KINH VIÊN
GIÁC
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
3
Chương
Uy Đức Tự Tại [^]
Lúc ấy bồ tát Uy đức tự tại
ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình
lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài
ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã vì chúng con mà phân tách những sự thích ứng viên giác
như vậy, làm cho các vị bồ tát tuệ giác sáng tỏ, nhờ tiếng nói tròn
đầy của đức Thế tôn mà không qua sự tu tập vẫn được ích lợi tốt
đẹp. Thưa đức Thế tôn, ví như thành trì to lớn, phía ngoài có bốn cửa,
ai cũng có thể tùy phương hướng mình muốn mà đi vào thành trì ấy, chứ
không phải chỉ có một đường. Các vị bồ tát cũng vậy, trang hoàng quốc
độ và hoàn thiện tuệ giác, hai sự đó không phải chỉ bằng phương tiện
duy nhất. Do đó, con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho chúng con biết, có
bao nhiêu phương tiện và người thực hành phương tiện ấy? Dạy về điều
này, đức Thế tôn sẽ làm cho các vị bồ tát trong đại hội này, và những
người thời kỳ cuối cùng cầu pháp đại thừa, mau chóng tỏ ngộ, du ngoạn
trong biển cả vắng lặng vĩ đại của đức Thế tôn. Tác bạch rồi, bồ
tát Uy đức tự tại gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân
thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần,
mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Uy đức tự tại: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát, và những người sau này, mà hỏi Như lai về các phương tiện như vậy.
Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Uy đức tự tại vâng lời,
hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
viên giác vô thượng, khắp cả mười phương, xuất sinh Như lai và các
pháp, nên bản thể vốn đồng đẳng. Bản thể ấy, đối với những người
tu hành, thật là nhất trí; nhưng phương tiện thích ứng bản thể ấy
thì có vô số, và qui nạp lại, phân loại theo khuynh hướng của người
tu hành thì có ba.
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngộ ấy nắm lấy sự cực
tĩnh làm chủ yếu mà làm cho các vọng niệm lắng xuống, nên thấy rõ
tâm thức là phiền động, tuệ giác cực tĩnh phát sinh. Bụi bặm thân
tâm từ đây diệt hẳn, bên trong liền phát ra sự thư thái tĩnh lặng. Do
tĩnh lặng như vậy mà tâm thể Như lai mười phương quốc độ biểu hiện
trong đó như hình ảnh hiện trong đài gương. Phương tiện như vậy gọi là
mặt cực tĩnh xa ma tha.
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngộ ấy biết tâm thức
và căn cảnh toàn là huyễn ảo, nên nổi lên huyễn ảo để diệt trừ
huyễn ảo, biểu hiện mọi phương tiện huyễn ảo mà hóa độ cho chúng
sinh huyễn ảo. Vì nổi lên huyễn ảo như vậy nên bên trong phát ra sự thư
thái đại bi. Các vị bồ tát đều từ đại bi này mà nổi lên việc
làm, tuần tự tiến tới. Biết sự quán sát huyễn ảo là không phải huyễn
ảo, rồi biết sự quán sát không phải huyễn ảo đó cũng là huyễn ảo
: như vậy là huyễn ảo vĩnh viễn thoát bỏ. Việc làm tinh tế như thế này
của các vị bồ tát tựa như đất đai tăng trưởng lúa má. Phương tiện
như vầy gọi là mặt cực động tam ma bát đề.
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngộ ấy, không nắm lấy
biểu hiện và tĩnh lặng, mà biết thân tâm toàn là chướng ngại. Cái biết
ấy không như cái biết của các giác quan, không dựa vào thân tâm chướng
ngại, nên vĩnh viễn siêu việt sự bị chướng ngại và sự không chướng
ngại, thụ hưởng được trạng thái này: thân tâm và thế giới của
thân tâm tuy còn ở trong lĩnh vực bụi bặm, nhưng, như tiếng ở trong hồng
chung mà đã được đánh lên, kêu vang ra ngoài, phiền não với niết bàn
không thể chận giữ người ấy, và bên trong phát ra sự thư thái vắng lặng.
Vắng lặng như vậy là cảnh giới thích ứng của tuệ giác tinh tế, thân
tâm của mình hay của người đều không thấu được, chúng sinh tướng
hay thọ giả tướng, những khái niệm ấy toàn là ảo tưởng. Phương tiện
như vậy gọi là mặt cực thuần thiền na.
Thiện nam tử, ba phương tiện trên
đây toàn là sự thích ứng thân nhất đối với viên giác. Mười phương
Như lai do ba phương tiện ấy mà trở thành Phật đà. Bao nhiêu phương tiện
của mười phương bồ tát, và tất cả sự đồng nhất hay sự dị biệt
của bao nhiêu phương tiện ấy, toàn y cứ ba phương tiện như vầy. Ba
phương tiện như vầy viên chứng được là được viên giác. Thiện nam tử,
giả sử có người tu tập tuệ giác thuần khiết, giáo hóa thành tựu trăm
ngàn vạn ức La hán và Duyên giác, không bằng có ai nghe ba pháp môn vô ngại
này của viên giác mà thích ứng tu tập, dầu chỉ trong một đơn vị ngắn
nhất của thì gian.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Uy đức tự tại,
- ông nên biết rằng
- viên giác vô thượng
- bản thể đồng nhất,
- phương tiện thích ứng
- lại có vô lượng.
- Như lai bao quát
- thành ra ba mặt:
- về mặt cực tĩnh
- như gương soi hình,
- về mặt cực động
- như đất lớn lúa,
- về mặt cực thuần
- như tiếng hồng chung.
- Cả ba pháp môn
- tinh tế như vầy
- toàn là phương tiện
- thích ứng viên giác.
- Mười phương Như lai
- cùng các Đại sĩ
- nhờ phương tiện ấy
- thành vô thượng giác.
