- HỌC PHẬT QUẦN NGHI
- (Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
- Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
- Phân Viện Viên Cứu Phật Học dịch
41
- Thần đạo có phải là Phật giáo không? [^]
Không ! Không phải ! Thế nhưng rất nhiều người không biết
phân biệt Phật với Thần, cho rằng tín ngưỡng dân gian với tín ngưỡng
Phật giáo là một, cho nên dễ xen lẫn hiện tượng tín ngưỡng dân gian
vào tín ngưỡng Phật giáo, khiến cho Phật giáo dần dần biến thành một
chi nhánh phụ của tín ngưỡng Thần đạo dân gian.
Nếu xét ý tứ căn bản của Thần đạo lập thành tôn
giáo (thần đạo thiết giáo) thì có hai loại :
Một là dựa vào lời Kinh dịch : "Nhà Vua thuận theo
lý tự nhiên mà giáo hóa nhân dân, xét Thần đạo của Trời mà bốn thời
không bị mê hoặc, bậc Thánh dựa vào Thần đạo mà lập giáo nên được
thiên hạ phục". Mạnh Tử nói : "Trời thấy ta, tức là dân thấy.
Trời nghe ta, tức là dân nghe". Nhà Vua được gọi là con Trời, thuận
theo mạng Trời mà trị nước. Ý tứ của Thần đạo là ở đấy.
Hai là lợi dụng quỷ thần để thống trị và giáo dục
nhân dân, đó là điều được nói trong Hán Thư : "Hãy gấp lập ra miếu
Thần để mình phụng thờ, đó gọi là "Thần đạo thiết giáo"
để nhờ Thần giữ hộ vậy". Loại Thần đạo thứ nhất là sự vận
hành của quy luật tự nhiên. Loại Thần đạo thứ hai là tín ngưỡng quỷ
thần, dựa vào sự khải thi và chỉ đạo của quỷ thần. Loại thứ nhất
có lý tính. Loại thứ hai là mê tín mù quáng.
Tôn giáo ở Trung Quốc xưa nay vẫn có sự pha tạp của mê
tín và lý tính. Vì vậy mà không xuất hiện tín ngưỡng nhất thần giáo
như đạo Cơ-đốc, cũng không xuất hiện loại tôn giáo "Lý tính"
được tiếp thu toàn bộ như Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến. Tuy Khổng
Tử nói : "Không bàn chuyện ma quái, quỷ thần" nhưng từ quan đại
thần cho đến vua 7chúa, trong dân gian ít nhiều đều tiếp thu tín ngưỡng
quỷ thần. "Thần đạo thiết giáo" trong sách này là nói những hiện
tượng nghênh quỷ, giáng thần, bà cốt, ông đồng, hình thành cái gọi
là "tín ngưỡng dân gian". Tin quỷ thần, không nhất định chỉ có
người bình thường mà thôi.
Thần đạo lập thành tôn giáo, thường được xem như là
nguyên nhân dẫn tới lập các dâm từ, bởi vì nó có thể phổ biến tràn
lan và mê hoặc nhân tâm. Hiện tượng kỳ quái xảy ra, đôi khi có sự can
thiệp thật sự của quỷ thần, nhưng cũng có thể là do bọn ông đồng bà
cốt bày đặt ra. Dù cho có quỷ thần thật sự can thiệp đi nữa, thì quỷ
thần cũng có nhiều loại, phúc đức, trí tuệ, và trình độ khác nhau,
thiện ác khác nhau, cho nên "tiếng nói" của quỷ thần thông qua
linh môi ông đồng, bà cốt cũng khác nhau, không thể dựa vào đó làm chuẩn
mực cho đạo đức xã hội hay trí thức lý luận được. Còn nếu do ông
đồng, bà cốt bày đặt ra, tình hình lại càng nghiêm trọng hơn. Chúng
có thể đổi trắng thay đen. Do đó mà người có trí thường giữ thái độ
"kính quỷ thần nhưng ở xa quỷ thần". Quỷ thần cũng như kẻ tiểu
nhân, mắc tội với quỷ thần hay là thân cận với quỷ thần đều không
được. Quỷ thần lúc vui, lúc giận, thiện ác không lường, tà chính
không rõ, người tin cũng thấy được vài linh nghiệm, nhưng không thể tin
tưởng tuyệt đối. Nếu dựa vào sự bày đặt sắp xếp của ông đồng,
bà cốt, linh môi, đạo sĩ thì càng đáng sợ. Trong lịch sử xảy ra các
chuyện yêu tà làm loạn, mê hoặc quần chúng, đều là do thần đạo thiết
giáo mà ra cả.
42
- Ý nghĩa của việc gọi Phật giáo là vô thần luận là thế nào? [^]
Vô thần là một danh từ chuyên môn của môn tôn giáo học.
Có hai loại vô thần luận, một là duy vật vô thần luận, hai là Phật
giáo vô thần luận.
Duy vật vô thần luận phủ nhận mọi sự tồn tại độc
lập của tinh thần, cũng không tin có thế giới quỷ thần, còn vô thần
luận của Phật giáo thì cho rằng mọi pháp đều do nhân duyên sinh tạo
thành. Phật giáo thừa nhận có quỷ thần, có tinh thần, nhưng không công
nhận có một vị thần duy nhất, tối sơ mà cũng là tối hậu, toàn trí
toàn năng làm chúa tể và sáng tạo ra vũ trụ, như Nhất thần giáo chủ
trương.
Môn tôn giáo phân biệt thành những tín ngưỡng đa thần,
nhiều thần nhất thần, nhị thần và vô thần.
Tín ngưỡng đa thần là tín ngưỡng dân gian nói chung,
không có tổ chức, không có hệ thống, là hình thái tôn giáo của dân tộc
nguyên thủy, là hình thái tôn giáo có tính địa phương. Tỉ dụ, ở Trung
Quốc các vị thần dân gian chia làm thần địa phương, thần quốc gia. Thần
địa phương lại chia làm thần tổ tiên và thần tự nhiên. Danh hiệu và
tướng mạo các vị thần này có thể khác biệt tùy theo thời đại và địa
phương. Còn các vị thần quốc gia là các vị thần nguyên tố của cả nước,
cả dân tộc, hoặc là thần núi, thần sông, thần mặt trăng, thần mặt
trời.
Tín ngưỡng nhị thần chia thiện và ác thành hai thế lực.
Lúc đầu là hai dân tộc chống đối nhau. Dân tộc này gọi thần của
dân tộc chống mình là ác thần, và tôn xưng thần của dân tộc mình là
thiện thần. Về sau khi hai dân tộc đó thống nhất lại rồi thì họ gọi
ác thần là ma, và suy tôn thiện thần là thượng đế. Trên thế giới chỉ
có Ba Tư giáo là vừa sùng bái ma quỷ, vừa sùng bái Thượng đế. Cơ-đốc
giáo thì tin rằng cả Thượng đế và ma quỷ đều tồn tại vĩnh cửu,
nhưng chỉ sùng bái Thượng đế mà không sùng bái ma quỷ. Nói tóm lại tức
là có nội dung nhị thần giáo, nhưng lại theo hình thức Nhất thần giáo.
Nhất thần giáo cho rằng vạn vật là do một vị Thần
sáng tạo ra, khống chế, hủy diệt, đó là vị thần có quyền năng lớn,
làm chủ tế vạn vật, như ở Trung Quốc gọi là đấng tạo vật. Tuy rằng,
Cơ-đốc giáo tin có Thiên sứ, Thiên nữ, Thiền thần, nhưng đều là bộ
thuộc của vị Thượng đế duy nhất, chứ không thể là người kế vị
Thượng đế hay là bình đẳng với Thượng đế được.
Phiếm thần là một khái niệm triết học. Đó là bản thể
của vũ trụ, là phép tự nhiên, không có nhân cách, là nơi sinh ra và quy về
của vạn vật. Thần không thể có ý chí để thương người. Người lại
có trách nhiệm và nghĩa vụ phục tùng và kính yêu thần.
Về thuyết vô thần thì như đã nói ở trên, có hai thuyết
vô thần. Một là thuyết duy vật vô thần, cho rằng mọi hiện tượng nhân
sinh vũ trụ đều do vật chất vận hành sinh ra, ngoài hoạt động của vật
chất ra không có một linh thể nào có thể tách rời vật chất mà tồn tại
được. Con người trước khi sinh ra, không có quá khứ, sau khi chết đi
cũng không có vị lai. Mà nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng
vật chất di truyền hay là tàn dư mà thôi. Đối với cá nhân người mà
nói, người chết cũng như ngọn đèn tắt vậy. Nếu thừa nhận con người
đó, trong thế gian có phát huy ảnh hưởng tinh thần nhất định, như trong
các lĩnh vực học thuật, chính trị, nghệ thuật v.v… thì ảnh hưởng đó
lưu lại hậu thế, cũng là vật chất, chứ không phải tinh thần. Con người
có thể nhớ tới cổ nhân, nhưng cổ nhân không biết rằng mình được nhớ
tới, vì họ không còn tồn tại nữa. Nhớ cổ nhân không phải là để an
ủi linh hồn họ mà là để tự động viên mình, động viên người làm
được như cổ nhân.
Vô thần của Phật giáo đặt cơ sở trên thuyết mọi sự
vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, chúng sinh tồn tại là do quả
báo của nghiệp do chính chúng sinh tạo ra. Chúng sinh tự mình tạo nghiệp,
tự mình chịu báo. Số đông chúng sinh trong quá khứ tạo ra vô lượng, vô
số kiếp. Vì nghiệp nhân giống nhau nên hoàn cảnh sống hiện nay như là
giống nhau.
Thế giới chúng ta đang sống nằm trong phạm vi Thái dương
hệ. Thế giới sinh ra là do nghiệp cảm của chúng sinh tạo ra cả, chứ
không phải do một Thượng đế nào tạo ra.
Nhận thức về thần linh, nhu cầu về thần linh, thực tế
là nhu cầu của người mà sinh ra cả. Phật giáo không công nhận có một
vị thần toàn tri, nhưng Phật giáo không giống như Vô thần luận. Đối với
người có đức tin thì có thần, có thể có một vị thần có uy lực lớn
nữa, có phúc đức lớn nữa. Và có nhiều vị thần chứ không phải có một
thần. Có những vị thần là loài trời ở thế giới khác đến. Những
người tin theo nhất thần giáo hình dung vị thần của họ dưới những hình
dạng khác nhau. Cái gọi là Nhất thần giáo, thực ra là do đa thần giáo
"cải tiến thăng hoa" lên mà thôi.
Vô thần luận Phật giáo không phủ định tác dụng của
tín ngưỡng đa thần, một vị thần hay hai thần v.v… nhưng cái khác là,
đối với Phật giáo, thần cũng chỉ là một loại chúng sinh mà thôi. Vì
vậy, trong các kinh "Hoa Nghiêm", "Địa Tạng", thậm chí cả
"A Hàm" nữa đều nói tới quỷ thần. Phật giáo không phải chủ
trương không có quỷ thần, mà chỉ phủ nhận không có một vị thần duy
nhất, chúa tể và sáng tạo ra thế giới, vũ trụ.
43 -
Thượng đế của nhất thần giáo là giả hay thực? [^]
Thượng đế là vị giáo chủ lập ra Nhất thần giáo, cũng
như đối với tín đồ Nhất thần giáo. Vị giáo chủ lập ra một tôn
giáo, không thể nói chuyện hoang đường. Vị giáo chủ ấy đã thấy, đã
tiếp xúc với Thượng đế của họ, họ không có cách nào phủ nhận sự
tồn tại của Thượng đế, do đó mà họ mới có một niềm tin mãnh liệt,
thậm chí cuồng tín để tuyên truyền cho Thượng đế của họ.
Chúng ta cho rằng Thượng đế của họ là kinh nghiệm thế
giới nội tâm của họ, chứ không phải có một Thượng đế nào khách
quan tồn tại. Những người không tin, không thấy có Thượng đế nào
khách quan tồn tại. Những người không tin, không thấy có Thượng đế
cũng không có quyền phủ định Thượng đế, cũng như một người chưa đáp
phi thuyền đổ bộ lên mặt trăng, không có quyền phủ định lời mô tả
mặt trăng của những người đã từng đổ bộ lên mặt trăng.
Theo đạo Phật, vũ trụ thế giới là do "cộng nghiệp"
của chúng sinh tạo thành, chứ không phải do Thượng đế nào tạo ra cả.
Nên gọi Phật giáo là "Vô thần luận". Nhưng "Vô thần luận"
Phật giáo không phải phủ định sự tồn tại của Thượng đế mà là phủ
định có một Thượng đế sáng chế. Bởi vì Thượng đế cũng chỉ là một
phần tử trong vũ trụ, một loại chúng sinh, chứ không phải là một vị
Thần "tối sơ và tối hậu" của thế giới vũ trụ. Vì vậy, Phật
giáo không phủ định Thượng đế mà chỉ cho rằng không phải vì chỉ
có Thượng đế mới có vũ trụ.Như vậy, phải chăng nói có Thượng đế
là nói dối và quần chúng tín đồ Nhất thần giáo đều bị lừa ? Không
phải như vậy. Nói có Thượng đế không phải nói dối. Vì rằng, đã là
Thần thì có tâm kiêu mạn. Phúc báo và địa vị của Thần càng cao, thì
lòng tự tin và kiêu mạn của Thần càng lớn. Đó là cái mà Mật giáo
nói là "Thiên mạn" hay "Phật mạn".
Có một số chúng sinh có tâm lý yếu đuối ươn hèn, cần
có một vị thần có oai lực che chở và ban ơn, đem lại hy vọng và nguồn
an ủi của họ. Và cũng do yêu cầu đó của con người, Thần cũng tỏ ra
mình có uy lực vô hạn. Cũng do đó dù là Thần hay là người cũng đều có
bản năng và nhu cầu như vậy nên Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ trở
thành chân lý của tôn giáo.
Trong các sách Thánh Nhất thần giáo, chưa từng có câu chuyện
nào nói Thượng đế không sáng tạo ra vũ trụ mà lại tự nhận mình là
đấng sáng thế.
Cũng như trong xã hội công thương ngày nay, có một số
ông chủ xí nghiệp thông minh, sáng suốt, khiêm tốn nói rằng xí nghiệp
làm ăn tốt là do công lao đóng góp của toàn thể nhân viên xí nghiệp và
xã hội nữa, chứ không phải công lao của cá nhân mình. Cá nhân chủ xí
nghiệp chỉ cung cấp vốn đầu tư, trí tuệ và thời gian mà thôi. Công ty
tất nhiên dựa vào ông ta mà được thành lập, phát triển và thành công,
nhưng ông ta muốn biểu hiện rõ, đã lấy ở xã hội thì phải dùng cho
xã hội và phục vụ xã hội.
Nhưng ngược lại cũng có phần lớn những ông chủ xí
nghiệp tự cho mình đã lập ra xí nghiệp, nhân viên xí nghiệp nhờ có
ông ta mà được ấm no, xã hội nhờ có ông ta mà được hạnh phúc. Tất
cả nhờ có ông ta có trí tuệ, bỏ vốn ra đầy đủ, kinh doanh giỏi mà
thành công. Loại người như vậy, giống như Thượng đế của Nhất thần
giáo, họ thực ra có lừa dối người đâu !
Thượng đế có sáng tạo ra vũ trụ không, tín đồ Nhất
thần giáo có bị lừa không, đều không thành vấn đề. Nếu vị thần
ấy, tuy không sáng tao ra vũ trụ, nhưng lại quan tâm đến nỗi thống khổ
của chúng sinh sống trong vũ trụ, tùy thời và tùy trường hợp để tế
độ chúng sinh thì đó chẳng phải là Bồ Tát sao ? Dù cho tín đồ có bị
lừa chăng nữa, nhưng nếu họ được khuyến khích và an ủi, thì đó cũng
là một sự lừa dối đáng giá ! Cũng như câu chuyện Tào Tháo bày chuyện
rừng mơ để quân lính khỏi khát chẳng phải là có lợi sao ? Trong kinh
Pháp Hoa, có nói tới "Hóa Thành" là để hấp dẫn những người
Tiểu thừa thiếu tự tin và can đảm. Phật thuyết pháp cho hàng A-la-hán
và Bích Chi Phật để họ tự cầu giải thoát, sau đó mới khuyến cáo họ
phát tâm Bồ đề cầu thành Phật. Sự giải thoát của Tiểu thừa giống
như quán trọ trên quãng đường dài, để cho khách ngủ trọ qua đêm, phục
hồi sức khỏe, để ngày mai lại lên đường tiến tới quả Phật. Có thể
thấy, pháp Tiểu thừa là phương tiện giáo hóa, để thu hút chúng sinh
vào con đường đạo.
Vì vậy, chúng ta không phản đối Thượng đế của Nhất
thần giáo. Nếu tín ngưỡng Thượng đế có tác dụng thì tức là có giá
trị nhất định đối với nhân sinh.
44
– Mật giáo là gì ? [^]
Theo truyền thuyết của Mật giáo thì Mật giáo do Phật Tỳ-lô-giá-na,
tức Đại-Nhật-Như-Lai truyền cho Bồ Tát Kim-Cang-Tát-Đỏa làm tổ thứ
hai ở Cung Kim Cang Pháp Giới. Sau khi Phật Thích Ca diệt độ 800 năm, có Bồ
Tát Long Mãnh ra đời, xây tháp sắt ở Nam Thiên được Kim Cang Tát Đỏa
trao truyền Mật pháp mà thành tổ thứ 3, rồi truyền cho tổ thứ 4 là
Long Trí. Long Trí sống thọ 700 tuổi, truyền Mật pháp cho Kim Cương Trí,
vào năm Khai nguyên đời Đường Huyền Tôn ở Trung Quốc. Kim Cương Trí
là một trong ba cao tăng Mật giáo đến Trung Quốc trong năm đó vì vậy, Mật
giáo không phải là do Phật Thích Ca nói ra, mà là do pháp thân của Phật
trao truyền trực tiếp. Vì pháp thân của Phật không thuyết pháp, cho nên
gọi là Mật pháp, hay là "Tâm pháp căn bản" hay là "Đại pháp
vô thượng". Mật pháp không thể nào do phàm phu truyền thừa được.
Người truyền thừa Mật pháp gọi là Thượng sư Kim Cương.
Nhưng xét về lịch sử Phật giáo thì Mật giáo bắt nguồn
từ tín ngưỡng dân gian Ấn Độ, và cuối cùng phát triển thành Mật
giáo hay Mật thừa vào thời kỳ phát triển cuối cùng của Phật giáo đại
thừa ở Ấn Độ. Mật giáo lấy tư tưởng và lý luận của Phật giáo đại
thừa làm nền tảng, và tiếp thu một số quan điểm và phép tu của Ấn
Độ giáo.
Mật giáo chia thành Tạp mật, Sự mật, Du già mật và Vô
thượng du già mật. Tạp mật giống như tín ngưỡng dân gian. Sự mật
thì được tổ chức hóa bước đầu. Du già mật giống như Thiền định
Phật giáo. Còn Vô thượng du già mật là do kết hợp với phái tinh lực của
Ấn Độ giáo đương thời mà thành. Cái gọi là Tinh lực tức là nam nữ
giao cấu. Hai thân nam nữ cùng tu tập, kết hợp một cách viên mãn trí tuệ
và phương tiện. Nữ tính đại biểu cho trí tuệ, nam tính đại biểu cho
phương tiện. Tư tưởng này cũng phù hợp với "thuật trong phòng của
Đại gia Trung Quốc", cũng gọi là "ngự nữ thuật" (tức là
thuật ngự trị phụ nữ) nhưng đó không phải là phương pháp tu hành căn
bản của Phật giáo. Phật giáo lấy ly dục làm căn bản. "Phép Vô thượng
du già mật" là muốn thông qua giao hợp nam nữ để đạt tới mục đích
giải thoát. Vì vậy mà sau này ở Tây Tạng, giáo phái hoàng giáo của
Thông sa pa (Tôn Lặc Ba) tiến hành cải cách, cấm chỉ không được lấy
việc giao hợp nam nữ làm phương pháp tu hành. Nhưng các giáo phái khác ở
Tây Tạng vẫn cứ dùng như thế để hợp lý hóa : đầu tiên thì luyện
khí, luyện mạch, minh điểm sau đó mới thực hành phương pháp nam nữ
song tu.
Mật giáo vốn hình thành trong bối cảnh xã hội của Ấn
Độ lúc bấy giờ, và sau đó trong hoàn cảnh Tây Tạng. Chúng ta không thể
nói Mật giáo của Tây Tạng không phải là Phật giáo. Ngoài phần "Vô
thượng du già mật" ra, giáo lý và phương pháp tu hành của Phật pháp
Tây Tạng được tổ chức chặt chẽ nghiêm minh, thứ bậc rõ ràng, đặc
biệt về mặt giáo lý, họ lấy Trung quán làm căn bản, lấy Du già làm hỗ
trợ. Đó là điều chưa từng thấy ở Trung Quốc, công tác giáo dục và
huấn luyện tăng ni của họ được tổ chức chu đáo, có hệ thống, có
thứ bậc, do vậy mà tạo ra được tín tâm và pháp môn tu hành nhất định.
Thế nhưng ở Mông Cổ và Tây Tạng, những vị gọi là Phật sống chưa hẳn
là người có học vấn và tu chứng.
Các bậc gọi là thượng sư Mật giáo phải là những bậc
được truyền thừa Mật pháp hoặc trực tiếp từ Ngài Kim Cang Tát Đỏa,
hay là từ pháp thân của Phật không ai được tự xưng là thượng sư.
Thượng sư phải là người có tu chứng, và sự tu chứng đó phải được
người thầy dạy trực tiếp của mình xác định, đảm bảo mới được.
Không thể có người biết một vài câu thần chú, thi thố vài chuyện linh
dị tự xưng Thượng sư. Thế nhưng, dần dần có những người tự ý cao
rao là mình được Phật và Bồ Tát khai thị, và tự xưng là Thượng sư.
Tuy nhiên số người mạo xưng như vậy rất là ít, vì ở Tây Tạng, kỹ
luật tu hành rất nghiêm, trường hợp mạo nhân là Thượng sư rất dễ bị
vạch trần.
Ở Tây Tạng, lúc ban đầu truyền thừa Mật giáo lại là
người tại gia. Như Đại sĩ Liên Hoa là vị tổ sư lập ra pháp Hồng
giáo. Theo truyền thuyết, ông có vợ, con. Về sau các vị Lạt Ma và thượng
sư của Hồng giáo đều có vợ, con. Đó là đặc sắc của Hồng giáo Tây
Tạng. Người Phật tử Tây Tạng thọ bốn quy y, tức là quy y Phật, Pháp,
Tăng và Thượng sư. Tam Bảo không phải là trọng yếu. Thượng sư mới là
trung tâm của tín ngưỡng. Thượng sư đại biểu cho báo thân của Phật.
Nếu không thông qua Thượng sư thì không có cách gì tiếp thu được Phật
pháp. Tuy đó là lý luận của Mật giáo nhưng hiển giáo không thừa nhận
vì không phù hợp với tinh thần bình đẳng của đạo Phật.
Ở Tây Tạng, có những thượng sư là nữ, có người nói,
nếu thượng sư là nữ, mà đệ tử là nam, mà tu pháp Vô thượng du già mật,
thì nữ thượng sư thường mượn cớ thuyết pháp, mà cùng với nam đệ tử
quan hệ tình dục lu bù.
Như trên đã nói phép nam nữ cùng tu hành và thông
dâm không phải là Phật pháp, không phải là pháp thanh tịnh. Đối với xã
hội chúng ta là điều nên cấm chỉ. Ngày xưa đạo sĩ tu "thuật trong
phòng" tất nhiên phải có hộ pháp ở ngoài phòng, phải là người có
tiền và có thế, người đạo sĩ bình thường không làm được, nếu không
thì dâm loạn lan tràn gây bao điều bất hạnh cho xã hội. Tuy rằng bọn họ
đều không cho là dâm loạn, đạt đến mục đích thân tâm thống nhất,
chứ không phải thỏa mãn và khoái lạc xác thịt. Thế nhưng, ở Trung Hoa
chưa bao giờ công nhận phép tu Vô thượng du già của Mật giáo là phương
pháp tu trì quang minh chính thống cả. Hơn nữa, cái gọi là thống nhất cũng
chỉ là thống nhất tạm thời, tạm quên các tự ngã và tiểu ngã, không
đạt đến trình độ giải trừ phiền não và tất nhiên không được giải
thoát hay là thành Phật.
Nội dung cái gọi là tức thân thành Phật thì Tông Thiên
Thai cũng nói đến tức thân thành Phật. Nhờ học Phật, biết mình là Phật,
đó là danh tự tức Phật. Bắt đầu tu hành đó là quán hạnh tức Phật.
Cho nên thuyết Mật giáo tức thân thành Phật cũng không có gì là lạ. Nếu
mới bắt đầu tu Mật giáo, mới giác ngộ đôi chút có thể là cứu kính
Phật thì ngay trong Mật giáo cũng không chấp nhận. Nếu quả Phật như vậy
thì nhiều nhất chỉ là thứ bậc quán hạnh tức Phật mà thôi. Ngay Ngài
Đạt-Lai-Lạt-Ma cũng không tự xưng mình là cứu cánh Phật. Đối với Mật
giáo các vấn đề khí mạch, điểm sáng đều hết sức trọng yếu. Đó
là yêu cầu chung của phép Du già Ấn Độ. Tu định thì thân thể phải khỏe
mạnh, dùng phương pháp ngồi thiền và quán tướng, để làm cho khí mạch
trong người đều thông suốt, đó cũng là hiện tượng chung cho đạo Phật
và các ngoại đạo. Cái gọi là điểm sáng giống như đạo gia nói hoàn
tinh bổ huyết, và hoàn tinh bổ não có chỗ giống nhau. Nhờ có tinh lực dồi
dào mà khí được tập trung, thần sắc nhàn nhã, đầu não minh mẫn, thân
tâm nhẹ nhàng. Người tu thiền theo Hiển giáo, tuy không tu luyện những đạo
thuật như vậy nhưng cũng đạt tới tình trạng tương tự.
Phép tu Mật giáo chú trọng đến luyện thân thể, đến cái
gọi là tức thân thành Phật, cũng như nhà đạo gia nói mọc cánh thành
tiên, hay là bay bổng lên trời, nghĩa là lấy làm mục đích tu luyện sự
chuyển biến nơi thân thể. Nhưng theo quan điểm căn bản của Phật pháp
thì sắc thân chỉ là 5 uẩn giả mà thành nên gọi là Pháp Vô thường, mà
vô thường thì phải được giải thoát. Nếu chấp trước cái thân vô thường
làm mục đích cứu kính của sự tu hành thì vẫn trong vòng sống chết
không thoát ra được ba cõi. Vì vậy, thiền tông gọi những người luyện
theo môn này là quỷ giữ thây, dù rằng có truyền thuyết Ngài Long Trí sống
đến 700 tuổi, và ông Trần Đoàn đạo sĩ lão giáo ở Trung Quốc sống đến
800 tuổi, nhưng cả hai cuối cùng không thoát khỏi cái chết. Vì vậy, Phật
giáo tuy không phủ định tác dụng của khí mạch, và điểm sáng thế nhưng
không khẳng định chúng là quan trọng.
Còn vấn đề các Lạt-Ma Tây Tạng và tăng sĩ thuộc thượng
tọa bộ nam phương ăn mặn, ăn thịt thì do hoàn cảnh xã hội và địa lý
tự nhiên, chúng ta không nên phê phán. Các vị Lạt-Ma Tây Tạng tất nhiên
biết rõ ý nghĩa từ bi của đạo Phật, không nên ăn thịt chúng sinh, thế
nhưng vì những nguyên nhân, như sinh tồn và thích ứng với hoàn cảnh, họ
nêu ra nhiều lý do tựa hồ như đúng mà thực ra thì sai lầm. Như nói, ăn
thịt chúng sinh là để kết duyên với chúng sinh, đặc biệt nếu được
bậc đắc đạo ăn thịt, thì có thể chuyển thân chúng sinh thành ra thân
Phật, thân Bồ Tát, chuyển nhục thân của chúng sinh thành nhục thân của
bậc tu hành đắc đạo. Họ lại nói lấy sức mạnh của thần chú nguyện
cho chúng sinh bị ăn thịt được an lạc khỏi khổ, thế nhưng đó chỉ
là lý thuyết, số người tu hành đắc đạo cũng không nhiều. Tất nhiên,
nếu theo quan điểm của Mật giáo, đối với bậc tu hành đắc đạo, ăn
thịt hay không ăn thịt không thành vấn đề.
Người tu hành ăn thịt lúc chết hỏa thiêu vẫn có ngọc
xá lợi. Vấn đề này có quan hệ đến việc ăn thịt hay không ăn thịt,
có quan hệ gì đến việc giải thoát. Nói chung, những người tu định, tu
tuệ khi chết, thì mới có xá lợi, bản thân xá lợi là sự ngừng kết
hay kết tinh mà thành. Nó có một ý nghĩa thần thánh hay thần bí nào đó
cho nên được các Phật tử coi trọng, nhưng không phải việc lớn.
Chỉ có giải thoát khỏi sinh tử mới là việc lớn. Xá lợi
là phần còn lại của sắc thân nó cũng vô thường như sắc thân vậy.
Vì vậy sau khi Phật diệt độ tôn giả Đại Ca Diếp triệu tập 500 vị
đại A la hán để kết tập kinh và luận về xá lợi pháp thân của Phật.
Còn xá lợi nhục thân của Phật thì để cho các đệ tử tại gia chia phần
với nhau. Như vậy, xá lợi nhục thân của Phật, ngay từ đầu được các
đệ tử phàm phu hết sức coi trọng, nhưng đối với các đệ tử thánh
chúng, thì đó là chuyện bình thường.
45 -
Mật giáo thịnh hành, đạo Phật có bị diệt vong hay không ? [^]
Ở Ấn Độ, Phật giáo quả thật là đã bị diệt vong sau
khi Mật giáo thịnh hành. Vì vậy mà nói Mật giáo là Phật giáo đại thừa
vào thời kỳ cuối của Ấn Độ. Nhưng không thể nói Mật giáo thịnh
hành thì Phật giáo phải diệt vong. Mật giáo Tây Tạng, tuy có lúc hưng, lúc
suy, nhưng vẫn tồn tại kéo dài mãi đến nay.
Mật chú vốn là nội dung chủ yếu, là một trong bốn
sách Vệ-đà của Bà-la-môn giáo, về sau kết hợp với tín ngưỡng và
phép tu sùng bái tinh lực thành ra phương pháp thực tiễn của Ấn Độ giáo.
Nó lấy lý luận triết học của Áo Nghĩa Thư (Upanishads) làm kiến trúc thượng
tầng, về sau lại tiếp thu thêm tư tưởng Trung quán và phương pháp tư biện
của Phật giáo để cuối cùng xác lập cơ sở lý luận của AᮠĐộ giáo
cách tân. Có thể nói Ấn Độ giáo cách tân là một tập đại thành của
Bà La Môn giáo và Phật giáo, để hình thành nên một cơ sở lý luận Aᮍ
Độ giáo mới. Về mặt lý luận thì sử dụng những nguyên lý cao nhất của
Bà-la-môn giáo và Phật giáo, về mặt thực tiễn thì sử dụng các phương
pháp chú thuật thiền định và rèn luyện thân thể.
Đứng về Phật giáo mà nói thì trên lĩnh vực tư tưởng,
với sự xuất hiện của phái Trung Quán, đã phát triển tới mức bão
hòa. Trên lĩnh vực thực tiễn, với sự xuất hiện của học phái duy thức
du già, cũng đã phát triển tới mức bão hòa. Dần dần về mặt chí đạo
lại quá thiên về lý luận, coi nhẹ các pháp môn tu hành thực tiễn, hơn
nữa số nhân tài ít đi, giáo đoàn lại sa sút, suy yếu nên Phật giáo
không có cách nào chống chọi được với thế lực của Ấn Độ giáo. Do
đó quần chúng ào ạt bỏ Phật giáo ngã theo Ấn Độ giáo, có hàng trăm,
hàng trăm tăng sĩ Phật giáo đi theo AᮠĐộ giáo.
Những nhân sĩ có tâm huyết trong Phật giáo Ấn Độ, để
có thể tồn tại, đã tiếp thu những sở trường của Ấn Độ giáo rồi
áp dụng vào Phật giáo, hình thành những nét đặc sắc của Phật giáo đại
thừa vào cuối thời kỳ kết hợp lý luận Trung quán với phép tu Du già tạo
ra pháp môn "Vô thượng du già mật" tức là áp dụng phương pháp
tu hành của Ấn Độ giáo dùng quan điểm Phật giáo để biện minh. Đó
là điển hình của Phật giáo đại thừa Ấn Độ truyền sang Tây Tạng.
Vì ranh giới giữa Mật giáo với Ấn Độ giáo không rõ
ràng, nên hai tôn giáo này tồn tại hay không tồn tại không thành vấn đề
gì đối với xã hội. Tín đồ Phật giáo, Ấn Độ giáo ngày nay nói rằng
: "Phật giáo đã được Ấn Độ giáo tiếp thu và hòa đồng vào Ấn
Độ giáo rồi. Phật Thích Ca hóa thân thứ bảy của Phạm Thiên Vương :
Danh nghĩa của Phật giáo tuy không còn ở Ấn Độ nhưng một bộ phận nội
dung của Phật giáo vẫn tồn tại sống động ở trong Ấn Độ giáo. Nhưng
Ấn Độ giáo là hữu thần luận, Phật giáo là vô thần luận. Tuy hai tôn
giáo hỗn đồng với nhau, nhưng giáo nghĩa lại khác biệt nhau. Vì vậy, Phật
giáo chân chính đã bị diệt vong tại Ấn Độ.
Phật giáo bị diệt vong ở Ấn Độ không phải hoàn toàn
do sự thịnh hành của Mật giáo. Sự xâm nhập của quân Hồi cũng là
nguyên nhân chủ yếu. Bắt đầu từ cuối thế kỷ, quân Hồi từ phía
Tây Bắc tấn công vào Ấn Độ. Đến đâu chúng cũng đốt phá chùa chiền
tu viện, giết sạch tăng sĩ. Số tăng sĩ may mắn sống sót phải chạy trốn.
Đến thế kỷ XI và cuối thế kỷ XI, Hồi giáo thành lập vương triều
ở Ấn Độ. Các Phật tử nếu không theo Hồi giáo cũng phải theo Ấn Độ
giáo. Do vậy, vận mạng của Phật giáo Ấn Độ xem như kết thúc. Phật
giáo cố nhiên là bị diệt vong trong thời kỳ Mật giáo thịnh hành. Nhưng
tin theo Mật giáo không nhất định là làm cho Phật giáo diệt vong. Vì vậy
mà đại thừa Mật giáo truyền vào Tây Tạng từ thế kỷ XIII đến nay vẫn
tồn tại một cách vững chắc.
Ở Trung Quốc, trong bối cảnh của hai trào lưu văn hóa Nho
và Đạo gia, dân tình và phong tục lại khác với Tây Tạng, nên đại thừa
Mật giáo tuy sớm du nhập từ thế kỷ XIII dưới triều vua Đường Huyền
Tông lại có ba cao tăng Mật giáo là Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy và Bất
Không phiên dịch một số lớn kinh sách Mật giáo nhưng Mật giáo vẫn
không được hoan nghênh ở Trung Quốc. Trái lại, sau khi truyền sang Nhật Bản
nó lại trở thành một tông phái riêng và tồn tại cho đến nay. Đến triều
Nguyễn, người Mông Cổ làm chủ Trung Nguyên, đem Lạt-ma giáo Tây Tạng du
nhập vào đất hán, nhưng phạm vi ảnh hưởng chỉ khoanh tròn trong số người
Mông Cổ và một số ít nhân sĩ có liên quan tới người Mông Cổ mà
thôi, nhưng không được dân tộc Hán tin thờ. Từ buổi đầu, Mật giáo
tuy có chút khởi sắc, nhưng do người truyền giáo Mật giáo tốt xấu pha
tạp, ai cũng có thể tự xưng là thượng sư, nên Mật giáo không thâm nhập
được vào cơ sở của nền văn hóa Trung Quốc. Hiện nay Mật giáo Tây Tạng
lan truyền tới nhiều nơi trên thế giới, trong xã hội người Trung Hoa
cũng có ảnh hưởng khá lớn, chúng ta nên học cái hay, không nên học cái
dở của nó.
Nếu có những nhân tài Mật giáo Tây Tạng, được huấn
luyện và đào tạo nghiêm túc lâu dài cũng như những cao tăng theo Phật giáo
Tây Tạng chính thống đến truyền bá Mật giáo, dựa vào kinh sách của đạo
sư Tôn Ka Pa như "Bồ đề đạo thứ độ luận", "Mật tôn đạo
thứ độ luận"… làm căn cứ để hoằng dương Mật giáo, như đối
với Hiển giáo thì làm sao có thể dẫn đến hậu quả diệt vong được.
Nhưng nếu chỉ rung chuông, múa chùy, thổi kèn, đáng trống, chú thuật v.v…
nhằm để cầu tài đuổi quỷ, cầu trường sinh bất tử, với những phép
tu gọi là tức thân thành Phật, để kêu gọi phát triển Mật giáo và nếu
chỉ như vậy thôi, thì thật là bất hạnh cho Phật giáo. Nếu một loại
Mật giáo như vậy mà hưng thịnh thì đạo Phật có lý do để bị diệt
vong vậy !
46 -
Nhật Liên Chính Tôn và Nhất Quán Đạo có phải là Phật giáo không ? [^]
Sau khi đại chiến thế giới thứ hai chấm dứt, ở Nhật
nổi lên tôn phái Nhật liên, thuộc phái chùa Đại Thạch ở núi Phú Sỹ,
cũng gọi là Sáng giá học hội. Chính đảng mà họ thành lập gọi là đảng
Công Minh. Tôn pháp này tôn xưng là Nhật Liên làm giáo tổ (1222-1282), phủ
định địa vị của Đức Phật Thích Ca, nói Đức Thích Ca là hóa Phật,
Nhật Liên là Phật gốc, Phật Thích Ca đã nhập Niết bàn, là Phật quá
khứ, Nhật Liên là Phật bản lai, nay đang giáo hóa thế gian và mãi mãi
giáo hóa thế gian. Chính tôn Nhật Liên hiện nay suy tôn ông Trí Điền
đại tác hiện còn sống làm giáo chủ, làm Phật vĩnh hằng. Tuy họ lấy
việc niệm tên Kinh "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" làm pháp môn
chuyên tu, nhưng trong 28 tác phẩm của Kinh Pháp Hoa họ chỉ dùng 2 phẩm, tức
phẩm "Phương tiện" và phẩm 16 "Như Lai thọ lượng", đồng
thời bác bỏ mọi Kinh Luật Phật giáo, mọi tôn pháp Phật giáo khác. Vì
vậy có học giả Nhật Bản cho rằng : Sự cuồng nhiệt tôn giáo và hành
động bài xích của Nhật Liên Chánh Tôn cũng không khác gì phương thức tín
ngưỡng của Cơ đốc giáo, cho nên nó là một loại thần Đại giáo, thay
vì Phật giáo. Đó là một loại thần đạo giáo được "Nhật Bản dân
tộc hóa". Khi Nhật Liên Tông dần dần trở về với Phật giáo chính
thống thì xuất hiện "Nhật Liên Chánh Tông". Đó thực ra là một
loại ngoại đạo bám vào Phật giáo, chứ không phải là Phật giáo chính
thống bắt nguồn từ Ấn Độ.
Từ nhà Minh trở đi, ở Trung Quốc thịnh hành thuyết hòa
đồng ba giáo Nho-Phật-Lão. Rồi sau khi chính phủ Dân quốc thành lập, thừa
kế ảnh hưởng còn lại của các hội bí mật của Bạch Liên giáo, lại
sinh ra thuyết hòa đồng các tôn giáo Phật-Nho-Lão-Gia-Tô-Hồi.
Thuyết này rút tỉa ý nghĩa của năm giáo, chắt lọc và
dung hợp lập ra "Nhật quán đạo". Tuy chủ thuyết của Nhất quán
đạo là quán xuyến 5 giáo, nhưng chủ yếu lấy tín ngưỡng Di-Lặc, truyền
thuyết Tế-công, các Kinh "Kim Cương", "Tâm Kinh", "Duy
Ma Cật", "Pháp Bảo Đàn" của Lục Tổ làm lý luận để
"treo đầu dê bán thịt chó". Họ nói nào là Phật Thích Ca đã
thoái vị, hiện nay Lão Mẫu Vô Sanh đã phái Di Lặc xuống nắm giềng
mối của đạo, lại nói Thiền Tông sau Huệ Năng đã suy tàn, và chức
trách duy trì đạo đã thuộc về người thế tục. Do đó mà phái "Nhật
quán đạo" cực lực bài xích Tăng ni Phật giáo xuất gia.
Đối với những người chưa vào đạo của họ, thì họ tự
xưng là Phật giáo, gọi tế đàn thờ Trời của họ là Phật đường.
Nhưng sau khi đã vào rồi thì mới được họ cho biết đây là đạo Trời
và tín đồ gọi nhau bằng Đạo thân.
Tư tưởng, quan điểm của họ cũng như nghi thức nhập đạo
của họ đều khác với Phật giáo. Họ dùng kinh Phật, nhưng không nói Phật
pháp. Họ dựa vào những điều nghe được từ linh môi, từ "loan đàn"
để giải thích kinh Phật. Các bậc Thánh hiền xưa nay trong đạo Phật đều
chủ trương lấy Phật pháp để giải thích Phật pháp theo đúng câu
"Y kinh giải thích kinh Phật là Phật nói; lìa kinh một chữ là Ma
nói". Như vậy, đủ biết "Nhất quán đạo" tuy nói quán thông
5 giáo, thực ra là hủy báng Phật giáo, âm mưu muốn thay thế Phật giáo.
Họ không có lịch sử, không có giáo chủ, không có giáo
nghĩa, họ bóp méo lịch sử Phật giáo, muốn thay thế giáo chủ Thích Ca của
Phật giáo, gây lộn xộn trong giáo nghĩa, lại rêu rao tự xưng là đạo Trời,
sùng bái toàn những nhân vật hư cấu, như Lão Mẫu Vô Sanh, thượng đế
Minh Minh, tin vào những lời do ông đồng, bà cốt nói ra, rồi lại còn lợi
dụng Phật đường, tượng Phật, danh hiệu Phật, kinh Phật để lừa dối
người. Phật giáo lấy Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng làm trung tâm tín ngưỡng
là công khai và hợp lý tính. Nhất quán đạo cũng dùng danh từ Tam Bảo,
nhưng lại dùng các nghi thức như Điểm huyền quang (điểm vào một chấm
giữa hai mắt) câu chú 5 chữ (Vô Thái Phật Di Lặc), đó chính là thần
bí, cảm tính, không phải là Phật giáo.
Nói chung lại, Nhật Liên Chánh Tôn của Nhật Bản, Nhất
quán đạo của Trung Quốc, không phải là Phật giáo chính thống và vĩnh
viễn không thể hòa nhập vào Phật giáo vì tính chất, thứ bậc tu hành,
và nhất là mục đích của chúng đều khác với Phật giáo.
47 -
Anh có phải là Phật tử không ? [^]
1) Tín ngưỡng dân gian :
Người Trung Quốc viết lý lịch của mình, đến mục
"Tôn giáo" thường ghi "Phật giáo". Nói cách khác, đa số
người Trung Quốc thường nhận mình là Phật tử. Trừ những người đã
chính thức theo Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo v.v… biết rõ mình không phải
là Phật giáo, còn lại mọi người, bất luận là do tự mình hay là do
quan hệ bà con thân thuộc, đều cho rằng mình có ít nhiều gốc gác tín
ngưỡng Phật giáo. Điều đó có nghĩa là những người đã không phủ định
Phật giáo, không phản đối Phật giáo, thì đều là Phật tử cả. Vì vậy,
trong dân gian Trung Quốc, hàm nghĩa của khái niệm Phật tử rất là rộng
rãi. Nhân dân Trung Quốc đối với tín ngưỡng tôn giáo vốn có thái độ
phóng khoáng, bao dung, như đối với tín ngưỡng thờ các vị Thần Cây, Nước,
Gió, Mưa v.c… tín ngưỡng vật linh đối với cây cối, đá, tín ngưỡng
thần đạo đối với thần tiên hay nhân vật huyền thoại và lịch sử,
tín ngưỡng thần bí đối với quỷ thần v.v… họ đều tiếp nhận tất
cả.
Tất cả các loại tín ngưỡng đó tuy bị các nhà duy vật
và các nhà thần giáo phản đối, nhưng chúng vẫn lưu hành, tồn tại, tuy
nhiên chúng không phải là Phật giáo chính thống.
2) Sùng bái đa thần
Phật giáo du nhập Trung Quốc vào đời Tần, đời Hán.
Lúc bấy giờ, các loại tín ngưỡng dân gian đã tồn tại. Trong "Sở
từ" đã có các từ Hà Bá, Quỷ Núi v.v… Cho nên khi Phật giáo mới
vào Trung Quốc chẳng qua cũng chỉ là thêm một ông Thần phương Tây vào số
các vị Thần bản địa mà thôi. Thế nhưng, do kinh sách Phật được dịch
sang chữ Hán ngày càng nhiều, hình thành nên Hán tạng, trình bày rõ Phật
giáo khác biệt với loại tín ngưỡng dân gian phổ thông, những nhận thức
mới đó chỉ là của một lớp nhân sĩ trí thức có học Phật, chứ còn
người dân thường vẫn tiếp tục xem Phật, Bồ Tát không khác gì các vị
Thần dân tộc, các truyền thuyết, Tổ Thần v.v… Vì vậy, mà trong các tiểu
thuyết dân gian, các truyền thuyết, thần và Phật không khác gì nhau. Dân
chúng biết đến Phật, Như Lai, Quan Thế Âm là do các chuyện như
"Phong Thần", "Tây Du Ký", "Quan Âm đắc đạo" chứ
không phải qua trực tiếp nghiên cứu các kinh Phật.
3) Ông đồng, bà cốt
Các bộ "Kinh Hoa Nghiêm", "Kinh Địa Tạng"
tuy có ghi chép tên các Thiên Thần, Thổ Thần nhưng tín ngưỡng sùng bái
đa thần trong dân gian Trung Quốc không phải xuất phát từ Kinh Phật mà
là xuất phát từ các truyện Thần Phật giáng thế, thông qua truyện kể của
các ông đồng, bà cốt (linh môi), các truyện linh dị, cảm ứng mà một số
người biết được qua những phương thức như chim rút thẻ, bút thần v.v…
Từ miệng các ông đồng, bà cốt, từ linh môi, từ bút thần, ngoài danh
hiệu của Thần, Tiên, Thánh Hiền ra vẫn thường có danh hiệu Phật Tổ,
Như Lai, Bồ Tát. Đó là do trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc từ lâu đã
có pha tạp tín ngưỡng Phật và Bồ Tát. Thế nhưng mục đích sùng bái Phật,
Bồ Tát trong tín ngưỡng dân gian, không ở ngoài các việc cầu phước, tiêu
tai, cầu an, sống lâu, trị bệnh, làm giàu, có con cái, cầu kết hôn v.v…
đó là động cơ tôn giáo của tín ngưỡng dân gian. Cầu Phật, Bồ Tát như
vậy nhiều khi cũng được toại nguyện, bởi vì tất cả các Thiên Thần
đều ủng hộ Tam Bảo, và gia hộ cho những người tín ngưỡng Tam Bảo.
Cho nên, cầu Phật và Bồ Tát cũng được sự cảm ứng của các thiên thần
và chư thiên, được sự thương xót của chư Phật, Bồ Tát Quan Thế Âm rất
là đặc sắc và phổ cập. Cho nên, ở đây người ta thường nói : Nhà
nào cũng thờ A-Di-Đà, hộ nào cũng thờ Quan Thế A⭮
4) Tam Bảo : PHẬT PHÁP TĂNG
Thực ra các Phật tử phải dựa vào Tam Bảo, tức Phật-Pháp-Tăng
làm đối tượng trong nương tựa và quy ngưỡng, chứ không phải sùng bái
quỷ thần như trong dân gian thường làm. Do đó, sau khi thành đạo, Phật
Thích Ca, ban đầu độ cho người tại gia, hướng dẫn cho họ thọ tam quy.
Tam quy tức là quy y Phật Pháp Tăng. Phật là bậc đại giác, tự mình
giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí tuệ và phúc đức viên mãn. Pháp
là lời dạy của Phật nói ra, là đạo lý, phương pháp tu thành Phật. Tăng
là những vị xuất gia học Phật, cầu pháp, giúp Phật trong sự nghiệp độ
sinh, hoằng hóa. Phật Thích Ca lúc ban đầu thành đạo, chưa có tăng đoàn,
nói với hai đệ tử tại gia đầu tiên là Đề Vị và Bả Lợi Ca rằng :
Quy y Phật, quy y Pháp và quy y các vị Tỳ-kheo tăng tương lai. Có đầy đủ
tam quy mới thành người Phật tử chân chính.
Nếu chỉ tin Phật mà không tin Pháp, tin Tăng thì đó là niềm
tin mù quáng, sùng bái mù quáng, giống như tục sùng bái quỷ thần trong
dân gian.
Nếu chỉ nghiên cứu Pháp mà không tin Phật, tin Tăng, thì
cũng giống như học giả chỉ đọc sách, chuyên về học vấn, chứ không
có quan hệ gì đến niềm tin cả. Còn nếu chỉ quy y Tăng thì có khác gì
nhận cha nuôi, mẹ nuôi là tục lệ lưu hành trong dân gian. Chỉ có quy y đầy
đủ Tam Bảo, mới có thể học Phật, tu Pháp, kính Tăng.
Tăng là những người đại biểu giữ vững Phật Pháp. Vì
Tăng tu Phật Pháp, nên Tăng là người biểu trưng cụ thể cho Phật Pháp.
Khi Phật còn tại thế, cần có Tăng để truyền bá Phật pháp. Tăng là tổ
chức của những người xuất gia nên gọi là Tăng đoàn. Mỗi người xuất
gia là thành viên của Tăng đoàn, nên gọi là Tăng. Trong sự nghiệp giáo
hóa, Tăng đại biểu cho Tăng đoàn để độ thoát cho những người có
duyên với Phật Pháp. Do đó, Phật là nguyên tổ của Phật Pháp, Pháp là
căn bản của Phật giáo. Tăng là trung tâm của Phật giáo. Ba nhân tố đó
thiếu một thì không được. Ba nhân tố đó hòa hợp thì mới thành Phật
giáo hoàn chỉnh.
5) Các thứ bậc tôn giáo
Phật có Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai.
Phật ở thế giới này và Phật ở các thế giới khác, hợp lại gọi là
chư Phật ba đời mười phương. Những điểm căn bản của Pháp bảo gồm
5 giới : Sát, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, bao gồm mười điều
thiện : Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không nói chia rẽ, không nói ác, không nói phù phiếm, không tham, không giận,
không si v.v… Năm giới mười thiện là những thiện pháp của đạo đức
loài người và trời. Ở một bậc cao hơn là thiện pháp xuất thế. Ngoài
ra còn có thiện pháp các vị Bồ Tát đã chứng được giải thoát, nhưng
vẫn nhập thế vẫn sống giữa thế gian để độ chúng sinh.
Thứ bậc thứ nhất là Thiện pháp của loài người, loài
trời. Nói chung tôn giáo đều khuyên người làm điều thiện.
Còn thứ bậc hai là Thiện pháp xuất thế vượt khỏi cõi
Trời, người, vượt khỏi luân hồi sống chết của ba cõi là dục, sắc
và vô sắc tiến vào cảnh giới giải thoát, đó là thứ bậc của
A-la-hán, bậc Thánh của Tiểu thừa giáo.
Thứ bậc thứ ba gồm cả Thiện pháp thế gian và xuất thế,
không bị ràng buộc bởi sống chết nhưng vẫn không rời bỏ phạm vi sinh
tử, tự do tự tại ra vào cảnh giới sống chết, làm công tác độ thoát
chúng sinh, nhưng vẫn không chấp vào các tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ
giả. Đó là cảnh giới của Bồ Tát đại thừa.
Các Đức Phật khai thị, bày tỏ tất cả Pháp bảo. Còn tất
cả Tăng bảo thì tu học và hoằng dương tất cả các Pháp bảo. Tăng bảo
bao gồm tất cả Tăng Ni là phàm phu xuất gia, các bậc Thánh của Tiểu thừa,
tất cả các vị Bồ Tát thuộc Đại thừa. Tất cả mọi người nếu đã
thọ Tam quy thì dù ở trình độ nào, dù là ai cũng được tất cả Đức
Phật, Bồ Tát, các bậc Thánh, các cao Tăng dạy dỗ, gia hộ, bảo vệ và
được lợi ích.
6) Hưởng phúc ở cõi Trời
Do vậy, có thể thấy là nếu thực hành theo tín ngưỡng dân
gian lương thiện, hay là tín ngưỡng tôn giáo thần quyền, dù là đa thần
hay nhất thần, miễn là đừng có trái với đạo lý làm người và hợp với
điều kiện sinh lên cõi Trời đều có thể quy vào thứ bậc thứ nhất của
Phật giáo, thứ bậc của đạo đức loài người và loài Trời. Tức là dạy
người sống có nhân phẩm, làm hết trách nhiệm làm người, lại tu phúc,
thì sau khi mệnh chung, có thể sinh làm người hoặc lên cõi Trời. Do đó,
tu thiện pháp để sinh lên cõi Trời hay trở lại làm người, tốt hơn rất
nhiều so với những người tạo nghiệp ác, để khi mệnh chung phải đọa
vào các cõi ác như súc sinh, quỷ đói, địa ngục.
Thế nhưng, tuổi thọ của loài người ngắn ngủi, nhiều
nhất cũng khoảng 100 năm. Thọ mạng của loài Trời có dài hơn, nhưng khi
phúc báo hết cũng phải chết. Theo Phật giáo, loài Trời chia làm ba cấp.
Hai cấp loài Trời sắc giới và vô sắc giới đều do tu thiền định mà
thành. Cấp loài Trời thấp nhất thuộc dục giới, do tu phúc tu thiện mà
thành. Ở các cõi Trời Dục giới, từ cõi Trời Bốn Thiên Vương đến
cõi Trời Đao Lợi, cõi Trời Diệm Ma, từ Trời Đâu Suất,
cõi Trời Hóa Lạc, cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, tổng cộng có 6
cấp cõi Trời dục giới. Càng lên cao, thọ mạng càng dài, thấp nhất là
cõi Trời Tứ Thiên Vương, một ngày đêm ở cõi Trời này bằng 50 năm ở
nhân gian. Ở cõi Trời cao nhất là Tha Hóa Tự Tại Thiên, một ngày đêm
ở đây bằng 1600 năm ở cõi người, thọ mạng trung bình là 1 vạn 6000 năm.
Nhưng một khi phúc báo hết, những người ở các cõi Trời cũng phải mệnh
chung xuống làm loài người, thậm chí đọa xuống các cõi ác.
Được phúc báo ở cõi Trời và cõi người cũng như bắn
mũi tên, cao đến tột cùng tên lại rơi xuống mặt đất. Đây là do chưa
thoát khỏi sống chết luân hồi. A-la-hán đã thoát khỏi sống chết luân
hồi. Các vị Bồ Tát, tuy đã vượt qua khỏi ba cõi nhưng vẫn ra vào các
cõi người để độ chúng sinh. Chúng sinh ra vào sống chết là để thọ báo,
cũng như kẻ phạm tội vào tù để chịu hình phạt, còn quan tòa, người
phụ trách công việc cải huấn cũng ra vào tù, nhưng vẫn là người tự
do.
A-la-hán vĩnh viễn thoát khỏi sống chết luân hồi. Các vị
Bồ Tát tuy cùng với chúng sinh ở trong cảnh sống chết luân hồi, phiền
não nhưng không bị sống chết luân hồi chi phối, ràng buộc. Bồ Tát là
Phật tương lai. A-la-hán cũng có thể chuyển sang làm Bồ Tát. Phàm phu
chúng sinh cũng có thể theo gương các vị Bồ Tát phát tâm tu học pháp
môn Bồ Tát mà trở thành Bồ Tát.
7) Phật giáo chính tín
Các loại tín ngưỡng tôn giáo trong dân gian chỉ có thể
làm cho người có tín ngưỡng cầu sự gia hộ của Thần linh, chứ không
thể làm cho người ấy tự mình đứng dậy, tự cứu lấy mình và cứu người.
Tín ngưỡng Phật giáo không những làm cho Phật tử cầu đạo mà có cảm
ứng, hơn nữa tự mình làm cho được thanh tịnh và theo gương chư Phật và
Bồ Tát, cũng giúp người cứu người, để rồi cuối cùng thành Phật và
Bồ Tát. Trung Quốc là nơi hoạt động giáo hóa của Phật giáo Đại thừa.
Người tín ngưỡng Phật giáo là các đệ tử của Tam Bảo, học Phật tu
Pháp, kính Tăng. Phật là bậc tu hành Bồ Tát đến chỗ hoàn thiện, viên
mãn. Hạnh Bồ Tát là khuôn phép độ thế của Phật giáo. Tăng là vị đại
biểu giữ vững, duy trì Phật Pháp ở thế gian.
Hành vi tôn giáo trong tín ngưỡng dân gian tuy có giá trị
và công năng tồn tại, nhưng vì không có giáo nghĩa làm chuẩn mực, không
có giáo đoàn để ràng buộc, lại không có người hướng dẫn giảng dạy,
chỉ dựa vào những phương thức như ông đồng, bà cốt, linh môi, bút thần
v.v… nếu làm tốt thì phù hợp với phong tục tốt đẹp, nếu làm không
tốt thì sẽ phá hoại phong tục tốt đẹp, làm hư hỏng nhân tâm. Phật
giáo thì không như vậy. Phật giáo có một lịch sử lâu dài, có giáo nghĩa
và giáo nghi thứ bậc phân minh, có giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở Ấn
Độ cách đây 2600 năm, có giáo đoàn và các pháp sư truyền nhau từ đời
này sang đời khác. Phật Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thực. Đó
là Phật bảo. Giáo nghĩa và giáo nghi của Phật giáo là Pháp bảo. Chỉ
có những người tín ngưỡng và quy y Tam Bảo mới là những Phật tử
chân chính.
Giới thiệu
| 1 | 2
| 3 | 4
| 5 | 6
| 7 | 8
| 9 | 10
|