KINH VIÊN
GIÁC
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
2
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Thế tôn nhập vào
chánh định tên là Kho tàng ánh sáng vĩ đại của thần thông. Kho tàng ấy
là chỗ ở giữ một cách sáng chói tôn nghiêm của các đức Thế tôn, là
tính tuệ giác vốn rất trong suốt sạch sẽ của các loại chúng sinh. Đức
Thế tôn nhập vào chánh định ấy nên thân thể và tâm trí đều vắng lặng,
đồng nhất với bản thể phổ biến vũ trụ, nghĩa là thích ứng với sự
bất nhị. Chính sự bất nhị này biểu hiện thế giới trong sạch. Đức
Thế tôn ở nơi thế giới trong sạch này, và cùng ở với ngài có mười
ngàn vị đại sĩ mà các bậc đứng đầu là bồ tát Văn thù, bồ tát Phổ
hiền, bồ tát Phổ nhãn, bồ tát Kim cang tạng, bồ tát Di lạc, bồ tát
Thanh tịnh tuệ, bồ tát Uy đức tự tại, bồ tát Biện âm, bồ tát Tịnh
chư nghiệp chướng, bồ tát Phổ giác, bồ tát Viên giác, bồ tát Hiền
thiêển thủ; các vị này, và các vị tùy thuộc, cùng nhập vào chánh định,
nên cùng dự pháp hội bình đẳng của đức Thế tôn.
Lúc ấy bồ tát Văn thù ở trong đại
chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân
đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi
quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả,
con xin ngài vì các vị đến dự pháp hội này mà nói về việc làm căn bản
sơ khởi của đức Thế tôn là thế nào? Lại nói về các vị bồ tát ở
trong đại thừa phát tâm như thế nào mới trong suốt, tách rời bịnh hoạn?
Và thời kỳ cuối cùng, những người cầu pháp đại thừa phải như thế
nào mới khỏi sa vào kiến thức sai lầm? Tác bạch rồi, bồ tát Văn thù
gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức
Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu
xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Văn thù: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát mà
hỏi đến việc làm căn bản sơ khởi của Như lai, lại vì những người
cầu pháp đại thừa trong thời kỳ cuối cùng mà hỏi làm cách nào để
được sự trú ở chính xác, không sa vào kiến thức sai lầm. Ông hãy nghe
kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Văn thù vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại
chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
đức Pháp vương vô thượng có pháp đại tổng trì danh hiệu là Viên
giác, tuôn ra tất cả các pháp trong sáng là chân như, bồ đề, niết bàn
và ba la mật, để dạy cho các vị bồ tát. Việc làm căn bản sơ khởi của
chư vị Như lai là y theo viên giác ẫ y theo tuệ giác trong suốt và chiếu
soi trọn vẹn ấy mà diệt trừ vô minh một cách vĩnh viễn, mới thành đạt
tuệ giác Phật đà.
Thiện nam tử, vô minh là gì, là những
sự thác loạn có từ vô thỉ đến giờ của các loại chúng sinh, những sự
thác loạn tựa như một kẻ ngộ nhận thì bốn phương hướng biến đổi
vị trí tất cả. Do đó mà ngộ nhận sự tổ hợp của bốn đại chủng
làm tự thân, ngộ nhận sự nhận thức về sáu đối cảnh làm tự tâm,
khác nào mắt bịnh thì thấy không gian có hoa đốm, hay thấy mặt trăng có
mặt trăng thứ hai chồng lên. Nhưng không gian thật không có hoa đốm, hoa
đốm chỉ do người bịnh ngộ nhận: vì sự ngộ nhận này mà không những
ngộ nhận sự thực của không gian, lại còn ngộ nhận cả xuất xứ
chính xác của hoa đốm, và vì như vậy mà có sự sinh tử luân hồi, có một
cách không thật, nên mệnh danh là vô minh.
Thiện nam tử, vô minh như vậy là
không phải có thật , y như nhân vật trong mộng, mộng thì thấy là có mà
tỉnh thì biết là không -- Không đây là như hoa đốm mất đi trong không
gian, thì không thể nói không gian có cái vị trí biến mất, vì lẽ không
gian vốn không có cái vị trí sinh ra. Trong sự không sinh không mất như vậy,
các loại chúng sinh thấy lầm có sinh có mất , nên gọi là sinh tử luân hồi
; còn việc làm căn bản sơ khởi của chư vị Như lai là tu theo viên giác
: biết là hoa đốm thì biết sinh tử luân hồi là không, thân tâm lãnh chịu
sự sinh tử luân hồi ấy cũng là không ẫ Không, không phải làm cho không
đi mới không, mà là thực chất vốn không. Biết là hoa đốm, cái biết
ấy cũng là không; cái biết cũng là không như vậy cũng chỉ là sắc thái
hoa đốm; và như thế thì cũng không thể nói rằng không biết gì cả: có
và không đều loại bỏ thì gọi là thích hợp với tuệ giác trong sáng.
Tuệ giác trong sáng là vì bản thể vốn như không gian, vĩnh viễn bất động,
nghĩa là Như lai tạng không có sự sinh ra và sự mất đi, không có cái thấy
biết phản ảnh sự sinh ra và sự mất đi, mà là bản thể vũ trụ vốn
tuyệt đối, trọn vẹn và phổ biến.