- Ba phương tiện ấy
- nếu viên chứng được
- là được viên chứng
- niết bàn cứu cánh.
Chương Biện Âm [^]
Lúc ấy bồ tát Biện âm ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, phương tiện mà ngài khai thị trên đây thật là hiếm có. Thưa đức
Thế tôn, đối với phương tiện ấy, nghĩa là đối với cửa ngõ của
viên giác, các vị bồ tát có mấy cách tu tập để nhập vào? Con thỉnh cầu
đức Thế tôn khai thị cho đại chúng này, và cho cả những người thời
kỳ cuối cùng, làm cho ai cũng tỏ ngộ đích thực. Tác bạch rồi, bồ
tát Biện âm gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà
kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần
thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Biện âm: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì đại chúng này, và
vì cả những người sau này, mà hỏi Như lai cách thức tu tập ba phương
tiện. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Biện âm vâng lời, hoan
hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
viên giác trong sáng mà chư vị Như lai chứng ngộ vốn không có sự tu tập
và người tu tập. Các vị bồ tát, và người sau này,dựa vào năng lực
huyễn ảo của tuệ giác tỏ ngộ nhưng chưa hoàn toàn tỏ ngộ mà tu tập,
thì khi ấy có ra hâm lăm bánh xe thiền quán trong sáng.
Một là nếu bồ tát chỉ nắm cực
tĩnh, do sức mạnh cực tĩnh mà diệt hẳn phiền não một cách cứu cánh
hoàn thiện, không rời khỏi chỗ của mình mà nhập niết bàn liền, đó
là bồ tát tu riêng mặt cực tĩnh. Hai là nếu bồ tát chỉ quán như huyễn,
do sức mạnh Phật đà mà biểu hiện mọi thứ thân cảnh tùy theo nhu cầu
của các thế giới chúng sinh, làm đủ mọi thứ việc làm trong sáng tinh tế
của bồ tát mà không mất cái nhớ cực thuần và cái biết cực tĩnh đối
với các pháp tổng trì, đó là bồ tát tu riêng mặt cực động. Ba là nếu
bồ tát chỉ diệt trừ mọi sự huyễn ảo, nghĩa là không nắm lấy sự
biểu hiện mà chỉ triệt đoạn phiền não, phiền não triệt đoạn là chứng
ngộ thực tướng, đó là bồ tát tu riêng mặt cực thuần.
Bốn là nếu bồ tát trước nắm cực
tĩnh, sau đem tuệ giác cực tĩnh chiếu soi huyễn ảo, thì trong sự chiếu
soi này nổi lên việc làm bồ tát, đó là bồ tát trước tu cực tĩnh, sau
tu cực động. Năm là nếu bồ tát đem tuệ giác cực tĩnh chứng ngộ bản
thể cực tĩnh, thì phiền não dứt liền, sinh tử thoát hẳn, đó là bồ
tát trước tu cực tĩnh, sau tu cực thuần. Sáu là nếu bồ tát đem tuệ giác
cực tĩnh, lại dùng sức mạnh huyễn ảo biểu hiện đủ cách mà hóa độ
chúng sinh, rồi hủy diệt phiền não mà nhập vào niết bàn, đó là bồ
tát trước tu cực tĩnh, giữa tu cực động, sau tu cực thuần. Bảy là nếu
bồ tát dùng sức mạnh cực tĩnh mà hủy diệt phiền não, rồi nổi lên
việc làm tinh tế và trong sáng của bồ tát mà hóa độ chúng sinh, đó là
bồ tát trước tu cực tĩnh, giữa tu cực thuần, sau tu cực động. Tám là
nếu bồ tát dùng sức mạnh cực tĩnh, rồi hóa độ chúng sinh và xây dựng
quốc độ mà hủy diệt phiền não, đó là bồ tát trước tu cực tĩnh,
sau cùng lúc tu cực động và cực thuần. Chín là nếu bồ tát đem sức mạnh
cực tĩnh giúp cho sự nổi lên mọi cách biểu hiện, sau đó hủy diệt phiền
não, đó là bồ tát cùng lúc tu cực tĩnh và cực động, sau tu cực thuần.
Mười là nếu bồ tát đem sức mạnh cực tĩnh giúp cho sự dứt bặt, sau
đó nổi lên mọi cách biểu hiện, đó là bồ tát cùng lúc tu cực tĩnh và
cực thuần, sau tu cực động.
Mười một là nếu bồ tát đem sức
mạnh biến ảo thích ứng đủ cả, sau đó nắm lấy sự cực tĩnh, đó
là bồ tát trước tu cực động, sau tu cực tĩnh. Mười hai là nếu bồ
tát đem sức mạnh biến ảo biểu hiện đủ cả, sau đó nắm lấy sự dứt
bặt, đó là bồ tát trước tu cực động, sau tu cực thuần. Mười ba là
nếu bồ tát đem sức mạnh biến ảo làm mọi việc Phật làm, rồi đứng
trong sự tĩnh lặng mà hủy diệt phiền não, đó là bồ tát trước tu cực
động, giữa tu cực tĩnh, sau tu cực thuần. Mười bốn là nếu bồ tát
đem sức mạnh biến ảo mà hoạt động vô ngại, rồi hủy diệt phiền
não và sống trong sự cực tĩnh, đó là bồ tát trước tu cực động, giữa
tu cực thuần, sau tu cực tĩnh. Mười lăm là nếu bồ tát đem sức mạnh
biến ảo mà hoạt động bằng mọi phương tiện, rồi thích ứng với sự
cực tĩnh và sự dứt bặt, đó là bồ tát trước tu cực động, sau cùng
lúc tu cực tĩnh và cực thuần. Mười sáu là nếu bồ tát đem sức mạnh
biến ảo nổi lên đủ mọi tác dụng giúp cho sự cực tĩnh, sau đó hủy
diệt phiền não, đó là bồ tát cùng lúc tu cực động và cực tĩnh, sau
tu cực thuần. Mười bảy là nếu bồ tát đem sức mạnh biến ảo giúp
cho sự dứt bặt, sau đó sống trong sự tĩnh tâm trong sáng và bất động,
đó là bồ tát cùng lúc tu cực động và cực thuần, sau tu cực tĩnh.
Mười tám là nếu bồ tát đem sức
mạnh dứt bặt mà phát cực tĩnh và sống trong sáng, đó là bồ tát trước
tu cực thuần, sau tu cực tĩnh. Mười chín là nếu bồ tát đem sức mạnh
dứt bặt mà nổi lên hoạt động, sự hoạt động đối với cảnh ngộ nào
cũng vẫn thích ứng cực thuần, đó là bồ tát trước tu cực thuần, sau
tu cực động. Hai mươi là nếu bồ tát đem sức mạnh dứt bặt mà đặt
mọi tính cách biểu hiện vào trong sự tĩnh tâm, rồi nổi lên mọi sự biểu
hiện, đó là bồ tát trước tu cực thuần, giữa tu cực tĩnh, sau tu cực
động. Hâm mốt là nếu bồ tát đem sức mạnh dứt bặt, từ bản thể bất
động mà nổi lên hoạt động, hoạt động có đặc tính trong sáng ấy lại
qui về sự tĩnh tâm cả, đó là bồ tát trước tu cực thuần, giữa tu cực
động, sau tu cực tĩnh. Hâm hai là nếu bồ tát đem sức mạnh dứt bặt làm
cho mọi sự đều trong sạch, rồi đứng trong sự tĩnh tâm mà nổi lên mọi
sự biểu hiện, đó là bồ tát trước tu cực thuần, sau cùng lúc tu cực
tĩnh và cực động. Hâm ba là nếu bồ tát đem sức mạnh dứt bặt giúp
cho sự cực tĩnh mà nổi lên mọi sự biểu hiện, đó là bồ tát cùng
lúc tu cực thuần và cực tĩnh, sau tu cực động. Hâm bốn là nếu bồ
tát đem sức mạnh dứt bặt giúp cho sự biểu hiện, rồi từ đó phát
sinh đối cảnh và tuệ giác trong sáng của sự cực tĩnh, đó là bồ tát
cùng lúc tu cực thuần và cực động, sau tu cực tĩnh.
Hâm lăm là nếu bồ tát đem trí tuệ
viên giác mà hóa hợp tất cả, tất cả đặc tính và sự dụng không rời
viên giác, đó là bồ tát tu cả ba phương tiện thích ứng trong sáng với
viên giác.
Thiện nam tử, hâm lăm bánh xe của
thiền quán mà tất cả bồ tát tu tập là như vậy. Nếu các vị bồ tát,
và những người sau này, muốn y cứ vào hâm lăm bánh xe ấy, thì trước
phải giữ phạn hạnh, lắng tĩnh tư duy, khẩn thiết sám hối. Ba tuần bảy
ngày làm như vậy rồi, đem hâm lăm bánh xe này mỗi thứ ghi riêng, gấp lại,
chí thành khẩn cầu tha thiết, dùng tay mà lấy, mở ra thì biết bánh xe lấy
được là tính cách tu tập liền liền hay tính cách tu tập dần dần. Làm
như vậy mà len vào một thoáng ngờ vực là bất thành.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Biện âm nên biết,
- tuệ giác trong sáng
- của các bồ tát
- sinh từ thiền quán --
- Thiền quán ba mặt
- cực tĩnh cực động
- cùng với cực thuần,
- tu tập liền liền
- hay là dần dần
- thành hâm lăm cách.
- Chư vị Như lai
- trong mười phương hướng,
- những người tu hành
- thuộc ba thì gian,
- không ai không nhờ
- phương tiện như vầy
- mà được thành tựu
- tuệ giác bồ đề.
- Chỉ trừ những người
- tỉnh ngộ liền liền,
- cùng với những kẻ
- không chịu Phật pháp,
- còn các bồ tát
- và người sau này
- thường xuyên nắm giữ
- phương tiện như vầy,
- thích ứng, nỗ lực,
- và tu tập theo,
- thì nhờ sức mạnh
- từ bi của Phật,
- sẽ không bao lâu
- chứng được niết bàn.
Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng [^]
Lúc ấy bồ tát Tịnh chư nghiệp
chướng ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của
mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh
ngài ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn
lòng thương cao cả, ngài đã nói cho chúng con một cách rộng rãi về những
sự ngoài tầm tư duy và thảo luận, đó là nói về căn bản sơ khởi của
đức Thế tôn, và những gì liên hệ đến căn bản sơ khởi ấy. Ngài đã
làm cho chúng con được sự chưa từng có: thấy được mọi việc siêng
khó của đức Thế tôn trong bao kiếp như cát sông Hằng, thấy rõ như mới
xảy ra một thoáng trước đây. Do vậy mà chúng con vui mừng và được an
ủi một cách sâu xa. Thưa đức Thế tôn, bản thể viên giác là trong
sáng, vì sao lại có cái nhược điểm là làm cho chúng sinh mê sảng, không
thể nhập vào? Con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho tất cả chúng con biết
được thực chất việc ấy. Xin ngài tạo con mắt tương lai cho chúng con,
và cho cả những người sau này. Tác bạch rồi, bồ tát Tịnh chư nghiệp
chướng gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính
lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần
thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Tịnh chư nghiệp chướng: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì cả
đại chúng, và những người thời kỳ cuối cùng, mà hỏi Như lai về yếu
tố tu chứng như vậy. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Tịnh
chư nghiệp chướng vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng
nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì tưởng lầm nên cố chấp ngã tướng, nhân
tướng,chúng sinh tướng, thọ giả tướng, nhận bốn khái niệm thác loạn
này làm cái ngã thật của mình. Do đó mà tự nhiên sinh ra hai sự ghét bỏ
và ưa thích. Vậy là thác loạn thêm thác loạn. Hai lớp thác loạn này hợp
lực tạo ra nghiệp và đường đi của nghiệp, nghĩa là có cái nghiệp
thác loạn nên có cái thấy thác loạn là thấy luân hồi. Rồi chán bỏ
luân hồi thì có cái thấy thác loạn khác là thấy niết bàn. Do vậy mà
không thể nhập vào viên giác trong sáng. Chứ không phải viên giác kháng cự
những người nhập vào. Vì có ai nhập vào thì cũng không phải do viên
giác làm cho nhập vào. Thế nên dấy động nghĩ nhớ cùng với ngăn chận
nghĩ nhớ đều đi đến sảng loạn, vì sao, vì có vô minh chủ động trong
đó. Chúng sinh sinh ra là đã không có con mắt tuệ giác, thân thể và tâm
trí toàn là vô minh : vô minh không chịu diệt trừ vô minh, cũng như có kẻ
không chịu tự chặt thân mạng của mình. Do đó, phải hiểu thương yêu tự
ngã thì hợp với ngã ngã ưa, trái với ngã ngã ghét, ưa ghét đó nuôi dưỡng
vô minh, nên làm cho sự liên tục tìm cách chứng ngộ viên giác không thể
thành tựu.
Thiện nam tử, ngã tướng là tự
biết về tự ngã. Ví dụ có kẻ cơ thể điều hòa thì như quên mình đi,
nhưng chích đốt chút xíu là thấy có ngã liền. Vậy là chính tự biết mới
hiện ra tự ngã. Thiện nam tử, tự biết như vậy biết đến niết bàn
đi nữa cũng là ngã tướng.
Thiện nam tử, nhân tướng là tự
hiểu về sự tự biết nói trên. Nhưng hiểu rằng tự biết mới có tự
ngã, thì hiểu tự ngã ấy không đáng nhận; lại hiểu rằng tự ngã
không đáng nhận, thì hiểu tự biết mới có tự ngã, sự tự biết ấy cũng
không đáng nhận. Cái hiểu vượt hết những cái đã biết như vậy gọi
là nhân tướng. Thiện nam tử, cái hiểu ấy hiểu đến niết bàn của sự
tự biết cũng là ngã tướng đi nữa, vẫn còn sự tự hiểu tinh tế để
hiểu hết cái lý của sự tự biết, nên toàn là nhân tướng.
Thiện nam tử, chúng sinh tướng là
tự rõ cái mà sự tự biết và sự tự hiểu đều không thấu đến. Ví dụ
có người nói tôi là chúng sinh, thì chúng sinh mà người này nói là không
phải ngã không phải nhân: tôi là chúng sinh thì chúng sinh ấy không phải
tự ngã của tôi, tôi là chúng sinh thì chúng sinh ấy không phải tự ngã của
ai. Thiện nam tử, tự biết cái ta là ngã tướng, tự hiểu sự tự biết
ấy là nhân tướng, ngã tướng và nhân tướng không thấu mà vẫn tự rõ
sự không thấu ấy, là chúng sinh tướng.
Thiện nam tử, thọ giả tướng là
tuệ giác trong sáng của chúng sinh, giác ngộ sự tự rõ cái không thấu
nói trên. Tuệ giác còn tính biến động như vậy thì giác ngộ tất cả
mà không tự giác ngộ, tuệ giác ấy là thọ giả tướng. Thiện nam tử,
tuệ giác ấy cũng là một thứ bị bụi bặm làm cho dơ bẩn, vì còn giác
ngộ và còn những cái được giác ngộ thì vẫn thuộc lĩnh vực bụi bặm,
tuệ giác ấy cũng phải lọc cho sạch. Nên, y như đun sôi để làm rã cả
khối nước đá, thì không thể còn để chút ít nước đá nào trong khối
nước đá ấy để biết khối nước đá ấy rã hết; nếu còn tự ngã để
giác ngộ tự ngã tận diệt, thì cũng như còn để chút ít nước đá.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng không thấu triệt bốn tướng, nên siêng khó tu tập mấy kiếp
đi nữa, cũng chỉ là sự tạo tác chứ không thành sự chứng ngộ, vì thế
mà gọi là thời kỳ cuối cùng của Phật pháp. Bởi lẽ họ nhận những
sắc thái biến tướng của ngã làm niết bàn, họ cho sự tự biết tự hiểu
những sắc thái ấy là tuệ giác, khác nào nhận giặc làm con, nên tài sản
vàng ngọc không bao giờ tạo được. Yêu thích tự ngã mà yêu thích niết
bàn, thì cho tạm dẹp yêu thích tự ngã đã là niết bàn; ghét bỏ tự
ngã nên ghét bỏ sinh tử, đâu biết đó cũng là một cách yêu thích tự
ngã, và sự yêu thích này thật là gốc gác sinh tử, nên ghét bỏ sinh tử
như vậy không gọi là giải thoát. Còn yêu thích niết bàn tại sao cũng không
gọi là giải thoát? Thiện nam tử, vì những người thời kỳ cuối cùng
tu tập tuệ giác bồ đề mà cho cái biết chút ít của mình đã là trong
sáng, thì thế là vẫn chưa loại hết gốc gác ngã tướng. Ai khen cái biết
của họ thì họ mừng và thích hóa độ, ai chê cái biết của họ thì họ
giận và muốn cự tuyệt. Như thế thì biết ngã tướng vẫn được giữ
chặt, ẩn núp trong tạng thức và ngao du nơi các giác quan, chưa gián đoạn
bao giờ. Những kẻ tu tập tuệ giác mà ngã tướng như vậy không trừ bỏ
đi, thì không thể nhập vào viên giác trong sáng.
Thiện nam tử, nếu biết ngã tướng
là không thì không thấy ai là người chê ngã. Nếu thấy ngã thuyết pháp
thì biết ngã tướng đang còn. Nhân tướng, chúng sinh tướng mà thọ giả
tướng cũng y như vậy. Thế nên, thiện nam tử, những người thời kỳ cuối
cùng thuyết về bịnh mà cho đó là pháp thì thật đáng thương, và nỗ lực
tinh tiến thì chỉ tăng thêm bịnh hoạn, không thể nhập vào viên giác
trong sáng.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng không thấu triệt bốn tướng, nên dẫu đem cái hiểu cái
làm của Như lai làm cái hiểu cái làm của mình mà không bao giờ thành tựu.
Có kẻ chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng, thấy
ai hơn lên thì lòng sinh ganh ghét, ấy là vì họ chưa loại trừ sự yêu
thích tự ngã, nên không thể nhập vào viên giác trong sáng.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng ước mong thành đạt tuệ giác, thì đừng cố cầu sự tỏ
ngộ bằng cách chỉ tăng thêm đa văn để lớn thêm ngã tướng, mà phải
siêng năng tinh tiến để loại trừ phiền não; phải dũng mãnh lớn lao để
được cái chưa được, mất cái chưa mất ; tham lam, sân hận, yêu thích,
ngạo mạn, dua nịnh, ganh ghét, những thứ này đối cảnh không sinh ra nữa,
bỉ thử ân oán dứt bặt tất cả. Như lai nói những người như vậy sẽ
tuần tự thành đạt tuệ giác, và tìm gặp thầy bạn tốt thì không gặp
phải những kẻ kiến thức sai lầm. Tìm gặp thầy bạn tốt thì đừng
thiên kiến mà sinh ra ghét bỏ hay ưa thích, bởi vì như thế thì không thể
nhập vào biển cả viên giác trong sáng.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Tịnh chư nghiệp chướng,
- ông nên biết rằng
- chúng sinh giai do
- cố chấp tự ngã,
- vô thỉ đến giờ
- luân hồi vô lối.
- Thế nên chưa trừ
- bốn tướng chấp ngã,
- thì không thành đạt
- tuệ giác viên giác.
- Tâm sinh ưa ghét
- lòng còn cong queo,
- nên có lắm kẻ
- đâm ra bối rối,
- không thể nhập vào
- thành trì viên giác.
- Muốn về cho thấu
- đất nước viên giác,
- thì phải trừ khử
- cả tham sân si,
- và ghét sinh tử
- hay ưa niết bàn,
- cả hai sự ấy
- không còn trong lòng,
- thì mới tuần tự
- thành đạt tuệ giác.
- Tự ngã tự thân
- vốn không có thật,
- thì ưa với ghét
- có ra từ đâu?
- Những người như vầy
- tìm thầy bạn tốt
- thì không bao giờ
- gặp phải tà kiến,
- tìm mà thiên kiến
- không thành gì cả.
Chương Phổ Giác [^]
Lúc ấy bồ tát Phổ giác ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã chỉ dạy một cách thích thú về bịnh hoạn của thiền
quán, làm cho đại chúng này được sự chưa từng có, tâm ý thư thái và
ổn định lớn lao. Thưa đức Thế tôn, những người thời kỳ cuối cùng
cách thời đại của ngài quá xa, hiền thánh ẩn dấu, lý thuyết sai lầm
bùng cháy thêm lên; để làm cho những người mù mờ trong thời kỳ ấy khỏi
sa vào lý thuyết sai lầm, con xin ngài dạy cho họ biết nên tìm người nào?
nên cứ pháp nào? nên làm việc gì? nên trừ bịnh gì? nên phát tâm nào?
Tác bạch rồi, bồ tát Phổ giác gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận
của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến
ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Phổ giác: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể hỏi Như lai về sự
tu hành như vậy, hiến cho những người thời kỳ cuối cùng con mắt tuệ
giác không còn e sợ, làm cho họ thành được tuệ giác của các vị thánh
giả. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ giác vâng lời, hoan
hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
người thời kỳ cuối cùng, khi sắp phát tâm vĩ đại và tìm thầy bạn tốt
để tu hành, thì nên tìm người thấy biết chính xác: lòng không sống
theo khuôn khổ phàm phu, không vướng vào lĩnh vực nhị thừa, biểu hiện
bụi bặm mà tâm thường trong sáng, biểu diễn tội lỗi mà tán dương phạn
hạnh, không làm cho người sống không giới luật. Tìm được người như
vậy thì được tuệ giác vô thượng. Người thời kỳ cuối cùng gặp người
như vậy thì nên phụng sự đến tính mạng cũng không tiếc. Người thầy
bạn tốt này đi đứng nằm ngồi luôn luôn trong sáng thì nên kính trọng,
giả sử biểu hiện tội lỗi thì đừng khinh thường, huống chi chỉ quan
tâm đến của cải thân thuộc. Thiện nam tử nào không có ý xấu đối với
thầy bạn tốt thì có năng lực thành đạt trọn vẹn tuệ giác chính
xác, bông hoa tâm trí phát sáng, chiếu soi tất cả.
Thiện nam tử, hãy y cứ vào pháp của
thầy bạn tốt, cái pháp phải tách rời bốn thứ bịnh. Một là bịnh
làm, là nếu ai nói tôi chủ tâm làm mọi việc để cầu viên giác; nhưng
viên giác không phải làm như thế mà được, nên nói như thế là bịnh đó.
Hai là bịnh buông, là nếu ai nói tôi không loại sinh tử không cầu niết
bàn, đối với niết bàn và sinh tử tôi không có ý niệm phát động hay hủy
diệt, tôi buông thả tất cả, mặc kệ các pháp để cầu viên giác; nhưng
viên giác không phải buông như thế mà có, nên nói như thế là bịnh đó.
Ba là bịnh ngưng, là nếu ai nói tôi ngừng mọi ý niệm, nắm lấy vắng lặng
của toàn bộ các pháp để cầu viên giác; nhưng viên giác không phải ngừng
như thế mà hợp, nên nói như thế là bịnh đó. Bốn là bịnh dứt, là nếu
ai nói tôi dứt bỏ phiền não, không cả thân tâm, huống chi những thứ căn
cảnh huyễn ảo, tôi dứt bặt hết thảy để cầu viên giác; nhưng viên
giác không phải dứt như thế mà chứng, nên nói như thế là bịnh đó.
Pháp của ai tách rời bốn bịnh như vậy thì biết pháp ấy trong sáng. Và
xét như vậy là xét chính xác, xét khác đi là xét sai lầm.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng muốn tu hành thì phải suốt đời phụng sự thầy bạn tốt
có cái pháp tách rời cả bốn bịnh như vậy. Thầy bạn tốt muốn thân gần
thì đừng khinh lờn, muốn rời xa thì đừng oán hận. Trước cảnh nghịch
hay cảnh thuận lòng như không gian, với thân thể và tâm trí biết toàn
không thật, coi tất cả chúng sinh đồng bản thể với mình. Làm như vậy
mới mong nhập vào viên giác.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng không thành đạt tuệ giác là vì chưa loại bỏ những hạt
giống ghét ưa đối với bản thân cũng như đối với người khác, đã
có từ vô thỉ. Ai nhìn kẻ thù như nhìn cha mẹ, lòng không bỉ thử, thì
trừ khử được mọi thứ bịnh hoạn trong sự tu hành. Những sự ghét ưa
đối với các pháp cũng phải trừ khử như vậy.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng muốn cầu viên giác thì phải phát tâm, bằng cách nói như
vầy: Cùng tận không gian, bao nhiêu chúng sinh trong đó, con nguyện làm cho họ
nhập được viên giác; trong viên giác, con không chấp có người chứng ngộ,
con nguyện loại trừ mọi sắc thái ngã tướng nhân tướng. Phát tâm như
vậy thì không rơi vào kiến thức sai lầm.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Phổ giác nên biết,
- những người sau này
- cầu thầy bạn tốt
- phải cầu những người
- thấy biết chính xác
- tâm vượt nhị thừa.
- Đối với pháp tu
- phải loại bốn bịnh
- bịnh làm bịnh ngưng
- bịnh buông bịnh dứt.
- Và thầy bạn tốt
- thân, mình đừng kiêu
- sơ, mình không hận,
- và nhìn mọi sự
- của thầy bạn tốt
- lòng thấy hiếm có;
- có thầy bạn tốt
- như Phật xuất hiện.
- Không phạm những gì
- trái với uy nghi,
- gốc rễ giới luật
- vĩnh viễn trong sáng.
- Nguyện độ chúng sinh
- nhập vào viên giác,
- không có ngã tướng
- nhân tướng cũng không,
- y cứ tuệ giác
- chính xác như vậy
- thì vượt qua được
- mọi thứ tà kiến :
- tuệ giác chính xác
- thì nhập niết bàn.
Chương Viên Giác [^]
Lúc ấy bồ tát Viên giác ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã dạy cho chúng con một cách rộng rãi về những phương tiện
của viên giác trong sáng, làm cho những người thời kỳ cuối cùng cũng
được lợi ích tăng thêm một cách lớn lao. Thưa đức Thế tôn, hiện tại
chúng con đã được tỏ ngộ, nhưng ngài diệt độ rồi, thời kỳ cuối cùng,
những người chưa được tỏ ngộ thì họ nên thiết lập đạo tràng an cư
như thế nào để tu tập viên giác? Cách đầu tiên tu ba mặt thiền quán
trong sáng của viên giác là gì? Con thỉnh cầu đức Thế tôn, với lòng thương
cao cả, chỉ dạy những điều ấy, ban cho đại chúng này, và người sau này,
sự ích lợi lớn lao. Tác bạch rồi, bồ tát Viên giác gieo xuống sát đất
tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát
thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại
từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Viên giác: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể hỏi Như lai về
phương tiện như vậy của viên giác, cống hiến ích lợi lớn lao cho bao
chúng sinh. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Viên giác vâng lời,
hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
hoặc thời kỳ Như lai đang còn ở đời, hoặc thời kỳ Như lai đã diệt
độ, hoặc thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, tất cả mọi người ai có
chủng tánh đại thừa, tin và muốn tu viên giác vĩ đại của Như lai chứng
ngộ, mà ở nơi tự viện, nếu có việc phải lo cho tăng chúng và tín đồ,
thì tùy khả năng của mình, hãy tư duy thiền quán theo những cách thức Như
lai đã chỉ ở trước. Nếu không có việc gì, thì thiết lập đạo tràng
mà an cư, với ba kỳ hạn: kỳ hạn dài một trăm hai mươi ngày, kỳ hạn
vừa một trăm ngày, kỳ hạn ngắn tám mươi ngày. Bằng cách nếu Như lai
đang ở đời thì hãy suy nghĩ chính xác đến Như lai, nếu Như lai đã diệt
độ thì treo phan, chưng hoa, thiết trí hình tượng của Như lai, lòng dồn
lại nơi hình tượng ấy, mắt nhìn cho rõ rồi nhắm lại tưởng tượng hình
tượng ấy, tâm trí nghĩ nhớ chính xác đến Như lai, như thế thì cũng
như ngày Như lai còn ở đời. Trải qua ba tuần bảy ngày, kính lạy hồng
danh Phật đà mười phương, tha thiết sám hối, cảm được hiện tượng
tốt thì tâm trí thư thái. Qua ba tuần bảy ngày này rồi, vẫn một mạch
tập trung tư duy để tu tập những cách đầu tiên của ba thiền quán.
Nếu kỳ hạn như trên mà gặp đầu
hạ ba tháng an cư, thì phải làm theo sự an cư trong sáng của bồ tát, bằng
cách trong tâm tách rời thanh văn, không dựa đồng chúng. Đến ngày an cư
thì đối trước hình tượng Như lai mà tác bạch như vầy: Nay con là tỷ
kheo, hay tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, có tên như vậy, nguyện nương bồ
tát thừa mà tu tịch diệt hạnh, để được đồng nhập thật tướng
trong sáng. Vì bản thể niết bàn không tùy thuộc đâu cả, nên con nguyện
lấy viên giác vĩ đại làm chốn tự viện, cả thân thể lẫn tâm trí đều
an cư trong viên giác bình đẳng ấy. Con kính xin không nương tựa các vị
thanh văn, chỉ nương tựa chư vị Thế tôn và Đại sĩ để an cư ba tháng,
và vì lý do to lớn là tu tập viên giác vô thượng như các vị bồ tát
đang tu, nên con không tùy thuộc đồng chúng.
Thiện nam tử, như thế đó là thiết
lập đạo tràng mà an cư, và mỗi năm hết một trong ba kỳ hạn rồi, đi
lại tùy ý.
Thiện nam tử, những người thời
kỳ cuối cùng đi theo đường đi của bồ tát, bước vào một trong ba kỳ
hạn an cư, thì hiện tượng nào không phải cái họ đã nghe, họ tuyệt đối
không nên chấp nhận.
Thiện nam tử, ai tu cực tĩnh xa ma
tha, trước hết nắm sự tĩnh lặng, bằng cách không nổi dậy mọi sự
nghĩ nhớ, thì tĩnh cực là giác phát. Trạng thái tĩnh đầu tiên này phát
triển từ một bản thân đến một thế giới, thì trạng thái giác cũng
phát triển như vậy. Trạng thái giác cùng khắp một thế giới, thì trong
thế giới ấy một chúng sinh nào nổi lên một ý niệm gì cũng biết được
cả. Trạng thái tĩnh và giác cùng khắp trăm hay ngàn thế giới thì cũng y
như vậy. Thế nhưng hiện tượng nào không phải cái họ đã nghe, họ tuyệt
đối không nên chấp nhận.
Thiện nam tử, ai tu cực động tam
ma bát đề, trước hết tưởng nhớ mười phương Như lai và Đại sĩ, y
theo những tổng trì môn các ngài đã tuần tự tu tập về tinh tiến, khổ
hạnh và thiền quán, mà phát nguyện cao cả, thì tự huân tập thành cá
tính của mình... Thế nhưng hiện tượng nào không phải cái họ đã nghe,
họ tuyệt đối không nên chấp nhận.
Thiện nam tử, ai tu cực thuần thiền
na, trước hết nắm lấy sự đếm kể, bằng cách trong tâm tự biết rõ số
lượng của ý nghĩ phát sinh, tồn tại và diệt mất. Cứ như vậy, mọi cử
động đi đứng nằm ngồi đều biết rành rẽ số lượng của ý nghĩ, không
một ý nghĩ nào không biết. Rồi tuần tự bước tới, cho đến lúc biết
được cả một giọt mưa trong trăm ngàn thế giới mà y như nhìn thấy đồ
dùng trước mắt. Thế nhưng hiện tượng nào không phải cái họ đã nghe,
họ tuyệt đối không nên chấp nhận.
Như thế đó là những cách đầu
tiên của ba thiền quán. Ai tu khắp cả ba thiền quán ấy một cách siêng năng
tinh tiến, thì đối với người ấy Như lai xuất thế.
Trong thời kỳ cuối cùng, những người
trình độ chậm chạp, muốn cầu tuệ giác mà không thành đạt, ấy là
vì nghiệp cũ gây ra chướng ngại. Họ phải siêng năng sám hối, phải
luôn luôn hy vọng, và trước đó phải đoạn tuyệt những sự ghét bỏ,
yêu thích, ganh ghét, dua nịnh, và luyện tập tâm lý thắng thượng. Rồi
trong ba thiền quán, tùy khả năng mà tu lấy một. Một thiền quán ấy
không thành thì tu thiền quán khác. Quyết ý không buông không bỏ, tuần tự
mà cầu chứng ngộ.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Viên giác nên biết,
- chúng sinh muốn cầu
- tuệ giác vô thượng,
- trước hết họ phải
- ấn định lấy một
- trong ba kỳ hạn.
- Rồi trong ba tuần
- đầu mỗi kỳ hạn,
- họ phải sám hối
- nghiệp chướng lâu đời;
- sau đó tư duy
- thiền quán chính xác
- (mà hiện tượng nào
- không phải đã nghe,
- thì họ tuyệt đối
- không nên chấp nhận):
- thiền quán cực tĩnh
- tĩnh lặng hết mức,
- thiền quán cực động
- tưởng nhớ chính xác,
- thiền quán cực thuần
- đếm kể rõ ràng.
- Đó, cách đầu tiên
- của ba thiền quán;
- siêng tu tập cả
- như Phật xuất hiện.
- Trình độ chậm chạp
- tu tập không thành,
- thì phải siêng khó
- sám hối tội chướng;
- tội chướng tan biến
- cảnh Phật hiện ra.
Chương Hiền Thiện Thủ [^]
Lúc ấy bồ tát Hiền thiện thủ
ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã khai thị một cách rộng rãi như trên, cho chúng con và những
người thời kỳ cuối cùng, về những sự ngoài tầm tư duy và thảo luận.
Thưa đức Thế tôn, kinh pháp đại thừa này nên mệnh danh là gì? nên phụng
trì cách nào? ai tu tập thì được công đức gì? chúng con hộ trì cách
nào cho những người phụng trì kinh này? kinh này đi đến đâu? Tác bạch
rồi, bồ tát Hiền thiện thủ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận
của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến
ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Hiền thiện thủ: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát và những người sau này mà hỏi Như lai về danh hiệu, công đức, và
những gì liên hệ đến kinh pháp như thế này. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ
nói cho. Bồ Tát Hiền thiện thủ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng
yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
kinh này được trăm ngàn vạn ức hằng sa Phật đà tuyên thuyết, được
Phật đà quá khứ hiện tại và vị lai hộ trì, được bồ tát mười
phương qui y, vì là con mắt trong sáng của cả mười hai loại khế kinh.
Kinh này mệnh danh là kinh nói về Tổng
trì viên giác, thuộc loại cực kỳ cao rộng; cũng mệnh danh là kinh nói về
Nghĩa lý cứu cánh của khế kinh, kinh nói về Chánh định chúa tể bí mật,
kinh nói về Cảnh giới quyết định của Như lai, kinh nói về Đặc tính
và sắc thái của Như lai tạng. Các ông hãy nhớ như vậy.
Thiện nam tử, kinh này chỉ nói cảnh
giới của Như lai, chỉ Như lai mới nói cùng tận. Các vị bồ tát, và những
người thời kỳ cuối cùng, y cứ kinh này mà tu hành thì tuần tự bước
tới, đến tận địa vị Phật đà.
Thiện nam tử, kinh này là đại thừa
đốn giáo, nên chúng sinh đốn cơ thì tỏ ngộ bởi kinh này. Nhưng kinh này
cũng bao gồm các loại tiệm cơ. Bể cả thì đâu có kém sông bé, muỗi
mòng hay tu la, loài nào uống nước biển cả cũng no đủ hết thảy.
Thiện nam tử, giả sử có ai đem bảy
thứ quí báu chất đầy cả đại thiên thế giới mà bố thí, cũng không
bằng có người nghe danh hiệu hay một câu một nghĩa của kinh này. Lại giả
sử có ai giáo hóa một trăm hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, cũng
không bằng có người tuyên thuyết kinh này bằng cách phân tích nửa bài
chỉnh cú.
Thiện nam tử, ai nghe danh hiệu kinh
này mà thôi, mà tin một cách không còn bị mê hoặc, thì ông phải biết
người ấy không phải chỉ gieo trồng phước đức và tuệ giác nơi một
vài đức Phật, mà đã gieo trồng những thiện căn như vậy, và đã nghe
kinh này, nơi hằng sa Phật đà. Thiện nam tử, các ông nên hộ trì người
ấy, đừng để ma vương và ngoại đạo quấy rối thân thể và tâm trí của
họ, làm cho họ lùi bước, khuất phục.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Hiền thiện thủ này,
- ông nên nhận thức
- kinh này là do
- chư Phật tuyên thuyết,
- và do Như lai
- cùng chư Như lai
- trân trọng giữ gìn,
- vì là con mắt
- của mười hai loại
- khế kinh của Phật.
- Kinh này tên là
- Tổng trì viên giác,
- thuộc về thể loại
- pháp đại phương quảng,
- nói về cảnh giới
- của chư Như lai.
- Những ai tu hành
- y theo kinh này
- thì tăng tiến lên
- đến địa vị Phật,
- y như đại dương
- nạp hết sông ngòi,
- ai uống nước ấy
- cũng sung mãn cả.
- Giả sử bố thí
- bảy thứ quí báu
- nhiều bằng cái lượng
- đại thiên thế giới,
- cũng không bằng phước
- được nghe kinh này.
- Và nếu giáo hóa
- hằng sa chúng sinh
- đều thực hiện được
- tuệ giác La hán,
- cũng không bằng phước
- nói nửa bài kệ.
- Trong thì vị lai
- các người hãy giữ
- cho người tuyên thuyết
- duy trì kinh này,
- đừng để cho họ
- phải bị thoái khuất.
Vào lúc bấy giờ, trong đại hội
có tám mươi ngàn Kim cang lực sĩ, cầm đầu bởi kim cang lực sĩ Hỏa thủ,
kim cang lực sĩ Tồi toái, kim cang lực sĩ Ni lam bà. Các vị kim cang lực sĩ
cầm đầu này, cùng thuộc hạ của họ, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy,
đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải
của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức Thế tôn, thời kỳ
cuối cùng sau này, có ai phụng trì được kinh pháp đại thừa quyết định
như thế này, thì chúng con nguyện giữ người ấy như giữ con mắt của mình.
Những chỗ người ấy thiết lập đạo tràng thì chúng con tự thống suất
bộ hạ sớm tối giữ gìn, không để họ bị thoái chuyển. Chỗ họ cư
trú thì không bao giờ bị tai nạn và mọi sự chướng ngại khác, những
loại bịnh truyền nhiễm cũng tan biến, tài vật phong phú, sung túc, không
bao giờ thiếu thốn gì cả.
Cũng vào lúc bấy giờ, Đại phạn
thiên vương, và hai mươi tám vị thiên vương khác; chúa tể Tu di sơn là
Đế thích thiên vương, cùng bốn vị thiên vương hộ vệ thế giới loài
người, cũng tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình
lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài
ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức Thế tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì
cho những người phụng trì kinh này, làm cho họ luôn luôn yên ổn, không
thoái chuyển tâm chí.
Lại có đại lực quỉ vương tên
Cát bàn trà, cùng với mười vạn quỉ vương, cũng tức thì từ chỗ ngồi
đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo
chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức
Thế tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì những người phụng trì kinh này, sớm
tối hầu hạ gìngiữ,làm cho những người ấy không thoái chí khuất phục.
Những người ấy ở đâu thì trong chu vi một do tuần của chỗ ấy, nếu
có quỉ thần độc ác xâm phạm, chúng con sẽ làm cho họ nát như vi trần.
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết kinh
này hoàn tất thì các vị bồ tát, tám bộ thiên long mà trong đó có Đế
thích thiên vương và Đại phạn thiên vương, cùng tùy thuộc của họ,
toàn thể đại hội nghe những điều tuyên thuyết của đức Thế tôn, ai
cũng rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành.
-oOo-
Chân thành
cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn
đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |