- HỌC PHẬT QUẦN NGHI
- (Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
- Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
- Phân Viện Viên Cứu Phật Học dịch
48Làm
thế nào để phân biệt kinh Phật thực hay giả? [^]
Vấn đế thực hay giả của kinh Phật có thể được bàn
trên hai phương diện : thứ nhất là có những kinh được phiên dịch, nhưng
không ghi rõ ở đời nào và ai dịch. Thứ hai là có những kinh Phật được
truyền lại qua lời ông đồng, bà cốt, qua người nằm mộng v.v… Loại
thứ nhất là kinh Phật chính thức, không có gì trái với Phật Pháp. Loại
kinh thứ hai rõ ràng là giả mạo, là sản vật của tín ngưỡng dân gian.
Trong thời kỳ đầu của lịch sử Phật giáo AᮠĐộ,
trong hàng học giả có nêu thuyết kinh Đại Thừa không phải là do Phật
thuyết, vì các kinh Đại Thừa xuất hiện và lưu truyền hàng mấy trăm
năm sau khi Phật nhập diệt. Thế nhưng Phật giáo Đại thừa có căn cứ
"Trong Phật giáo nguyên thủy" và về mặt tư tưởng thì được đề
cao, từ phạm vi nhân gian mở rộng đến chỗ vô hạn. Có thể nói, đối
tượng của kinh điển Đại thừa là Bồ Tát.
Thế nhưng, kinh điển Đại thừa tuyệt đối không tách rời
những nguyên lý căn bản của Phật Pháp nguyên thủy, dựa vào lý nhân
duyên mà giảng các thuyết không, vô, thực tướng, vô tướng, dựa vào
lý nhân quả để giảng các thuyết hữu, chân hữu, diệu hữu. Kỳ thực,
đó là hai mặt của một thực thể. Không và hữu không tách rời nhau. Đó
là chỗ tận cùng của lý nhân duyên và nhân quả, vì vậy, giáo Pháp Đại
thừa, dù là do Phật nói hay không, hay là do Bồ Tát nói, hay do chúng sinh
nào khác nói đều phải dựa vào tiêu chuẩn có phù hợp với nguyên lý căn
bản của Phật Pháp hay không mà xác định. Còn loại kinh thứ hai là sản
vật của tín ngưỡng dân gian là do quỷ thần ngoại đạo truyền thọ,
thường là những bộ kinh ngắn, như "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh",
"Huyết Bồn Kinh", "Thái Âm Kinh", "Thái Thượng Cảm
Ứng Thiện". Có kinh gần với Phật, có kinh gần với đạo. Có kinh
dung hợp cả Phật, Lão và Nho. Các loại kinh đó theo tiêu chuẩn đạo đức
nhân gian mà giáo hóa, khuyến thiện, dạy ân nghĩa cho nên đều có tác dụng
nhất định.
Vì vậy, tuy không phải là chân kinh mà là ngụy kinh nhưng
vẫn được các Phật tử trong dân gian truyền tụng và chúng không có hậu
quả gì xấu.
Ngoài ra cũng có những ngụy kinh thuộc loại thứ hai mà nội
dung đi ngược lại lý nhân quả và quan điểm nhân duyên. Những loại kinh
đó giảng về lý thì phủ định lý nhân quả, giảng về hữu thì đắm
trước chuyện thế sự, lẫn lộn Phật, Bồ Tát với quỷ thần nhập cục
làm một. Đó là lý luận gọi là "ngũ giáo hợp lưu", "tam giáo
bình đẳng", "Phật Phật đồng đạo, đạo đạo tương thông"
v.v…
Thực ra, chúng bác cả Phật, bác cả Nho, cả Lão, bác cả
Gia Tô và Hồi giáo. Tuy chúng cũng dùng kinh Phật và giải thích kinh Phật
nhưng chúng bao giờ cũng có một cuốn "Chân Kinh" làm căn bản, gọi
là được Thần Khải thị. Loại "Chân Kinh" này không phải là
kinh Phật, chỉ là mạo danh kinh Phật.
Lại còn một loại nữa, do một số người tạp tu, nắm bắt
được một số kinh nghiệm thần bí, cảm ứng được quỷ thần. Rồi để
tìm căn cơ nhằm mục đích giáo hóa và lôi kéo tín đồ, họ cũng đọc
kinh Phật, giải thích kinh Phật. Nhưng thực ra, họ dựa vào chuyện hiểu
biết sai lầm của họ để giải thích tùy tiện kinh Phật, nhưng mục đích
của họ là lừa kinh phản đạo, hủy báng chính pháp. Đó là điều mà
các Tổ sư xưa nay nói : "Lìa Kinh một chữ, là giống như Ma nói".
Dựa vào điều trên đây, nếu muốn phán đoán là kinh Phật
hay không phải là kinh Phật, tốt nhất là tra cứu mục lục kinh tạng
trong Đại tạng. Nếu có trong mục lục thì dù có bị xếp loại "nghi
ngờ" đi nữa, thì cũng thuộc loại có thể tin, có thể đọc. Nếu không
có trong mục lục kinh, thì phải xem nội dung có phù hợp với nguyên lý cơ
bản của Phật pháp hay không ? Cuối cùng, ngoài những sách Phật, sách giải
thích kinh thuật lại những lời đạo đức xa xưa thì tốt nhất ít đọc
những sách không phải là sách Phật là an toàn hơn cả.
49
- Phật giáo thích ứng như thế nào với yêu cầu tín ngưỡng của dân
gian ? [^]
Tín ngưỡng dân gian là những hoạt động tôn giáo có
liên quan đến phong tục tập quán của nhân dân và cũng là những hiện tượng
tôn giáo của những hình thái nguyên thủy đã được phát sinh và phổ biến
trong dân tộc các nước, từ khi bắt đầu có nền văn hóa loài người.
Để cởi mở những rối răm, thắc mắc trong lòng, những tranh chấp cãi cọ
trong gia đình và xã hội, những khổ cực của hoàn cảnh tự nhiên mà nhất
thời con người với tài năng, hiểu biết của mình không sao giải quyết
nổi, nên họ buộc phải cầu xin sự chỉ dẫn, giúp đỡ, bảo hộ của
quỷ thần, phải dùng biện pháp xin xăm, bói toán, lên đồng, gọi hồn
người chết, bói chim, tổ chức tế đàn v.v… nhằm đạt tới mục đích
cảm thông với quỷ thần. Xét theo lập trường của Nhất thần giáo thì
tất cả những hành vi đều là mê tín dị đoan và tà thuật, Phật giáo
không bao giờ chủ trương như vậy.
Tín ngưỡng dân gian là thờ nhiều thần lẫn lộn. Từ đời
Tống về sau, cả ba tôn giáo Nho-Phật-Lão đều tồn tại cùng nhau, người
ta không phân biệt Thần, Tiên, Phật và Bồ Tát. Từ cuối đời nhà Thanh
và bắt đầu từ thời Dân quốc đến nay, lại có thêm hai tôn giáo nữa
là đạo Gia Tô và đạo Hồi, gọi là 5 giáo cùng một gốc. Người ta thông
qua những con người và những dụng cụ như ông đồng, bà cốt, phù thủy,
đàn bói chim, xin xăm, gieo tiền v.v… mời những quỷ thần vô danh tự xưng
là Thần này, Tiên nọ, Bồ Tát nọ, đến để chỉ bày, thỏa mãn những
lời cầu nguyện của họ. Dần dần Phật giáo cũng bắt đầu đề ra một
số pháp môn, phương tiện nhằm thích ứng với yêu cầu tín ngưỡng của
dân gian. Điều khác nhau là Phật giáo lấy lý tính làm chủ đạo, lấy tu
thiện, tích đức sám hối, tụng kinh để đạt tới mục đích yêu cầu của
mình. Tín ngưỡng dân gian lấy sự ỷ lại mù quáng và hành vi nhờ quỷ
thần để đạt đến hy vọng của mình. Đối với người tín ngưỡng thần
giáo thì điều này cũng có mục đích và tác dụng như vậy, chẳng qua là
họ lấy thần duy nhất làm đối tượng cầu xin. Tín ngưỡng dân gian cũng
lấy những giáo chủ các tôn giáo làm các vị Thần để sùng bái. Điều
khác nhau là các tôn giáo lớn đều tuyên truyền phổ biến kế thừa Giáo
chủ, lịch sử tôn giáo, giáo lý, nghi thức tôn giáo của mình, còn tín ngưỡng
dân gian thì sùng bái đa thần chắp vá, vá víu cái này cái kia.
Khảo sát về lịch sử văn hóa loài người thì thấy tín
ngưỡng dân gian tùy thuộc hình thái tôn giáo của dân tộc nguyên thủy, cần
thiết cho nhược điểm của thân và tâm loài người. Mặc dù bị Cơ đốc
giáo thanh lý, thanh toán ngót gần 200 năm, nhưng vết tích tín ngưỡng dân
gian vẫn tồn tại ở mọi nơi, mọi chốn. Do vậy, đứng trên lập trường
Phật giáo cũng nên có sự bao dung thích đáng nhưng nếu theo yêu cầu của
tín ngưỡng dân gian mà giảm thấp mức độ tín ngưỡng Phật giáo, thậm
chí còn xem các loài quỷ thần của tín ngưỡng dân gian như là hóa thân
và tái hiện của Đức Phật và Bồ Tát thì sẽ làm cho Phật giáo chỉ
có danh, không có thực, và cũng sẽ bị phê phán và chỉ trích về mặt
lý tính. Vì vậy, các chùa chiền và viện Phật giáo chính thống không
nên thờ phụng đủ mọi pho tượng các loại Thần để tránh nhiễm sắc
thái của tín ngưỡng dân gian khỏi bị hiểu lầm thờ đa thần là Phật
giáo. Phật giáo là cùng một loại với tín ngưỡng dân gian.
Phật giáo đáp ứng với đông đảo quần chúng xã hội như
thế nào ? Thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng dân gian như thế nào ? Điều đó
nên chú trọng đến công năng của tín ngưỡng đối với chư Phật và Bồ
Tát, hoặc là nêu bật hiệu nghiệm của Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Địa Tạng
không nơi nhỏ nhặt nào mà không đến, không nơi xa xôi nào mà không tới,
không thời gian nào mà không ứng nghiệm. Bồ Tát Quan Thế A⭠có sự linh
cảm rất lớn, cứu khổ, cứu nạn, đại từ đại bi. Phật A-Di-Đà là bậc
vương y vô thượng và vô lượng thọ và vô lượng quang. Các chư Phật, Bồ
Tát đó có thể khiến cho con người đã cầu xin thì được ứng nghiệm,
cầu trường thọ thì được trường thọ, cầu trí tuệ thì được trí
tuệ. Thích Ca Mâu Ni là một trong ngàn vạn hóa thân của Phật Lô-xá-na,
Ngài là giáo chủ của thế giới Ta bà, là đạo sư của người và Trời,
là ngọn đèn sáng rọi chiếu trong đêm dài dằng dặc, là con thuyền từ
bi trong bể khổ. Tất cả chư Phật đều có thể ở mọi thời gian, mọi
nơi, để cứu giúp chúng sinh. Tất cả mọi Bồ Tát đều có 6 phép thần
thông rồi tùy thời, tùy nơi, tùy từng loài mà nhiếp phục hóa độ, ứng
với mọi sự cầu khẩn hợp lý của tất cả mọi chúng sinh. Như vậy là
từng người lựa chọn một đức Phật nhất định, hoặc một vị Bồ Tát
hoặc một pháp môn và kinh chú riêng biệt là có thể dễ dàng đạt tới
mục đích yêu cầu tín ngưỡng của mình.
Ngoài ra còn có thể tiến lên một bước do tôn giáo tín
ngưỡng dân gian mà nhập vào cảnh giới lợi mình, lợi người, giải thoát
tự tại.
Mật giáo trong Phật giáo có nhiều phương pháp tu luyện
có những mục đích khác nhau, và giai đoạn khác nhau. Tông Thiên Thai ở
Trung Quốc và Tông Hoa Nghiêm cũng có nhiều nghi thức lễ sám hối và con
đường tu chứng khác nhau, căn cứ vào đấy mà tu trì các pháp môn đã
được nêu lên nhưng điều đó khác với việc sùng bái đa thần của tín
ngưỡng dân gian. Theo dõi nguồn gốc của Phật Pháp thì không nên đòi hỏi
nhiều con đường. Đức Phật nói vô lượng pháp môn, bất kỳ pháp Phật
môn nào mà chuyên tâm tu trì là có thể tổng hợp nắm vững tất cả các
pháp. Do vậy mà kinh Lăng Nghiêm có 25 pháp môn viên thông bất kỳ pháp
môn nào đều giống như mọi pháp môn. Kinh Duy Ma cũng nêu rõ chỉ có một
pháp môn thôi, nếu không là rất dễ dàng lẫn lộn với tín ngưỡng dân
gian, nhập cục làm với tín ngưỡng đa thần, khiến người ta có một ấn
tượng không phân biệt giữa thần và Phật.
Làm một Phật tử mà muốn thỏa mãn những nguyện vọng
khác nhau rồi thường xuyên đổi phương pháp tu hành và đối tượng sùng
bái thì sẽ có thể mất đi mục tiêu trung tâm. Người Phật tử chân
chính tin vào Tam Bảo là để học Phật, để tu hành, là để học đức từ
bi và trí tuệ của Phật, lấy sự chỉ đạo chính xác của Đức Phật để
tu hành một pháp môn duy nhất nhằm đạt tới mục tiêu nhất quán là giữ
giới, tu định, phát sinh trí tuệ. Chỉ cần không tách rời nguyên tắc
Tam Bảo đêm ngày xem Phật Pháp, làm phận sự, giữ giới, bố thí, tụng
kinh, sám hối.
Làm như vậy tuy không cần lợi ích hiện thực vẫn có thể
đạt được trong cuộc sống hàng ngày của mình.
50 -
Trốn tránh và từ bỏ có gì giống nhau ? [^]
Thông thường người bắt đầu học Phật phải có lòng
chán ghét, muốn từ bỏ mới có thể thể hội một cách đúng đắn tầm
quan trọng của sự cần thiết phải tu hành Phật Pháp. Chán ghét, từ bỏ
cái gì ? Đó là tất cả những mâu thuẫn, những cọ sát dày vò, nẩy
sinh từ sinh lý của mình, từ mối quan hệ giữa người với người, từ
hoàn cảnh tự nhiên gây nên rất nhiều phiền não đau khổ. Nếu có thể
làm biến chuyển được thì khi cảm nhận những hiện tượng đó, không
nên chán ghét, từ bỏ vì không có vật nào có thể chán ghét và cũng không
có nơi nào có thể từ bỏ được. Do đó, chán ghét, từ bỏ là bước đầu
tiên để tu tập Phật Pháp có nghĩa là biết khổ để cầu từ bỏ cái
khổ.
Con người thông thường vẫn cho rằng chán ghét, từ bỏ mối
quan hệ giữa người và người, hoàn cảnh cuộc sống tức là phủ định
giá trị và ý nghĩa con người. Thật ra thì trái hẳn lại. Chính vì muốn
nâng cao giá trị và ý nghĩa của con người mới có thể tạm thời chán
ghét, từ bỏ. Cũng như người đi buôn, xuất ngoại đi buôn là để kiếm
tiền nuôi sống gia đình, duy trì kế hoạch gia đình. Con cái xuất ngoại
học tập cũng là để học nhiều tri thức và kỹ thuật hơn để sau này
lập gia đình, lập nghiệp lợi cho mình và lợi cho người khác. Vì vậy,
chán ghét và từ bỏ mà Phật Pháp nói là quá trình sơ bộ để tu hành chứ
không phải mục đích cuối cùng.
Trốn tránh thì không phải như vậy. Trốn tránh là không
muốn gánh vác trách nhiệm mà mình nên gánh vác, là không dám sống cuộc
đời hiện thực mà trốn nợ, thậm chí còn có tâm trạng muốn lánh xa
hoàn cảnh mà mình đang ở.
Loại người như vậy, cũng giống kẻ phạm tội ở trong
trạng thái chạy trốn, trong lòng luôn lo sợ, không tự tại không an toàn
chịu đựng lâu dài áp lực của tâm lý, không nơi nào dung thân được.
Điều đó hoàn toàn khác với việc tu hành Phật Pháp chính tín, chán ghét
thế gian phiền não. Nếu chán ghét phiền não thì dần dần có thể rời bỏ
phiền não, rời bỏ được một phần phiền não thì có thể được một
phần giải thoát và tự tại. Trình độ tự tại càng sâu thì phiền não
càng nhẹ bớt đi rồi cuối cùng được giải thoát. Nếu đã được giải
thoát thì tất nhiên không còn vấn đề chán ghét, từ bỏ, hay không chán
ghét và từ bỏ nữa.
Trốn tránh không thể giải quyết được vấn đề. Trốn
tránh là biết khổ nhưng không đương đầu với cái khổ, ngược lại có
nghĩa là trốn tránh cái khổ. Chán ghét, từ bỏ là biết khổ, tránh cái
khổ, do vậy mà học Phật để thoát khổ. Trốn tránh vừa làm ngược lại
quy luật nhân quả mà Phật Pháp nói, là điều mà Phật không cho phép
làm. Chán ghét, từ bỏ cũng không nhất định phải tách rời con người
trong thế gian mà phải thấu hiểu nguyên tắc chỉ đạo của Phật Pháp,
phương thức tu hành, phải có nhận thức triệt để đối với hiện tượng
thế gian. Bộ sách "Trung quán luận tụng" có viết : Pháp mà nhân
duyên sinh ra tôi gọi đó là không. Trước hết là chán ghét, từ bỏ thế
gian, kết quả là biết rằng chư pháp đều là không huyễn, không gây nên
phiền não chấp trước, và cũng không cần chán ghét và từ bỏ. Thế nhưng
chỉ thông qua tri thức thì vị tất có thể từ bỏ cái khổ được. Vì vậy
tạm thời rời bỏ hoàn cảnh thế tục luôn tu trì tam học của Phật
Pháp là giới, định, tuệ mới dễ dàng rời bỏ thế tục xuất gia, nhưng
xuất gia là công việc của kẻ đại trượng phu, nhiều người trong thế
gian khó mà làm được. Bởi vì, thứ nhất người thường không biết
chán ghét, từ bỏ. Thứ hai, nhiều người tuy biết chán ghét, từ bỏ nhưng
không biết cách nào để chán ghét, từ bỏ."
51-Cá
nhân tự tu và tập thể cùng tu có gì khác nhau? [^]
Thường nghe nói "Thà ngủ trong một miếu lớn, còn hơn
là hành đạo trong một miếu nhỏ". Điều đó cũng có nghĩa là cá
nh6an tu hành khác với tập thể tu hành. Tu hành dưới sự chỉ đạo của
một ông thầy sáng suốt (minh sư) cùng với tự tu không có thầy nào là
hoàn toàn khác nhau.
Cá nhân tu hành cần phải tiến hành sau khi thông hiểu phương
pháp tu hành. Hơn nữa cần phải biết giải quyết như thế nào những vấn
đề nghi hoặc và khó khăn, phiền toái nảy sinh ở thân tâm và kiến thức
(tri kiến), nếu không thì không những không có ích gì mà ngược lại còn
có hại. Đặc biệt là tu thiền định, tiến hành tinh tiến, dũng mãnh có
thể xảy ra các loại bệnh thiền định và ma chướng. Đó là những thay
đổi bất thường về mặt tâm sinh lý. Cho nên, người mới học không
nên tu hành đơn độc.
Tu hành tập thể tuy không có thầy sáng suốt (minh sư) chỉ
đạo nhưng còn có những người cùng tu quan tâm săn sóc, giúp đỡ sửa chữa
cho nhau, chỉ cần hiểu biết một cách đúng đắn thì không thể phát sinh
những vấn đề quá lớn.
Hơn nữa, cá nhân tu hành rất dễ dàng trở thành nóng lạnh
không đều nhau. Khi thì dũng mãnh tinh tiến, khi thì lười biếng, sa đà,
đó là vì không có người kiếm chế, không có quy chế đề ra cho cuộc sống
của đại chúng. Dũng mãnh bốc đồng có thể dẫn tới cả thân và tâm mệt
mỏi rồi sinh ra thiền bệnh, lười biếng, sa đà khiến cho bản thân bỏ
việc tu hành, bỏ mất tâm tu đạo. Nếu quá mấy lần nóng lạnh thì có
thể mất lòng tin. Nếu tu hành trong một đoàn thể, thì có sự ràng buộc
của cuộc sống chung với nhau, lại được những người cùng tu giúp đỡ,
khiến cho người ta tiến bộ, nên tương đối an toàn.
Xét về cái tâm con người thì cái tâm của cá nhân hết sức
có hạn, người mới tu hành, không có cách nào tạo ra một không khí đạo
trường để tu hành. Nếu có thể kết hợp với nhiều người cùng tu
hành, có cùng một phương thức như nhau, cùng một tâm trạng như nhau, một
mục tiêu như nhau có một thời gian làm việc nghỉ ngơi như nhau để tu hành
thì có thể gây nên một không khí đạo tràng tu hành. Thậm chí chỉ cần
một người tu hành thường xuyên cũng có thể làm cho toàn thể vào đúng
quỹ đạo. Nếu quá nửa số người ở vào trạng thái bình thường cùng
thông cảm nhau, cùng hòa hợp nhau thì có thể mỗi cá nhân được lực lượng
toàn thể người tu hành ủng hộ. Nếu 10 người tham gia thì mỗi cá nhân
có thể được sự ủng hộ của 100 người. Do vậy, Phật giáo tán thành
việc tu hành tập thể là quy định thông thường đối với người mới
tu học.
Người đã tu hành lâu mà tham gia vào việc tu hành tập thể
cũng đều có ích. Vì vậy, khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, thường
có trên 1000 đệ tử tham gia vào cuộc sống tăng đoàn. Trong lịch sử Phật
giáo Trung Quốc, dù là tông phải nào phần lớn những nhân tài lỗi lạc
tham gia tu hành tập thể. Thí dụ như tổ thứ 4 Thiền Tông là Đạo Tín,
ông tổ thứ 5 là Hoằng Nhẫn, tổ thứ 6 là Huệ Năng, cho đến các đại
sư Mã Tổ Đại Nhất, Bách Trương Hoài Hải. Môn đệ của các Ngài đều
là những nhân vật lỗi lạc xuất sắc, hợp thành những đoàn tăng lữ
đông đến 400, 500 người, trên 1000 người. Vì vậy mà các chùa, viện của
Thiền Tông được gọi là Đại Hải Tùng Lâm.
Căn khí của người tu hành tuy lớn, nhỏ, sắc, cũng khác
nhau, nếu bị thoái hóa, sa sút, không bình thường thì có thể bị nước
biển đẩy dạt ra ngoài. Cây trong rừng tuy có cây lớn, cây bé khác nhau,
cây thì thô, cây thì nhỏ nhắn khác nhau nhưng không có cây nào lại không
mọc vươn lên. Nếu không thì không tiếp nhận được mưa móc, ánh sáng mặt
trời và sẽ bị đào thải một cách tự nhiên.
Do vậy, có thể thấy rõ tu hành một cách đơn độc là
điều không nên bắt đầu đối với người bắt đầu tu học.
52
- Những bậc đại tu hành có nhất thiết phải đóng của hay không ? [^]
Danh từ đóng cửa không có ở Ấn Độ, ở Trung Quốc mãi
đến sau đời nhà Nguyên, thậm chí đến đời nhà Minh mới thấy có ghi
phương thức tu hành đó. Do vậy có thể thấy những bậc đại tu hành
không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, những người đóng cửa
không nhất thiết là những bậc đại tu hành.
Đóng cửa là có thể bắt nguồn từ việc tu luyện lâu
dài ở trong hang động của Phật giáo Tây Tạng. Rồi khi Lạt Ma giáo từ
triều vua Mông Cổ truyền vào nội địa Trung Quốc thì phương thức đóng
cửa mới dần dần được thịnh hành.
Về phương pháp tu hành thì có những khóa học có thời
gian nhất định, có phương pháp, có giai đoạn nhất định. Thí dụ như 7
ngày, 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày v.v… đúng kỳ hạn để lấy chứng nhận.
Chuyên tâm tu hành một pháp môn nào đó, nếu hoàn cảnh cho phép, nếu cần
thiết thì học kỳ có thể kéo dài một năm, 3 năm, đến 6 năm, 9 năm, mười
mấy năm, nhưng không nhất định cá nhân phải đơn độc tu hành. Thí dụ
như trong Kiết hạ an cư ở thời đại Phật Thích Ca, thời kỳ tu thiền
có 2 mùa là mùa đông và mùa hạ. Trên lục địa Trung Quốc, có rất nhiều
người tu tập nhau lại để tu hành. Các tổ sư phái Thiên Thai đặt ra các
phương thức sám hối, nghi thức và tất cả đều cùng kết hợp với 6 người,
7 người, mười mấy người để tu hành. Trong thời kỳ kiết hạ an cư, lúc
Đức Phật còn tại thế, người ta cũng tiến hành tu hành trong khuôn khổ
phạm vi nhất định hoặc ở dưới cây hoặc ở trong hang động, hoặc
trong những căn nhà trống không của các cư sĩ nhưng tất cả đều không
phải như phương thức tu hành đóng cửa như hiện nay.
Ở Trung Quốc vào thời kỳ đầu cũng có một số thiền sư
sau khi đã "ngộ" được, các thiện tri thức căn dặn đến bờ sông
dưới cây, vào rừng núi, hang động để đơn độc tu hành trong một số
năm. Thí dụ nổi bật nhất là Chung Nam Sơn, ở đấy đã có 72 nhà làm bằng
cỏ tranh. Trước tiên đây là nơi cá nhân tu hành, về sau dần dần dựng
lên những chùa và viện, nhưng nếp sống nhà ở tranh vẫn mãi mãi tồn tại.
Ở nhà cỏ tranh là tự trang bị lấy dụng cụ nấu ăn và các loại thức
ăn rau cỏ, vào núi chặt gai góc, bện cỏ tranh để làm nhà tránh gió mưa,
xa lánh người trong một thời gian dài. Song phương pháp tu hành như vậy,
tuy giống như phương pháp đóng cửa nhưng không phải là đóng cửa. Gần
đây có hai loại người tu hành theo phương pháp đóng cửa :
1. Những người muốn tránh xa sự quấy nhiễu của công việc
thế tục.
2. Những người tu thiền muốn tinh tiến hoặc chuyên tâm
nghiên cứu kinh tạng. Loại người đầu, giống như kẻ tu hành sống ẩn
dật. Loại người thứ hai mới đúng là những người tu hành chân chính.
Nếu chỉ vì tu dưỡng thì cần có nhiều tiền hoặc được ngoại duyên
giúp đỡ trợ lực thì có thể được. Sau khi đóng cửa mà không biết phương
pháp tu hành, cũng không hiểu cách thức nào, biện pháp nào để đi vào
Kinh tạng thì tuy có đóng cửa 3 năm, 5 năm cũng không đạt được thành tựu.
Nếu vì để tu thiền và đọc Kinh tạng, mà đã sẵn có cơ sở công phu
tu thiền và đã nắm được cách thức, biện pháp đi vào Kinh tạng thì cũng
có thể đạt được nếu không thì thành tựu không lớn lắm.
Nói về định nghĩa của những bậc đại tu hành thì đó
phải là những người toàn tâm, chuyên chú tu hành, ít nhất là những người
mà mắt và lòng đã được khai thông, nhưng không lộ ra bên ngoài, nhẫn
nhục, chịu đựng chịu khó, chịu nhẫn nhục những điều mà người khác
không vứt bỏ được, tâm của họ tuy trong sáng như gương nhưng không biểu
lộ ra ngoài, nói năng hành động tuy ngốc nghếch, khờ dại, nhưng thật
ra thì rất sáng suốt, từ bi. Ngày nào đó mà nhân duyên thành thục thì
có thể trèo lên cao hô một tiếng là vạn nghìn hòn núi đều tương ứng,
độ cho chúng sinh thì không ai so sánh được mà không hề để lại vết tích.
Nếu nhân duyên chưa thành thục, tuy sống cả cuộc đời mà không hề giảm
bớt ánh sáng của sinh mạng mình. Như Hàn Sơn, Thập Đắc, Phong Can đều
là những bậc đại tu hành. Nếu những người tốt sau này mà không sưu tầm
những bài thơ, những câu kệ của họ để lưu truyền cho hậu thế thì
ai mà biết được rằng trong lịch sử đã từng có những nhân vật như vậy.
Tỉ dụ như Mạnh Tử nói : "Thành công thì làm thiện cho thiên hạ,
cùng quẫn thì riêng mình sống thiện". Điều này rất giống như Phật
giáo nói là những bậc đại tu hành quan tâm săn sóc và đưa lại ánh
sáng cho người ta. Do vậy, bậc đại tu hành có thể đóng cửa và cũng có
thể không nhất thiết phải qua quá trình và hình thức đóng cửa. Nếu
nhân duyên cho phép, nếu cần thiết thì đóng cửa cũng là một trong những
phương thức tu hành tối ưu để loại bỏ những sự việc phức tạp, đoạn
tuyệt với ngoại duyên.
53 -
Lựa chọn minh sư như thế nào ? [^]
Hàn Dũ đã từng nói : "Nghề học phải chuyên nhất."
Do đó học tập pháp môn nào đều phải lựa chọn các bậc minh sư có
chuyên môn giỏi, độc đáo, tinh thông về các mặt học vấn nghệ thuật
và giáo lý Phật học. Mặc dù minh sư không nhất thiết phải từ cửa
minh sư mà trưởng thành ra, trong số đệ tử của minh sư không nhất thiết
xuất hiện những đệ tử xuất chúng. Nhưng khi đi tìm minh sư thì tối
thiểu họ cũng không được nhầm phương hướng, dạy sai yếu lĩnh, phải
đảm bảo an toàn, chắc chắn chứ không thể như "người mù chỉ lối
cho người mù".
Vậy ai là minh sư ? Thường thường thì không có cách nào
mà biết được điều đó. Đặc biệt là theo kinh nghiệm của tôn giáo
và khi khổ công tu thiề, khi bản thân chưa nhập môn thì không có cách
nào phán đoán được ai là minh sư và ai không phải là minh sư. Thế nhưng
minh sư không nhất thiết phải nổi tiếng, nhưng người minh sư được quần
chúng công nhận thì đáng tin cậy hơn so với người tự xưng là minh sư mà
chưa được đông đảo quần chúng công nhận. Hoặc các bậc thầy tuy chưa
nổi tiếng nhưng được các bậc thầy đã nổi tiếng giới thiệu là minh
sư cho mình thì đó là điều đáng tin cậy. Như kinh "Hoa Nghiêm"
có nói : "Phương thức thiện tài đồng tử tham gia về việc chất vấn
53 vị thiện tri thức thông qua một vị giới thiệu một vị đã hình
thành mối quan hệ liên tục đối với 53 vị sư. Vì vậy, các thiện tài
đồng tử tuyệt nhiên không phải công nhận các bậc thầy một cách mù
quáng".
Bất kỳ thời đại nào trên thế gian này đều có những
nhân vật tự xưng là tôn sư của thời đại. Họ dùng những lời yêu
quái để mê hoặc quần chúng, lẫn lộn trắng đen, nghe thấy lung tung, thu
nạp đông đảo các đệ tử phô trương thanh thế. Nếu không phân biệt
rõ thì rất có khả năng lấy tà sư khét tiếng làm minh sư. Vì vậy, Mạnh
Tử cũng nói : Tai họa lớn nhất của con người là "thích làm thầy
người ta". "Bởi vì những tà sư này có tác hại hướng dẫn lệch
lạc lương tâm xã hội, khiến cho con người nẩy sinh nhiều sự quấy nhiễu
không bình thường, nghi hoặc bất an. Do vậy, mà theo họ, học tập những
tà pháp, tà thuyết và tà thuật thì chẳng những không mở mang được cảnh
giới nhân sinh mà ngược lại còn mang tác hại cho thân tâm mình, gia đình
mình bất hòa. Chỉ đáng tiếc là những người bình thường rất khó mà
phân biệt được cái thật, cái giả, cái tà, cái chính của những người
này.
Xét theo lập trường của Phật Pháp thì tiêu chuẩn về
cái tà, cái chính, cái tối, cái sáng đều phải được khảo sát, thí
nghiệm ở trung tâm cái tôi của mình. Nếu con người còn mang nặng sân,
si thì nhất định không phải là minh sư. Lại có người tuy bề ngoài thì
biểu hiện nhân từ, vẻ mặt phúc hậu, tươi tắn, đạo mạo trịnh trọng
nhưng lại là kiêu căng, ngạo mạn thì cũng nhất định không phải là
minh sư. Về việc tìm minh sư, "Đại trí độ luận" cuốn 4 đã
nêu lên 4 điều trọng yếu gọi là tứ y pháp "4 chỗ nương tựa".
1) Dựa vào pháp không dựa vào người : Minh sư không tự
cho mình là trung tâm, cũng không lấy cá nhân nào đặc biệt làm quyền lực
mà lấy nguyên tắc, quy luật chung là tiêu chuẩn Pháp của Phật giáo là
pháp nhân duyên, pháp nhân quả. Nếu đạo lý và những điều khêu gợi của
vị thầy nào trái ngược với phép tắc nhân quả và nhân duyên thì không
phải là minhh sư. Bởi vì, nhân quả đòi hỏi chúng ta phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Nhân duyên là dạy chúng ta không được khởi
tâm chấp trước tham, sân. Không thì tuy được đông đảo mọi người tôn
là Thánh cũng không khác gì tà sư.
2) Dựa vào nghĩa không dựa vào lời : Phàm là phép tắc
chân chính thì nhất định tung ra bốn biển đều đúng, từ xưa tới nay
đều giống như nhau, không phải vì bối cảnh dân tộc, khu vực, văn hóa
khác nhau mà sai biệt khác nhau. Nếu cho rằng do sự cấm kỵ về tôn giáo
hoặc có sự bí mật trên ngôn ngữ mà không phải chính pháp là không đúng.
Chính pháp nên chú trọng đến sự cảm thông về nghĩa lý chứ không được
câu nệ trên sự dị biệt trên ngôn ngữ. Tỉ dụ, nếu nói người theo đạo
Hồi chú trọng đến chữ Ả rập, người Do Thái chú trọng đến chữ Hêbơrơ
thì xét về chuẩn tắc là khác nhau. Người theo đạo Phật chú trọng đến
chữ Phạn, Pàli là để nghiên cứu những kinh điển nguyên thủy, để
truy tìm nguyên nghĩa chứ không phải nói chữ Phạn và chữ Pàli có thần
lực và thần thánh gì đặc biệt. Tất nhiên Ấn Độ giáo chú trọng đến
tiếng Phạn, âm Phạn khác với Phật giáo.
3) Dựa vào trí, không dựa vào thức : Trí là trí tuệ của
thánh nhân, là sản sinh ra đại trí của vô ngã, từ đại bi đến đồng
thể. Do đó, hể có tự ngã làm trung tâm, dù là vì mình, vì người, thậm
chí vì tất cả chúng sinh hoặc vì cầu cho Phật Đạo vô thượng, dù là
đại ngã, bồ-rát-man (phạm ngã) và thần ngã, cái ngã cá biệt và cái
ngã toàn thể đều không thể sản sinh ra trí tuệ chân chính được. Vì vậy,
điều đó vẫn thuộc vào phạm vi trí thức và trí tuệ. Trí thức là từ
trong kinh nghiệm học tập của bản thân mình mà sản sinh ra tác dụng
phân biệt, ghi nhớ và suy lý. Còn trí tuệ chỉ có hiện tượng của khách
quan không có trung tâm chủ quan. Chỉ có công năng chuyển vận, không có
trung tâm chủ thế, nếu trái ngược như thế thì không phải minh sư.
4) Dựa vào ý nghĩa rốt ráo, không dựa vào ý nghĩa không
rốt ráo :
Nghĩa rốt ráo là không nói ra được, không có pháp nào
có thể chấp, không có pháp nào có thể tu, cũng không có pháp nào có thể
chứng được. Đúng như vô niệm vô tướng, vô trụ, mà "Đàn
kinh" nói : Không vì cái gì, cũng không có cái gì, chỉ việc ăn cơm, mặc
quần áo, sinh sống, lợi mình, lợi người, tinh tiến không ngừng.
Căn cứ vào 4 điều chuẩn trên, chúng ta có thể phân biệt
dễ dàng ai là minh sư, ai không phải là minh sư, rồi dựa vào 4 tiêu chuẩn
đó mà quan sát thẩm tra minh sư mà mình mong gần gũi thì nói chung không thể
có sự nhầm lẫn, rồi ngày qua tháng lại dù không gặp được minh sư thì
bản thân anh cũng trở thành minh sư.
54
- Làm thế nào để thâm nhập vào một môn ? [^]
Tiên sinh Hồ Thích - một nhà tư tưởng hiện đại đã từng
nói "Học thì phải như Kim Tự Tháp vừa rộng lại vừa cao". Đọc
nhiều học rộng là cơ sở của học vấn, thâm nhập vào một môn là bước
đầu của học vấn mà chỉ có thể là thường thức thôi. Nếu không thể
trong bất kỳ phạm trù chuyên môn nào cũng tỏ ra xuất chúng nổi bật
lên thì không thể có thành tựu và có những nét độc đáo của mình. Như
vậy không phải là chuyên gia mà là người giỏi bình thường thôi.
Do vậy Đức Phật đề ra quy luật Tỳ kheo xuất gia thì
nên chuyên tu học về Kinh, Luật, Luận. Nếu tư chất xuất sắc thì có thể
để 1/5 thời gian để học thêm kinh sách ngoài Phật giáo bởi vì thời
gian của cuộc đời con người là có hạn. Kinh điển Tam Tạng của Phật
giáo là bao la như biển cả, dù cho có đọc hết kinh sách nỗ lực cả cuộc
đời cũng không có cách nào học được cái tinh túy kỳ diệu của đạo
Phật. Do đó, từ xưa đến nay người học Phật nghiên cứu Kinh và Luật
phải có sự lựa chọn. Khi bắt đầu vào học có thể đọc những sách
khái quát về lý luận rồi những sách về lý luận thông thường, có
tính chất thông sử để biết những nét lớn. Sau đó nên lựa chọn, dựa
vào chí hướng, sở thích cá nhân để đọc bộ kinh nào đó hoặc là một
số kinh có liên quan, một bộ luận nào đó, hoặc một số bộ luận có
liên quan. Rồi có như vậy mà suốt cả cuộc đời nỗ lực học tập tu
trì, nghiên cứu, hoằng pháp thì có thể một bậc đại sư.
Hiện nay đối với những Phật tử nói chung, cái gọi là
"thâm nhập vào một môn" bức thiết cần phải biết nhất thiết
không phải là vấn đề có liên quan đến kinh, luật, luận và là kinh nghiệm
tôn giáo, pháp môn tu trì và việc lựa chọn và theo học các thiện tri thức.
Bởi vì nói chung người ta không biết bản thân mình thích hợp tu hành
tôn phái nào hoặc pháp môn nào, dù là tu khổ hạnh, tu theo kiểu hiển
giáo, theo mật giáo đều không biết mình bắt đầu học từ đầu và bắt
đầu học như thế nào? Về mặt hiển giáo, nếu theo tông Tịnh độ, theo
thiền, luật Thiên Thai, Hoa Nghiêm duy thức, thì mỗi tôn giáo đều có một
vị, thậm chí còn có nhiều vị Đại đức tăng và tục nổi tiếng, đều
có thể theo học.
Hiện nay lại có một số mật giáo mà không có thầy truyền,
những môn đệ tử của tín ngưỡng dân gian thường tự xưng mình là bậc
thầy tối thượng, tự cho mình là Phật sống. Họ xuất hiện nhan nhản
ở thế gian, tung ra một loạt luận điệu tuyên truyền, nói rất hay, lý lẽ
rất vững tạo ra các phép làm lóe mắt mọi người. Nói chung, con người
không có cơ sở Phật học, do yêu cầu phải có phương pháp tu trì và phải
tu hành có hiệu quả ngay, nên không tránh khỏi lần mò khắp nơi, khắp chốn
thấy được cái gì thì học cái nấy, kết quả là tâm thần rối loạn,
tâm lý không ổn định, sinh hoạt không bình thường tách rời khỏi xã hội.
Đó là những việc đáng tiếc.
Do vậy chúng tôi chủ trương muốn thâm nhập vào một môn
thì không được đứng núi này trông núi nọ. Nếu Phật Pháp chính thống
Phật giáo chính tín mà anh công nhận không phát sinh ra tác dụng phụ thì
dù là niệm Phật, tham thiền, trì chú, anh cứ không ngừng tu trì, dần dà
thì nhất định sẽ thấy kết quả trông thấy. Tuyệt đối chớ để sự
hiếu kỳ lôi cuốn, không để các giác quan kích thích và tư tưởng bị kích
động, mà nên theo con đường tu học Phật Pháp với cái tâm bình thường.
Lại nhờ sự tự lực giúp đỡ của Đức Phật để khi lâm chung được
vãng sinh lên cõi Tịnh độ nước Phật là đủ lắm rồi. Nếu không và
muốn trở thành một vị cao Tăng và Cư sĩ, Đại đức Phật giáo, lại muốn
thông hiểu các loại học vấn tri thức về văn chương, triết học, lịch
sử tôn giáo xưa nay cả trong nước và ngoài nước thì lãng phí cả cuộc
đời. Thế là vừa không lợi cho mình, cũng không lợi cho người, vừa không
thể tự tu một cách đầy đủ lại không thể dùng cái sở trường của
mình giúp đỡ người khác.
55
- Thế nào là chuyên tu và tạp tu ? [^]
Nói một cách khác nghiêm khắc, người Trung Quốc là theo
Phật giáo tạp tu. Tỉ dụ như để cầu xin được sức khỏe, sống lâu,
tránh tai nạn, họ trì tụng phẩm "phổ môn", kinh "Dược
Sư", chú Đại Bi hoặc niệm Bồ Tát Quan Thế A⭠và Phật Dược Sư. Nếu
cầu được lợi ích tương lai ở Tây phương thì tụng kinh A-di-đà và niệm
danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu để tiêu trừ bệnh tật, nghiệp chướng thì
phần nhiều tụng Chân ngôn, Linh cảm Quan Thế A⭬ thần chú Đại Sĩ áo
trắng hoặc lễ bái "Thủy Sám", "Lương Hoàng Sám". Nếu
siêu độ cho người chết người thân thì niệm "Kinh Địa Tạng",
chú "Vãng sinh"…
Phương thức tu hành như vậy vừa là hiển giáo vừa là hỗn
hợp hình thức và mùi vị của Mật giáo nữa, vừa là tu hành Tịnh độ
Tây phương, vừa tu Tịnh độ Đông phương. Một cá nhân cùng thời gian
khác nhau, vì mục đích khác nhau thì có thể dùng pháp môn khác nhau.
Thật ra Phật Pháp quý ở chỗ thâm nhập vào một pháp
môn, bất kể là dùng hiển giáo, hay Mật giáo, tụng kinh hay trì chú, lễ
sám, hoặc niệm danh hiệu của bất kể Đức Phật nào, Bồ Tát nào, hễ
tu một pháp môn mà kiên trì lâu dài thì sẽ có cảm ứng tức là có thể
đạt tới mục đích tu trì của mình. Điều đó có nghĩa là niệm Phật
A-di-đà có thể vãng sinh Tây phương, niệm Bồ Tát Quan Thế Âm cũng có thể
vãng sinh Tây phương, tai qua nạn khỏi, niệm Phật A-di-đà cũng có thể
tai nạn qua khỏi. Quán có thể nhập định, mở mang trí tuệ, kiên trì niệm
tên Phật và niệm danh hiệu Bồ Tát cũng có thể nhập định và mở mang
trí tuệ. Tiến hành các phương thức khác nhau như tụng kinh Kim Cương
cũng có thể mở mang trí tuệ, tai bay nạn khỏi, vượt bỏ các chướng ngại,
sinh về Tây phương. Do đó Kinh Lăng Nghiêm có 25 pháp môn viên thông giới
thiệu 25 vị La Hán Đại Thừa và Bồ Tát, mỗi vị đều tu trì một môn
mà các pháp môn nhất định, kết quả là đều có thể thâm nhập vào một
môn mà các môn khác cũng đều thâm nhập được. Như vậy Bồ Tát Quan Thế
Âm là viên thông căn tai, tu pháp môn âm thanh mà thông đạt các pháp môn.
Nếu người tu pháp môn Tịnh độ chuyên chú niệm Phật,
niệm danh hiệu sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật" thì có thể lợi
trong cuộc đời hiện tại và có thể được Phật A-di-đà đón dẫn khi
lâm chung. Họ gặp tai nạn thì tránh được tai nạn, gặp trở ngại thì vượt
trở ngại, ngu dốt thì được tăng thêm trí tuệ, có phiền não thì được
giảm bớt phiền não. Nếu người học thiền mà kiên trì một câu nói, một
công án, một phương pháp hiện hành thì hiện tại được lợi, tương lai
cũng có lợi. Nếu nguyện sinh ở cõi Tịnh độ thì nhất định có thể
được.
Xướng tụng thì phần lớn dùng ở nơi tập thể tu hành,
được tiến hành sau một thời gian dài ngồi thiền. Cá nhân tu hành hoặc
tu hành định kỳ trong một thời gian tương đối dài thì không nhất định
phải xướng tụng. Trong những buổi khóa tụng sáng chiều của cư sĩ tại
gia, thì có thể xướng tụng, chuyển tụng niệm một danh hiệu Phật nào
đó, tất cả đều có thể gọi là chuyên tu, cũng có thể đạt tới tất
cả các nguyện vọng và mục đích. Nếu mỗi ngày vào một thời gian nhất
định mà trì tụng, lễ bái một vài bộ kinh, chú và danh hiệu Phật, bài
kệ thì cũng có thể gọi là chuyên tu. Tất nhiên là so với chuyên tu nói
ở trên thì việc này có ý nghĩa tạp tu rồi.
Xưa kia có người chuyên tụng mấy ngàn bộ kinh "Kim Cương"
hoặc kinh "Pháp Hoa", chuyên lễ bái Phật trăm vạn lần, trì chú mấy
trăm vạn lượt, như thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ hằng ngày chuyên niệm
danh hiệu Phật A Di Đà, thậm chí khi nghĩ ngơi, ăn uống, đại tiểu tiện,
ngủ đều không ngừng niệm Phật, đó mới gọi là chuyên tu tinh tiến.
Còn người bình thường không thể đạt tới bước như vậy. Nếu dạy học
chỉ trì tụng một kinh chú nhất định, chỉ niệm một danh hiệu Phật nhất
định thì họ cảm thấy đơn điệu, thậm chí còn thấy buồn chán. Do vậy,
mỗi ngày nên trì tụng vài danh hiệu Phật, vài kinh, chú và bài kệ khác
nhau cho thỏa đáng hơn. Nhưng tuyệt đối không được hôm nay học hiển
giáo, ngày mai lại học Mật giáo, buổi sáng cầu vãng sinh phương Đông,
buổi tối lại cầu vãng sinh ở phương Tây.
56-Như
thế nào là "đạo dễ tu" và "đạo khó tu" ? [^]
"Đạo dễ tu hành" và "Đạo khó tu hành"
đều là đạo Bồ Tát tu hành học Phật, xuất hiện đầu tiên ở "Phẩm
Dị hành", quyển 5, "Thập trụ tỳ bà sa luận". Phẩm này giới
thiệu đạo tu hành của Bồ Tát có hai loại, loại dễ và loại khó. Như
trên thế gian này đi bộ tương đối vất vả, khó khăn, còn ngồi thuyền
đi đường thủy thì đỡ mệt hơn, dễ dàng hơn. Đạo Bồ Tát khó tu
hành là chỉ sự chăm chỉ tu hành, tinh tiến. Đạo Bồ Tát dễ tu hành là
chỉ việc lấy lòng tin làm phương tiện mà tiến lên, không lùi bước, không
lùi vị trí.
Phương pháp tu hành của đạo dễ tu hành mà Long Thọ nói
tới là tụng niệm chư Phật 10 phương như Thiện Đức, 107 vị Phật như
Phật A Di Đà, và cả 143 danh hiệu Bồ Tát như Thiện Ý. Còn quyển thượng
"Vãng sinh luận chú" của Đại sư Đàm Loan, Trung Quốc thì lại chủ
trương chuyên tụng niệm riêng một danh hiệu Phật A Di Đà, gọi đó là
đạo dễ tu hành, đề cao lời nguyền của Di Đà, dựa vào lời thề nguyền
của Phật thì có thể vãng sinh ở cõi Tịnh độ, rồi nhờ Phật gia trì
mà vào chính định Đại Thừa. An lạc "Tập" của Đại sư Đạo
Xước thì lại gọi đạo khó tu hành là môn "Thánh đạo", đạo dễ
tu hành là môn Tịnh độ. Cho tới Đại sư Pháp Nhiên của Nhật Bản thì
nêu ra "Tự lực thánh đạo" để phân biệt rõ sự khác nhau của
đạo khó tu hành và đạo dễ tu hành. Đủ thấy đạo dễ tu hành mà Bồ
Tát Long Thọ nói là lấy việc tụng niệm danh hiệu của chư Phật và Bồ
Tát để cầu sinh nơi cõi Tịnh độ mười phương. Nhưng những người tu
hành theo pháp môn Tịnh độ Phật A Di Đà là đạo dễ thực hiện dựa vào
lời nguyện của Phật để sinh sang Tịnh độ Cực Lạc. Sau khi đến cõi
Tịnh độ của Phật, tất cả những điều mắt thấy tai nghe đều do Phật
A Di Đà giáo hóa, thuyết pháp, ở đấy không ai là không niệm Phật, niệm
pháp, niệm tăng, nên tương đối dễ dàng chứng được Bồ đề, lại còn
có thể tiến tới trình độ bất thoái. Nhưng nếu chỉ dựa vào sức mạnh
lời nguyền của Phật, muốn đạt đến trình độ bất thoái thì phải trải
qua một thời gian rất dài, bởi vì trên cõi Tịnh độ, không có duyên tu
phúc, nhưng có thể tu tuệ, tu tuệ có thể xa rời phiền não, nếu không
tu đức thì không thể đạt tới công đức Bồ đề. Cho nên tuy dễ dàng
nhưng lại phải quanh co, phải đợi sau khi đạt tới trình độ bất thoái,
lại quay trở lại ở cõi thế gian tế độ chúng sinh để tu hành đầy đủ
phúc đức của Bồ Tát, phúc tuệ viên mãn mới có thể thành Phật. Điều
đặc biệt thuận lợi của "đạo dễ tu hành" là đối với những
chúng sinh nhu nhược, lòng tin không đủ, tội nghiệp sâu nặng, thì hy vọng
đắc độ và khuyến khích họ học Phật, niệm Phật.
Cái gọi là "đạo khó tu hành" là lấy thời gian của
3 đại a tăng kỳ kiếp để tu đạo Bồ Tát, khó tu hành mà có thể tu
hành, khó chịu đựng mà có thể chịu đựng ; đó là con đường chung để
tu hành Phật Pháp. Các chư Phật trong ba đời đều do phát tâm đại Bồ
đề vô thượng chính đẳng mà thành Phật. Điều đó cũng có nghĩa là người
đã phát lời nguyền thành Phật, thông thường là phải xây dựng được
niềm tin trước đã. Theo kinh "An Lạc", tu hành thì phải có lòng
tin trải qua ba kiếp, kiếp 1, kiếp 2, kiếp 3 mới được lòng tin "bất
thoái" mà nhập vào ngôi thứ nhất. "Khởi Tín Luận" thì nói
: Tu hành phải có lòng tin, phải trải qua một vạn kiếp, rồi sau mới nhập
vào ngôi thứ nhất, đó mới là bắt đầu của A tăng kỳ kiếp thứ nhất.
Đến ngôi thứ nhất là khởi điểm của A tăng kỳ kiếp thứ hai. Qua được
ngôi thứ bảy là bắt đầu vào A tăng kỳ kiếp thứ ba, trở thành Bồ
Tát đẳng giác. Ví dụ như Quan A⭬ Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng
v.v… phải trải qua trăm kiếp nữa thì lên được Phật địa đó chính
là đạo khó tu hành.
Trong suốt thời kỳ này, bỏ thân này, thọ thân khác, bố
thí vô lượng gần gũi với các vô lượng Phật, trong giữa đám chúng
sinh mãi mãi là "không cầu mong an lạc cho mình", nhưng nguyện làm
chúng sinh xa lìa đau khổ, rồi ngày qua tháng lại dần dần trừ được chấp
ngã, phúc đức được tăng trưởng. Khi đại bi vô ngã đã viên mãn cứu
cánh thì thành Phật.
Trước khi tu xong kiếp A tăng kỳ thứ nhất thì phàm phu.
Theo sự giải thích của Tông Thiên Thai trước khi có được lòng tin, là
"ngoại phàm". Từ ngôi thứ nhất đến ngôi hồi hướng thứ mười
là "nội phàm". Những Bồ Tát trong ngôi phàm phu là còn có cái
tôi, là có những chúng sinh có thể độ được, có những phiền não có
thể đoạn trừ được và cũng có thể thành Phật được. Các vị đó
có lòng tin kiên định đối với Tam Bảo, do tin tưởng vững chắc nơi mình,
dũng mãnh tiến lên phía trước tu hành theo Phật Pháp.
Trong mười ngôi tín trước thứ nhất, nếu gặp phải ma
chướng, nghiệp chướng, phiền não chướng, các loại báo chướng v.v… nên
còn có nguy cơ mất lòng tin nên còn gọi là "còn có thoái". Thường
thường khi tiến thoái, có lúc tin vào Phật mà tu hành, có lúc lại xa rời
Phật pháp. Nhưng một khi đã phát được tâm Bồ đề thì đã gieo được
nhân thành Phật cho dù sức của cái nhân ấy mạnh hay yếu nhưng vẫn còn
cơ hội để được độ thoát, được độ một lần, lại được độ lần
nữa, rồi lại được độ lần thứ ba, lần thứ tư để được thể hiện
trong thức thứ 8 nhờ đó mà tiếp tục tu học Phật Pháp. Sau khi lòng tin
đạt được "bất thoái" thì xét về thời gian thành Phật là coi
như đã được xác định. Xét về mức độ chịu khó, chịu khổ thì
sóng gió ngày càng to, càng mạnh, con đường trước mặt ngày càng khó khăn,
đó chính là đạo khó tu hành của Bồ Tát. Các Bồ Tát chịu khổ nạn
là xuất phát từ lời nguyền của họ, không phải là nghiệp báo. Đạo
khó tu hành đó đối với Bồ Tát mà nói là một quá trình tu hành bình thường.
Nhưng những người có lòng tin không vững chắc, không tu
được pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà. Theo Kinh "Quán vô lượng
thọ" thì điều kiện vãng sinh tới tòa sen cửu phẩm vãng sinh tới thượng
phẩm là phải tu hành Bồ Tát tam phúc nghiệp và phải có tâm Bồ đề, vì
vậy không phải hoàn toàn dựa vào sức mạnh lời nguyền của A Di Đà.
Giới thiệu
| 1 | 2
| 3 | 4
| 5 | 6
| 7 | 8
| 9 | 10
|