- HỌC PHẬT QUẦN NGHI
- (Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
- Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
- Phân Viện Viên Cứu Phật Học dịch
1 - Tín
ngưỡng Phật giáo có nhất định phải quy y Tam Bảo hay không ? [^]
Đúng thế ! Tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
sùng bái quỷ thần rất không giống nhau, tín ngưỡng Phật giáo tất
nhiên phải quy y Tam bảo đầy đủ. Gọi là Tam bảo là chỉ PHẬT, PHÁP, TĂNG;
sở dĩ gọi là Bảo vì lấy mãi chẳng hết, dùng mãi chẳng cạn, một khi
tiếp nhận, thường theo mãi mãi, nước lửa chẳng thể hủy, trộm cướp
chẳng thể đoạt, nhận dùng không hết, các thứ báu trong thế gian đều
không thể nào sánh nổi.
PHẬT BẢO là chỉ người đã tu hành tới mức phúc
đức, trí tuệ viên mãn cứu cánh, bất cứ chúng sinh nào cũng đều có khả
năng thành Phật, bởi thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời
mười phương đều là đối tượng để chúng ta quy y tôn kính. Song trong
các nhân vật lịch sử của thế giới chúng ta hiện nay, bậc được thành
Phật vẫn mới có một mình đức Phật THÍCH CA MÂU NI.
PHÁP BẢO chỉ đạo lý và phương pháp để tu hành
Phật và Pháp Bảo mà chúng ta được biết là những điều do Thích Ca Mâu
Ni nói ra, vì thế mà gọi Ngài là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp Bảo
được thấy hiện nay là chỉ ba tạng giáo điển Kinh, Luật, Luận cùng với
các chú giải, ngữ lục của các tổ sư, đó là chuẩn mực, là căn cứ
chỉ đạo chúng ta tu hành và cần phải tu hành như thế nào ?
TĂNG BẢO là chỉ người đang tu học Phật Pháp, và
giúp đỡ người khác tu học Phật Pháp, hộ trì chúng sinh tu học Phật
Pháp, bao gồm Bồ Tát, La Hán cùng Tăng Ni phàm phu. Thế nhưng Bồ Tá và La
Hán là bậc thánh tăng, phàm phu có nhìn thấy cũng chẳng biết được. Những
vị mà phàm phu tiếp xúc quá nửa đều là phàm phu tăng. Vì thế lấy Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni của thế gian làm trung tâm của tăng bảo.
Tăng bảo là thầy giáo, Pháp bảo là giáo
trình, Phật bảo là người phát minh và phát hiện ra giáo trình đó.
Chỉ có Tam bảo đầy đủ mới là Phật giáo hoàn chỉnh. Nếu
không, chỉ tin Phật bảo trong Tam bảo, thì không khác gì mù quáng mê tín
quỷ thần, chỉ tin Pháp bảo trong Tam bảo, thì cũng chẳng khác gì các học
giả thông thường nghiên cứu học vấn, chỉ tin Tăng bảo thì cũng chẳng
khác gì người thường nhận cha nuôi, mẹ nuôi. Đó chẳng phải là Phật
giáo.
Bởi vậy việc quy y Tam Bảo giống hệt như việc học trò
đến trường ghi tên nhập học, đó là bước đầu của việc tin Phật, học
Phật. Chỉ sau khi ghi tên nhập học, có học tịch rồi, tự mình mới thừa
nhận là học sinh của trường và nhà trường cũng mới tiếp nhận bạn vào
học tập. Học tập là nghĩa vụ của học sinh, dạy học là trách nhiệm
của nhà trường, bởi thế nghi thức quy y rất quan trọng, hơn nữa giống
như các cặp vợ chồng kết hôn, như nhân viên đến nhận việc đều phải
trải qua các khâu tuyên thệ và giám thệ… Như vậy để tỏ rõ sự thận
trọng và khẳng định.
Nếu không kinh qua nghi thức Tam Bảo, đương nhiên vẫn có
thể học Phật, Phật giáo không hề coi người chưa quy y Tam Bảo là ma quỷ,
thế nhưng người chưa kinh qua nghi thức Tam Bảo, về mặt tâm lý, chắc chắn
có sự thoái thác, trù trừ, do dự, đến khi gay cấn, họ sẽ nói rằng :
"Tôi chẳng phải là tín đồ Phật giáo, tôi chẳng cần phải làm đúng
theo giới luật của Phật giáo"; đối với các nghiệp ác và các thói
xấu như lười biếng, phóng túng, tà dâm, vọng ngữ, trộm cắp… họ sẽ
tự tha thứ cho mình, hơn nữa còn không chịu phòng ngừa khi các thứ đó
chưa xảy ra. Nếu quy y Tam Bảo rồi thì bản thân sẽ tự kìm chế, cảnh
giác, canh cánh đối với mình, sẽ được các bậc thiện trí thức là
các bạn đồng tu cùng các bậc sư tăng v.v… động viên, đốc thúc,
khuyên răn, cho nên về mặt nhân cách thăng hoa, đạo tâm tăng trưởng, tu
trì nỗ lực v.v… đều sẽ tiến vào đúng quỹ đạo, đúng nề nếp.
Xin bạn đọc chớ nên cho rằng việc quy y là không quan trọng
hoặc hiểu lầm rằng chưa hiểu Phật Pháp và chưa tu trì thì không đủ
tư cách quy y Tam Bảo, kỳ thực chính vì bạn vẫn chưa tu hành, không hiểu
Phật pháp mà đã biết Phật pháp là đáng tin, đáng học, thế thì càng
nên mau quy y Tam Bảo. Người ta cho rằng bản thân chưa đủ tư cách để làm
tín đồ Phật giáo càng cần phải quy y ngay từ bây giờ. Sau khi quy y, bất
kể về phương diện nào, về tâm thái, sinh hoạt hoặc tập quán v.v… đều
có thiện hữu, có chư Phật Bồ Tát đến giúp đỡ cho bạn, gia hộ cho bạn,
nếu là người ý chí bạc nhược, tín tâm chẳng đủ mà quy y Tam Bảo
thì sẽ được tăng cường ý chí, tăng thêm tín tâm.
2 - "Nhất định phải nhìn thấu hồng trần rồi sau mới
có thể học Phật" hay không ? [^]
Đây là vấn đề tự hồ như đúng mà lại sau. Hai chữ
"Hồng Trần" thực ra không phải là danh từ Phật học, mà xuất xứ
từ kho từ vựng văn học Trung Quốc. Nó có ý nghĩa cảnh bụi đất tung
bay hoặc là cảnh tượng sinh hoạt phồn hoa.
Bài phú Tây Đô của Ban Cố đời Tây Hán có câu :
"Nghẽn thành đầy quách, rẽ ra trăm chợ, hồng trần bốn phía, khói
mây nối liền" (điền thành dật quách, bàng lưu bách triền, hồng trần
tứ hợp, yên vân tường liên). Đây là hình dung Tây đô Trường An người
nhiều, việc nhiều, tiền nhiều, hào hoa náo nhiệt.
Trong bài thơ "Trường Anh cổ ý" của Lư Chiếu Lân
có câu : "Liễu yếu hòe xanh buông quệt đất, Hồng trần tiết đẹp
bốc mù trời" (nhược liễu thanh hòe phất địa thùy, giai kỳ hồng
trần ám thiên khởi).
Trong bài thơ "Thu Nguyệt" (Trăng Thu) của Trình Hiệu
đời Tống có câu : "Cách hẳn hồng trần ba mươi dặm, mây trắng lá
hồng đều vời vợi !" (Cách đoạn hồng trần tam thập lý, bạch vân
hồng điệp lưỡi du du).
Trong hồi thứ nhất truyện Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết
Cần cũng nói : "Có thành quanh cửa trời, chính giữa chốn hồng trần,
là đất phú quý phong lưu hạng nhất, nhì" (Hữu thành hồi xương môn,
tối thị hồng trần trung, nhất nhị đằng phú quý phong lưu chi địa). Đủ
thấy hai chữ hồng trần đều là chỉ cảnh tượng phồn hoa phú quý nhân
gian, quan trường, thế tục.
Câu "Nhìn thấu hồng trần", cũng chẳng phải là
câu nhà Phật sử dụng mà là từ vựng được thường xuyên sử dụng bởi
các nhà văn học từ xưa đến nay ở Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng tự
nhiên vô vi của Đạo gia và bởi các kẻ sĩ ẩn dật và chán ngán cuộc sống
phú quý hư huyễn nơi quan trường, hướng về cuộc sống điền viên nơi
rừng núi.
Cho nên "nhìn thấu hồng trần" chính là từ cuộc
sống phồn hoa khác nào mây khói lui về sống ẩn dật trong hoàn cảnh sinh
hoạt tự do, chất phát, giản dị, tại nơi đồng quê rừng núi.
Phật giáo ở Trung Quốc luôn luôn bị hiểu lầm, Nói chung
người ta thường đem phong khí và hiện tượng trốn tránh hiện thực, ẩn
dật ở núi rừng qui cho tín ngưỡng Phật giáo và kết quả học Phật. Kỳ
thực trong Phật pháp không nói tới "hồng trần", cũng không nói tới
chuyện "nhìn thấu hồng trần" mà chỉ nói tới sáu trần là Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối đãi với Sáu căn : Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt,
Thân, Ý. Sáu trần là ngoại cảnh, sáu căn là nội cảnh, phải thêm vào
sáu thức của Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý mới có thể sản sinh ra được
hiện tượng thân Tâm. Tâm bị ngoại cảnh lay chuyển, cũng tức là bị
sáu trần tác động, dùng sáu căn mà tạo ra các hành vi thiện ác tốt xấu.
Phật pháp gọi đó là tạo nghiệp. Có thể tạo nghiệp ác, cũng có thể
tạo nghiệp thiện. Tạo nghiệp ác thì đọa xuống ba đường ác : địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tạo nghiệp thiện thì lại được sinh làm người
hoặc được sinh lên cõi trời, hưởng thụ phúc báo của Người, của Trời.
Thế nhưng bất kể là bị đọa xuống hay được sinh lên, cũng vẫn đều
là trong biển khổ luân hồi sinh tử của thế gian.
Muốn giải thoát thì phải nhận thức được sáu trần là
hư huyễn, chẳng thực, hay biến đổi. Kinh Kim Cương hình dung nó như mộng,
như huyễn, như bọt, như bóng. Triệt để giác ngộ được tính chất hư
huyễn chẳng thực của thế giới sáu trần thì sẽ được giải thoát tự
tại. Nếu thân tâm ở cõi thế gian sáu trần mà không bị sáu trần quấy
nhiễu, dụ dỗ, mê hoặc thì sẽ chẳng sinh ra phiền não và được gọi là
người giải thoát.
Đủ thấy : Phật Pháp gọi sáu trần là chỉ hoàn cảnh
mà thân tâm đang ở. Cuộc sống phú quý phồn hoa cố nhiên là thuộc về
sáu trần nhưng cuộc sống tự nhiên ẩn dật cũng vẫn chưa lìa được sáu
trần vì thế Thiền tông có câu : "Bậc đại ẩn ẩn ở chợ búa, kẻ
tiểu ẩn ẩn ở núi rừng" (đại ẩn ư thị trần, tiểu ẩn ư sơn lâm).
Đây chính là nói : Nếu tâm vẫn còn có điều chấp trước, thân vẫn
còn có sự trói buộc thì bất kể là sống trong hoàn cảnh nào cũng đều
chẳng được tự tại. Gió to, mưa lớn, muông dữ, chim hung, trùng độc
ở nơi sơn dã hoặc các thứ mà người ta thường gọi là non cùng, nước
độc, vợ ác, dân điêu đều sẽ gây ra cho bạn phiền não. Còn nếu như
tâm không vướng mắc thì ở chốn cung vua, lầu đẹp và nơi hang động lều
tranh cũng đều như nhau cả, cần gì phải phân biệt.
Người ta thường nói : "Nhìn thấy hồng trần" tức
là cắt tóc làm Tăng, đó có thể là những kẻ thất bại trên đường
quan trường sự nghiệp thất bại, hôn nhân ly tán, gia đình tan nát, không
còn lòng tin và dũng khí nữa, trong bước đường cùng, đã ngã lòng nản
chí bèn tới cửa Phật để tìm một con đường sống tạm qua ngày, gọi
là bạn với khánh xanh mõ đỏ cho hết cuộc đời tàn. Cảnh tượng này
là vô cùng tiêu cực, bi quan thậm chí còn là bi thảm !
Trong cửa Phật đúng là có hạng người đó. Nhưng đó tuyệt
đối chẳng phải là con đường thông thường, con đường đúng đắn của
những người học Phật tiến vào cửa Phật.
Tiến vào cửa Phật, trở thành tín đồ Phật giáo thực
ra không có nghĩa là cứ phải xuất gia. Tín đồ Phật giáo chia làm hai loại
lớn : tại gia và xuất gia, xuất gia chỉ là số ít, tại gia mới là số
nhiều trong tín đồ Phật giáo. Xuất gia là đem toàn bộ sinh mệnh gửi gấm
vào, có nghĩa là đem thân tâm này cúng dâng Tam Bảo và thí cho chúng sinh
là để độ sinh. Cúng dân Tam Bảo là để hoằng dương Phật pháp tiếp nối
trí tuệ của Phật. Bố thí cho chúng sinh thì có thể nhiếp hóa, cứu
giúp chúng sinh trong biển khổ.
Có thể xả được điều khó xả, nhẫn được điều khó
nhẫn, đó mới thực là mục đích đúng đắn của xuất gia. Xả được
điều khó xả là vứt bỏ danh lợi, vật dục; nhẫn được điều khó nhẫn
là gánh vác sự nghiệp của Như Lai và khổ nạn của chúng sinh. Cho nên
cái gọi là "nhìn thấu hồng trần" thật ra không có quan hệ gì với
tôn chỉ xuất gia.
Còn những người xuất gia học Phật có thể bao gồm tất
cả mọi tầng lớp xã hội, họ tuyệt nhiên chẳng phải là để trốn tránh
hiện thực mà chính là để hòa với mọi người là đưa lại thanh tịnh
cho mọi người, cũng tức là Phật hóa mọi người.
Nếu sau khi học Phật mà lại lìa khỏi mọi người, lìa
đàn ở lẽ, thế là làm trái với tôn chỉ Phật hóa mọi người. Người
tại gia học Phật, theo nguyên tắc sinh hoạt năm giới, mười điều lành,
đối với gia đình, xã hội, đất nước đều phải làm hết trách nhiệm,
làm hết bổn phận của mình. Bởi vậy, người xuất gia sau khi học Phật
sẽ càng tích cực hơn đối với cuộc sống và đối với trách nhiệm của
mình. Đó cũng chính là nguyên nhân khiến Phật Giáo Đại Thừa phân chia
hình tượng của Bồ Tát ra làm hai loại xuất gia và tại gia. Bồ Tát tại
gia là tướng trời người phúc đức trang nghiêm.
Noi theo ý nguyện của "nhìn thấu hồng trần" thì
là tiêu cực, còn học Phật lại là tích cực.
Chúng ta có thể chia hình thái sinh hoạt và tâm thái sinh hoạt
của loài người ra làm ba loại :
Loại thứ nhất chiếm đa số tuyệt đối là thuộc loại
luyến thế, đối với bất cứ sự vật gì cũng đều không buông bỏ được
: tranh danh đoạt lợi, ăn uống trai gái, đắm say trong cuộc sống, khổ não
suốt đời mà chẳng biết sinh từ đâu tới, chết sẽ đi đâu ? Lúc đáng
sống thì khư khư chẳng buông tha, lúc sắp chết thì bịn rịn bỏ chẳng
được, cho nên Phật gọi họ là những kẻ đáng xót thương.
Loại thứ hai là loại người yếm thế. Họ hoặc là giận
đời, ghét tục, hoặc tiếc rẽ có tài mà không gặp vận may; hoặc là
tiêu cực, bi quan, đối với sinh mệnh giữ một thái độ cam chịu chẳng
biết xoay sở ra sao. Vì thế, hạng người trước sẽ biến thành những người
diễu cợt cuộc đời, hoặc rút lui khỏi vũ đài xã hội mà sống cuộc sống
ẩn dật; hạng người sau nếu chẳng tự sát mà chết thì cũng trốn tránh
hiện thực, uất ức mà chết.
Loại thứ ba là thuộc về loại người buông được ra, nhấc
được lên. Họ nhìn thấy con người đau khổ, thế sự hiểm nguy, đem hoài
bảo xót trời thương người ra mà cứu vớt chúng sinh thế gian ở trong
vòng nước sôi lửa bỏng, dù cho phải vượt núi băng ngàn thậm chí là
khuôn mẫu của những bậc được người đời sau được gọi là hiền giả
và thánh nhân.
Theo quan điểm của Phật giáo thì loại người thứ nhất
có căn tính phàm phu; loại người thứ hai giống như người có căn tính
tiểu thừa; loại người thứ ba giống như có căn tính đại thừa.
Song nếu dùng Phật pháp mà hóa đạo thì loại người thứ
nhất dẫu là phàm phu, cũng có thể dần dần tiếp tu được trí tuệ, hiểu
thấu hiện tượng thế gian, mọi người giảm bớt phiền não cho mọi người,
giảm bớt tai họa cho xã hội. Loại thứ hai căn tính tiểu thừa thì chỉ
ít không biết giận đời ghét tục, hoặc giả nghĩ quẫn tự sát, còn
thì sẽ tích cực tu hành, sớm cầu thoát ra khỏi biển khổ sinh tử, hơn
nữa cũng có thể vì mọi người nêu điển hình và tấm gương về tự mình
phấn đấu nỗ lực, tự mình cứu mình.
Loại thứ ba căn tính đại thừa thì có thể nhờ sự hóa
đạo của Phật pháp mà có một sinh mệnh vô hạn, một lời nguyện từ
bi vô hạn, đời đời kiếp kiếp phát tâm bồ đề, tu hành đạo Bồ Tát,
Phật hóa nhân gian, thành đạt tới nước Tịnh độ của Phật (không chỉ
độ người mà còn độ cho hết thảy mọi chúng sinh). Họ sẽ không vì trở
ngại mà thất vọng, cũng không vì thuận lợi mà cuồng nhiệt, luôn luôn
nỗ lực xúc thành nhân duyên, lẳng lặng cày bừa, thành công không hẳn tại
ta, nhưng vẫn cứ tinh tiến mãi mãi không lười. Thái độ học Phật như
vậy đương nhiên không có dính dáng gì với quan niệm "Nhìn thấu hồng
trần"!
3 -
Phải chăng học Phật cũng cần đến tri thức ? [^]
Câu này hỏi khá hầm hồ, dễ gây lẫn lộn. Trước hết
chúng ta khẳng định câu nói của Khổng Tử "Dân có thể khiến họ
làm theo, chẳng thể khiến họ hiểu biết" (dân khả sử do chi, bất
khả sử tri chi). Câu nói có nghĩa là đại chúng thông thường hiểu càng
ít thì càng có thể chuyên tâm nhất ý cứ theo phương pháp giản đơn của
thầy dạy cho mà đi sâu vào một môn chuyên chú tu hành và thu được lợi
ích. Cho nên người trình độ thấp, thậm chí người mù chữ chưa từng
đọc qua sách vở cũng không phải là không tiếp thu được nhiều về Phật
pháp, ví dụ Lục Tổ Huệ Năng theo truyền thuyết là người tiều phu đốn
củi chưa hề đọc sách, mà cuối cùng đã trở thành vị tổ sư thứ sáu
trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc.
Song căn cứ vào nội dung của "Lục Tổ đàn kinh"
và căn cứ vào khảo sát của các học giả thì đại sư Huệ Năng tuy chẳng
phải là một vị học giả, nhưng không thể nói rằng Ngài là người mù
chữ. Vì thế, theo truyền thuyết, trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, người
mù chữ trở thành tổ sư Phật giáo, hơn nữa có ảnh hưởng sâu xa rộng
lớn đối với Phật giáo thì là độc nhất vô nhị. Bắt đầu từ đức
Thích Ca Thế Tôn trong Phật giáo Ấn Độ truyền nối cho đến các vị tổ
sư ở các đời Trung Quốc đều là các bậc trí thức, các nhà đại học
vấn hiểu rộng ngũ minh, hiểu rộng học vấn trong nước và ngoài nước.
Loài người thượng thượng đẳng thì chẳng cần giáo dục,
chẳng cần văn hóa mà là tự thông suốt tất cả, họ có thể nắm được
cái lý cơ bản để quán thông cái sự toàn thể, chứ không phải từ
trong sự nhận biết vạn sự vạn việc vụn vặt tủn mủn mà thấy cái
lý thống nhất. Đúng như trong bài ca "Vĩnh Gia đại sư chứng đạo"
có câu : "Vạch lá tìm cành ta chẳng thể" (trích diệp tầm chi
ngã bất năng) và "Xuống biển đếm cát chỉ nhọc mình" (nhập hải
toán sa đồ tự khốn), có nghĩa là từ hiểu một mà hiểu cả trăm, chẳng
cần phải tủn mủn vụn vặt.
Học pháp là biết rõ cái lý để mà hiểu thấu cái gốc,
học Phật là kiến tín mà thành Phật, đương nhiên chẳng cần tri thức
và học vấn. Thế nhưng sau khi kiến tính và ngộ rồi, vì lợi ích chúng
sinh nên phải thông hiểu kinh giáo, trau giồi tri thức để làm công cụ lợi
sinh.
Những người trung thượng đẳng và trung hạ đẳng phải
dựa vào sinh giáo, học hỏi minh sư mới có được chuẩn mực tu hành và
phương hướng học tập, nếu không thì tu hành, luyện tập một cách mù
quáng. Trước khi gặp được minh sư, hoặc sau khi đã gặp được minh sư,
cần phải căn cứ vào kinh giáo mới có thể lựa chọn được minh sư thật
hay giả. Nếu thuận với kinh giáo, thâm nhập pháp lý, hiểu rõ pháp nghĩa
thì đó là minh sư thật. Nếu chỉ đem những điều tự mình ức đoán và
những điều cảm ứng, kinh nghiệm của mình trong việc tu trì để tự do
tùy tiện giải thích kinh giáo và chê bai các vị đại tổ sư chánh thống
các đời cùng Tam Bảo thì chính đó là các tà sư chứ chẳng phải là
minh sư.
Cho nên, nếu ai chưa biết chọn minh sư như thế nào thì trước
hết phải thâm nhập kinh giáo, xác nhận Phật pháp, rồi mới đi tìm minh
sư để giúp đỡ mình theo kiểu vẽ rồng điểm nhỡn khiến cho ngàn vạn
điều nghi vấn thắc mắc có thể chỉ qua một lời chỉ giáo mà được
triệt để giải quyết. Đó mới chính là minh sư của bạn.
Nếu không biết tí gì mà đi học hỏi minh sư, thì ngay đối
với bạn mà nói ông ta vẫn là một phàm nhân bình thường !
Nếu đã hiểu sâu kinh giáo thì dù có đi nát giầy sắt,
tìm khắp thiên hạ, chưa gặp minh sư, cũng sẽ không bị lạc đường.
Hơn nữa nếu đã nắm vững phương hướng rồi thì chỉ cần bóc từng lớp
một những điều vướng mắc trong lòng thì tuy không thể phá thủng được
đáy thùng vô minh đen kịt ngay trong một lúc, nhưng vẫn là an toàn hơn.
Người tu pháp môn niệm Phật, nếu không có thời gian, hoặc
hoàn cảnh không cho phép thì chỉ cần nắm vững một câu sáu chữ hồng
danh "Nam Mô A Di Đà Phật" là đủ.
Song các vị tổ sư hoằng dương Tịnh độ các đời như
Ngài Tuệ Viễn ở Lư Sơn cùng các Ngài Đạo Xước, Đàm Loan, Thiện Đạo,
Ca Tài đời Đường, cho đến cái Ngài Liên Trì, Ngẩu Ích cuối đời Minh
cùng đại sư Ấn Quang đầu thời Dân Quốc v.v… đều là những bậc học
rộng, thông hiểu cả ba giáo : Nho, Thích, Đạo và cũng đều là những
nhà tư tưởng lớn trong lịch sử Phật giáo.
Như vậy thì làm sao lại có thể nói rằng : Niệm Phật chẳng
cần đến kinh giáo ? Chẳng thông pháp nghĩa mà chỉ niệm Phật, làm sao biết
được niệm Phật có thể vãng sinh Tịnh Độ ? Hơn nữa, cái gọi là Tịnh
Độ gồm có mấy loại ? Tuy rằng người hạ đẳng chẳng biết hỏi, chỉ
biết làm theo. Nhưng là người đã biết hỏi, hơn nữa thường xuyên cần
phải giúp đỡ người khác học Phật, tin Phật, niệm Phật, nếu không biết
tí gì về kinh giáo pháp nghĩa thì làm sao có thể sản sinh ra lực lượng
khuyến hóa được ?
Nếu không thì là người mù dẫn dắt người mù, tu hành
luyện tập mù quáng, tà chính chẳng phân, tâm thái chẳng tỏ, mục đích
không rõ ràng, thế thì làm sao có thể tự lợi lợi tha, đạt tới mục
đích vãng sinh Tịnh Độ được ?
Đúng là con người đang giữa lúc dụng công, dù là tham
thiền niệm Phật hay tu hiển, tu mật, đều yêu cầu "tâm vô nhị dụng"
(tâm chẳng dùng hai), không thể vừa tu hành vừa nghiền ngẫm kinh giáo, hoặc
lúc nào cũng đem nội dung, pháp nghĩa trong kinh giáo ra đối chiếu với tình
hình tu hành của mình, đó là một thứ nhiễu loạn, là đại chướng
trong việc tu hành.
Nhưng trong việc nhận rõ chỉ tiêu trước khi tu hành và việc
ấn chứng tình huống, chỉ đạo việc học tập sau này sau khi tu hành, việc
nghiên cứu tụng đọc kinh giáo lại là phần không thể thiếu được.
4 -
Thờ Phật tại gia có phải kiêng kị gì không ?[^]
Tín ngưỡng thông tục của dân gian có rất nhiều điều
kiêng kị, nhưng đó không phải là tín ngưỡng Phật giáo chân chính mà chỉ
là những điều kiêng kị ngộ nhận là của Phật giáo. Như những cây hương
thừa trong bát hương nếu hàng ngày không thu gọn thì trở nên dơ bẩn và
dễ gây cháy rất nguy hiểm. Thực ra là mỗi một bát hương đặt trước
các tượng Phật trong nhà chùa của chúng ta hàng ngày vào lúc sáng sớm đều
cần phải thu gọn, giữ cho bát hương luôn luôn sạch sẽ như mới thắp
hương lần đầu.
Các nữ tín đồ thờ Phật tại nhà đến kỳ kinh nguyệt
thì không dám tới chùa lễ Phật, thậm chí không dám đến trước bàn thờ
Phật để thắp hương tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật. Kỳ thực đó
là điều kiêng kị của hàng quỷ thần cấp thấp. Vì quỷ thần sợ máu
bẩn nên hễ thấy máu bẩn thì dễ nổi giận. Quỷ thần nghiện ăn máu,
thấy máu là dấy lòng tham, nhưng máu kinh nguyệt không phải là máu tươi
nên quỷ thần có phản ứng như bị người ta đùa bỡn làm nhục. Do vậy,
phụ nữ khi hành kinh vào các đền, miếu, điện thờ quỷ thần thì có thể
bị hậu quả không tốt. Còn như các Sadini, Tỳ kheo ni, cùng các Ưu bà di
ở gần đều sinh hoạt tại chùa, cùng các phụ nữ tu hành hàng ngày làm
bạn với kinh sách, tượng Phật và các pháp vật khác của nhà chùa, từ
xưa đến nay chưa từng thấy ai bị tai họa bởi vấn đề xung khắc do
kinh nguyệt gây ra cả.
Những người thờ Phật tại gia khi lập bàn thờ Phật trước
hết phải nhờ người làm lễ khai quang các tượng Phật, Bồ Tát, lại phải
chọn ngày tốt, hương tốt. Đó cũng là do tín ngưỡng dân gian hoặc phong
tục dân gian. Theo quan điểm "vào làng nào theo tục lệ làng ấy"
mà nói thì tục lệ đó cũng không có gì sai trái lắm, làm lễ khai quang
là để tỏ ý thận trọng, chọn ngày chọn hướng là để tỏ ý cầu
mong tốt lành. Nhưng theo quan điểm Phật giáo thì chư Phật, Bồ Tát có
ở khắp mọi nơi, không một chỗ nào không ứng hiện. Tất cả mọi hướng
đều có chư Phật thập phương, Tam bảo thập phương, Long thiên hộ pháp.
Như vậy, đương nhiên là không hề có những vấn đề do tín ngưỡng dân
gian tưởng tượng ra. Chỉ cần chọn một chỗ nào mình cho là tôn quí nhất,
rồi với tình cảm thành kính nhất và chọn một thời điểm thích đáng
nhất để đặt tượng thờ Phật là được.
Có người cho rằng cho những bài chú, kinh nào đó thì người
tu tại gia không được niệm, hoặc có những bài chú, kinh nào thì không
được niệm vào một giờ nào đó. Kỳ thực, với tấm lòng cung kính, tất
cả mọi bài kinh, chú đều có thể tụng niệm ở bất cứ nơi nào thanh tịnh.
Tốt nhất là trước khi tụng niệm nên rửa tay, súc miệng rồi đứng
trước bàn thờ thắp hương lễ Phật mà tụng niệm nhưng không nên nói
người tu tại gia không được tụng kinh nào đó hoặc không được niệm
chú nào đó, trừ những pháp môn quy định đặc biệt của Mật Tông thì
không kể.
Trong một nhà cũng có thể có người tin Phật, có người
tin Thần, phải chăng có thể thờ chung cả Thần và cả Phật trong cùng một
bàn thờ ? Điều đó nên coi là không có vấn đề gì : thờ Phật ở
chính giữa, cúng Bồ Tát ở hai bên, cúng các Thần ngoài cùng, coi là kẻ
bảo vệ bên ngoài cho Tam bảo, cũng nên để cho các Thần gần gũi với
Tam bảo để tu học Phật pháp, gây thần nhân duyên với đạo Phật. Nếu
đạt được sự thỏa thuận của cả nhà, sau khi đã đổi ý mà tin theo
Phật thì sẽ làm lễ cúng Thần, khấn cáo với Thần rồi đem tượng (và
đồ thờ) Thần cất đi, để tránh cúng thờ ngẫu tượng quá nhiều sinh
ra tạp loạn.
Có nhiều người không hiểu đối với tro hương cùng các
kinh sách, tượng và các pháp vật bị hư hỏng thì sẽ xử lý như thế nào
? Thậm chí có người mang đến giao cho nhà chùa. Kỳ thực thì chỉ cần
chọn chỗ đất trống và đồ đựng sạch sẽ, bỏ các thứ đó vào rồi
châm lửa đốt đi, đốt xong đào lỗ chôn xuống đất là được. Những
thứ làm bằng kim loại không đốt được thì tìm chỗ cất kín, một thời
gian sau sẽ xử lý thải bỏ như đối với đồ đạc cũ kỷ rách nát
khác.
Các vật cúng bày trên bàn thờ Phật như hoa, quả, nước
trà v.v… thuộc các loại phẩm vật tiêu hao thì phải thay đổi hằng ngày.
Những thứ gì còn có thể dùng được, ăn được thì nên đem dùng vào việc
khác hoặc đem cho người nhà ăn dùng, không nên vứt đi, những thứ bị
ôi thiu, hư nát thì phải đổ bỏ đi như đổ rác. Còn như phẩm vật bày
cúng nên bày cúng đơn chiếc hay bày một đôi thì không có hạn chế gì cả.
Xét về mỹ quan đối xứng mà nói thì nên dùng một cặp đôi. Nhưng nếu
vì tiền nong vật phẩm có hạn, hoặc do vị trí chỗ bày biện không tiện,
chỉ bày cúng đơn chiếc thì cũng không có gì là không được. Còn về đồ
cúng là những món gì, về nguyên tắc là tùy theo chỗ tiền nong chi tiêu
mà mình có thể lo liệu được, không bày biện rườm rà mà cũng không cần
phải phô trương.
Thời gian tu hành tại nhà thích hợp nhất là vào lúc sáng
sớm và buổi tối, lúc đó nhờ thân tâm thanh tịnh, thoải mái. Như vậy
mới có thể chuyên chú, thành tâm mà tu tập. Nếu vì tính chất công việc
làm ăn thì đương nhiên có thể chọn những thời gian khác nhau. Tốt nhất
là không lập bàn thờ trong phòng ngủ, không nên ngồi tọa thiền, lễ Phật,
tụng kinh ở trên giường. Nhưng nếu nhà ở chỉ có một phòng thì tốt
nhất là lúc bình thường lấy vải khăn che phủ tượng Phật khi nào lễ
Phật thì xếp dọn giường chiếu chỉnh tề, sạch sẽ rồi mới mở khăn
tượng Phật ra. Nếu giường làm lễ cúng được, coi đó cũng là một nơi
để tu hành. Nói tóm lại, lấy cái tâm thanh tịnh, cung kính để biểu thị
mức độ trang trọng, nghiêm túc làm nguyên tắc.
Sau khi đã quy y Tam Bảo thì không được quy y một tôn
giáo nào khác, không được thờ phụng một đền miếu, đạo tràng nào của
tín ngưỡng dân gian. Tuy vậy vẫn phải giữ thái độ tôn kính đối với
các tín ngưỡng đó. Khi đi vào các nhà thờ, đền miếu, đền thần phải
cúi người chắp tay chào hỏi. Không được coi việc thờ phụng đó là đối
tượng tín ngưỡng của mình, mà coi đó là cử chỉ để giữ quan hệ hữu
nghị. Trước khi chưa có nhận thức xác thực đối với Phật pháp thì
không được đọc sách báo ngoại nếu không sẽ dẫn đến sự chi dắt
sai lầm về phương hướng.
5 -
Học Phật có cần phải vứt bỏ những hưởng thụ trong cuộc sống hiện
hữu hay không ? [^]
Không nhất thiết phải vứt bỏ hay không vứt bỏ mà cần
phải xem xét tình hình. Những hưởng thụ không mục đích thì nên vứt bỏ,
còn những hưởng thụ có lý do thì cần duy trì.
Tượng Phật phải nhiếp vàng là để cho chúng sinh xem. Con
người ta phải mặc quần áo là để cho những tầng lớp xã hội nhất định
xem. Sự hưởng thụ tiêu biểu cho thân phận, địa vị và lập trường của
bản thân mỗi người. Trong những hoàn cảnh và trường hợp cần phải có
nghi thức lễ tiết trang nghiêm, nếu tình hình điều kiện vật chất cho
phép thì sự hưởng thụ tiêu biểu cho sự long trọng lịch sự. Nhưng nếu
điều kiện vật chất thiếu thốn, năng lực kinh tế yếu kém, hoặc trong
tình hình xã hội đặc biệt khó khăn thì dẫu mình có năng lực, tiền của
cũng nên vứt bỏ những hưởng thụ vốn có để cùng với đại chúng vượt
qua cửa ải khó khăn, như Ngài Găng Đi ở Ấn Độ trước đây chính là
như thế.
Trong xã hội ngày nay, do phép lịch sự hoặc vì lý do an
toàn, trong những trường hợp, hoàn cảnh nào đó, thì phải ăn mặc mũ
áo chỉnh tề, phải dùng đến ô tô riêng, ban ngày mặc lễ phục ban
ngày, buổi tối mặc lễ phục buổi tối. Ở Nhật Bản và các nước Âu
Mỹ khi đi dự đám tang cần phải mặc lễ phục theo một kiểu cách và
màu sắc nhất định. Tham dự hôn lễ và các cuộc họp cũng không được
mặc quần áo lao động, quần áo ngủ và quần áo mặc ở nhà. Những việc
đó đều không coi là hưởng thụ.
Phật pháp coi trọng luật nhân quả, phúc báo ở cuộc đời
hiện nay là do sự bố thí của kiếp trước mang lại, hưởng thụ quả phúc
cũng ví như việc rút tiền gửi ở ngân hàng ra ma chi dùng, rút ra dùng
càng nhiều thì tồn khoán càng ít, cuối cùng rồi cũng có lúc hết nhẵn.
Trong cuộc sống hiện nay, hưởng thụ càng nhiều thì phúc báo để lại càng
ít, rốt cuộc rồi cũng có ngày dùng hết. Cần phải một mặt tiếp tục
tu phúc, đồng thời cũng cần phải dè xẻn việc hưởng thụ của phúc
thì mới có thể đạt đến trình độ phúc đức tràn đầy, nếu không
thì dù có đức cũng không đầy đủ.
Vì vậy Phật giáo nguyên thủy đã chủ trương các Tỳ
kheo trên người không mặc thứ gì dài rộng, một là để răn sự tham muốn,
hai là để dè xẻn phúc báo, ba là để giảm bớt sự chấp trước của bản
thân con người. Những người xuất gia cố nhiên là phải noi theo, những
người tu tại gia cũng nên như thế.
Các Sa di là kẻ xuất gia cần phải tuân thủ các điều giới
luật như không xức nước hoa lên đầu tóc, không bôi dầu thơm lên người,
không nhảy múa, vui chơi ca kỷ, không có duyên cớ không được đi xem đi
nghe, không ngồi nằm trên ghế cao, giường rộng, không đeo đồ trang sức,
không tích trữ tiền bạc, báu vật v.v… Đại chúng tu tại gia nếu có thể
thực hiện được, ngoài tiền nong cần phải tiêu dùng ra, các khoản khác
cũng phải nên tuân theo như thế. Nếu không thể tuân theo được cả thì
hy vọng hàng tháng thực hiện sáu "ngày ăn chay", để theo cuộc sống
của người xuất gia, mục đích là nhằm dè xẻn hướng phúc, bỏ sự hưởng
thụ. Nội dung hưởng thụ nên bao quát cả việc ăn, dùng, ở, ngồi, ngủ,
các vật đeo mặc trên người cùng mọi trò vui chơi giải trí. Đó chính
là điều tiết dòng chảy đặc biệt quan trọng từ lúc khởi nguồn. Bố
thí là khơi nguồn cho phúc báo, vứt bỏ hưởng thụ chính là để điều
tiết dòng chảy của phúc báo.
Đức Thế Tôn Thích Ca có đến ba mươi hai đại nhân tướng,
là tướng của phúc đức, trang nghiêm, trí tuệ. Theo truyền thuyết thì Đức
Thế Tôn Thích Ca cũng nhận đồ cúng dường bố thí là chiếc áo cà sa
có giải tua bằng vàng, cũng để cho trưởng giả Cô-Độc dùng vàng trải
đất, mua tịnh xá Kỳ-Viên để cúng dường Phật. Lúc bấy giờ các vị
trưởng giả Phúc Đức thiết lễ trai tăng cúng Phật dùng toàn những món
ăn ngon, lại sửa sang trang hoàng những nơi cúng Phật, thiết lễ trai tăng
rất trang nghiêm, sắp đặt nhiều nơi cảnh đẹp để Phật thuyết pháp,
về sau đều trở thành những vườn hoa và công viên nổi tiếng trong lịch
sử Phật giáo.
Những miền tịnh độ của nước Phật mà chúng ta thấy
nói đến trong kinh Phật như : Tịnh Độ Di Đà ở Tây Phương, những lầu
gác Di Lặc trong Kinh Hoa Nghiêm, các cung điện của chư Đại Bố Tát mà
Thiện Tài đồng tử trong khi đi tham yết Năm mươi ba vị thiên tri thức
đã nhìn thấy đều là những nơi vàng ngọc rực rỡ lấp lánh, cực kỳ
trang nghiêm. Đó cũng chính là những người đại phúc đức mà phúc đức
gắn liền với họ, mà sự giàu có biểu hiện ở nơi họ, cũng giống
như tướng của những kẻ nghèo hèn thì xấu xí, da dẻ sần sùi, còn tướng
của người giàu sang thì trang nghiêm, da dẻ nhẵn mượt. Đó là những
phúc báo mà họ sinh ra đã có, không liên quan gì đến chuyện vứt bỏ hưởng
thụ hay tham lam hưởng thụ.
Sự hưởng thụ mà chúng ta nói đến là chỉ lòng tham cá
nhân muốn cho sướng miệng đầy bụng như ăn uống các món sơn hào hải
vị quý hiếm, chẳng phải vì để thiết đãi khách khứa, cũng không phải
vào dịp lễ tết, mà chỉ để tỏ ra mình đây giàu có, hoặc muốn để
người khác mến mộ mình mà chú ý chăm chút kiểu các ăn mặc trang điểm
để thỏa mãn các hư vinh của mình, hoặc là vì những kích thích hưởng
thụ của ngũ quan mà tìm đến những "chỗ vui chơi" như các ca
lâu, tiệm nhảy, nhà chứa v.v… mặc sức phóng túng, thả sức đua tìm
thú vui vung tiền như rác, những hành vi như vậy, người học Phật
đương nhiên là phải từ bỏ.
6 -
Phật tử quan niệm về việc ăn uống thế nào ?[^]
Khi Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, các tín đồ Phật giáo
không có thói quen hoặc những điều quy định nào đặc biệt về ăn uống.
Vì Ấn Độ là một quốc gia mà tín ngưỡng tôn giáo là hiện tượng phổ
biến, phàm những người có tín ngưỡng tôn giáo đều có một quan niệm
đại đồng tiểu dị về việc ăn uống cho nên các tín đồ Phật giáo
nguyên thủy cho đến các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni xuất gia đều sinh sống bằng
cách khất thực, gọi là "một bát nghìn nhà". Họ không lựa chọn
đối tượng khất thực, cũng không có sự cấm kỵ về ăn uống gọi là
tinh khiết hay không tinh khiết, thần thánh hay không thần thánh, bởi vì tất
cả đều nhất loạt bình đẳng, rộng kết thiện duyên. Cho đến nay các
khu vực Phật giáo thượng tọa bộ như SriLanka, Miến Điện, Thái Lan v.v…
còn giữ tập tục cổ ai cúng dường gì thì nhận cái ấy không chọn lựa,
miễn là không vì người khất thực mà phạm sát, dù là các món ăn bằng
thịt, cá v.v… đều không từ chối. Đó là nguyên nhân vì sao Phật giáo
Tiểu Thừa không quy định buộc phải ăn chay. Ăn chay là điều Phật giáo
nhấn mạnh và khuyến khích. Nếu ăn chay được thì đó là dựa vào lập
trường từ bi chứ không phải như người ta hiện này nói nguyên nhân khỏe
mạnh và kinh tế. Sự thực thì các thức ăn bằng thịt vừa làm thương tổn
đến lòng từ bi, lại làm hại sức khỏe. Cho nên các kinh Đại Thừa như
Kinh Phạm Võng, Kinh Làng Già v.v… đều nhấn mạnh việc ăn chay, nghiêm cấm
ăn thịt.
Đối với hành tỏi, chất tanh nên có sự phân biệt. Hành
tỏi là các loại rau củ có mùi vị hôi hăng như : tỏi, hành, hẹ, kiệu.
Kinh Lăng Già nói : hành tỏi ăn sống thì sinh cáu gắt, ăn chín thì kích
dâm. Trong giới luật của Tỳ kheo có quy định : ăn hành tỏi thì phải
ở riêng một mình, phải ngồi cách người khác ngoài mấy bước và phải
ngồi hướng dưới gió, hoặc phải súc miệng cho đến lúc sạch mùi hôi
hăng. Như thế chủ yếu là để khỏi làm phiền nhiễu người khác, nên
quy định không được ăn hành tỏi. Hơn nữa, trước lúc tụng kinh, để
cho quỷ thần nghe tiếng tụng kinh khỏi tức giận và dấy lòng tham thì tốt
nhất là không ăn hành tỏi. Còn chất tanh là chỉ thức ăn bằng thịt. Các
thứ như ớt, hồ tiêu, ngũ hương, bát giác, hương xuân, hoa hồi, vỏ quế
v.v… đều là hương liệu không phải là hành tỏi, không bị giới luật
hạn chế.
Về quy định cấm uống rượu thì đó là một đặc sắc
của tín đồ đạo Phật ở Ấn Độ, các tôn giáo khác không những không
cấm uống rượu mà thậm chí còn coi rượu có khả năng thông đạt với
thần linh. Cất rượu không nên phạm tội sát sinh, rượu lại có thể trở
thành dược liệu, không nên xếp vào các điều cấm kỵ của tôn giáo. Nhưng
vì tôn giáo coi trọng trí tuệ, nếu uống rượu nhiều sẽ làm rối loạn
tính tình. Ít người sau khi uống rượu mà làm chủ được mình, không bị
say sưa rối loạn. Cho nên để giữ mình thường xuyên tỉnh táo, có lợi
cho việc tu hành tinh tiến, đặc biệt là để đạt mục đích tu định thì
phải cấm uống rượu. Còn đối với đông đảo đại chúng nếu căn cứ
theo lời Khổng Tử đã nói thì "uống không đến mức say loạn"
không phương hại phong thái đẹp của con người. Cho nên nếu thọ 5 giới
mà không thể giới tửu được thì cũng có thể bỏ giới ấy cũng không
mất đi tư cách đệ tử của Tam Bảo.
Nếu dùng rượu làm gia vị mà không còn mùi rượu, không
làm cho người bị say thì nên coi là không phạm vào giới cấm rượu. Vì
vậy một tôn giáo mới xuất hiện ở Trung Quốc gọi là lý giáo cũng răn
cấm uống rượu. Trong trường hợp cần dùng rượu thì lấy dấm để
thay thế, chẳng hạn dùng dấm để thay làm gia vị để nấu ăn nên dấm
đó không có tính chất rượu nữa.
Nếu vào hiệu ăn mặn hoặc vào nhà mà có người ăn chay
lại có người ăn mặn thì tốt nhất là sử dụng cả dụng cụ nấu chay
và nấu mặn. Vì ăn chay và ăn mặn có mùi vị khác nhau, nên giữ cho sạch
sẽ là điều cần thiết. Tuy vậy, tổ thứ sáu của Thiền Tông là đại
sư Huệ Năng sau khi đã khai ngộ, truyền pháp phải ẩn lánh trong đám thợ
săn chỉ ăn rau ở bên cạnh miếng thịt mà tránh những miếng thịt ở
bên cọng rau. Không ăn thịt là để giữ lòng từ bi đối với chúng sinh,
còn rau là để sống. Vì vậy trong điều kiện cuộc sống không cho phép
dù cho dùng dụng cụ nấu thịt để nấu thức ăn chay cũng không phải là
không thể chấp nhận được.
Về thuốc lá và chất ma túy thì theo giới luật của đạo
Phật, có thể dùng theo yêu cầu của thầy thuốc để chữa bệnh. Không
những chỉ thuốc lá mà cả rượu nữa trong trường hợp không thể không
dùng thì không xem như phạm giới. Đương nhiên không thể mượn cớ chữa
bệnh để uống rượu, hút thuốc lá và dùng chất ma túy để thỏa lòng
thèm muốn của miệng và bụng. Hút thuốc để phòng ngừa chướng khi. Ở
những vùng có bệnh chướng khí lan truyền thì người xuất gia có thể
hút thuốc với liều lượng thích đáng, nếu không thì phải răn cấm thuốc
là nhằm giữ uy nghi của người tu hành. Nếu vì những nguyên nhân như kích
thích thèm muốn, buồn bực v.v… mà hút thuốc thì đó là điều giới luật
nhà Phật không cho phép. Ở miền nhiệt đới phương Nam, ăn trầu cũng có
tác dụng phòng ngừa bệnh viêm nhiễm của cơ quan hô hấp. Nhưng trong trường
hợp không phải vì lý do chữa bệnh mà ăn trầu thì trở thành một tập
tục xấu làm mất uy nghi và làm tổn thương hình ảnh của người tu hành.
Thuốc lá và trầu cau vốn không phải là những thứ nhu yếu
phẩm trong việc ăn uống, đối với cơ thể con người dùng ít thì có
ích cho việc chữa bệnh, dùng nhiều thì có hại. Thí dụ như uống rượu
quá liều lượng thì trúng độc, chất nicotine trong thuốc lá làm tổn khí
hại phổi đồng thời là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư. Nước trầu làm
phá hủy chất men răng làm hại độ bền chắc của răng, tín đồ đạo
Phật tốt nhất là không nên dùng.
Đối với các loại trứng thì nên coi là loại chất tanh,
vì trứng có thể ấp nở thành gà, vịt con có mùi tanh, những người chay
tịnh tốt nhất không nên ăn. Hiện nay trứng gà sản xuất ở các trại
nuôi gà là trứng gà vô tinh, trứng bán ở thị trường tiêu dùng phần lớn
đều là loại trứng không có sinh mệnh. Nhưng rõ ràng trứng không phải
là loại thực vật. Theo quan điểm sát sinh thì ăn loại trứng vô tính ấy
không coi là phạm giới, cũng không tổn hại đến lòng từ bi. Nhưng nếu
theo tập quán ăn chay thì nên tránh không ăn.
Cuối cùng đối với các chế phẩm sữa là không thuộc loại
thịt cũng không thuộc loại tanh, vì bò, dê ăn cỏ và ngũ cốc, chất sữa
tiết ra không có mùi tanh. Uống sữa vừa không phạm sát sinh cũng không trở
ngại đến việc chăn nuôi bê con, dê con, vì đã có người chăn nuôi chăm
sóc, khống chế lượng sữa để không gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
và phát dục của chúng. Bởi vậy trong thời đại của Phật uống sữa bò
là phổ biến, hơn nữa còn phân chế phẩm sữa thành năm loại: sữa, kem,
bơ, pho mát, sữa chua, đó là những thực phẩm hàng ngày cũng là chất
dinh dưỡng rất cần thiết, không xếp vào các điều răn cấm.
Giới thiệu
| 1 | 2
| 3 | 4
| 5 | 6
| 7 | 8
| 9 | 10
|