy tiếp tục công việc tìm hiểu Duyên khởi. II.2.4: Cá nhân và Giá trị con người Với con người, sống nghĩa là sống với kiến thức và giá trị về đời sống. Như chúng ta có thể hiểu, vai trò giáo dục là cung cấp cho con người các kiến thức về các phạm trù học vấn, thiên nhiên và con người. Các kiến thức ấy, các giá trị của kiến thức và tự thân giá trị, thực ra là do tư duy con người tạo ra, vấn đề mà xưa nay đã được triết lý và giáo dục bàn đến. Tư duy của con người là gì? Ý nghĩa của các giá trị hiện tại của đời sống là gì? Câu trả lời cho các câu hỏi này là những gì mà tác giả phải đạt đến trong phần này của tác phẩm. Ðây là các vấn đề lớn của triết học. Ðề cập triết lý P. T. Raju viết: ‘Triết lý, đúng nghĩa của triết lý, phải là triết lý về đời sống, không phải chỉ là một phần của đời sống, mà là toàn bộ đời sống. Ðời sống này là đời sống của con người. Con người muốn có một lý thuyết về đời sống làm ‘chỉ nam’. Các sinh vật khác không cần đến một lý thuyết như thế, bản năng ham muốn của chúng là vừa đủ đối với chúng. Mục đích của triết lý làm kim chỉ nam cho đời sống được ngầm hiểu bởi các triết gia như Russel - khi nói đến sự phân tích hợp lý, ông nói ở cuối cuốn sách ‘Lịch sử Triết học phương Tây’ của ông rằng mục đích ấy là gợi ý, đề bạt một hướng sống’ (17). Chandradhar Sharma cho rằng: ‘Ý nghĩa của từ ‘triết lý’ là ‘ái tri’. Nó có nghĩa là sự thúc đẩy tự nhiên và cần thiết trong con người để hiểu biết chính mình và thế giới nơi mà con người sống, di chuyển và hiện hữu’. Con người không thể sống mà thiếu triết lý... Triết lý phương Tây đã để lại ít nhiều sự thật đối với ý nghĩa về từ nghĩa học của từ ‘Philosophy’, bản chất là sự tìm kiếm chân lý của lý trí. Người Ấn, dù thế nào, xưa nay vẫn rất là tâm linh, luôn luôn nhấn mạnh đến nhu cầu chứng ngộ chân lý rất thực tế...’ (18). Như nhận xét trên của Chandradhar Sharma, tác giả cũng nghĩ rằng ý nghĩa phổ biến của triết lý cần được chú ý nhiều là phục vụ con người và hạnh phúc của con người ở đời này, và con đường tư duy của phương Tây thì khác với con đường tư duy của phương Ðông: Phương Tây nhấn mạnh vào các tri thức về cuộc đời, phương Ðông chú trọng đến chứng ngộ sự thật về cuộc đời. Sự khác biệt này sẽ được soi sáng nếu chúng ta khảo sát con đường tư duy của con người, một cách tổng quát, do Aristotle, một triết gia tầm cỡ lớn của Hy Lạp, diễn đạt như sau: Theo Aristotle, có ba nguyên lý cơ bản của tư duy: 1. Nguyên lý đồng nhất: - Một vật gọi là (A), thì luôn luôn phải là (A). Nếu tên gọi thay đổi từng lúc thì tư duy con người không thể vận hành được. 2. Nguyên lý không mâu thuẩn: - Một vật gọi là (A), thì có thể gọi là (A) hoặc (<>A), nhưng không thể khi thì gọi là (A), khi thì gọi là (<>A). Nếu nó thường được thay đổi tên gọi, thì tư duy con người không thể hoạt động. 3. Nguyên lý triệt tam: - Một vật có thể khi này được gọi là (A), và khi khác được gọi (B), nhưng không được gọi vừa (A) vừa (B), hay một nửa (A) và một nửa (B). Nếu nó là vừa (A), vừa (B) thì tư duy con người cũng không thể hoạt động được. Ba nguyên lý trên giả định rằng mọi hiện hữu đều có ngã tính cố định, trong khi trong đời sống thật thì mọi hiện hữu thay đổi từng sát na. Ðây là một khoảng hổng lớn cách biệt giữa tư duy con người về cuộc đời và cuộc đời chính nó mà không bao giờ có thể được lấp đầy. Chính lối tư duy nói trên đặt để giá trị cho mọi sự vật. Các giá trị ấy của sự vật không có chân đứng trong thực tại, chỉ khiến cho con người bối rối trong việc lựa chọn giữa các giá trị đầy ước lệ và đời sống như thật, và chỉ đem lại cho con người các bi kịch. Do thấy rõ tà kiến và tà tư duy ấy, đức Phật dạy giáo lý Duyên khởi chỉ rõ rằng tư duy con người là chi phần Hành (Activities - sankhàra) của Duyên khởi, hay Hành uẩn của Năm thủ uẩn hoặc của Danh sắc, nó là thuộc sự vận hành của Vô minh dẫn đến khổ đau. Như thế, các giá trị chân thật của các hiện hữu chỉ hiện hữu trong sự vận hành của trí tuệ (hay minh kiến) hay trong cái nhìn trí tuệ của con người. Chính tư duy nói trên thúc đẩy con người đi tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của cuộc đời, và bản chất của con người (hay Nhân Tính) vốn là những thứ không bao giờ hiện hữu trong đời sống cũng như trong các giá trị ước lệ. Tác giả thiết nghĩ rằng bất cứ một sự tìm kiếm nào về Nhân Tính hay bất cứ một sự tìm kiếm nào về bản chất của sự vật cũng chỉ là một hư tưởng. Vấn đề sẽ được thảo luận nhiều hơn trong phần tiếp của tác phẩm. Ghi chú: (1) : "Discourse on Pàtika", Long
Discourses, Translation by Maurice Walshe, Wisdom Publications, London, 1987, p.382. |
Cập nhật: 1-4-2001 | Đầu trang |