Như thế đó là việc làm căn bản
sơ khởi của Như lai. Bồ tát y theo căn bản ấy mà ở trong đại thừa phát
tâm trong suốt. Và những người thời kỳ cuối cùng y cứ căn bản ấy mà
tu hành thì không sa vào kiến thức sai lầm.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Văn thù nên biết,
- tất cả Như lai
- căn bản sơ khởi
- vận dụng tuệ giác:
- biết rằng vô minh
- chỉ như hoa đốm
- nên hết luân hồi,
- khác nào cảnh mộng
- mộng mị thấy có
- thức tỉnh toàn không.
- Cái biết trên đây
- vốn cũng là không,
- bình đẳng, bất động,
- phổ biến mười phương:
- ấy là thành đạt
- tuệ giác Phật đà.
- Huyễn ảo biến mất
- thì không vị trí,
- tuệ giác thành đạt
- cũng vốn là không,
- vì lẽ bản thể
- vốn là tròn đầy.
- Y cứ vào đây
- các vị bồ tát
- có thể phát ra
- tâm đại bồ đề;
- những người sau này
- heo đây mà tu
- thì khỏi sa vào
- kiến thức sai lầm.
Lúc ấy bồ tát Phổ hiền ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch : Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, con xin ngài vì các vị bồ tát trong đại hội này, lại vì những
người tu hành đại thừa trong thời kỳ cuối cùng, mà dạy cho họ biết,
nghe nói viên giác trong sáng như vậy thì tu hành cách nào: Nếu họ biết
là huyễn ảo cả, thì thân thể và tâm trí cũng là huyễn ảo, làm sao
đem huyễn ảo tu hành huyễn ảo? Nếu thực chất huyễn ảo là hủy diệt
tất cả, thì thân thể và tâm trí cũng là không, như vậy ai là người tu
hành để nói sự tu hành cũng như huyễn ảo? Nếu người tu hành cũng không,có
nghĩa chúng sinh không tu hành, vĩnh viễn đắm mình trong cảnh huyễn ảo của
thế giới sinh tử luân hồi, không hề thấu hiểu chân lý huyễn ảo, như
vậy làm sao thoát được tư tưởng ngộ nhận? Con lại thỉnh cầu đức
Thế tôn dạy cho những người sau này biết tu hành chánh định Như huyễn
bằng phương tiện gì và thứ tự nào để vĩnh viễn thoát bỏ huyễn ảo?
Tác bạch rồi, bồ tát Phổ hiền gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận
của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến
ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Phổ hiền: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát
và những người sau này mà hỏi Như lai, rằng họ phải tu tập phương tiện
và thứ tự của chánh định Như huyễn như thế nào để thoát bỏ huyễn
ảo. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ hiền vâng lời, hoan
hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
hết thảy huyễn ảo của chúng sinh đều phát sinh nơi viên giác -- nơi cái
tâm vi diệu mà Như lai chứng ngộ, tương tự hoa đốm có trong không gian.
Nhưng hoa đốm huyễn ảo thì hủy diệt mà không gian thì không hủy diệt:
vô minh huyễn ảo thì hủy diệt vì thân tâm huyễn ảo, huyễn ảo hủy diệt
mà viên giác bất động. Đối với huyễn ảo mà nói viên giác, thì viên
giác ấy cũng là huyễn ảo; nói viên giác là có thì vẫn thuộc phạm trù
huyễn ảo, nói viên giác là không thì cũng y như thế. Huyễn ảo hủy diệt
mới là viên giác bất động. Thế nên hết thảy bồ tát, và những người
sau này, phải thoát bỏ cho được mọi sự huyễn ảo.
Nhưng cố chấp ý thức thoát bỏ
thì cái ý thức thoát bỏ này cũng phải thoát bỏ. Sự thoát bỏ cái ý thức
thoát bỏ này cũng phải thoát bỏ. Và sự thoát bỏ cái sự thoát bỏ này
cũng phải thoát bỏ. Không còn gì để thoát bỏ nữa thì mọi sự huyễn
ảo hủy diệt. Ví như người kéo cây lấy lửa, hai cây cọ xát với nhau,
lửa phát thì hai cây cháy cả, cháy đến khói cũng tản, tro cũng bay : đem
huyễn ảo diệt trừ huyễn ảo cũng tương tự như vậy. Và huyễn ảo mất
hết mà sự đó không nhập vào cái loại kiến thức sai lầm chủ trương
mọi sự đều mất hẳn.
Thiện nam tử, biết là huyễn ảo
thì thoát bỏ huyễn ảo, không làm phương tiện gì khác; huyễn ảo thoát
bỏ thì viên giác trong sáng, không có thứ tự nào cả. Các vị bồ tát,
và những người sau này, y theo sự chỉ dẫn trên đây mà tu hành mới vĩnh
viễn thoát bỏ huyễn ảo.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Phổ hiền nên biết,
- vô minh huyễn ảo
- là có ở nơi
- diệu tâm viên giác,
- tương tự hoa đốm
- có trong không gian,
- hoa đốm hủy diệt
- không gian bất động;
- huyễn ảo phát sinh
- ở nơi viên giác,
- huyễn ảo hủy diệt
- viên giác trọn vẹn,
- vì lẽ viên giác
- bản tính bất động.
- Nên các bồ tát
- và người sau này
- thoát bỏ cho được
- mọi sự huyễn ảo.
- Huyễn ảo thoát bỏ
- là như một kẻ
- kéo cây ra lửa,
- lửa phát cây cháy
- cây cháy hết cả
- lửa cũng không còn.
- Viên giác thì không
- phương tiện gì cả,
- và cũng không cả
- cái sự thứ tự.
Lúc ấy bồ tát Phổ nhãn ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, con xin ngài vì các vị bồ tát trong đại hội này, và vì những
người trong thời kỳ cuối cùng, chỉ dạy phương tiện thứ tự mà bồ
tát tu hành: họ phải tư duy như thế nào? phải trú ở như thế nào? và
truyền đạt như thế nào cho người chưa biết? Thưa đức Thế tôn, nếu
họ không biết tư duy và trú ở chính xác theo phương tiện chính xác, thì
nghe chánh định Như huyễn của đức Thế tôn dạy, họ sẽ mờ mịt,
thác loạn, không thể nhập vào viên giác. Xin đức Thế tôn thương tưởng,
vì chúng con và vì những người sau này mà chỉ dạy phương tiện ấy. Tác
bạch rồi, bồ tát Phổ nhãn gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của
thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến
ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Phổ nhãn: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát,
và những người sau này, hỏi Như lai về phương tiện thứ tự của sự
tu hành: hỏi cách tư duy và cách trú ở của sự tu hành, hỏi cách truyền
đạt những sự ấy. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ
nhãn vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
các vị bồ tát mới tu học, và những người thời kỳ cuối cùng, muốn
phát hiện viên giác mà Như lai đã chứng ngộ thì phải có sự nhớ nghĩ
chính xác, nhớ nghĩ về sự thoát bỏ huyễn ảo, bằng cách trước hết
phải y cứ pháp hạnh xa ma tha -- pháp hạnh tập trung tư duy của Như lai,
phải nghiêm giữ giới luật, sắp đặt đồ đệ cho yên, và thường ngồi
trong phòng thất yên tĩnh, nhớ nghĩ luôn như thế này. Thân thể của ta đây
chỉ là sự tổ hợp của bốn đại chủng: những gì cố thể thì thuộc
về đất, những gì dịch thể thì thuộc về nước, những gì nhiệt lực
thì thuộc về lửa, những gì động lực thì thuộc về gió. Nhưng bốn đại
chủng ấy tách rời với nhau, thì gọi là cái thân là cái gì? Suy nghĩ
như vậy thì biết cái thân ấy cứu cánh không có cá thể, chỉ là một
hình thái tổ hợp, thực chất huyễn ảo.
Do bốn đại chủng làm những yếu
tố tương quan mà tổ hợp lại một cách không thật nên có ra sáu giác
quan, có cũng một cách không thật. Rồi sáu giác quan ở trong và bốn đại
chủng ở ngoài tổ hợp với nhau mà có một cách không thật những sự
vin theo đối cảnh, và tụ lại tựa như có ấn tượng: như thế giả gọi
là tâm thức. Tâm thức không thật như vậy nếu không có sáu đối cảnh
thì không thể có được. Nhưng bốn đại chủng phân tán thì sáu đối cảnh
cũng không thể có. Đại chủng và đối cảnh phân tán thì rốt cuộc cũng
không có tâm thức có thể tìm thấy.
Thiện nam tử, người ấy thấy thân
thể như huyễn ảo hủy diệt thì tâm thức như huyễn ảo hủy diệt, tâm
thức như huyễn ảo hủy diệt thì đối cảnh như huyễn ảo hủy diệt,
đối cảnh như huyễn ảo hủy diệt thì sự hủy diệt như huyễn ảo
cũng hủy diệt, sự hủy diệt như huyễn ảo cũng hủy diệt thì cái
không phải huyễn ảo sẽ không hủy diệt, giống như lau gương, dơ bẩn
lau hết thì trong sáng hiện ra: Phải biết thân tâm toàn là hình thái dơ bẩn,
hình thái dơ bẩn diệt hẳn thì vũ trụ trong sáng.
Thiện nam tử, như khối ngọc trong
suốt phản ảnh đủ cả năm màu, mỗi màu hiện một phía, vậy mà kẻ
ngu dốt thì nói khối ngọc thật có năm màu. Tương tự như vậy, viên
giác trong sáng ảnh hiện thân tâm thích ứng từng loại, vậy mà người
ngu dốt nói viên giác thật có các hình thái thân tâm. Do đó mà họ không
thể thoát bỏ huyễn ảo dơ bẩn, và, với họ, Như lai nói thân tâm đều
là huyễn ảo dơ bẩn; đối lại, ai thoát bỏ huyễn ảo dơ bẩn thì Như
lai gọi là bồ tát; và huyễn ảo dơ bẩn hết rồi thì sự đối lại
cũng không còn: không còn dơ bẩn, không còn người thoát bỏ dơ bẩn, không
còn người giả thiết tên gọi.
Thiện nam tử, các vị bồ tát, và
những người sau này, khi thực hiện được trạng thái huyễn ảo hủy diệt,
thì bấy giờ thấy sự trong sáng vô biên, được biểu hiện bởi viên
giác trong sáng vốn như không gian vô hạn.
Viên giác trong sáng nên tâm thức
trong sáng, tâm thức trong sáng nên sự thấy trong sáng: sự thấy trong sáng
nên nhãn căn trong sáng, nhãn căn trong sáng nên nhãn thức trong sáng; nhãn
thức trong sáng nên sự nghe trong sáng: sự nghe trong sáng nên nhĩ căn trong
sáng, nhĩ căn trong sáng nên nhĩ thức trong sáng; nhĩ thức trong sáng nên sự
hay và sự biết trong sáng, nghĩa là tyՍ căn tyՠthức, thiệt căn thiệt thức,
thân căn thân thức và ý căn ý thức đều trong sáng cả. Căn và thức
trong sáng nên cảnh trong sáng: sắc thanh hương vị xúc pháp đều trong sáng
cả. Sáu cảnh trong sáng nên bốn đại trong sáng : đất nước lửa gió đều
trong sáng cả. Bốn đại trong sáng nên mười hai xứ, mười tám giới, và
hâm lăm hữu, đều trong sáng cả.
Các pháp trên trong sáng nên mười
lực, bốn vô úy, bốn vô ngại trí, mười tám bất cọng pháp, bâm bảy bồ
đề phần, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều trong sáng cả.
Thiện nam tử, toàn bộ các pháp bản
thể trong sáng nên một thân trong sáng, một thân trong sáng nên nhiều thân
trong sáng, nhiều thân trong sáng nên cho đến mười phương chúng sinh toàn
là viên giác trong sáng.
Thiện nam tử, thân trong sáng nên
thế giới trong sáng: một thế giới trong sáng nên nhiều thế giới trong
sáng, nhiều thế giới trong sáng nên cho đến cùng không gian mười phương
và suốt thì gian ba đời toàn bộ đều trong sáng.
Thiện nam tử, không gian bất động,
nên viên giác bất động, bốn đại bất động nên viên giác bất động,
và y như vậy, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều bất động
nên viên giác bất động.
Thiện nam tử, viên giác trong sáng,
bất động và phổ biến nên sáu căn phổ biến pháp giới, sáu căn phổ
biến pháp giới nên sáu cảnh phổ biến pháp giới, sáu cảnh phổ biến
pháp giới nên bốn đại phổ biến pháp giới, và y như vậy, cho đến tất
cả tổng trì môn đều phổ biến pháp giới.
Thiện nam tử, viên giác phổ biến
nên căn và cảnh không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau, căn và cảnh
không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau nên cho đến hết thảy tổng trì
môn đều không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau. Sự thể ví như hàng trăm
hàng ngàn ngọn đèn chiếu sáng một phòng, ánh sáng ngọn đèn nào cũng phổ
biến cả phòng mà không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau.
Thiện nam tử, bồ tát thành đạt
viên giác như vậy, nên không buộc các pháp không mở các pháp, không chán
sinh tử không ham niết bàn, không kính giữ giới không ghét phá giới,
không trọng tu lâu không khinh mới học, vì lẽ toàn thể đều là viên
giác. Sự thể ví như mắt thấy cảnh vật, sự thấy ấy thấy toàn diện
mà không ghét không ưa, vì lẽ thực chất của sự thấy không có hai ý thức
này.
Các vị bồ tát, và người sau này,
tu tập mà thành đạt viên giác như vậy, thì đối với chính viên giác
ấy đã không tu tập và không thành đạt, chiếu sáng một cách tròn đầy
mà trong lặng, không có những khái niệm đối lập lẫn nhau. Chính trong
cái trạng thái chiếu sáng này mà thấy hằng sa thế giới y như hoa đốm
nổi lên hay mất đi với bao nhiêu là hình thái, thấy các pháp không dính
líu không tách rời, không trói buộc không cởi mở, thấy chúng sinh vốn
là Phật đà, sinh tử với niết bàn đều như giấc mộng. Vì đều như giấc
mộng nên đối với sinh tử và niết bàn thì thấy không nổi không tan,
không đến không đi; đối với chân lý sở chứng thì thấy không được
không mất, không lấy không bỏ; đối với tuệ giác năng chứng thì thấy
không làm không ngưng, không buông không dứt; đối với sự chứng ngộ thì
thấy không năng chứng không sở chứng, cứu cánh không có sự chứng ngộ
và người chứng ngộ. Thấy như vậy là vì toàn bộ các pháp đều bình
đẳng và không phá hoại nhau.
Thiện nam tử, các vị bồ tát hãy
tu hành theo phương tiện thứ tự như vậy: hãy tư duy như vậy, hãy trú
ở như vậy, hãy đem những sự ấy truyền đạt cho người cầu pháp, thì
những người này cũng không mù mờ, rối trí.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Phổ nhãn nên biết,
- thân tâm chúng sinh
- như huyễn ảo cả:
- thân thuộc bốn đại,
- tâm nhờ sáu cảnh;
- bốn đại rời nhau
- thì gọi cái gì
- là sự tổ hợp?
- Tu dần như vậy
- tất cả trong sáng,
- bất động, phổ biến,
- không làm không ngưng
- không buông không dứt
- không người chứng ngộ.
- Hết thảy thế giới
- chỉ như hoa đốm
- ở trong không gian,
- quá khứ hiện tại
- cùng với vị lai
- bình đẳng tất cả,
- cứu cánh không đến
- mà cũng không đi.
- Bồ tát mới tu
- và người sau này
- muốn được nhập vào
- tuệ giác Phật đà
- thì phải nỗ lực
- tu tập như vậy.
Lúc ấy bồ tát Kim cang tạng ở
trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã khéo vì các vị bồ tát mà tuyên dương đại tổng trì
Viên giác là căn bản sơ khởi của ngài, lại chỉ dạy phương tiện thứ
tự để tu tập đại tổng trì ấy. Ngài đã khai phá mù mờ cho chúng
sinh. Mọi người trong đại hội này nhờ vâng lãnh huấn dụ từ bi của
ngài mà màng huyễn ảo tiêu tan, mắt tuệ giác trong sáng. Thưa đức Thế
tôn, nếu chúng sinh vốn là Phật đà thì vì sao lại có vô minh? Nếu vô
minh là chúng sinh vốn có thì vì sao đức Thế tôn nói chúng sinh vốn là
Phật đà? Nếu chúng sinh vốn là Phật đà, sau đó mới nổi lên vô minh,
như thế thì chư vị Thế tôn lúc nào trở lại phát sinh phiền não? Kính
xin đức Thế tôn không xả bỏ lòng thương cao cả vốn không ngăn chận
ai hết, vì các vị bồ tát mà khai mở cho họ được thấy kho tàng viên
giác bí mật, lại làm cho những người sau này được nghe kinh pháp viên
giác liễu nghĩa, ai cũng hết hẳn mọi sự ngờ vực. Tác bạch rồi, bồ
tát Kim cang tạng gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể
mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi
lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Kim cang tạng: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát, và những người sau này, mà hỏi Như lai về viên giác rất sâu xa và
sự cứu cánh của viên giác ấy. Viên giác ấy là giáo huấn tối thượng
và đại thừa liễu nghĩa truyền đạt cho bồ tát, có năng lực làm cho mười
phương các vị bồ tát đang còn tu học, và tất cả mọi người thời kỳ
cuối cùng, được lòng tin cố định, hết hẳn nghi ngờ. Ông hãy nghe kyլ
Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Kim cang tạng vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại
chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
chúng sinh, và thế giới của chúng sinh, mở đầu hay kết cuộc, phát sinh
hay hủy diệt, lúc trước hay lúc sau, hiện hữu hay trống không, tụ lại
hay tan ra, nổi lên hay ngưng lại, những hình thái này nối tiếp với nhau
ngay trong từng đơn vị thì gian chỉ như sự thoạt hiện hay thoạt biến của
ý nghĩ, qua lại liền liền, lấy bỏ đủ cách, toàn là luân hồi. Chưa
vượt luân hồi như vậy mà nói viên giác, thì tính cách viên giác ấy cũng
là tính cách luân hồi, vậy mà mong thoát khỏi luân hồi thì thật vô lý.
Sự thể ví như hoa mắt thì nước đứng mà thấy ra xao động, đờ mắt
thì lửa quay mà thấy thành vòng tròn, mây bay mà thấy trăng chạy, đò lướt
mà thấy bờ đi...; những trạng thái xoay đảo của sự thấy như vậy nếu
chưa đình chỉ mà muốn những thứ được thấy phải đứng lại trước,
thì ý muốn đó còn không thể nào thực hiện được, huống chi cái tâm
trí luân hồi chưa được lắng trong, thì nhìn vào viên giác của Như lai làm
sao khỏi thấy xoay đảo. Đó là lý do lầm lẫn trong ba câu hỏi của ông.
Thiện nam tử, ví như con mắt bị
bịnh màng mắt, nên nhìn không gian thấy có hoa đốm. Khi bịnh màng mắt
đã lành vĩnh viễn thì không nên hỏi màng mắt đã mất đó bao giờ lại
nổi lên nữa, vì lẽ con mắt với màng mắt không phải đi đôi với nhau.
Hơn nữa, hoa đốm đã mất đi trong không gian, thì khi ấy không nên hỏi
lúc nào không gian lại nổi lên hoa đốm, vì lẽ không gian vốn không có
hoa đốm, vì lẽ bản thể không gian vốn không phải nổi lên hay mất đi.
Mà sinh tử với niết bàn thì chỉ như sự nổi lên hay sự mất đi của
hoa đốm, còn viên giác thì vốn không có hoa đốm và màng mắt. Phải biết
không gian mà còn không phải có một cách tạm thời, cũng không phải
không một cách tạm thời, huống chi viên giác mà Như lai chứng ngộ là bản
thể bình đẳng của các pháp trong đó có không gian.
Thiện nam tử, như lọc quặng vàng
thì vàng không phải do lọc mới là vàng, và vàng đã lọc thành vàng ròng
thì không bao giờ trở lại làm quặng nữa, để lâu đến mấy vàng ròng
đó cũng không hư hỏng. Như vậy không thể nói vàng vốn không phải là
vàng... Viên giác mà Như lai chứng ngộ cũng tương tự như vậy.
Thiện nam tử, viên giác mà Như lai
chứng ngộ vốn không có bồ đề với niết bàn, vốn không có sự thành
Phật đà hay sự không thành Phật đà, vốn không có sự luân hồi và sự
không phải luân hồi. Thiện nam tử, sự viên thành của các vị thanh văn
là tiêu diệt tất cả thân tâm ngôn ngữ, mà không bao giờ đạt đến viên
giác của Như lai đích thân chứng ngộ, huống chi tâm trí tư duy thì làm
sao lường được viên giác ấy. Đem lửa đom đóm đốt núi Tu di thì
không bao giờ đốt được: vận dụng tâm trí luân hồi phát sinh kiến thức
luân hồi mà mong nhập vào biển cả vắng lặng vĩ đại của Như lai thì
không bao giờ vào được. Vì lý do ấy, Như lai nói rằng tất cả bồ
tát, và những người sau này, việc phải làm trước hết là loại trừ gốc
rễ luân hồi.
Thiện nam tử, tư duy xuất từ tâm
thức, tư duy ấy toàn là ảo tưởng vin theo sáu đối cảnh, không phải đích
thực là tâm thể. Tư duy ấy đã như hoa đốm, vận dụng tư duy ấy mà
mong đạt được viên giác của Như lai chứng ngộ, thì không khác gì hoa
đốm sinh trái đốm: ảo tưởng sinh ảo tưởng, không thể đạt được
viên giác. Thiện nam tử, ảo tưởng có lắm kiến thức khéo léo, không thể
là phương tiện của viên giác. Nên lối phân tích như ông không phải đặt
đúng vấn đề.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Kim cang tạng này,
- nên biết bản thể
- viên giác vắng lặng
- Như lai chứng ngộ
- vốn không mở đầu
- cũng không kết cuộc.
- Đem tâm luân hồi
- tư duy viên giác,
- ấy là luân hồi,
- chỉ đến luân hồi,
- không thấu biển cả
- vắng lặng của Phật.
- Như lọc quặng vàng,
- vàng không do lọc
- mới được là vàng;
- vàng vốn là vàng,
- nhưng phải do lọc
- mới thành vàng ròng;
- khi vàng lọc quặng
- đã thành vàng ròng,
- thì không bao giờ
- trở lại làm quặng.
- Sinh tử niết bàn
- chúng sinh Phật đà
- đồng là hoa đốm
- ở trong không gian.
- Cái sự tư duy
- đã như huyễn ảo,
- huống chi còn đem
- sự tư duy ấy
- chất vấn những sự
- huyễn ảo khác nữa.
- Nếu tự hiểu được
- sự tư duy ấy,
- sau đó mới mong
- nhập được viên giác.
Lúc ấy bồ tát Di lạc ở trong đại
chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân
đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi
quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả,
ngài đã khai mở một cách rộng rãi kho tàng bí mật cho các vị bồ tát,
làm cho đại chúng này tỉnh ngộ sâu xa về luân hồi, phân biệt được sự
lầm lẫn và sự chính xác. Ngài đã ban cho những người thời kỳ cuối cùng
con mắt tuệ giác không còn e sợ, làm cho họ phát sinh lòng tin cố định
đối với niết bàn vĩ đại, không còn tùy theo sự luân hồi mà nổi lên
kiến thức xoay đảo. Thưa đức Thế tôn, nếu các vị bồ tát, và những
người thời kỳ cuối cùng, muốn du hành trong biển cả vắng lặng vĩ đại
của đức Thế tôn, thì họ phải hủy diệt như thế nào đối với căn bản
của luân hồi? Trong luân hồi có mấy đẳng cấp? Tu tập tuệ giác Phật
đà có mấy chủng tánh? Khi quay lại, trở vào nơi bụi bặm mệt nhọc, thì
phải vận dụng mấy phương tiện hóa độ để hóa độ chúng sinh? Xin đức
Thế tôn đừng bỏ lòng thương cao cả cứu độ người đời mà làm cho
những người tu tập, là các vị bồ tát và những người sau này, được
con mắt tuệ giác trong sáng, được đài gương tâm trí chiếu tỏ, tỉnh
ngộ một cách tròn đầy về sự thấy biết vô thượng của đức Thế tôn.
Tác bạch rồi, bồ tát Di lạc gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận
của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến
ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Di lạc: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát, và
những người sau này, mà xin hỏi Như lai về ý nghĩa sâu kín tinh tế, để
làm cho các vị bồ tát rửa sạch con mắt tuệ giác, lại làm cho những người
sau này diệt hẳn luân hồi và tâm ngộ thực tướng bằng tuệ giác Không
sinh. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Di lạc vâng lời, hoan hỷ,
cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì có mọi thứ ái dục nên có luân hồi. Mọi
loài chúng sinh trong mọi thứ thế giới, sinh bằng trứng, sinh bằng thai,
sinh bằng thấp khí, sinh bằng biến hóa, tất cả toàn do dâm dục làm động
lực chính mà có tính mạng. Do đó mà biết gốc rễ luân hồi là ái. Ái
được dục hỗ trợ nên làm cho sinh tử liên tục : dục do ái, mạng do dục
; chúng sinh ái mạng nên quay lại ái dục, ái dục là nhân, ái mạng là quả.
Vì đối với đối cảnh của dục
mà nổi dậy sự chống đối hay sự thích ứng. Đối cảnh trái với ái
thì chống đối bằng sự ghét bỏ, gây ra mọi thứ nghiệp ác, đó là lý
do có địa ngục, có ngạ quỉ, có súc sinh. Biết dục đáng chán ghét, ái
sự chán ghét ba đường đi của nghiệp ác, ghét bỏ nghiệp ác mà ưa thích
nghiệp lành, nên có chư thiên, có nhân loại. Lại biết mọi sự ái đều
đáng ghét bỏ, ghét bỏ cái ái và ưa thích cái bỏ, nghĩa là vẫn trở lại
thêm cho gốc ái, nên có những thiện quả hơn lên, và vẫn là nghiêểp tạo
ra, nên toàn là luân hồi, không thành đường đi của các vị thánh giả.
Vì vậy, chúng sinh muốn thoát khỏi
sinh tử luân hồi thì trước hết phải hủy diệt dục và ái. Còn bồ
tát sinh trong luân hồi thì không phải do ái mà là do từ bi, muốn làm cho
chúng sinh bỏ ái nên mượn dục để vào lại sinh tử luân hồi. Những người
thời kỳ cuối cùng bỏ được dục, trừ được ái gồm cả sự ghét bỏ
và sự ưa thích của nó, hủy diệt luân hồi vĩnh viễn, bằng cách siêng
cầu viên giác của Như lai chứng ngộ, thì thế là đối với tâm thể
trong sáng ấy họ được tỏ ngộ.
Thiện nam tử, chúng sinh do ái dục
phát triển vô minh mà hình thành năm chủng tánh khác nhau, và do hai chướng
ngại mà trình bày sâu cạn. Hai chướng ngại là gì? Một là chướng ngại
chân lý, chướng ngại cho sự thấy biết chính xác. Hai là chướng ngại sự
dụng, tiếp nối cho sự sinh tử luân hồi. Năm chủng tánh là gì? Nếu cả
hai chướng ngại chưa được hủy diệt, thì gọi là những kẻ chưa thành
Phật đà. Nếu vĩnh viễn loại bỏ ái dục, hủy diệt chướng ngại sự
dụng mà chưa hủy diệt chướng ngại chân lý, thì chỉ nhập vào thanh văn
duyên giác, chưa nhập vào bồ tát. Nếu muốn du nhập biển cả viên giác
vĩ đại của Như lai chứng ngộ nên trước đó lập chí nỗ lực hủy diệt
hai chướng ngại, hai chướng ngại đã hàng phục thì nhập vào bồ tát
ẫ còn hai chướng ngại đã hủy diệt vĩnh viễn thì nhập vào viên giác
của Như lai, tròn đầy đại bồ đề và đại niết bàn. Tất cả chúng
sinh đều có khả năng chứng ngộ viên giác, nhưng gặp thầy bạn tốt, và
tu tập theo pháp hạnh căn bản sơ khởi của họ, nên sự tu tập ấy có
liền liền và có dần dần ẫ nếu gặp Như lai chỉ dẫn con đường tu tập
chính xác về tuệ giác vô thượng, thì bất kể trình độ cao thấp, toàn
là thành tựu quả vị Phật đà. Nếu người nào dẫu cũng đi tìm thầy bạn
tốt, nhưng gặp phải kẻ kiến thức sai lầm, thì người ấy chưa được
tỏ ngộ chính xác, như thế gọi là chủng tánh ngoại đạo, và đó là lỗi
của thầy bạn sai lầm, không phải lỗi ở người ấy. Như thế đó gọi
là năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh.
Thiện nam tử, bồ tát chỉ lấy đại
bi làm phương tiện mà vào các thế giới luân hồi, khai phát cho những người
chưa tỏ ngộ. Đến nỗi biểu hiện thân thể đủ mọi thứ hình tướng,
biểu hiện cảnh ngộ đủ mọi sự thuận nghịch , biểu hiện đồng việc
với họ mà giáo hóa cho họ trở thành Phật đà. Tất cả sự biểu hiện
này toàn là sức mạnh của đại nguyện xuất từ đại bi.
Những người thời kỳ cuối cùng,
nếu nổi lên tâm chí tăng thượng đối với đại viên giác, thì phải
phát đại nguyện trong sáng của bồ tát. Nên nói như vầy: Cầu nguyện
cho con nay đứng trong viên giác của Phật, tìm và gặp được thầy bạn tốt,
không gặp phải ngoại đạo và nhị thừa. Rồi y theo đại nguyện như vậy
mà tu tập, thì dần dần hủy diệt hai chướng ngại. Hai chướng ngại hủy
diệt hết cả thì đại nguyện tròn đầy,thế là bước lên chánh điện
trong sáng của đại giải thoát, nhập vào thành trì tráng lệ của đại
viên giác.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Di lạc nên biết,
- chúng sinh không được
- giải thoát vĩ đại
- là vì ái dục
- làm cho sa vào
- sinh tử luân hồi.
- Nếu diệt ái dục
- gồm cả ưa ghét
- của ái dục ấy
- là tham sân si,
- thì bất kể đến
- chủng tánh dị biệt,
- tất cả vẫn được
- tuệ giác Phật đà.
- Muốn diệt vĩnh viễn
- hai loại chướng ngại,
- nên tìm và gặp
- vị thầy xứng đáng,
- thì sẽ có được
- tỏ ngộ chính xác,
- thuận với đại nguyện
- của các bồ tát,
- và rồi trú ở
- trong đại niết bàn.
- Bồ tát vận dụng
- đại bi đại nguyện,
- thị hiện nhập vào
- sinh tử luân hồi.
- Những người tu tập
- trong thời hiện tại,
- và người tu tập
- trong thời cuối cùng,
- nếu biết nỗ lực
- hủy diệt ái kiến,
- thế là qui về
- viên giác quảng đại.
Lúc ấy bồ tát Thanh tịnh tuệ ở
trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã nói cho chúng con, một cách rộng rãi, về những sự
ngoài tầm tư duy thảo luận mà trước đây chúng con chưa được nghe thấy.
Ngày nay chúng con nhờ sự huấn dụ khéo léo của đức Thế tôn mà thân
thể và tâm trí đều thư thái, được đại ích lợi. Con thỉnh cầu đức
Thế tôn chỉ dạy thêm nữa cho đại chúng này biết, đối với viên giác
của đấng Pháp vương, các loại chúng sinh, các vị bồ tát, và các đức
Thế tôn, thực hiện khác nhau thế nào? Sự chỉ dạy này của đức Thế
tôn sẽ làm cho người thời kỳ cuối cùng, đối với viên giác, có thể
tùy thuận, tỉnh ngộ, và tuần tự mà nhập vào. Tác bạch rồi, bồ tát
Thanh tịnh tuệ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể
mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi
lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Thanh tịnh tuệ: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát, và những người sau này, mà hỏi Như lai về thứ tự sai biệt trong sự
thực hiện viên giác. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Thanh tịnh
tuệ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
bản thể viên giác không phải là các chủng tánh, nhưng chủng tánh nào cũng
có viên giác, nên tùy các chủng tánh phát khởi mà có sai biệt, chứ thật
ra không có thủ chứng gì hết. Vì lẽ trong viên giác, bồ tát và chúng
sinh không phải có thật; bồ tát và chúng sinh toàn là huyễn ảo: khi huyễn
ảo hủy diệt thì không có ai là kẻ thủ chứng, tựa như con mắt đâu
có tự thấy con mắt. Nên đặc tính của viên giác là không sai biệt, một
sự không sai biệt không phải do ai tạo ra. Nhưng chúng sinh mê mờ thác loạn,
chưa thể hoàn toàn hủy diệt huyễn ảo, và trong giai đoạn chưa hủy diệt
mà đang hủy diệt đó, công phu tự lộ ra sai biệt. Đến khi thích ứng
được với viên giác dứt bặt của Như lai thì không còn sự dứt bặt,
không còn người dứt bặt.
Thiện nam tử, vô thỉ đến giờ,
chúng sinh ảo tưởng tự ngã và đam mê tự ngã, không bao giờ tự biết tự
ngã chỉ là trạng thái phát sinh và hủy diệt liên tiếp trong từng đơn vị
ngắn nhất của thì gian, do đó mà nổi lên mặt thì ghét bỏ mặt thì ưa
thích, vướng mắc năm thứ dục lạc. Nếu gặp được thầy bạn tốt dạy
cho biết bản thể viên giác trong sáng, phát giác thực chất của sự nổi
lên và sự hủy diệt, tức thì thấu hiểu đời sống này tự nó tạo ra
tư tưởng mệt nhọc, và ước mong hủy diệt tư tưởng mệt nhọc ấy bằng
cái biết bản thể viên giác trong sáng. Nhưng cái biết này tự chướng ngại
cho họ, nên họ không được tự tại đối với viên giác. Đó là sự
thích ứng viên giác của phàm phu.
Thiện nam tử, các vị bồ tát thì
biết cái biết trên là chướng ngại, dẫu hủy diệt chướng ngại của cái
biết trên, nhưng còn đứng nơi cái biết của mình, nên cái biết biết sự
chướng ngại này lại thành chướng ngại mà chưa được tự tại. Đó
là sự thích ứng viên giác của các vị bồ tát bước chưa tới thập địa.
Thiện nam tử, cái biết nào cũng là
chướng ngại, nên các vị bồ tát thường biết mà không đứng lại nơi
cái biết, thì cái biết và người biết cùng lúc vắng lặng, tựa như có
người tự chặt đầu mình, đầu đứt rồi kẻ chặt đứt cũng không:
đem cái biết biết sự chướng ngại mà tự diệt sự chướng ngại, sự
chướng ngại diệt rồi, cái biết diệt chướng ngại cũng không. Biết
kinh pháp cũng chỉ như ngón tay chỉ mặt trăng, hãy nhìn mặt trăng và biết
ngón tay không bao giờ là mặt trăng cả; biết mọi ngôn ngữ của Như lai
chỉ dạy cho bồ tát toàn là như vậy. Đó là sự thích ứng viên giác của
bồ tát bước đã tới thập địa.
Thiện nam tử, biết một cách triệt
để về mọi sự chướng ngại: chánh niệm với vọng niệm toàn là giải
thoát, hoàn thành với thoái thất toàn là niết bàn, tuệ giác với u mê
toàn là bát nhã, bồ tát thành đạt với ngoại đạo thành đạt toàn là
bồ đề, chân như với vô minh toàn là bản thể, giới định tuệ với dâm
nộ si toàn là phạn hạnh, chúng sinh với quốc độ toàn là pháp tánh, địa
ngục với thiên cung toàn là tịnh độ, có chủng tánh với không chủng
tánh toàn thành Phật đà, tất cả phiền não cứu cánh là giải thoát : biển
cả tuệ giác soi tỏ những khái niệm đối lập lẫn nhau toàn như không
gian. Đó là sự thích ứng viên giác của Như lai.
Thiện nam tử, các vị bồ tát, và
những người thời kỳ cuối cùng, nếu có ai không lúc nào nổi lên vọng
niệm, đối với vọng niệm cũng không trừ khử, sống trong vọng cảnh
mà không phân biệt, cũng không nói không phân biệt là thật, thì người này
nghe pháp thoại Viên giác này sẽ tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ,
không kinh ngạc, sợ hãi, và như thế chính là thích ứng viên giác. Thiện
nam tử, ông nên biết người này đã hiến cúng trăm ngàn vạn ức hằng
sa Phật đà và Đại sĩ, gieo trồng gốc rễ công đức, và Như lai gọi
người này là người thành tựu tuệ giác Biết tất cả chủng loại.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Thanh tịnh tuệ này,
- nên biết bản thể
- tuệ giác viên mãn
- không có thủ chứng,
- không có bồ tát
- không có chúng sinh;
- vì đang chứng ngộ
- hay đã chứng ngộ,
- do đó mà có
- thứ tự khác nhau.
- Phàm phu thì bị
- cái biết chướng ngại;
- bồ tát cấp thấp
- chưa rời cái biết;
- bồ tát thập địa
- vĩnh viễn dứt bặt,
- không còn đứng lại
- mọi cái biết trên;
- Như lai đại giác
- mới trọn thích ứng.
- Những ai sau này
- tâm không vọng niệm,
- Như lai tuyên bố
- những người như vậy
- hiện tại đã là
- một vị bồ tát,
- quá khứ hiến cúng
- hằng sa Phật đà,
- và có đủ cả
- mọi phẩm chất tốt.
- Nói tóm bao nhiêu
- phong cách trên đây
- đều được gọi là
- thích ứng viên giác.
-oOo-
Chân thành cảm
ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã
phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI
font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |