KINH VIÊN
GIÁC
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
4
- I. Phần Lược Giải
- B1. Mở Đầu
- B2. Nội Dung
- C1. Chủ Yếu
|
Lược Giải Đầu Đề [^]
Đầu đề kinh này, chính văn là Đại
phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh, dịch đủ là kinh nghĩa lý
cứu cánh trong các loại khế kinh, nói về Tuệ giác hoàn toàn, thuộc loại
cực kỳ cao rộng.
Đại phương quảng (cực kỳ cao rộng)
là 1 trong 12 loại khế kinh, kinh này thuộc về thể loại ấy. Tu đa la dịch
ý là kinh hay khế kinh, ở đây chỉ cho tất cả các kinh (mà kinh nào cũng
có từ 1 cho đến 12 thể loại). Liễu nghĩa kinh (kinh nghĩa lý cứu cánh),
chữ liễu còn có nghĩa là rõ ràng. Tất cả các kinh, có một cách phân loại
là liễu nghĩa (chân thật thuyết) và bất liễu nghĩa (phương tiện thuyết).
Kinh Viên giác này thuộc loại liễu nghĩa. Tu đa la liễu nghĩa kinh là bản
kinh liễu nghĩa trong tất cả các kinh. Đại phương quảng viên giác tu đa
la liễu nghĩa kinh, có nghĩa là kinh Viên giác là kinh liễu nghĩa trong các
kinh, thuộc loại đại phương quảng. Và như vậy chỉ có chữ Viên giác mới
thật là tên của kinh này, các chữ trên và dưới chữ ấy chỉ cốt làm
cho thấy kinh này rất cao.
Viên giác,trong chương Thanh tịnh tuệ
nói rõ là viên mãn bồ đề,vậy viên giác chính là vô thượng bồ đề của
Phật.Viên giác nghĩa là tuệ giác hoàn toàn, tròn đầy. Viên giác đủ các
mặt là đại bồ đề và đại niết bàn, không phải chỉ là đại bồ đề.
Viên giác vừa là năng chứng bồ đề, vừa là sở chứng chân như, không
phải chỉ là năng chứng bồ đề. Quan trọng hơn cả, Viên giác là bản
giác, thỉ giác và cứu cánh giác (cái biết bản hữu, cái biết mới có,
cái biết cứu cánh), không phải chỉ là cứu cánh giác.
Lược Phân Nội Dung [^]
Trong khi dịch giải kinh Viên giác,
tôi có một số các bản chú thích xưa, trong đó có đại sớ và lược sớ
của ngài Tông mật. Tất cả đều nằm trong Tục tạng kinh bản chữ Vạn,
các tập 14, 15 và 16. Tôi cũng có bản lược thích của ngài Thái hư, nằm
trong Thái hư toàn thư tập 28. Tôi đã đọc cách phân chia nội dung của
các bản ấy. Có những cách phân chia khác nữa, thấy được ghi lại trong
Vạn 16/5a. Rồi đối chiếu kyՠvới chính văn,tôi tham chước mà lược phân
kinh Viên giác như sau.
Kinh này gồm có 3 phần là mở đầu,
nội dung và kết thúc. Phần nội dung và phần kết thúc gồm có 12 lần hỏi
đáp, gọi là 12 chương, lấy theo tên các vị đại sĩ hỏi. Tựu trung,
chương 12 là phần kết thúc, còn 11 chương trước đó là phần nội dung,
lược phân làm 2 phần, là phần chủ yếu và phần bổ túc.
Phần chủ yếu gồm có 6 chương:
1. chương Văn thù nói về căn bản tu chứng viên giác, 2. chương Phổ hiền
nói về cách thức đốn tu viên giác, 3. chương Phổ nhãn nói về cách thức
tiệm tu viên giác, 4. chương Kim cang tạng nói về viên giác vĩnh viễn viên
giác, 5. chương Di lạc nói về chủng tánh tu chứng viên giác, 6. chương
Thanh tịnh tuệ nói về đẳng cấp tu chứng viên giác.
Phần bổ túc gồm có 5 chương: 7.
chương Uy đức tự tại nói về 3 mặt thiền quán viên giác, 8. chương Biện
âm nói về cách tu 3 mặt ở trên, 9. chương Tịnh chư nghiệp chướng nói
về chướng ngại tu chứng viên giác, 10. chương Phổ giác nói về bịnh hoạn
tu chứng viên giác, 11. chương Viên giác nói về sơ khởi tu chứng viên
giác.
Chủ yếu là chủ yếu trong việc
tu chứng viên giác, nên chương 1 nêu căn bản tu chứng, chương 2 chỉ cách
tu liền liền, chương 3 chỉ cách tu dần dần, chương 4 nói do tu như vậy
mà chứng được viên giác vĩnh viễn, chương 5 nói tư cách tu chứng như vậy,chương
6 nói đẳng cấp tu chứng như vậy. Còn bổ túc là bổ túc cho phần chủ
yếu, nên các chương 7, 8 và 11 là bổ túc chương 3 (và 1 phần chương 2),
nói thêm và rõ về các cách tu chứng; các chương 9 và 10 bổ túc các chương
5 và 6 nói về chướng ngại và bịnh hoạn phải trừ trong sự tu chứng.
Đó là có tham chước ý kiến người
trước mà lược phân. Nếu lược phân theo ý mình hoàn toàn thì chương 2
tôi ghi "chương Phổ hiền nói về nguyên lý tu chứng viên giác"
(nguyên lý ấy là đem huyễn ảo diệt trừ huyễn ảo, huyễn ảo diệt hết
mà viên giác bất động), chương 3 tôi ghi "chương Phổ nhãn nói về
cách thức tu chứng viên giác", chương 4 tôi ghi "chương Kim cang tạng
nói về viên giác siêu việt luân hồi" (bản thể viên giác siêu việt
kiến thức luân hồi, không phát sinh hay tái sinh vô minh), chương 5 tôi ghi
"chương Di lạc nói về diệt trừ gốc rễ luân hồi" (diệt trừ
ái dục là gốc kiến thức luân hồi, làm cho viên giác không còn tái sinh
vô minh). Ghi như vậy đúng và rõ hơn nữa.
Đó là lược phân nội dung kinh
này. Còn lược phân từng chương sẽ làm trong phần lược giải chính văn.
Lược Ghi Dịch Giả [^]
Dịch giả kinh này là ngài Giác cứu
(Phật đà đa la), vốn người Kế tân (Ca thấp di la), đến Trung hoa dịch
kinh này vào giữa thế kỷ thứ 7. Có chỗ còn ghi rõ dịch xong ngày Vu lan
năm đinh mùi,niên hiệu Trinh quán đời Đường (650).
Mở Đầu
Chính Văn.-
Tôi nghe như vầy: Một thời đức
Thế tôn nhập vào chánh định tên là Kho tàng ánh sáng vĩ đại của thần
thông . Kho tàng ấy là chỗ ở giữ (1) một cách sáng chói tôn nghiêm của
các đức Thế tôn, là tánh tuệ giác (2) vốn rất trong suốt sạch sẽ của
các loại chúng sinh. Đức Thế tôn nhập vào chánh định ấy nên thân thể
và tâm trí đều vắng lặng (3) đồng nhất với bản thể phổ biến vũ
trụ, nghĩa là thích ứng với sự bất nhị (4) . Chính sự bất nhị ấy
biểu hiện thế giới trong sạch (5) . Đức Thế tôn ở nơi thế giới
trong sạch này, và cùng ở với ngài có mười ngàn vị đại sĩ mà các bậc
đứng đầu là bồ tát Văn thù, bồ tát Phổ hiền, bồ tát Phổ nhãn, bồ
tát Kim cang tạng, bồ tát Di lạc, bồ tát Thanh tịnh tuệ, bồ tát Uy đức
tự tại, bồ tát Biện âm, bồ tát Tịnh chư nghiệp chướng, bồ tát Phổ
giác, bồ tát Viên giác, bồ tát Hiền thiện thủ; các vị này, và các vị
tùy thuộc, cùng nhập vào chánh định, nên cùng dự pháp hội bình đẳng
của đức Thế tôn.
Lược Giải.-
Khác với số lớn kinh khác nói Phật
tuyên thuyết ở chỗ nào đó, kinh này nói Phật tuyên thuyết ở tịnh độ
(được biểu hiện bởi chánh định). Vậy tịnh độ ấy là báo độ của
Phật (phần tha thọ dụng), không có giới hạn nào cả. Đâu cũng là tịnh
độ của Phật, không cần nêu lên một chỗ. Thấy là uế độ, chỉ vì
kính màu nghiệp báo của chúng ta.
Cũng khác với một số kinh khác,
kinh này người nói (Phật) và người nghe (bồ tát) cùng nhập chánh định
mà hỏi, mà nói, mà nghe. Những sự ấy cũng là hoạt dụng của chánh định
loại cao.
Nội Dung
C1: chủ yếu, có 6 D: D1 chương Văn
thù nói về căn bản tu chứng viên giác, D2 chương Phổ hiền nói về cách
thức đốn tu (6) viên giác, D3 chương Phổ nhãn nói về cách thức tiệm tu
(7) viên giác, D4 chương Kim cang tạng nói về viên giác vĩnh viễn viên
giác, D5 chương Di lạc nói về chủng tánh (8) tu chứng viên giác, D6 chương
Thanh tịnh tuệ nói về đẳng cấp tu chứng viên giác.
Chương Văn Thù Nói Về Căn Bản Tu Chứng Viên Giác [^]
Đ1. Bồ Tát Văn Thù Hỏi
Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
E2. Đáp 3 Câu Hỏi
G1. Đáp Câu Hõi Một
G2. Đáp Các Câu Hõi Hai Và Ba
E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Bồ Tát Văn Thù Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Văn thù ở trong đại
chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân
đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi
quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả,
con xin ngài vì các vị đến dự pháp hội này mà nói về việc làm căn bản
sơ khởi (9) của đức Thế tôn là thế nào? Lại nói về các vị bồ tát
ở trong đại thừa phát tâm như thế nào mới trong suốt, tách rời bịnh
hoạn (10) ? Và thời kỳ cuối cùng (11) , những người cầu pháp đại thừa
phải như thế nào mới khỏi sa vào kiến thức sai lầm (12) ? Tác bạch rồi,
bồ tát Văn thù gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể
mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi
lần thỉnh cầu xong lại làm
lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của ngài Văn thù có 3
câu: câu một, việc làm căn bản sơ khởi của Phật là gì? câu hai, bồ
tát phát tâm đại thừa như thế nào mới không bịnh hoạn? câu ba, chúng
sinh mạt pháp cầu đại thừa phải như thế nào mới khỏi sa vào tà kiến?
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Văn thù: Tốt lắm , thiện nam tử (13) , ông có thể vì các vị bồ
tát mà hỏi đến việc làm căn bản sơ khởi của Như lai, lại vì những
người cầu pháp đại thừa trong thời kỳ cuối cùng mà hỏi làm cách
nào để được sự trú ở (14) chính xác, không sa vào kiến thức sai lầm.
Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Văn thù vâng lời, hoan hỷ,
cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp Câu Hỏi Một
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
đức Pháp vương vô thượng có pháp đại tổng trì (15) danh hiệu là Viên
giác, tuôn ra tất cả các pháp trong sáng là chân như (16) , bồ đề (17) ,
niết bàn (18) và ba la mật (19) , để dạy cho các vị bồ tát. Việc làm căn
bản sơ khởi của chư vị Như lai là y theo viên giác - y theo tuệ giác
trong suốt và chiếu soi trọn vẹn ấy mà diệt trừ vô minh một cách vĩnh
viễn, mới thành đạt tuệ giác Phật đà (20) .
Lược Giải.-
Việc làm căn bản sơ khởi của Phật
là y cứ viên giác mà diệt trừ vô minh. Đó là đáp câu hỏi một của
ngài Văn thù: việc làm căn bản sơ khởi của Phật là gì.
Nói Thêm Về Vô Minh
Chính Văn.-
Thiện nam tử, vô minh là gì, là những
sự thác loạn có từ vô thỉ đến giờ của các loại chúng sinh, những sự
thác loạn tựa như một kẻ ngộ nhận thì bốn phương hướng biến đổi
vị trí (21) tất cả. Do đó mà ngộ nhận sự tổ hợp của bốn đại chủng
làm tự thân, ngộ nhận sự nhận thức về sáu đối cảnh (22) làm tự
tâm , khác nào mắt bịnh thì thấy không gian có hoa đốm, hay thấy mặt
trăng có mặt trăng thứ hai chồng lên. Nhưng không gian thật không có hoa
đốm, hoa đốm chỉ do người bịnh ngộ nhận: vì sự ngộ nhận này mà
không những ngộ nhận sự thật của không gian, lại còn ngộ nhận cả xuất
xứ chính xác của hoa đốm, và vì như vậy mà có sự sinh tử luân hồi,
có một cách không thật (23) , nên mệnh danh là vô minh.
Lược Giải.-
Vô minh là biết mà biết sai: biết
tổ hợp tứ đại là tự thân, biết duyên ảnh lục trần là tự tâm. Biết
như vậy là cũng như mắt bịnh thấy không gian có hoa đốm.
Trong kinh Lăng nghiêm thuật lại
cái biết của ngài A nan như sau: ... Tự biết Tâm khắp mười phương.Thấy
không gian mười phương chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay. Vũ trụ vạn
hữu đều là Tâm. Tâm bao hàm tất cả. Nhìn lại cái thân do cha mẹ sinh
ra thấy chỉ như hạt bụi trong không gian. Thân ấy còn hay mất, chỉ như
cái bọt nổi lên hay tan mất trong biển cả ... (Chính 19/119). Biết cái
thân bình thường mà như vậy thì không phải là cái biết của vô minh.
Nói Thêm Về Viên Giác
Chính Văn.-
Thiện nam tử, vô minh như vậy là
không phải có thật, y như nhân vật trong mộng, mộng thì thấy là có mà
tỉnh thì biết là không -- Không đây là như hoa đốm mất đi trong không
gian, thì không thể nói không gian có cái vị trí biến mất, vì lẽ không
gian vốn không có cái vị trí sinh ra. Trong sự không sinh không mất như vậy,
các loại chúng sinh thấy lầm có sinh có mất, nên gọi là sinh tử luân hồi
(24) ; còn việc làm căn bản sơ khởi của chư vị Như lai là tu theo viên
giác: biết là hoa đốm thì biết sinh tử luân hồi là không, thân tâm
lãnh chịu sự sinh tử luân hồi ấy cũng là không -- Không, không phải
làm cho không đi mới không, mà là thực chất vốn không. Biết là hoa đốm,
cái biết ấy cũng là không; cái biết cũng là không như vậy cũng chỉ là
sắc thái hoa đốm; và như thế thì cũng không thể nói rằng không biết
gì cả: có và không đều loại bỏ thì gọi là thích ứng với tuệ giác
trong sáng. Tuệ giác trong sáng là vì bản thể vốn như không gian, vĩnh viễn
bất động, nghĩa là Như lai tạng (25) không có sự sinh ra và sự mất đi,
không có cái thấy biết phản ảnh sự sinh ra và sự mất đi, mà là bản
thể vũ trụ, vốn tuyệt đối, trọn vẹn và phổ biến.
Lược Giải.-
"Biết là hoa đốm thì biết
sinh tử là không", biết không gian vốn không có hoa đốm: biết viên
giác vốn không phải vô minh, biết như vậy chính là viên giác.
Đáp Các Câu Hỏi Hai Và Ba
Chính Văn.-
Như thế đó là việc làm căn bản
sơ khởi của Như lai. Bồ tát y theo căn bản ấy mà ở trong đại thừa phát
tâm trong suốt. Và những người thời kỳ cuối cùng y cứ căn bản ấy mà
tu hành thì không sa vào kiến thức sai lầm.
Lược Giải.-
Bồ tát y theo viên giác (căn bản
sơ khởi của Phật) mà phát tâm thì tâm đó trong suốt, không bị bịnh hoạn.
Đó là đáp câu hỏi hai của ngài Văn thù: bồ tát phát tâm đại thừa
như thế nào mới không bịnh hoạn. Chúng sinh y theo viên giác mà cầu đại
thừa thì không bị tà kiến. Đó là đáp câu hỏi ba của ngài Văn thù:
chúng sinh mạt pháp cầu đại thừa phải như thế nào mới khỏi sa vào
tà kiến.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú (26) sau đây.
- Văn thù nên biết,
- tất cả Như lai
- căn bản sơ khởi
- vận dụng tuệ giác:
- biết rằng vô minh
- chỉ như hoa đốm
- nên hết luân hồi,
- khác nào cảnh mộng
- mộng mị thấy có
- thức tỉnh toàn không.
- Cái biết trên đây
- vốn cũng là không
- bình đẳng, bất động (27) ,
- phổ biến mười phương:
- ấy là thành đạt
- tuệ giác Phật đà.
- Huyễn ảo biến mất
- thì không vị trí,
- tuệ giác thành đạt
- cũng vốn là không,
- vì lẽ bản thể
- vốn là tròn đầy.
- Y cứ vào đây
- các vị bồ tát
- có thể phát ra
- tâm đại bồ đề;
- những người sau này
- theo đây mà tu
- thì khỏi sa vào
- kiến thức sai lầm.
- Chương
Phổ Hiền Nói Về Cách Thức Đốn Tu Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Phổ Hiền Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp 4 Câu Hỏi
- G1. Đáp Các Câu Hõi Hai Và Ba
- G2. Đáp Câu Hõi Một
- G3. Đáp Câu Hõi Bốn
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Lược Giải.-
Đốn tu ở đây là của bồ tát thập
địa. Các bậc thượng căn cũng có thể có sự đốn ngộ trong sự đốn
tu này.
Bồ Tát Phổ Hiền Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Phổ hiền ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, con xin ngài vì các vị bồ tát trong đại hội này, lại vì những
người tu hành đại thừa trong thời kỳ cuối cùng, mà dạy cho họ biết,
nghe nói viên giác trong sáng như vậy thì tu hành cách nào: Nếu họ biết
là huyễn ảo cả, thì thân thể và tâm trí cũng là huyễn ảo, làm sao
đem huyễn ảo tu hành huyễn ảo (28) ? Nếu thực chất huyễn ảo là hủy
diệt tất cả, thì thân thể và tâm trí cũng là không, như vậy ai là người
tu hành để nói sự tu hành cũng như huyễn ảo? Nếu người tu hành cũng
không, có nghĩa chúng sinh không tu hành, vĩnh viễn đắm mình trong cảnh huyễn
ảo của thế giới sinh tử luân hồi, không hề thấu hiểu chân lý huyễn
ảo, như vậy làm sao thoát được tư tưởng ngộ nhận? Con lại thỉnh cầu
đức Thế tôn dạy cho những người sau này biết tu hành chánh định Như
huyễn (29) bằng phương tiện gì và thứ tự nào để vĩnh viễn thoát bỏ
huyễn ảo? Tác bạch rồi, bồ tát Phổ hiền gieo xuống sát đất tất cả
năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu
như vậy đến ba lần , mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của ngài Phổ hiền có 4
câu: câu một, làm sao đem huyễn ảo tu hành huyễn ảo? câu hai, huyễn ảo
diệt hết thì ai tu hành? câu ba, không tu hành thì làm sao giải thoát ? câu
bốn, tu định Như huyễn bằng phương tiện và thứ tự nào?
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Phổ hiền: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát
và những người sau này mà hỏi Như lai, rằng họ phải tu tập phương tiện
và thứ tự của chánh định Như huyển như thế nào để thoát bỏ huyễn
ảo. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ hiền vâng lời, hoan
hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp Các Câu Hỏi Hai Và Ba
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
hết thảy huyễn ảo của chúng sinh đều phát sinh nơi viên giác ---- nơi cái
tâm vi diệu mà Như lai chứng ngộ, tương tự hoa đốm có trong không gian.
Nhưng hoa đốm huyễn ảo thì hủy diệt mà không gian thì không hủy diệt:
vô minh huyễn ảo thì hủy diệt vì thân tâm huyễn ảo, huyễn ảo hủy diệt
mà viên giác bất động. Đối với huyễn ảo mà nói viên giác, thì viên
giác ấy cũng là huyễn ảo; nói viên giác là có thì vẫn thuộc phạm trù
huyễn ảo, nói viên giác là không thì cũng y như thế. Huyễn ảo hủy diệt
mới là viên giác bất động. Thế nên hết thảy bồ tát, và những người
sau này, phải thoát bỏ cho được mọi sự huyễn ảo.
Lược Giải.-
Hoa đốm mất mà không gian còn, huyễn
ảo hết mà viên giác bất động, chứ không phải mất hết. Đó là đáp
câu hỏi hai của ngài Phổ hiền: huyễn ảo diệt hết thì ai tu hành. Huyễn
ảo diệt hết mới là viên giác bất động, nên phải tu hành mà diệt cho
hết huyễn ảo. Đó là đáp câu hỏi ba của ngài Phổ hiền: không tu hành
thì làm sao giải thoát.
Đáp Câu Hỏi Một
Chính Văn.-
Nhưng cố chấp ý thức thoát bỏ
thì cái ý thức thoát bỏ này cũng phải thoát bỏ. Sự thoát bỏ cái ý thức
thoát bỏ này cũng phải thoát bỏ. Và sự thoát bỏ cái sự thoát bỏ này
cũng phải thoát bỏ. Không còn gì để thoát bỏ nữa thì mọi sự huyễn
ảo hủy diệt. Ví như người kéo cây lấy lửa, hai cây cọ xát với nhau,
lửa phát thì hai cây cháy cả, cháy đến khói cũng tản, tro cũng bay: đem
huyễn ảo diệt trừ huyễn ảo cũng tương tự như vậy. Và huyễn ảo mất
hết mà sự đó không nhập vào cái loại kiến thức sai lầm chủ trương
mọi sự đều mất hẳn.
Lược Giải.-
Đem thân tâm huyễn ảo tu hành hủy
diệt vô minh huyễn ảo, cũng như kéo cây ra lửa, lửa phát cây cháy, cây
cháy hết lửa cũng không còn (văn chỉnh cú nói rõ hơn như vậy). Đó là
đáp câu hỏi một của ngài Phổ hiền: làm sao đem huyễn ảo tu hành huyễn
ảo. Cây cháy, lửa hết, mà người kéo lửa vẫn còn: huyễn ảo diệt hết
huyễn ảo mà không phải đoạn kiến. Đó là phụ thêm cho ví dụ hoa đốm
mất mà không gian vẫn còn để đáp câu hỏi hai, ở đoạn trên.
Đáp Câu Hỏi Bốn
Chính Văn.-
Thiện nam tử, biết là huyễn ảo
(30) thì thoát bỏ huyễn ảo, không làm phương tiện gì khác; huyễn ảo
thoát bỏ thì viên giác trong sáng, không có thứ tự nào cả. Các vị bồ
tát, và những người sau này, y theo sự chỉ dẫn trên đây mà tu hành mới
vĩnh viễn thoát bỏ huyễn ảo.
Lược Giải.-
Biết là huyễn ảo thì thoát bỏ
huyễn ảo, không phương tiện gì khác; huyễn ảo thoát bỏ thì viên giác
trong sáng, không thứ tự nào cả. Đó là đáp câu hỏi bốn của ngài Phổ
hiền: tu định Như huyễn bằng phương tiện và thứ tự nào.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Phổ hiền nên biết,
- vô minh huyễn ảo
- là có ở nơi
- diệu tâm viên giác,
- tương tự hoa đốm
- có trong không gian,
- hoa đốm hủy diệt
- không gian bất động;
- huyễn ảo phát sinh
- ở nơi viên giác,
- huyễn ảo hủy diệt
- viên giác trọn vẹn,
- vì lẽ viên giác
- bản tính bất động.
- Nên các bồ tát
- và người sau này
- thoát bỏ cho được
- mọi sự huyễn ảo.
- Huyễn ảo thoát bỏ
- là như một kẻ
- kéo cây ra lửa,
- lửa phát cây cháy,
- cây cháy hết cả
- lửa cũng không còn.
- Viên giác thì không
- phương tiện gì cả,
- và cũng không cả
- cái sự thứ tự.
Chương Phổ Nhãn Nói Về Cách Thứ Tiệm Tu Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Phổ Nhãn Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp 3 Câu Hỏi
- G1. Đáp Câu Hõi Một
- H1. Tự Duy Thân Không
- H2. Tự Duy Tâm Không
- G2. Đáp Câu Hõi Hai
- H1. Trú Ở Viên Giác
- H2. Chổ Thấy Trong Sáng
- I1. Thấy Các Pháp Đều Trong Sáng
- I2. Thấy Các Pháp Đều Bất Động
- I3. Thấy Các Pháp Đều Phổ Biến
- I4. Thấy Các Pháp Đều Viên Dung
- I5. Thấy Các Pháp Đều Bình Đẳng
- G3. Đáp Câu Hõi Ba
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Lược Giải.-
Tiệm tu ở đây là của bồ tát mới
phát tâm cho đến thập hướng. Nhưng trong tiệm tu ấy vẫn không phải
không có sự đốn ngộ.
Bồ Tát Phổ Nhãn Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Phổ nhãn ở trong
đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, con xin ngài vì các vị bồ tát trong đại hội này, và vì những
người trong thời kỳ cuối cùng, chỉ dạy phương tiện thứ tự mà bồ
tát tu hành: họ phải tư duy (31) như thế nào? phải trú ở (32) như thế nào?
và truyền đạt như thế nào cho những người chưa biết? Thưa đức Thế
tôn, nếu họ không biết tư duy và trú ở chính xác theo phương tiện chính
xác, thì nghe chánh định Như huyễn của đức Thế tôn dạy, họ sẽ mờ
mịt, thác loạn, không thể nhập vào viên giác. Xin đức Thế tôn thương
tưởng, vì chúng con và vì những người sau này mà chỉ dạy phương tiện
ấy. Tác bạch rồi, bồ tát Phổ nhãn gieo xuống sát đất tất cả năm bộ
phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy
đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của ngài Phổ nhãn có 3
câu: câu một, tư duy như thế nào? câu hai, trú ở như thế nào? câu ba,
truyền đạt như thế nào? Đốn tu tiệm tu gì cũng cốt trừ vô minh huyễn
ảo: cũng là tu định Như huyễn, nên ngài Phổ nhãn vẫn lặp lại định
ấy.
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Phổ nhãn: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát,
và những người sau này, hỏi Như lai về phương tiện thứ tự của sự
tu hành: hỏi cách tư duy và cách trú ở của sự tu hành, hỏi cách truyền
đạt những sự ấy . Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ
nhãn vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp Câu Hỏi Một
Lược Giải.-
Tư duy là tư duy thân không và tư
duy tâm không. Đó là đáp câu hỏi một của ngài Phổ nhãn: tư duy như thế
nào?
Tư Duy Thân Không
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
các vị bồ tát mới tu học, và những người thời kỳ cuối cùng, muốn
phát hiện viên giác mà Như lai đã chứng ngộ thì phải có sự nhớ nghĩ
chính xác, nhớ nghĩ về sự thoát bỏ huyễn ảo, bằng cách trước hết
phải y cứ pháp hạnh xa ma tha --- pháp hạnh tập trung tư duy của Như lai,
phải nghiêm giữ giới luật, sắp đặt đồ đệ cho yên, và thường ngồi
trong phòng thất yên tĩnh, nhớ nghĩ luôn như thế này: thân thể của ta đây
chỉ là sự tổ hợp của bốn đại chủng: những gì cố thể thì thuộc
về đất, những gì dịch thể thì thuộc về nước, những gì nhiệt lực
thì thuộc về lửa, những gì động lực thì thuộc về gió (33) . Nhưng bốn
đại chủng ấy tách rời với nhau, thì gọi là cái thân là cái gì? Suy
nghĩ như vậy thì biết cái thân ấy cứu cánh không có cá thể, chỉ là một
hình thái tổ hợp, thực chất huyễn ảo.
Lược Giải.-
Đây là quán thân không. Quán thân
không là quán nhân vô ngã, nhưng nói nhân vô ngã không sát bằng nói thân
không.
Tư Duy Tâm Không
Chính Văn.-
Do bốn đại chủng làm những yếu
tố tương quan mà tổ hợp lại một cách không thật, nên có ra sáu giác
quan, có cũng một cách không thật. Rồi sáu giác quan ở trong và bốn đại
chủng ở ngoài tổ hợp với nhau mà có một cách không thâểt những sự
vin theo đối cảnh, và tụ lại tựa như có ấn tượng: như thế giả gọi
là tâm thức. Tâm thức không thật như vậy nếu không có sáu đối cảnh
thì không thể có được. Nhưng bốn đại chủng phân tán thì sáu đối cảnh
cũng không thể có. Đại chủng và đối cảnh phân tán thì rốt cuộc cũng
không có tâm thức có thể tìm thấy.
Lược Giải.-
Đây là quán tâm không. Tâm ở đây
chỉ nói 6 thức trước của Duy thức học. Sáu căn, sáu cảnh và sáu thức,
và cả bốn đại nữa, toàn chỉ là những sự tương quan tổ hợp, toàn
không thật. Quán tâm không là quán tâm, và những gì liên quan đến tâm,
đều không. Quán tâm không, như vậy, là quán pháp vô ngã, nhưng nói pháp
vô ngã không sát bằng nói tâm không.
Đáp Câu Hỏi Hai
Lược Giải.-
Trú ở là trú ở viên giác, và
trú ở viên giác thì chỗ thấy trong sáng. Đó là đáp câu hỏi hai của
ngài Phổ nhãn: trú ở như thế nào.
Trú Ở Viên Giác
Chính Văn.-
Thiện nam tử, người ấy thấy thân
thể như huyễn ảo hủy diệt thì tâm thức như huyễn ảo hủy diệt, tâm
thức như huyễn ảo hủy diệt thì đối cảnh như huyễn ảo hủy diệt,
đối cảnh như huyễn ảo hủy diệt thì sự hủy diệt như huyễn ảo
cũng hủy diệt, sự hủy diệt như huyễn ảo cũng hủy diệt thì cái
không phải huyễn ảo sẽ không hủy diệt, giống như lau gương , dơ bẩn
lau hết thì trong sáng hiện ra: Phải biết thân tâm toàn là hình thái dơ bẩn,
hình thái dơ bẩn diệt hẳn thì vũ trụ trong sáng.
Thiện nam tử, như khối ngọc trong
suốt phản ảnh đủ cả năm màu, mỗi màu hiện một phía, vậy mà kẻ
ngu dốt thì nói khối ngọc thật có năm màu. Tương tự như vậy, viên
giác trong sáng ảnh hiện thân tâm thích ứng từng loại (34) , vậy mà người
ngu dốt nói viên giác thật có các hình thái thân tâm. Do đó mà họ không
thể thoát bỏ huyễn ảo dơ bẩn, và, với họ, Như lai nói thân tâm đều
là huyễn ảo dơ bẩn (35) ; đối lại, ai thoát bỏ huyễn ảo dơ bẩn thì
Như lai gọi là bồ tát; và huyễn ảo dơ bẩn hết rồi thì sự đối lại
cũng không còn: không còn dơ bẩn, không còn người thoát bỏ dơ bẩn, không
còn người giả thiết tên gọi.
Lược Giải.-
Huyễn ảo diệt hết thì viên giác
-- cái không phải huyễn ảo sẽ bất diệt, trong sáng: như vậy là trú ở
viên giác. Trú ở viên giác thì thấy gì cũng trong sáng cho đến bình đẳng,
như sẽ nói dưới đây.
Thấy Các Pháp Đều Trong Sáng
(Có Thể Gọi Là Sự Vô Ngại),
Thấy Các Pháp Đều Trong Sáng tức
thấy các pháp thế gian và xuất thế đều trong sáng, thấy các pháp chánh
báo và y báo đều trong sáng.
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát, và
những người sau này, khi thực hiện được trạng thái huyễn ảo hủy diệt,
thì bấy giờ thấy sự trong sáng vô biên, được biểu hiện bởi viên
giác trong sáng vốn như không gian vô hạn.
Thấy Các Pháp Thế Gian Và Xuất Thế
Đều Trong Sáng
Chính Văn.-
Viên giác trong sáng nên tâm thức
trong sáng, tâm thức trong sáng nên sự thấy trong sáng: sự thấy trong sáng
nên nhãn căn trong sáng, nhãn căn trong sáng nên nhãn thức trong sáng; nhãn
thức trong sáng nên sự nghe trong sáng: sự nghe trong sáng nên nhĩ căn trong
sáng, nhĩ căn trong sáng nên nhĩ thức trong sáng; nhĩ thức trong sáng nên sự
hay và sự biết (36) trong sáng, nghĩa là tyՍ căn tyՠthức, thiệt căn thiệt
thức, thân căn thân thức và ý căn ý thức đều trong sáng cả. Căn và thức
trong sáng nên cảnh trong sáng: sắc thanh hương vị xúc pháp đều trong sáng
cả. Sáu cảnh trong sáng nên bốn đại trong sáng: đất nước lửa gió đều
trong sáng cả. Bốn đại trong sáng nên mười hai xứ, mười tám giới, và
hâm lăm hữu đều trong sáng cả.
Các pháp trên trong sáng nên mười
lực, bốn vô úy, bốn vô ngại trí, mười tám bất cọng pháp, bâm bảy bồ
đề phần, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều trong sáng cả.
Thấy Các Pháp Chánh Báo Và Y Báo
Đều Trong Sáng
Chính Văn.-
Thiện nam tử, toàn bộ các pháp bản
thể trong sáng nên một thân trong sáng, một thân trong sáng nên nhiều thân
trong sáng, nhiều thân trong sáng nên cho đến mười phương chúng sinh toàn
là viên giác trong sáng.
Thiện nam tử, thân trong sáng nên
thế giới trong sáng: một thế giới trong sáng nên nhiều thế giới trong
sáng, nhiều thế giới trong sáng nên cho đến cùng không gian mười phương
và suốt thì gian ba đời toàn bộ đều trong sáng.
Thấy Các Pháp Đều Bất Động
(Có Thể Gọi Là Lý Vô Ngại)
Chính Văn.-
Thiện nam tử, không gian bất động
nên viên giác bất động, bốn đại bất động nên viên giác bất động,
và y như vậy, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều bất động
nên viên giác bất động.
Thấy Các Pháp Đều Phổ Biến
(Có Thể Gọi Là Sự Lý Vô Ngại).
Chính Văn.-
Thiện nam tử, viên giác trong sáng,
bất động và phổ biến, nên sáu căn phổ biến pháp giới, sáu căn phổ
biến pháp giới nên sáu cảnh phổ biến pháp giới, sáu cảnh phổ biến
pháp giới nên bốn đại phổ biến pháp giới, và y như vậy, cho đến tất
cả tổng trì môn đều phổ biến pháp giới.
Thấy Các Pháp Đều Viên Dung
(Có Thể Gọi Là Sự Sự Vô Ngại)
Chính Văn.-
Thiện nam tử, viên giác phổ biến
nên căn và cảnh không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau, căn và cảnh
không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau nên cho đến hết thảy tổng trì
môn đều không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau. Sự thể ví như hàng trăm
hàng ngàn ngọn đèn chiếu sáng một phòng, ánh sáng ngọn đèn nào cũng phổ
biến cả phòng mà không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau.
Thấy Các Pháp Đều Bình Đẳng
(Có Thể Gọi Là Vô Phân Biệt
Trí)
Chính Văn.-
Thiện nam tử, bồ tát thành đạt
viên giác như vậy nên không buộc các pháp không mở các pháp, không chán
sinh tử không ham niết bàn, không kính giữ giới không ghét phá giới,
không trọng tu lâu không khinh mới học, vì lẽ toàn thể đều là viên
giác. Sự thể ví như mắt thấy cảnh vật, sự thấy ấy thấy toàn diện
mà không ghét không ưa, vì lẽ thực chất của sự thấy không có hai ý thức
này (37) .
Các vị bồ tát, và người sau này,
tu tập mà thành đạt viên giác như vậy, thì đối với chính viên giác
ấy đã không tu tập và không thành đạt, chiếu sáng một cách tròn đầy
mà trong lặng, không có những khái niệm đối lập lẫn nhau. Chính trong
cái trạng thái chiếu sáng này mà thấy hằng sa thế giới y như hoa đốm
nổi lên hay mất đi với bao nhiêu là hình thái , thấy các pháp không dính
líu không tách rời, không trói buộc không cởi mở, thấy chúng sinh vốn
là Phật đà, sinh tử với niết bàn đều như giấc mộng. Vì đều như giấc
mộng nên đối với sinh tử và niết bàn thì thấy không nổi không tan,
không đến không đi; đối với chân lý sở chứng thì thấy không được
không mất, không lấy không bỏ; đối với tuệ giác năng chứng thì thấy
không làm không ngưng, không buông không dứt; đối với sự chứng ngộ thì
thấy không năng chứng không sở chứng, cứu cánh không có sự chứng ngộ
và người chứng ngộ. Thấy như vậy là vì toàn bộ các pháp đều bình
đẳng và không phá hoại nhau (38) .
Lược Giải (trọn đoạn H2)
Trú ở viên giác thì thấy các
pháp đều trong sáng cho đến bình đẳng. Nhưng không phải vì pháp này
trong sáng cho đến bình đẳng mà pháp khác trong sáng cho đến bình đẳng.
Sự trong sáng cho đến sự bình đẳng không phải diễn ra một cách có thứ
tự và theo chủng loại. Mà một như vậy thì tất cả như vậy, tất cả
như vậy thì một như vậy. Trùng trùng duyên khởi thì tương quan.
Đáp Câu Hỏi Ba
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát hãy
tu hành theo phương tiện thứ tự như vậy: hãy tư duy như vậy, hãy trú
ở như vậy , hãy đem những sự ấy truyền đạt cho người cầu pháp,
thì những người này cũng không mù mờ, rối trí.
Lược Giải.-
Hãy đem phương tiện thứ tự, tức
là đem sự tư duy và sự trú ở của sự tu hành viên giác như trên mà
truyền đạt cho người khác, thì người khác được sự tiếp nhận chính
xác. Đó là đáp câu hỏi ba của ngài Phổ nhãn: truyền đạt như thế nào.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Phổ nhãn nên biết,
- thân tâm chúng sinh
- như huyễn ảo cả:
- thân thuộc bốn đại
- tâm nhờ sáu cảnh;
- bốn đại rời nhau
- thì gọi cái gì
- là sự tổ hợp?
- Tu dần như vậy
- tất cả trong sáng,
- bất động, phổ biến,
- không làm không ngưng
- không buông không dứt
- không người chứng ngộ.
- Hết thảy thế giới
- chỉ như hoa đốm
- ở trong không gian,
- quá khứ hiện tại
- cùng với vị lai
- bình đẳng tất cả,
- cứu cánh không đến
- mà cũng không đi.
- Bồ tát mới tu
- và người sau này
- muốn được nhập vào
- tuệ giác Phật đà
- thì phải nỗ lực
- tu tập như vậy.
-oOo-
Chân thành
cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn
đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |