- Những Sự Thật
về Đạo Xuất Hồn
- Tức pháp lý vô vi khoa học
huyền bí Phật pháp
- những sự thật ngay cả
rất nhiều môn đồ kỳ cựu cũng không hề biết !
- Phạm Bá
- --KỲ VI --
- "Điển"
Thông thường, mọi người cho rằng
"điển" là "nhân điện", và chính các môn đồ Vô Vi cũng
thường dùng nghĩa này bởi họ thích nói "truyền điển", hoặc
"thầy ban điển". Nghĩa thứ hai của "điển" phát xuất từ
hiện tượng được gọi là "giáng điển", tức "ai đó"
có bề thế trong cõi vô hình "ở trển" giáng nhập vào một người
trần thế để tuyên bố một điều gì đó rất ư là trọng đại, khiến
người nghe phát hồi hộp và ớn lạnh. (Chẳng hạn như câu "Tận thế
đến nơi rồi, các con phải kíp tu mau kẻo tr", dân Việt Nam mình được
hân hạnh nghe miết suốt hơn 40 năm qua, riết thành ngao ngán.)
Về nghĩa "giáng điển" này,
một môn đồ lớn của đạo Vô Vi từng chán nản phát biểu riêng rằng :
- "‘ng [Phật Tám] nói cũng trật
hoài, chỉ những khi nào điển ở trển giáng thì ổng nói mới
trúng."
Khi được hỏi :
- "Làm sao biết lúc nào điển
giáng hay không ?"
môn đồ này cho biết :
- "Khi nào điển giáng thì mặt
ổng đỏ bừng bừng."
Riêng tôi nhận thấy những lúc LSH
mặt đỏ bừng bừng là những lúc ông ta tức giận, cay cú một môn đồ
hoặc người ngoài nào đó. (Có lẽ "nói trúng" đây có nghĩa là
nói hợp lý chứ không phải là tiên tri đúng, vì LSH có tiên tri đúng điều
gì đâu ?!) Và nếu chỉ khi cái gì đó giáng vào mới nói trúng đi hay tiên
tri đúng đi nữa, thì cũng chỉ là một hình thức đồng bóng là cùng, chứ
"Phật sống" ở cái khổ nào ?
Khoảng năm 1986, một môn đồ Vô
Vi viết một tập sách mỏng về cách tu của đạo này, lời lẽ và cách
dùng chữ cho thấy người viết có trình độ đại học, và ông ta cho biết
điển không phải là nhân điện, rằng nếu người đời nghĩ như vậy là
lầm, là ngây thơ ! Đương sự giải thích "điển" rất cao siêu, rất
khoa học, bằng những danh từ vật lý như chấn động, xung động, giao động,
tần số, v.v. và v.v., nhưng chẳng hề thấy đương sự đã dùng các máy
móc tối tân gì, tại phòng khảo nghiệm nào để đo xem các giao động đó
được bao nhiêu Hertz, bao nhiêu chu kỳ. Tôi kết luận là người viết
cũng chỉ vì quá mê hoặc với "điển" nên sanh quá tự tin, bèn lượm
lặt, chắp vá sách vở khoa học rồi tưởng tượng hão và giải thích một
cách võ đoán như vậy mà thôi.
Cho đến nay, trên khắp thế giới
họa chăng chỉ có một đôi người bẩm sanh dị thường, ngoài ra chẳng
có một ai do tập luyện mà "có nhân điện" để phát ra được một
dòng "nhân điện" có thể đo được bằng máy điện kế, và đủ
mạnh để làm sáng một cái bóng đèn điện hoặc đèn pin nhỏ nhất. Nhiều
người hành nghề chữa bệnh thích dùng hai chữ "nhân điện"
nhưng cũng đều dùng các máy xung động điện (T.E.N.S.) loại chạy bằng
pin, giá nay chỉ trên dưới 50 Mỹ Kim, hoặc loại sách tay lớn hơn, chạy
điện, đáng giá vài ngàn Mỹ Kim (như cái cô B. thường đem theo mỗi khi
đi khắp nơi với đức thầy Tám, và cô dùng nó kèm theo các bịt thuốc
Nature’s Sunshine để làm lương y chữa bệnh cho các con bệnh Vô Vi thay vì
dùng "điển" gì đó có được do luyện xuất hồn).
Đặc san Vô Vi năm 2000 có ghi phần
điện đàm (xin thưa cho rõ, tức là nói chuyện qua điện thoại, chứ không
phải nói chuyện bằng... điển) giữa LSH và một môn đồ bên Việt Nam.
Khi môn đồ ấy hỏi chừng nào "đức thầy" về Việt Nam, ngài
phán :
- "Về bển làm gì ? Để hút [điển] trược
à ???"
Tuy sợ điển trược như vậy,
nhưng LSH lại quyết định cho tổ chức đại hội Vô Vi năm 2000 tại thủ
đô của Tiệp Khắc. Đại hội này đã có kết quả tức khắc là các
môn đồ đều rút vào nằm trong các phòng của khách sạn cho đến khi về,
không ai dám ra đường. Lý do là trong những ngày đầu, một số môn đồ
đã bị những kẻ bất lương tại địa phương chận đường uy hiếp và
trấn lột. Nếu Phật sống đã chọn Tiệp Khắc làm nơi họp đại hội,
chẳng lẽ ngài lại cố tình lựa nơi "điển trược" như thế để
hại môn đồ ??? Hay "điển trược" Tiệp Khắc... thanh nhẹ hơn
"điển trược" Việt Nam, đáng cho môn đồ "học bài" hơn,
mau "tiến hóa" hơn ???
Nói chung, tất cả mọi lý sự
loanh quanh, luẩn quẩn, vớ vẩn, ngớ ngẩn, và quái đản đến mức độ
khôi hài của thầy trò VV rốt cục đều qui về một cái hang tối tăm cuối
cùng : "ĐIỂN".
- Chữ nghĩa quốc ngữ và Hán văn của LSH chẳng
đến đâu, vậy làm sao LSH biết được rằng kinh điển Phật Giáo mấy
ngàn năm nay đều "tam sao thất bổn hết, không thể tin được"?
LSH cho biết là nhờ"dùng điển đọc mà biết!"
- "Điển Thượng Đế" chuyển
cho ông nọ, bà đó, ôm hun LSH và nói với mọi người, "Đây là Di Lặc
đây các con !"
- "Điển Thượng Đế" giáng
vô cô kia, cậu nọ xưng "Ta là Thượng Đế", bắt cha mẹ già phải
quì lạy dưới chân mình.
- "Điển Thượng Đế" xuống
người bệnh đó, khóc lóc : "Cha đã quyết định rồi, Cha sẽ đưa
con ra khỏi Việt Nam, khỏi địa ngục trần gian."
(Té ra Thượng Đế cũng còn bi
luyï, khóc lóc như chúng ta sao ??? Té ra xứ Việt Nam chiến tranh lầm than,
điêu tàn, chết chóc, vay trả trước mắt đó, "địa ngục trần
gian" đó không phải là nơi cho LSH và các môn đồ VV "học bài".
Trái lại, các xứ Mỹ, Pháp, Úc, Hồng Kông, văn minh, sung sướng, hưởng
thụ vật chất phủ phê, mới là nơi để họ học bài ! Thì ra, khi LSH
nói rằng nước Việt Nam "được Thượng Đế lựa làm điểm linh
quang, linh địa để giải tiến tâm linh...," chẳng qua cũng chỉ là
nói bừa thường nhật mà thôi hay sao ?)
- "Điển Thượng Đế" giáng
vô cô đó, phán rằng, "Còn Phật của Ta đi [tức Tám vượt biên] là
không có khổ, đi như đi chơi, Cha cưng ! Cha cưng rồi là nó đi chơi chớ
không có đi như các con, nó khác hơn." (Té ra, rõ ràng Thượng Đế thiên
vị, và "con yêu con ghét" một cách rất phàm tục !!!]
- "Điển Thượng Đế" giáng
vào một kẻ lấc cấc, tham danh, tham lợi, tham dục, tự xưng là "Cha
Trời". Cha Trời này đứng chống nạnh, dạng háng, thách đệ tử lạy
và chun qua dưới háng ngài !
- Lý do gì LSH và các môn đồ cạo đầu ? Cũng chỉ
để... thở hít điển cho được "nhẹ hơn, d lưu thông hơn,
mặt sáng hơn." Tôi đã thấy tại các đại hội Vô Vi hoặc những khi
hội họp có quay video, nhiều nam môn đồ Vô Vi kè kè cái máy cạo râu chạy
điện deluxe loại 3 vòng dao cạo. Mỗi ngày rà máy trên đầu cả tiếng đồng
hồ không chán !!! Có người còn thoa dầu lên cho bóng. Suốt ngày lo cho
cái đầu thật láng và mong đợi mặt mày sáng ra. Soi gương thấy... mặt
tối là lại rà nạo cái đầu trọc. Lý do dường như không có gì khác hơn
là để khi chiếu video ra, cả làng cả nước Vô Vi thấy cái mặt mình nó
sáng rỡ, có nghĩa là điển mình mạnh, mình tu cao.
Nhìn chung các thí dụ trên, chúng
ta nhận thấy "Thượng Đế" vô hình đã là một khái niệm trừu
tượng được ưa chuộng nhất trong lịch sử loài người, và nơi đây
khái niệm ấy đã được cụ thể hoá bằng cái gọi là "Điển
Thượng Đế", cứ như cả hai đều rất thật, không thể chối cãi
được.
Vậy sau đây xin mời người đọc
cùng xem xét nguồn gốc "điển" của đạo xuất hồn. Trong việc
đúc kết toàn bản tường trình này, đây là phần cực nhọc nhất cho
tôi, và có lẽ cũng là phần ít hứng thú nhất, đến độ chán chết cho
người đọc. Lý do là các đương sự (tổ sư ĐTH trong quá khứ và Phật
Sống LSH hiện tại) đều có cùng một căn bệnh : không thể tập trung đầu
óc vào một đề mục hay một câu hỏi nhất định để trả lời hoặc giải
đáp. Những câu hỏi đơn giản, rõ ràng, và chữ dùng phổ thông nhất cũng
được các đương sự phát ngôn lung tung, linh tinh, lang tang, lạc đề, ý nọ
bắt chuyền qua ý kia. Các câu hỏi "Điển là gì?" hoặc "Điển
do đâu mà có?" được trả lời trên trời, dưới đất, người nam gặp
người nữ, bào thai tạo hình, v.v. gần hai trang sách in chữ nhỏ, và vẫn
không đưa đến câu giải đáp dứt khoát. Trang này cho điển là phần hồn
thiêng liêng, chỗ khác cho điển là "cục Mô Ni Châu" từ trán
phóng ra, đến trang nọ thì điển lại là "sự sáng suốt." (Nếu
điển là sự sáng suốt thì tại sao lại có loại "điển trược"
mà thầy trò VV rất sợ ???)
Chỉ riêng trong quyển "Kinh
A-Di-Đà Giảng Giải" của cụ ĐTH, cộng chung tất cả các đoạn rải
rác, có đến ba, bốn trang giải thích về "điển" một cách bất
nhất và luông tuồng. Đọc qua đã là một cực hình, nếu đem chép hết
vào đây lại là một cực hình thứ hai cho cả người viết và người đọc,
lại chỉ thêm giấy mực. Do đó, nếu tôi phải dẫn nguyên văn đoạn nào,
xin người đọc hiểu cho rằng đó là một sự cần thiết và bất đắc
dĩ.
Nếu như tổ sư xuất hồn còn sống
và có ai cứ truy hỏi cho ra ngọn ngành của điển, không biết cụ có nổi
sung như Phật Tám hay chăng ? Giống như tổ sư đã quá vãng, hiện tại Phật
Tám--tức Phật Vĩ Kiên, kiêm Thiền Sư Tám, kiêm Bé Tám, v.v.--cũng có nhiều
câu giải đáp độc đáo về điển cho chúng ta học hỏi, và than
ôi, cũng... linh tinh lang tang như vậy !!!
Tôi sẽ trình bày các cách giảng
nghĩa "điển" của cả hai đương sự. Các chữ in đậm trong các
trích đoạn là do ý của tôi nhằm giúp người đọc d thấy các điểm nổi
bật hơn các điểm khác trong đám dây dưa chằng chịt của ngôn từ Vô
Vi. Khi các chữ được in đậm y theo nguyên bản, tôi có ghi chú thích tại
chỗ.
i. Tổ sư đạo xuất hồn giải thích "điển"
Trang 165, Kinh A-Di-Đà và Phật
Học Vấn Đáp theo PLVV KHHBPP, cụ ĐTH phán :
"Trên trời thì có mặt trời,
mặt trăng, để làm việc ngày đêm với các vì sao, còn trần gian thì có đèn
pha, đèn điện, kể chung tất cả điển tiên thiên trên Thiên Đàng
cùng điển của trần gian là lửa điển phụ thuộc mà thôi. Trên trời
thì có lửa điển trong tốt do Hắc Bì Phật lập hiến. Còn dưới trần
thế thì có điển lửa của khí trược, do trái đất hoá sanh. Trong trái
đất có khối đá, trong chất khối đá là một thứ nhớt của cát.
Cát, thứ tốt, màng của nó sanh ra loài kim khí, khí nhớt đã
thành khối gọi bằng đá."
Phần nhận xét của tôi:
1. Đèn pha, đèn điện cũng được
tổ sư xuất hồn đem cả vào để giải thích điển.
2. "Trên trời thì có lửa
điển trong tốt do Hắc Bì Phật lập hiến": Câu này thể hiện hai
trong số nhiều đặc tính rõ rệt của đạo xuất hồn: (1) gán bừa một
vị Phật hoặc kinh Phật với các sự kiện không tưởng, và (2) dùng từ
ngữ bừa bãi : lập hiến.
3. "Trong trái đất có khối
đá, trong chất khối đá là một thứ nhớt của cát" ??? Câu
này và câu kế tiếp cho thấy dường như cụ ĐTH tin rằng cát sanh ra chất
nhớt, chất nhớt ấy kết lại thành... đá.
Tiếp theo đoạn trích dẫn trên :
"Đá được hưởng khí
mặt trời chói rọi, hợp với thán khí là khí đất, thành chất lửa
điển, khi lấy 2 cục đá chọi nhau, hoá thành chất điển lửa trược.
Bởi thế khi chúng ta phân tách, mới biết lửa nào của Thiên Đàng, còn
điển nào trược đục của đá cát cùng nước nhớt chung đụng thành khối
gọi là điển lửa đục của trần gian gọi là điển âm. Bởi sự hợp
tinh của Niết Bàn là mặt trời xây chuyển, h chất nào được hợp
Ngũ hành là số 5 gọi là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ hợp với 4 cộng là
9, số 4 là: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Khi số 5 của Niết Bàn sa xuống
thoai noãn số 4 gọi là 9 thì hợp tác thành ra một thứ hồn điển Thiêng
Liêng, gọi là hồn của bản thể con người, ví như trong Niết Bàn 1 với
8 là 9, 7 với 2 gọi là 9 vân vân..."
Phần nhận xét của tôi:
1. Đá hợp với thán khí thành lửa
điển, nên khi hai cục đá chọi nhau thì lửa điển ấy xẹt ra !!!! Phải
chăng đây cũng chính là loại "khoa học huyền bí" đương sự đã
thủ đắc nhờ luyện xuất hồn thành công ?
2. "Bởi sự hợp
tinh của Niết Bàn là mặt trời xây chuyển" : Đố ai hiểu
nổi !
3. Ngũ hành là số 5; số 4 là Đông
Tây Nam Bắc; cộng nhau thành 9. Thai noãn cũng số 4; 5 + 4 là 9; Niết Bàn 1
với 8 là 9, v.v. Tôi nhận thấy Tổ sư rất thích 9 nút.
Trang 192, cùng sách:
"Máu có 3 thứ: thứ trong
thì ở ngoài da, còn thứ đỏ tươi thì ở từng theo sớ thịt, còn
thứ đỏ bầm thì chất huyết nầy nặng nề, rồi nhờ Pháp Luân Thường
Chuyển là phép của Phật dạy ta công phu lừa lọc, hợp lại với
thứ nhớt trong, gọi là tinh ba, còn thứ đỏ tươi hợp với nhớt
trược nhẹ, chung qui là một thứ khí quản, rồi thừa tiếp mở
kỷ xuống tại nơi đường mạch đốc là chỗ dây gân xanh ở giữa 2
trái cật, nương theo đường mạch đốc đi thẳng theo xương sống, làm ra
một thứ khí trong, để giúp cho linh hồn ta một thứ máu nóng gọi
là Điển. Điển này thừa hành phận sự làm chủ bản thể, giống
nó cũng như loại kim là sắc, ưa rút nhảy cũng như thứ (aimant của
magnéto) mà thế tục thường làm xe hơi, để cho bộ máy chuyển động nó,
để giúp cho thần hồn mạnh mẽ khoẻ khoắn."
Phần nhận xét của tôi:
1. Theo tổ sư, máu có... 3 thứ :
trong, đỏ tươi, và đỏ bầm. Vậy là hợp với "khoa học" quá mức
rồi, nhưng đương sự bỏ sót quá nhiều loại máu khác như : máu cờ bạc,
máu ham danh, máu ham lợi, máu dê, máu xấu, máu hàn, máu nhiệt, máu sản hậu,
máu cao, máu thấp, máu xâm, máu khùng, v.v. và v.v.
2. "Pháp Luân Thường Chuyển"
đây là cách nằm phình bụng lên, phình bụng xuống, do đương sự sáng chế,
hoàn toàn không phải do Phật nào dạy.
3. Bảo đảm không có Phật nào dạy
đệ tử "lừa lọc" cả. Nếu có, đó là loại Phật do ma nhập
vào ai đó phong cho làm Phật.
4. "Ba thứ máu hợp
với nhớt trong, nhớt nhẹ, tất cả thành khí quản"
: đây cũng là một kiến thức chỉ thấy có trong đạo xuất hồn Vô
Vi mà thôi.
5. "Khí quản ấy chạy
trong đốc mạch, tạo ra khí trong. Khí trong này lại cho linh
hồn ta một thứ máu nóng, gọi là ĐIỂN." UREKA
!!! Đây chính là nguồn gốc điển của đạo xuất hồn, tức
đạo Vô Vi, tức Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp ! Ba thứ máu
biến thành cái khí quản chạy trong đốc mạch, tạo ra khí trong, khí trong
này cho linh hồn một loại máu... thứ tư gọi là máu nóng, máu nóng đó
chính là ĐIỂN.
6. "Điển này giống nó cũng
như loại kim là sắc" : tổ sư dạy rõ thêm : điển này có tính chất
giống như... kim loại.
Trang 180, cùng sách:
"Vấn: Tại sao gọi là Điển
?
Đáp: Trước kia ta ở trong thai noãn,.....[nguyên
câu dài luông tuồng 143 chữ, không hề trả lời thẳng vào câu hỏi.]
Bào thai ấy....... Sự hợp nhứt của Cha Mẹ..... [câu này cũng dài khoảng
120 chữ, cũng chưa thấy đá động đến điển.] Còn ngũ tạng ruột,
gan, ..... Rồi thai ấy........... Khi Mẹ hoài thai 9 tháng thì thai noãn đủ
nguyên hình, ................" [Đã 2 trang giấy như thế -trang 180 và
trang 181-cũng chưa thấy nói gì để trả lời câu hỏi "Tại sao gọi
là Điển ? "]
Trang 182, cùng sách :
"Trong kinh nhà Phật nói:
Ta vốn là ta, gọi là căn bản, căn bản gọi là khí điển. Hồn của
ta trên trời sa xuống từ lúc Mẹ ta có thai noãn trong 6 tháng, làm chủ
bản gọi là trí, ý, hồn, tánh, tình là Vía. Nhưng cũng có sự phụ thuộc
vốn của Cha Mẹ ta là Khí cấu tạo, rồi hợp thành một cái
vốn khí điển của Thiên Đàng sa xuống nhập vào thai. Bào thai này nhờ
có ngươn khí chất lỏng của Cha Mẹ tạo thành, gọi là khí bẩm sở
câu, vật lực sở tế......"
Phần nhận xét của tôi:
1. Như thường lệ, loại kinh nhà
Phật này chỉ có độc quyền trong đầu óc của đương sự.
2. Hồn của ta, cùng khí
cấu tạo của cha mẹ, và cái vốn khí điển của Thiên Đàng,
tất cả 3 thứ hợp nhất thành Ta. Ta tức là căn bản, tức
là khí điển. (Đương sự dùng các chữ "hợp thành một"
là ý này.)
Tuy nhiên, đã hợp nhất thành
điển, sao lại có việc luyện hồn vía ??? Còn nếu nói chỉ hợp chung
lại, tại sao lại chỉ luyện hồn vía, bỏ quên khí cấu tạo
và khí điển của Thiên Đàng ???
Chúng ta chớ quên, mới nơi trang
trước : 3 thứ máu cộng với dầu nhớt này nọ
thành cái khí quản, rồi cái thành một thứ máu nóng
gọi là điển. Qua đây thì điển lại là kết quả của hồn
+ khí cấu tạo + khí điển của Thiên Đàng.
Có lúc ngài cũng cho hồn là
điển, điển là hồn. Do đó, tiện đây tôi trích thêm các lời tổ
sư giải thích HỒN để người đọc nếu muốn có thể tưởng lãm thêm
cái trí tuệ rối bòng bong của ngài. Như đã ước hẹn trước, cũng như
trong các phần trích đoạn ở trên, các chữ in đậm nét dưới đây là do
ý tôi, cốt giúp người đọc d thấy các điểm nổi bật hơn các điểm
khác. Tuy nhiên, rất có thể người đọc sẽ nhận thấy các điểm khác
có phần tếu hơn và xứng đáng được in đậm nét hơn !
1. Hồn là một điển quang của
Hắc Bì Phật đã lập hiến, nào là điển của mặt trời là khí dương
cùng điển của mặt trăng là khí âm, hợp với 28 vì sao cùng ngũ hành,
nhưng điển nào làm việc chậm tr thì sa xuống trần gian hợp cùng thán
khí, rồi hợp với khí âm khí dương của bản thể con người, thừa
theo giống đực giống cái, chung với ngươn khí hợp thành thai noãn nguyên
khối. (Trang 164)
2. Tóm tắt, trong bản thể con người
thì có hồn là một thứ điển quang trên Thiêng Liêng, gốc
của Lập Hiến, nào là Hiến Pháp, là mặt trời mặt trăng, sao, ngũ hành,
chỉ lẽ chánh khí điển hiến pháp cực thanh thì còn ở làm việc.
Còn khí điển nào trược, nặng, làm việc chậm tr, thì điển ấy
sa xuống trần gian gọi là hồn. (Trang 165)
3. Hồn là một đấng Thiêng
Liêng do khí trược của Thiên Đàng, của Phật Trời gọi là hồn.
Khi hồn sa xuống nhập vào bản thể con người cùng vật, nhưng từ Thiên
Đàng cùng trần gian đều có sự hoá hoá sanh sanh hưởng ứng, nhưng trần
gian thì cũng có đủ thứ như trên trời. (Trang 165)
4. Tóm tắt : TINH vốn của Cha.
KHÍ vốn của Mẹ, THẦN vốn của trên Thiên Đàng sa xuống, nói chung là:
Tinh, Khí, Thần. gọi là Ta, vốn là Ta. (Trang 182)
5. Ta vốn là Thần Hồn
trên thiên Đàng sa xuống cũng gọi là Căn bản. Căn bản 1à vốn gốc hồn
trên trời sa xuống làm chủ bản thể.......... (Trang 182)
6. Người đủ trí thức gọi
là Hồn, còn ta là người ở thế gian, Cha Mẹ sanh ra ta. (Trang 183)
7. Hồn là trí não ở vào bộ
óc là một thứ khí thiêng liêng của Trời Phật ban phó cho trong
bản thể con người.... (Trang 193)
8. Nhưng trước đây ta phải
công phu thấy Mâu Ni Châu xuất ra, đó làHồn. Hồn là một cục máu
hoá thành lửa điển gọi là Mâu Ni Châu trong mình ta trước trán phát tung
bay ra mới gọi là Hồn. (Trang 194)
Trên đây là phần tổ sư đạo xuất
hồn giải thích điển, ngài đã quá cố. Dưới đây đến phần phán dạy
của Phật sống LSH.
ii. Phật sống lsh giải thích "điển"
Hỏi: Điển quang là gì?
ĐÁP: Điển quang là sự sáng
suốt trong nội thức của chúng ta, cho nên khi mọi người tu mà hiểu
được sự sáng suốt do liên kết với điển quang sáng suốt của bề
trên. Cái điển quang sáng suốt chẳng hạn trong lúc các bạn đang viết
thơ mà nghĩ một việc này mà viết rồi một chập ào ào ra những
việc còn siêu hơn và nhẹ hơn. Đó, cái điển quang chuyển hoá xuống
nên tâm thức mình được mở mang càng ngày càng sáng suốt.
Phần nhận xét của tôi:
1) Điển là "sự sáng suốt
trong nội thức."
Sách xuất hồn không ghi người hỏi
thắc mắc nội thức là gì, và chúng ta lại không...có điển,
nên cứ hiểu nội thức theo nghĩa thông thường là tâm trí, là sự suy nghĩ.
Nếu lại truy "Vậy ngoại thức là cái gì ?" thì có lẽ Phật
Sống lại phán thêm vài ba chữ nghe có vẻ rất triết lý và trừu tượng
khác mà thôi.
Tôi nhận thấy đương sự cực kỳ
ưa thích việc dùng những ngôn từ đao to búa lớn, những chữ trừu tượng
mà chính đương sự cũng không hiểu nghĩa lý rõ rệt. Có thể nói đương
sự luôn luôn bị ám ảnh với các ngôn từ kêu nổ rộn ràng ấy. Trong một
câu trả lời cho môn đồ qua hệ thống InterNet-Vol. 5 No. 9, tháng 6
1996-ngài phán, "luồng điển trong nội thức xuyên qua hà đào
thành, khớp xương xoáy óc..." Như thế, nội thức không có nghĩa
là sự suy tư, suy nghĩ, hoặc tâm trí theo nghĩa bình thường. Vậy theo LSH
"nội thức" giống như cái ống nước hoặc sợi dây điện trong
đó luồng điển chạy ? Vậy "nội thức" là một vật cụ thể ta
có thể rờ mó được, như chân tay, bàn ghế ???
Cũng theo phần trả lời về điển
của Phật Sống, chúng ta thấy những ai không luyện xuất hồn, không
có điển, tất không có sáng suốt trong nội thức. May thay!
2) "Tu mà hiểu được sự sáng
suốt [là] do liên kết với điển quang sáng suốt của bề trên."
Hiểu được sự sáng suốt ???
Câu này hoàn toàn chẳng có nghĩa lý gì cả. Ngôn ngữ Việt Nam chỉ có
câu "hiểu một cách sáng suốt", hoặc "Tôi thán phục sự
sáng suốt của ông A trong tình huống khó khăn đó." "Sáng suốt"
chỉ là một trong các từ ngữ ám ảnh Phật Tám rất thường trực, cũng
như những chữ "thanh nhẹ", "khai triển", "giải toả",
"tâm linh", "vạn linh", v.v. Bất cứ ai trong chúng ta, chưa
từng luyện xuất hồn, không hề có "điển", cứ nhắm mắt, mở
miệng nói một dây những loại chữ này và các chữ nửa nạc nửa mỡ
khác là tức khắc y chang một môn đồ VV kỳ cựu 100%, tu cao, sống chết
với điển, cái sự lý gì cũng qui về điển. Chúng ta cũng có thể chuẩn
bị cho chu đáo bằng cách "thực hành tháo gỡ nghiệp tâm" "trong
lý thuyết minh giác" cho kỹ, để "giáng lâm" sân khấu
Đại Hội VV, tự xưng là Phật, là Cha Trời "tùy theo sự phát triển
của nhịp tim" chúng ta tuyên bố trước "cộng đồng nhơn
sinh" cho "thanh nhẹ phần hồn", cho "tâm
minh đời đạo hướng khuynh Phật Trời", "khôi phục lãnh vực
thanh tịnh sẵn có của tâm linh" trên thế gian đầy "điển
trược" này.
Cũng trong lời giải đáp về điển
của LSH ở trên, vấn đề đã được đương sự bán cái cho "bề
trên". Chữ "bề trên" này đối với đa số người
phàm chúng ta có nghĩa một "đấng" nào đó, "ở trển",
có quyền ban phước, giáng hoạ xuống đầu mình. Nếu truy kỹ cho ra bề
trên ấy ở đâu, mặt mũi ra sao, và "Điển quang sáng suốt của bề
trên nghĩa là gì ?" "Có phải bề trên cũng do luyện xuất hồn
mà có điển quang sáng suốt ấy không?" v.v., thì chắc chắn tất cả
mọi người hiện diện sẽ chỉ được nhìn cái mặt nghệt ra trông rất
đáng tội nghiệp của người bị hỏi như rất thường thấy mà thôi.
Quan sát rất nhiều trường hợp hỏi
đáp, tôi nhận thấy mỗi khi có ai chất vấn Phật sống cặn kẽ
cho đến nơi đến chốn thì mọi người tham dự chẳng thấy đạo lý của
Phật Sống ở chỗ nào cả. Có hai trường hợp xảy ra : (A) Phật sống bí,
và (B) Phật sống không bí.
- Phật sống bí
, nín thinh, mặt chầm dầm, suy
nghĩ, xoay sở.
- Nếu đương sự nghĩ ra được một câu nào đó
để chống đỡ, đó thường là lời chống đỡ càn.
- Nếu không nghĩ ra được câu gì, đương sự
sưng mặt, gằn giọng, dùng lời lẽ thô lỗ của kẻ quê mùa, thất học,
thất phu.
- Nếu hoàn toàn đuối lý, đương sự nín thinh.
Không khí nặng nề nhất trong tình cảnh này. Tất cả mọi người thấy rõ
thực chất và khả năng của một kẻ tự xưng và được môn đồ xưng tụng
là Phật Sống, ra mặt làm bậc thầy dẫn dắt người khác trên đường "tiến
hóa tâm linh" bằng cách đút chặt hai ngón tay cái vào hai lỗ tai.
Trong các trường hợp thuộc loại
thứ nhất này, coi như Phật sống thua, bất kể có thốt ra lời càn hay
nín thinh. Một thí dụ điển hình cho các câu trả lời loại này là trường
hợp sau: Trong một buổi Phật sống thuyết giảng tại một hội trường,
sau phần Phật sống giảng, đến phần người dự nghe đưa các câu hỏi
đã được viết vào giấy và chuyền lên sân khấu cho một người cầm đọc.
Có một người hỏi về việc tu xuất hồn lâu thì đầu u lên (Phật sống
phán rằng đúng vậy, đó là điều tốt.) Các câu hỏi tiếp theo : "U
chỗ nào thì tốt, chỗ nào không tốt?" (Phật sống đáp.) Người
hỏi tiếp : "U nhiều tốt nhiều, phải vậy chăng ?" Phật sống
nổi sùng ra mặt và đáp "Muốn tu cho đầu nổi nhiều cục u thì
cú lên đầu cho nhiều vô !"
Phần lớn đám đông môn đồ
cười khúc khích. Có người ngoại quốc nghe lời dịch các câu hỏi đáp
đến đây thì bực mình tháo cái headphone đeo trên đầu, liệng xuống bàn,
và đứng lên bỏ ra. Tuy các câu hỏi ấy nghe có vẻ khôi hài, nhưng dường
như đó là các câu hỏi chân thành từ một môn đồ VV đã luyện một thời
gian, và ông hay bà ấy đã nghe nói hoặc thấy trong số những người luyện
lâu năm có nhiều người nơi mỏ ác vun lên.
Trong các trường hợp hỏi đáp như
trên, tôi coi như Phật sống thua : bản chất của môn luyện xuất hồn và
bộ mặt thực của Phật sống bị phô bày.
- Phật sống không hề bí
. Ngài tự tin, phán dạy
hùng dũng, nhưng hoặc là lạc đề, hoặc tránh né, hoặc không hiểu câu hỏi,
hoặc nói dốt, hoặc nói tà đạo, v.v. Trong trường hợp này người hỏi
chịu thua và rút lui, bởi họ tự nhận ra là Phật sống hết thuốc chữa.
Điển hình các câu trả lời loại
này là khi có người nhắc đến quả vị La Hán, Phật sống lập tức giận
dữ phán : "La Hán là cái gì ? - đây không có tu chùa !" Rõ
ràng đương sự đã lòi ra bộ mặt tà đạo hằng được rán dấu diếm bằng
đủ mọi cách. Người hỏi thua, rút lui vì không lẽ nói thẳng vào mặt
Phật sống "Như vậy thì ông đích thực là bàng môn tả đạo rồi
còn gì nữa ! Ông xưng là Phật mà không biết La Hán là gì và khinh thị
La Hán như vậy sao ??? "
Sau đây là một giải đáp khác về
"điển" của LSH, ngày 4 tháng 1 năm 1994.
"Hỏi: Điển do đâu mà
có?
ĐÁP: Điển từ bên ngoài do
sự hội tụ chấn động của càn khôn vũ trụ mà có. Còn điển của
con người do sự tụ hợp tự thực phẩm và hành pháp thông
khai thần kinh khối óc thành tựu ánh sáng hoà hợp với chấn động
thanh nhẹ của vũ trụ quang, tiếp thu tinh ba của vũ trụ, dũng chí hồi
sinh, tự giải toả mọi sự nan giải của tâm linh, hoá độ quần sinh."
Phần nhận xét của tôi:
- Câu thứ hai dài 61 chữ, được nhồi thành bởi
một nùi ngôn ngữ trọng đại, không phân mệnh đề chánh, phụ. (LSH gọi
đây là thao thao bất tuyệt, tuôn ra øo ào". Các môn đồ một mực
thán phục !) Như thường lệ, một lô ngôn từ Vô Vi chen lấn nhau mà ra,
láo nháo bất kể chữ này có ý gì, chữ kia nghĩa lý là sao, nhập bầy với
nhau với mục đích để din tả điển hay cái gì khác !?
- "Sự hội tụ chấn động của càn khôn vũ
trụ." Vũ trụ chấn động như thế nào, din biến làm sao?
"Chấn động" có nghĩa chuyển dịch bất thường với cường độ
mạnh mẽ. Thí dụ: "chuyển động địa chất", gọi tắt là "địa
chấn", tức sự di chuyển mạnh mẽ của các lớp vỏ địa cầu. Máy
đo cường độ địa chấn cho chúng ta biết một địa chấn đã xảy ra với
cường độ 3.5 hoặc 5.6, 6.8, v.v. Sự di chuyển trầm lặng và cực kỳ chậm
như của lòng sông, đáy biển, của các lục địa thì không thể gọi là
"địa chấn" được.
Đạo xuất hồn rất thường mập
mờ và nhập nhằng : khi thì xác định Thượng Đế chính là cái huyệt
Hà Đào Thành trên đỉnh đầu, lúc thì phán "Thượng Đế chuyển điển
cho tôi nói như vậy." Vậy thử hỏi cái đại vũ trụ bên ngoài hoặc
cái tiểu vũ trụ của riêng LSH chấn động hồi nào ? Với cường độ nào
? Khởi sự và chấm dứt lúc nào ?
- Hội tụ
có nghĩa là gom lại, qui về một
điểm. Lý do gì khiến các chấn động hội tụ ? Điểm hội tụ ở đâu,
không hề thấy đương sự nói đến.
- "Còn điển của con người do sự tụ hợp tự
thực phẩm và hành pháp thông khai thần kinh khối óc."
Với mệnh
đề thứ hai của câu này, LSH muốn nói cách tập xuất hồn làm thần kinh
óc hết kẹt. Các sợi thần kinh óc bị kẹt như thế nào ? Chỗ nào kẹt
? Cái gì làm kẹt ? Căn cứ vào đâu biết đã bị kẹt và căn cứ vào đâu
biết sau đó hết kẹt ? Có hình chụp quang tuyến hoặc MRI hay sao ???
Phải chăng khi chưa kẹt thì
"tâm linh" u tối, đọc chữ "Ma-Ha Ca-Diếp" chỉ biết đó
là người Ấn Độ tên Mahacasyapa? Và khi đã khai thông, cảm thấy "thanh
nhẹ, sáng suốt", có điển, nhìn cũng chữ Ma-Ha Ca-Diếp đó
liền thấy rõ ràng nghĩa lý của Kinh muốn nói Con Ma Ca Hát Lá Gan ??? Hoặc
khi đã khai thông rồi thì nghe phán gì liền tin nấy, chẳng còn dám suy luận
và thắc mắc chi nữa ???
- "...sự tụ hợp tự thực phẩm..."
Vì sao Tổ Sư Xuất Hồn ĐTH không hề nói điển do thực phẩm
tụ hợp với cách tập xuất hồn mà nay LSH lại phán như vậy ? Có chi lạ
! Số là nhiều năm trước, sau khi súc ruột liên chi mệt lả, LSH được các
cố vấn xung quanh khuyên nên ăn thực phẩm Health Food. Từ những năm
1985-86, LSH đã phán truyền cho các đệ tử biết rằng ăn kê d tiêu, da mặt
mịn, thanh nhẹ, v.v. Thế là tất cả hè nhau ra tiệm Health Food ôm về từng
bịch kê, và kê đắt gấp 5 lần gạo ! Được nửa năm, một năm, món
"diệu dược" này qua lại tiếp đến món "thần dược" khác,
theo sát các tiệm Health Food.
- "...thành tựu ánh sáng hoà hợp với chấn
động thanh nhẹ của vũ trụ quang...":
Phần này cho chúng
ta thấy sau khi dùng cách tập xuất hồn tụ hợp với thực phẩm health
food, kết quả có được là ánh sáng, và đây chính là "điển".
Đoạn còn lại sau đó muốn nói: sau khi đã có điển, mới hòa điển
của mình với "chấn động thanh nhẹ của vũ trụ quang"
v.v. rồi tự giải toả những... sự nan giải của... tâm linh, hoá độ quần
sinh. Nhóm chữ đao to búa lớn này lại cũng làm tròn nhiệm vụ thông thường
của chúng, nghĩa là chẳng liên hệ gì với câu hỏi "Điển do đâu
mà có ?"
Vậy: Luyện Xuất Hồn + Health Food
= Ánh Sáng = Điển. Tuy nhiên, trong một lần khác, LSH trả lời cũng câu hỏi
"Điển đo đâu mà có ?" như sau :
- "Luồng điển ở mảnh
đất phù sanh này là do sự kết tập bởi những luồng thanh khí của các
lọai Kim thuỷ Mộc Hoả Thổ, kích động và phản động tạo ra hình
thù duyên dáng. Còn về thiêng liêng phần hồn thì là luồng điển
thanh tịnh phát sinh và cấu tạo nơi cõi không động trong qui luật chuyển
điển của âm dương, chỉ nó mới có thể tự tiêu diệt hay bồi bổ
lấy nó, chứ không ai có thể tiêu diệt nó được. Vậy chúng ta..."
[...chiến tranh, người tu hành đứng đắn, v.v. và v.v., không liên hệ
gì đến câu hỏi.]
Phần nhận xét của tôi :
- "
Điển" là do sự chuyển...điển
của âm dương trong cõi không động mà ra. Liệu chúng ta có thể
nói rằng âm dương tức là vũ trụ, và điển của người luyện xuất hồn
có được là do...điển vũ trụ chuyển hay không? Không! Vũ trụ có hình tướng,
còn âm dương không có hình tướng. Tổng quan, âm dương chỉ là một
nguyên lý về sự đối nghịch nhau của các động lực và các tính chất:
thu gọn (dương) và bành trướng (âm), sáng và tối, nóng và lạnh, nhẹ
và nặng, cay và ngọt, v.v. Âm dương không phải là vũ trụ. (Nếu nói về
ngồn gốc, Thái Cực sanh Âm Dương, và cũng không thể nói Thái Cực chính
là vũ trụ.)
"Cõi không động" ấy
ở đâu??? Đạo xuất hồn đặt cơ sở tu luyện trên xác thân và luồng
điển châu lưu Nhâm mạch, Đốc mạch. Trong toàn cơ thể, tuyệt đối không
có chỗ nào không động để gọi là cõi không động! Có lần Tám
nói Cõi Không Động là cõi chỉ có hào quang mà thôi. Câu giải thích này
phản khoa học thường thức và phản chính "khoa học huyền bí" của
đạo xuất hồn. Ánh sáng là do sự rung động của các quang tử, hào quang
cũng chỉ là điển rung động ở một tần số nhất định. Đã rung tức
động, động thì khỏi không động.
CHƯA HẾT! CÓ LẦN PHẬT TÁM ĐÃ
PHÁN RẰNG: "ĐIỂN TỨC LÀ NƯ•C, NƯ•C TỨC LÀ ĐIỂN, VÌ TRONG CƠ THỂ
CÓ NƯ•C THÌ ĐIỂN M•I CÓ CH’ CHạY, THẤY KHÔNG ? CHO NÊN BÂY GI- CÁI
ĐIỂN CỦA NHÀ ĐÈN, MÌNH ĐỂ HAI S"I DÂY ĐIệN DƯ•I NƯ•C, MÌNH THỌC
TAY VÔ NƯ•C LÀ BỊ GIỰT LIỀN."
Sự việc cũng không hề chấm dứt
ở đó. Phật Tám còn tùy hứng đặt ra hằng mấy chục thứ điển khác
nhau, trong số có... "điển tâm", có lẽ chỉ vì nghe nói Phật
giáo luận nhiều về Tâm.
- Cao điểm của
trò "điển giáng" :
- ông lên bà xuống, và
"cha trường" xuất hiện
Giấy trắng mực đen rõ
ràng đã cho thấy tổ sư ĐTH và LSH đều chỉ nói tán loạn, rốt cuộc chẳng
xác định được "điển" là gì. Đối với đạo này, điển
là cứu cánh, là tất cả. Và khái niệm điển đã được các giáo
chủ giải thích như thế đó.
"Điển" có một công dụng
rất rõ rệt cho những ai đã sa lầy xuống cái hố cạm bẫy của những
xung cảm và giao động trong cơ tạng và thần kinh hệ : nó được họ dùng
làm căn cứ địa tối tăm để rút về trốn núp các ngọn giáo trí tuệ
sắc bén của những người không hề bị mê hoặc bởi cái gọi là "điển".
Nói chung, lá bùa "điển" hão
huyền, không tưởng, xưa nay đã gây cho biết bao nhiêu người uổng phí năm
tháng, tiền của là còn may lắm. Nói "may" là so với những người
khởi tâm lành, muốn tu, nhưng lại lạc vào trò đêm đêm xếp chân ngồi
nhắm nghiền mắt, lòng canh cánh mong cho được "điển giáng", mong
cho được ai đó bên thế giới vô hình nói cho mình nghe một điều gì bí
mật của "thiên cơ", hoặc một tai ương lớn lao gì đó sắp xảy
đến nay mai, để sáng ngày mình ra vẻ quan trọng, xù xì, úp mở với đôi
ba người xung quanh. Sau đôi ba năm, chứng này biến thành tâm bệnh, bởi
lúc nào cũng nghĩ tưởng đến con người và thế giới vô hình do chính
mình mường tượng. Ít nói nhưng h mở miệng là phán những lời tiên tri,
những chuyện trọng đại "cơ trời", "luật trời",
"phán xử", "trừng phạt", "bên trên xắp xếp",
v.v. và v.v., hăm he vận mạng người này, doạ dẫm hồn vía người kia,
oai vệ cứ như mình là nhân vật trọng đại đã được đặc biệt mời
dự buổi họp hàng đêm trên... "thiên đình", cứ như ta đây đã
nắm rõ tất cả vận hành của nhân sinh và vũ trụ. Nặng hơn thì đến
điên loạn bởi lúc nào miệng cũng lẩm bẩm đối thoại với ai đó
"đang nói vào tai mình".
Chẳng qua cũng chỉ vì lòng ham hố
được chút danh hão, mong được mọi người xung quanh kính nể mình vì
mình biết bí mật "thiên cơ", biết chuyện họa phước tương lai,
có biết đâu đã vô tình tự "mở cửa" mời gọi quỷ ma xâm nhập.
Đây là một bí mật mà nhiều người tu vì không biết nên từ lòng chân
chất ham tu buổi ban đầu mà về sau phải lún dần vào cái hố thẳm loạn
tưởng triền miên, kiếp này sang kiếp khác, khó có ngày ra khỏi.
Khởi sự từ những năm 1983-84 cho
đến gần hết thập niên này, trò "điển giáng" trong đạo Vô Vi
lên cao độ nhất, khôi hài nhất, đáng tội nghiệp nhất, và nhảm nhí nhất.
Các sân khấu đại hội Vô Vi hàng
năm thời ấy cực kỳ náo động và vui nhộn. "Bạn đạo Vô Vi"
đua nhau lên đồng, nhập xác tán loạn, kể cả những khi họ có dịp vào
gặp LSH tại bất cứ nơi nào LSH "giáng lâm". Có cô bỗng nhiên bước
tới trước mặt "đức thầy Tám", sàng qua, sàng lại, khom lưng, vòng
tay, ẻo qua, ẻo lại, bước tới, bước lui... Mọi người ngơ ngác, chẳng
biết cô làm cái giống chi, Phật Tám LSH ra bộ rành rẽ, tỉnh khô phán :
- "Tiên ở trển người ta múa như vậy !"
(Tôi thấy té ra tiên ở trển múa
xem rõ chán phèo. Còn phải tập luyện cực khổ lâu lắm mới múa được
như các tiên nữ hạ giới tại Las Vegas !!!)
Có ông xăm xăm lên sân khấu phát
xưng mình là ông thần kia, ông thánh nọ; vừa xong lại có bà cũng bỗng
khơi khơi xưng mình là Phật Mẫu; chốc lát sau lại có cậu oang oang tiên
tri thời cuộc thế giới, vận mạng vũ trụ, v.v. và v.v. Thực là sôi động,
náo nhiệt, tưng bừng khôn tả. Tuy nhiên hầu hết đều chỉ liều mạng làm
Phật, làm Thần, làm Thánh gì đó độ mươi lăm phút hay nửa giờ rồi
"thăng", l phép trả lại sân khấu cho đức thầy Tám làm chủ. Cho
đến khi Trần văn Trường xuất hiện.
Trần văn Trường Nhẩy Ra Đoạt Gọn Sân Khấu Vô Vi
Bỗng nhiên, không ai thông
báo, không "sấm truyền", dĩ nhiên không cả sự "tiên tri"
của LSH, Trường đột ngột xuất hiện và tức khắc làm chủ tình hình
các sân khấu VV. Trường không nhát cựa như mọi người. Trường vỗ ngực,
vênh mặt, dõng dạc tuyên bố hắn là "Cha".
Chấn động càn khôn ! Trong "hệ
thống quân giai" của Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp-tức
đạo VV, tức đạo xuất hồn-Cha là Cha Trời, tức Thượng Đế, trên
Phật, có quyền hành hơn Phật một bậc. Do đó, Phật Tám bỗng hụt giò,
bàng hoàng, thảm hại. Phật Tám chết trân trước sự việc xảy ra quá bất
ngờ và mau lẹ, hoàn toàn ngoài khả năng xuất hồn, xuất vía của mình.
Phật Tám thẫn thờ, không biết
làm gì hơn, đành biết chịu trận cho một tên lạ hoắc nhảy ra ngang
nhiên ngồi chình ình trên đầu mình. Trường tỉnh khô, công khai gọi Phật
Sống là..."thằng Tám"!!!
Trường nổi như cồn, lên như diều
gặp gió trên các sân khấu và hậu trường đạo xuất hồn, mau chóng được
nhiều môn đồ xuất hồn chấp nhận và gọi là "Cha Trường".
Trường cũng tự chọn cho mình một nhãn hiệu : "Cha Nhẫn Hoà".
Khi nghiêm nghị, lúc thơ thới, Trường nói liên miên không ngừng, cứ như
đã nhiều năm bị bịt miệng không được nói. Phật Tám trái lại, bí xị,
thê lương, ỳ thộn ra đó một đống, ngơ ngác suy tư, trông đến tội
nghiệp. Ai cũng thấy Tám cú rủ còn hơn con gà mái phải mưa, ngồi nghe
Trường múa mỏ, huyên thuyên, rực rỡ, lộng lẫy, quyến rũ..., như một
con công chúa trong các cặp mắt của môn đồ ! (Nếu LSH và các môn đồ bất
mãn khi đọc những đoạn này, xin xem lại các băng video.) Nhiều buổi hội
họp từ đầu chí cuối Tám tuy cũng ngồi một bên sân khấu nhưng không hề
có được lấy một lần ra lời. Thỉnh thoảng Trường xoay qua bàn Tám, mở
ngỏ cho Tám phát biểu một vài lời.
Trường nói đạo hồn vía như
mưa, nhưng cũng dùng các tuyệt chiêu rất tương tự với Tám : toàn những
sự việc chỉ có trong mối loạn tưởng của riêng y. Dẫu cho FBI, CIA, KGB,
Scotland Yard, và Mossad hợp sức lại đi nữa cũng chỉ có nước chịu thua
không kiểm chứng nổi. Thì cũng chẳng có gì khác hơn vía, hồn, điển,
"Thiêng Liêng", "ở trển", Thiên Đình, Địa ngục, Thiên Cơ
Bất Khả Lậu, v.v. và v.v. Có khác là người nói bây giờ chính là
"Cha Trời", và các môn đồ ngây người ra nghe chết mê, chết mệt.
Nhìn Phật Tám, đám môn đồ có phần
ái ngại nhưng cũng đành bỏ Tám, ùn ùn theo tuân phục Trường. Tâm trạng
đa số lúc bấy giờ là : Ngu sao còn chờ gì không theo ? Rõ ràng ông mập
này là ông Phật Sống bấy lâu nay, bây giờ ông ốm kia là "Cha Trời
giáng lâm", là thượng cấp của ông Phật này xuống độ thế, ngu sao
còn đợi gì mà không theo ? Cha Trường chính là Giáo Chủ Hội... "Long
Vân", mình không theo ai cứu "phần hồn" mình ngày tận thế sắp
tới ???
Tình hình đạo xuất hồn náo động,
biến chuyển vùn vụt như miền Nam Việt Nam sáu, bảy tháng trước ngày 30
tháng 4, 1975.
Hai Tên Hề Trên Sân Khấu Vô Vi
Đã nhiều ngày tháng Phật
Tám ngồi chơi sơi nước thộn ra trên sân khấu nghe Trường nói không biết
mỏi miệng. Tám trở nên vô dụng và thừa thãi đến nỗi một hôm phải
cùng Trường làm một màn hề. Trường giả trang làm Cha Trời, và Tám giả
trang làm... Mẹ Trời !!! Tám má hồng môi son, quàng khăn đầu, cặp tay
Trường bước ra sân khấu. Các môn đồ ngồi dưới bỗng nhiên thấy
trên sân khấu hai đứa hề diêm dúa xiêm y, mặt mày bôi vẽ, vạch màn bước
ra. Cả đám ngơ ngác chẳng hiểu nổi là cái đạo lý chi ! Hai tên hề thấy
khán giả chẳng ai há miệng cười, hoặc vỗ tay, hoặc phản ứng gì ráo,
bèn chỉ biết đứng đực ra... chờ đợi. Rồi có tiếng ai giải thích,
các môn đồ ngồi dưới gượng cười giả lả và vỗ tay lộp bộp cho
vui nhà, vui cửa.
Trường Tự Hại, Mở Đường Cho Tám Xả Thẳng Tay
Trường tuổi đời nhỏ hơn Tám
nhiều, nên còn lắm nông nổi, vụng về, và không kềm chế, che dấu hoặc
bào chữa các tật xấu giỏi như Tám. Trường cũng xưng "mày tao"
với đệ tử, và dĩ nhiên Trường "mày tao" luôn cả với Tám.
(Xưa có lần Phật Tám từng bị hỏi
về sự thô lỗ này. Tám rằng Tám thương đệ tử cũng như cha mẹ
thương con, nên gọi ai cũng... đứa này, đứa nọ, con nọ, thằng kia, là
phải chớ có gì đâu ?)
Tuy thế, chẳng phải tất cả đều
tuân phục Trường. Thỉnh thoảng có người cãi lý, phần để thử cựa
Trường, phần vì Trường lắm khi lóc chóc, mày tao với môn đồ ỏm tỏi,
tự làm giảm uy phong của mình. Trường chẳng có bao nhiêu "nhẫn và
hòa" như nhãn hiệu "Cha Nhẫn Hoà" tự phong. Nếu như Trường
biết ẩn nhẫn đợi thêm 5 năm sau hãy xuất đầu lộ diện, có lẽ cơ
nghiệp bá chủ xuất hồn của Trường đã lâu bền hơn rất nhiều. Tánh
sân còn lừng lẫy, Trường nhiều lần xách cây đập môn đồ lớn bé
chí chạp. Mấy lần Trường đòi đập luôn... Phật Tám vì "Phật mà
dám trái ý Cha Trời." Trường lại còn đang tuổi đòi hỏi nhục dục
nam nữ. Coi bộ Trường chỉ bạo phổi nhưng non kinh nghiệm nên không
thoát khỏi các hố bẫy to tướng này. Các đệ tử bắt đầu xì xào về
thái độ quá khích và các hành vi khác của Trường. Tám thấy thế cờ đã
mở, bắt đầu phát ngôn bóng gió, gầy lại uy thế dần dà.
Phật sống Tám Nhờ Điển Mà Hạ Được Trường
?
Môn đồ đạo xuất hồn đóng
góp tiền xây cất nên cái gọi là "Thiền Viện Nhẫn Hoà" tại thủ
đô Olympia của Washington State. Ngoài ra, còn cất thêm một cái cốc riêng
cho Trường tại Thiền Viện 00, Oroville, California. Tất cả để chuẩn bị
cho Trường lên ngôi trùm vũ trụ năm 1989, năm "Đại Hội Long Vân".
Xem thế đủ biết Trường đã thành công vượt bực, dẫu LSH vẫn còn một
số đệ tử trung kiên, và có kẻ không chịu lạy Trường. Phật Tám dư
biết ngày Trường đăng quang cũng sẽ là ngày Tám lùi sâu thêm vào bóng tối
hậu trường.
Nhơn Trường xách cây tìm Tám đòi
đập cũng lại vì "Phật mà dám khác ý với Cha Trời", Tám hạ thủ.
Phật Sống cầu viện các đấng thiêng liêng đại diện cho luật pháp, là
các ngài có nhiệm vụ giữ gìn an ninh và trật tự xã hội tại quốc gia
Hoa Kỳ, châu Mỹ, địa cầu, thái dương hệ. Rốt cuộc, chẳng phải điển
Thiêng Liêng, điển Thượng Đế, hoặc điển ở trển nào đã
giải quyết cuộc tranh dành làm ông trùm xuất hồn giữa Trường và Tám.
Chỉ là mấy thầy chú Cảnh Sát Mỹ, con chó lửa giắt bên hông phải,
cây ba-toong giắt bên hông trái, ngồi xe có đèn xanh đèn đỏ trên mui chạy
tới.
- xứ Hoa Kỳ văn minh nơi hạ giới
phàm trần này, nếu Trường xách cây đập con chó nhà hàng xóm thời Trường
cũng được rước ngồi xe có ghế nệm, có còi hụ, có đèn màu chớp chớp,
nói chi đập con người. Trường bị còng tay, lủi thủi ra đi. Tám lấy lại
cuộc đời làm Phật sống kiêm Chúa Jêsu trên sân khấu Vô Vi.
Cho đến gần 10 năm sau, một trong
vài ba môn đồ VV sống tại Thiền Viện 00 vẫn còn hoạnh hoẹ :
- "Thiền Viện này có điển
của Đức Thầy coi giữ, ngoài cổng có Long Thần, Hộ Pháp canh,
có chuyện là cảnh sát nó chạy tới liền hà, chớ đừng có tưởng!"
Sau khi Trường thất sủng thảm
thương, một số đông môn đồ tỉnh cơn mê ma quái, từ bỏ đạo này vĩnh
vin. Trường hiện nay vẫn còn ở với người nữ đệ tử từ dạo ấy.
Thiền viện tại Olympia vẫn còn giữ tên "Nhẫn Hòa".
Trong một kỳ báo VV sau này, các
môn đồ thâm niên giải thích "biến cố Cha Trường" một cách đầy
hiểu biết : Thượng Đế chuyển điển tạm thời xuống bạn Trần Văn
Trường để giải quyết... những bất hoà của ban chấp hành.
Thêm một lần nữa, "Thượng
Đế" lại được dùng vào những công tác rất ư tạp nhạp của một
dúm người. Đây là một chứng bệnh thông thường, nguyên nhân phát xuất
từ cái TÔI, cái TA cực kỳ quan trọng, cực kỳ đặc biệt, cái TA có
"sứ mạng thiêng liêng", có nhiệm vụ "cứu đời", đến
nỗi "Thượng Đế" phải bỏ kệ nhiều tỉ người đang khốn đốn,
lầm than, nghèo đói trơ xương, bệnh hoạn không thuốc men, v.v., để đến
lo cho RIÊNG MÌNH !!!!!
Năm 1998, kẻ bị 50 ngàn đồng
hương tại Little Saigon, California, Hoa Kỳ, biểu tình mắng nhiếc, nguyền rủa,
chính là kẻ đã từng một thời làm "Cha Trời" từ trò "điển
giáng" mà ra vậy.
Xin đón xem phần cuối cùng :
- Luyện Xuất Hồn Để Tự Chữa Bệnh
- và Chữa Bệnh Cho Người Khác
Mọi ý kiến,
chia xẻ kinh nghiệm, xin gởi cho : pham_ba@hotmail.com
Lời thệ
nguyện | I | II
| III | IV | V | VI | VII