...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
- (Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
- bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
2
Phẩm 1:
Mở Đầu Pháp Thọai [^]
Tôi nghe như vầy. Một thời đức
Thế tôn, tại đỉnh Thứu phong thuộc thành Vương xá, Ngài ở nơi pháp giới
rất trong sáng, rất sâu xa. Pháp giới ấy là lĩnh vực của Phật đà, là
trú xứ của Thế tôn.
Bấy giờ chúng đại bí sô có
chín mươi tám ngàn vị, toàn là a la hán; khéo tự thuần hóa, in như voi chúa;
sơ hở đã hết, không còn phiền não; tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải
thoát; việc làm hoàn tất, bỏ mọi gánh nặng; đạt đến tự lợi, hết
sạch kiết sử; được đại tự tại, ở trong tịnh giới; phương tiện
khéo léo, tuệ giác trang nghiêm; được tám giải thoát, đến bờ bên kia.
Danh hiệu các vị là cụ thọ A nhã kiều trần như, cụ thọ A thuyết thị
đa, cụ thọ Bà thấp ba, cụ thọ Ma ha na ma, cụ thọ Bà đế lị ca, tôn
giả Đại ca nhiếp ba, tôn giả Ưu lâu tần loa ca nhiếp, tôn giả Dà da ca
nhiếp, tôn giả Na đề ca nhiếp, tôn giả Xá lị tử, tôn giả Đại mục
kiền liên, tôn giả A nan đà, người ở vị trí đang còn tu học. Các vị
đại thanh văn như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức
Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải,
rồi lui ra cùng ngồi một phía.
Chúng đại bồ tát trăm ngàn vạn
ức vị, có uy đức lớn, như đại long vương; tiếng khen vang khắp, ai
cũng biết đến; thường thích phụng hành tịnh thí tịnh giới; nhẫn nhục
tinh tiến qua vô số kiếp; vượt mọi thiền định, tâm ở trước mắt; mở
cửa tuệ giác, thiện dụng phương tiện; tự tại du hành thần thông vi diệu;
thành đạt tổng trì, hùng biện vô tận; cắt đứt phiền não, hệ lụy
không còn; đã gần thành đạt trí tuệ toàn giác; chế ngự ngoại đạo
cho sinh tịnh tâm; chuyển đẩy pháp luân, hóa độ người trời; mười
phương cõi Phật đều trang hoàng cả; sáu nẻo hữu tình đều nhờ ích lợi;
thành tựu đại trí, viên mãn đại nhẫn; có tâm đại từ bi, có lực đại
kiên cố; phụng sự chư Phật, không nhập niết bàn; phát nguyện rộng lớn,
cùng tận vị lai; nơi các đức Phật trồng sâu tịnh nhân; cả ba thì gian
ngộ vô sinh nhẫn; vượt qua lĩnh vực nhị thừa bước đi; đem đại thiện
phương tiện mà hóa đạo thế giới; phu diễn được hết giáo huấn của
Phật; với đạo lý Không sâu xa bí mật, đều thấu triệt cả không còn
nghi hoặc. Danh hiệu các vị là bồ tát Vô chướng ngại chuyển pháp
luân, bồ tát Thường phát tâm chuyển pháp luân, bồ tát Thường tinh tiến,
bồ tát Bất hưu tức, bồ tát Từ thị, bồ tát Diệu cát tường, bồ tát
Quan tự tại, bồ tát Tổng trì tự tại vương, bồ tát Đại biện trang
nghiêm vương, bồ tát Diệu cao sơn vương, bồ tát Đại hải thâm vương,
bồ tát Bảo tràng, bồ tát Đại bảo tràng, bồ tát Địa tạng, bồ tát
Hư không tạng, bồ tát Bảo thủ tự tại, bồ tát Kim cang thủ, bồ tát
Hoan hỷ lực, bồ tát Đại pháp lực, bồ tát Đại trang nghiêm quang, bồ
tát Đại kim quang trang nghiêm, bồ tát Tịnh giới, bồ tát Thường định,
bồ tát Cực thanh tịnh tuệ, bồ tát Kiên cố tinh tiến, bồ tát Tâm như
hư không, bồ tát Bất đoạn đại nguyện, bồ tát Thí dược, bồ tát Liệu
chư phiền não bịnh, bồ tát Y vương, bồ tát Hoan hỷ cao vương, bồ tát
Đắc thượng thọ ký, bồ tát Đại vân tịnh quang, bồ tát Đại vân trì
pháp, bồ tát Đại vân danh xưng hỷ lạc, bồ tát Đại vân hiện vô biên
xưng, bồ tát Đại vân sư tử hống, bồ tát Đại vân ngưu vương hống,
bồ tát Đại vân cát tường, bồ tát Đại vân bảo đức, bồ tát Đại
vân nhật tạng, bồ tát Đại vân nguyệt tạng, bồ tát Đại vân tinh
quang, bồ tát Đại vân hỏa quang, bồ tát Đại vân điện quang, bồ tát
Đại vân lôi âm, bồ tát Đại vân tuệ vũ sung biến, bồ tát Đại vân
thanh tịnh vũ vương, bồ tát Đại vân hoa thọ vương, bồ tát Đại vân
thanh liên hoa hương, bồ tát Đại vân bảo chiên đàn hương thanh lương thân,
bồ tát Đại vân trừ ám, bồ tát Đại vân phá ế. Các vị đại bồ tát
như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh
lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra
cùng ngồi một phía.
Lại có năm trăm tám ngàn đồng tử
Lê xa tì, tên là đồng tử Sư tử quang, đồng tử Sư tử tuệ, đồng tử
Pháp thọ, đồng tử Nhân đà ra thọ, đồng tử Đại quang, đồng tử Đại
mãnh, đồng tử Phật hộ, đồng tử Pháp hộ, đồng tử Tăng hộ, đồng
tử Kim cang hộ, đồng tử Hư không hộ, đồng tử Hư không hống, đồng
tử Bảo tạng, đồng tử Cát tường diệu tạng. Những đồng tử như vậy
làm người đứng đầu. Họ cùng đứng vững nơi vô thượng giác, thâm
tín vui thích đối với đại thừa. Sau lúc quá trưa họ đến chỗ đức
Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải,
rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi hai ngàn thiên tử, tên là
thiên tử Hỷ kiến, thiên tử Hỷ duyệt, thiên tử Nhật quang, thiên tử
Nguyệt kế, thiên tử Minh tuệ, thiên tử Hư không tịnh tuệ, thiên tử Trừ
phiền não, thiên tử Cát tường. Những thiên tử như vậy làm người đứng
đầu. Họ phát đại nguyện hộ vệ đại thừa, làm cho chánh pháp rực rỡ
liên tục. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang
chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi
một phía. Có hai mươi tám ngàn long vương, long vương Liên hoa, long vương
EÁ la diệp, long vương Đại lực, long vương Đại hống, long vương Tiểu
ba, long vương Trì sử thủy, long vương Kim diện, long vương Như ý. Những
long vương như vậy làm người đứng đầu. Họ thường thích nhớ chánh
pháp đại thừa, tin tưởng sâu xa, tán dương duy trì. Sau lúc quá trưa, họ
đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng
theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có ba mươi sáu ngàn
Dược xoa, đứng đầu bởi Tì sa môn thiên vương, tên của họ là dược
xoa Yêm bà, dược xoa Trì yêm bà, dược xoa Liên hoa quang tạng, dược xoa
Liên hoa diện, dược xoa Tần mi, dược xoa Hiện đại bố, dược xoa Động
địa, dược xoa Thôn thực. Những dược xoa như vậy ưa thích chánh pháp của
đức Thế tôn, chân thành duy trì, không hề giải đãi. Sau lúc quá trưa, họ
đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng
theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi chín
ngàn yết lộ trà vương, đứng đầu bởi Hương tượng thế lực vương;
có kiền thát bà, a tô la, khẩn na la, mạc hô lạc dà, vân vân; có các thần
tiên rừng núi sông biển; có quốc vương của các quốc gia lớn, được
tháp tùng bởi hoàng hậu hoàng phi; có nam nữ đức tin trong sáng. Các
chúng nhân loại và chư thiên cùng đến vân tập, cùng nguyện hộ vệ đại
thừa tối thượng, đọc xét văn nghĩa, tụng tập thuộc lòng, học hỏi
tiếp nhận, nắm giữ trong trí, sao chép lưu thông (2) . Sau lúc quá trưa, họ
đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng
theo chiều phải, rồi lui ra cùng ngồi mỗi chúng một phía.
Đại hội như vậy, bao gồm thanh
văn, bồ tát, nhân loại, chư thiên, tám bộ long thần, vân tập cả rồi,
ai cũng nhất tâm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Thế tôn, mắt không rời
Ngài. Họ thích thú muốn nghe chánh pháp siêu việt, nhiệm mầu.
Lúc ấy đức Thế tôn, sau lúc quá
trưa, xuất khỏi thiền định, quan sát đại hội mà nói những lời chỉnh
chú sau đây.
- (1) Ánh sáng hoàng kim,
- bản kinh nhiệm mầu,
- siêu việt hơn hết,
- vua của các kinh.
- Kinh ấy rất sâu,
- khó mà được nghe;
- kinh ấy chính là
- lĩnh vực của Phật.
- (2- 3) Như lai ngày nay
- sẽ tuyên thuyết đến
- bản kinh như vậy
- cho cả đại hội.
- Hướng đông có đức
- A súc như lai,
- hướng nam có đức
- Bảo tướng như lai,
- Như lai hướng tây
- là Vô lượng thọ,
- Như lai hướng bắc
- là Thiên cổ âm,
- bốn đức Như lai
- bốn hướng như vậy
- cùng đem uy thần
- hộ trì kinh này.
- (4) Như lai sẽ nói
- pháp mầu sám hối,
- pháp ấy cát tường
- pháp ấy thù thắng.
- Năng lực pháp ấy
- diệt mọi tội ác,
- loại trừ sạch sẽ
- những hành vi ác,
- (5) tiêu tan mọi nỗi
- khổ não tai họa,
- thường xuyên đem lại
- yên vui khó lường.
- Căn bản pháp ấy
- là nhất thế trí,
- và được trang hoàng
- bởi bao phẩm chất.
- (6) Những ai cơ thể
- không được hoàn hảo,
- đời sống sắp sửa
- đi đến hủy diệt,
- những sự đáng sợ
- đã biến hiện ra,
- chư thiên thiện thần
- cùng lánh xa cả.
- (7) Thân hữu tức giận,
- thân quyến phân ly,
- mọi phía chống nhau,
- sản vật tan tác,
- (8) ác tinh tác quái,
- tà độc xâm phạm,
- ưu sầu quá nhiều,
- khổ não lại ép,
- (9) ngủ nghỉ ác mộng
- từ đó phiền não.
- Người ấy phải nên
- tắm rửa sạch sẽ,
- và mặc y phục
- sạch sẽ tinh khiết.
- (10) Đối với kinh này
- bản kinh mầu nhiệm,
- rất mực sâu xa
- Như lai ca tụng,
- hãy nên chuyên chú
- lòng không tán loạn,
- nghiên cứu, tụng thuộc,
- lắng nghe, tiếp nhận,
- nắm giữ trong trí
- chuyên tâm phụng trì.
- (11) Thì nhờ uy lực
- của kinh pháp này
- mà được tách rời
- mọi sự tai họa,
- bao nỗi khổ sở
- cùng trừ diệt cả.
- (12) Bốn vị thiên vương
- hộ vệ thế giới,
- cùng với đại thần
- tùy thuộc của họ,
- vô lượng dược xoa
- nhất tâm hộ vệ.
- (13 - 14) Lại có thiên nữ
- tên Đại biện tài,
- thần sông Ni liên,
- thần mẹ Ha lị,
- địa thần Kiên lao,
- Phạn vương, Đế thích,
- cùng với long vương,
- và khẩn na la,
- kim sí điểu vương,
- tu la, chư thiên.
- (15) Bao nhiêu chư thiên
- thần chúng như vầy
- ai cũng đem theo
- tùy tùng của mình,
- cùng đến hộ vệ
- cho người như vậy,
- cả ngày liền đêm
- thường không tách rời
- (16) Như lai sẽ nói
- về kinh pháp này,
- bản kinh rất sâu,
- chỗ Như lai đi,
- và là mật giáo
- của chư Như lai,
- ngàn vạn đời kiếp
- khó mà gặp được.
- (17) Ai nghe kinh này,
- đem nói cho người,
- hay sinh tùy hỷ
- hoặc thiết cúng phẩm,
- (18) thì người như vậy
- sẽ vô lượng kiếp
- được các thiên nhân
- long thần kính trọng.
- (19) Cái khối phước đức
- nhiều hơn hằng sa,
- nghiên cứu, tụng thuộc
- kinh pháp như vầy,
- thì sẽ có được
- khối phước đức ấy,
- (20) được chư Thế tôn
- khắp trong mười phương,
- được chư Bồ tát
- tu hành sâu xa,
- cùng hộ trì cho
- tách rời khổ nạn.
- (21) Hiến cúng kinh này
- thì như đã nói
- tắm rửa sạch sẽ,
- phụng hiến hoa hương,
- khởi ý từ bi
- vì người phụng hiến.
- (22) Muốn nghe kinh này
- tâm phải sạch sẽ,
- thường sinh hoan hỷ
- lớn thêm công đức.
- (23) Đem lòng tôn trọng
- mà nghe kinh này,
- thì thế chính là
- khéo làm thân người,
- rời xa mọi nỗi
- khổ não tai nạn.
- (24) Kẻ ấy thiện căn
- đã là thuần thục,
- được chư Như lai
- cùng nhau ca tụng,
- mới nghe kinh này
- và sám pháp này.
Trong thành Vương xá có vị bồ
tát tên Diệu tràng (3) , đã ở nơi quá khứ vô lượng chư Phật phụng sự,
hiến cúng, trồng các thiện căn. Bấy giờ bồ tát Diệu tràng một mình
ở chỗ thanh vắng, nghĩ rằng, vì lý do nào mà đức Thích ca thế tôn thọ
lượng ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm. Lại nghĩ, như đức Thế tôn dạy,
có hai lý do được thọ lượng lâu dài. Hai lý do ấy là gì, một là
không hại sinh mạng, hai là hiến cho ẩm thực. Mà đức Thích ca thế tôn
thì đã vô số đại kiếp không hại sinh mạng, làm mười thiện nghiệp;
lại thường đem ẩm thực hiến cho chúng sinh đói khát, thậm chí máu thịt
xương tủy của mình cũng đem mà cho, huống chỉ ẩm thực.
Khi bồ tát Diệu tràng nghĩ về đức
Thế tôn như vậy thì, do uy lực của Ngài, phòng ông bỗng nhiên rộng lớn,
đẹp và sạch, với những thứ ngọc đế thanh lưu ly màu sắc xen nhau mà
trang hoàng, in như tịnh độ của chư Phật. Có hơi thơm tuyệt diệu, quá
hơn hương liệu chư thiên, thơm tho khắp cả. Bốn phía phòng ấy có bốn
bảo tọa sư tử, thượng hạng và tinh hảo, được tạo thành bởi bốn
loại ngọc. Ở trên bảo tọa trải vải quí của chư thiên. Bốn bảo tọa
đều xuất hiện hoa sen tuyệt diệu, trang sức bằng những thứ ngọc quí,
tầm cỡ tương xứng với các đức Thế tôn. Trên bốn hoa sen có bốn đức
Thế tôn: Bất động thế tôn ở phương đông, Bảo tướng thế tôn ở phương
nam, Vô lượng thọ thế tôn ở phương tây, Thiên cổ âm thế tôn ở phương
bắc. Mỗi đức Thế tôn cùng ngồi xếp bằng trên một bảo tọa, phóng
ánh sáng lớn chiếu rực cả thành Vương xá, cả đại thiên thế giới, cả
mười phương hằng sa cõi Phật. Thiên hoa mưa xuống, thiên nhạc tấu lên.
Bấy giờ trong Thiệm bộ châu và đại thiên thế giới, bao nhiêu chúng
sinh đều nhờ uy lực của chư vị Thế tôn mà hưởng được cái vui siêu
việt, tinh tế, không thiếu gì cả. Ai cơ thể bất toàn thì toàn hảo. Ai
mù thì thấy đuợc. Ai điếc thì nghe được. Ai ngọng thì nói được. Ai
ngu thì khôn. Ai điên thì tỉnh. Ai rách rưới thì được y phục. Ai bị
khinh ghét thì được kính trọng. Ai dơ bẩn thì được thanh khiết. Thế
giới này, bao chuyện hiếm có đều diễn ra.
Bấy giờ bồ tát Diệu tràng thấy
bốn đức Thế tôn và bao điều hiếm có thì vui mừng hết sức, chắp
tay, nhất tâm, chiêm ngưỡng tướng hảo thù thắng của các Ngài. Bồ tát
lại nghĩ đến công đức vô lượng của đức Thích ca thế tôn, chỉ
hoài nghi về thọ lượng của Ngài, rằng tại sao Thế tôn công đức vô lượng
mà thọ lượng ngắn ngủi, chỉ có tám thập kỷ? Lúc ấy bốn đức Thế
tôn bảo bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, ông không nên nghĩ Thích ca như
lai thọ lượng dài ngắn. Tại sao? Vì, thiện nam tử, chư Như lai không thấy
chư thiên, nhân loại, phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, tất cả
nhân loại và phi nhân loại, có ai tính mà biết được giới hạn thọ lượng
của đức Thích ca như lai, trừ ra các bậc Vô thượng biến giác. Bốn đức
Thế tôn muốn nói thọ lượng của đức Thích ca thế tôn. Do uy lực của
các Ngài, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, tám bộ long thần, vô số bồ
tát cùng đến vân tập trong cái phòng tuyệt diệu của bồ tát Diệu
tràng. Đối với đại hội như vậy, bốn đức Thế tôn muốn hiển thị
thọ lượng của đức Thích ca thế tôn nên nói những lời chỉnh cú sau
đây.
- (1) Biết được số giọt
- nước các biển cả,
- mà không thể biết
- thọ lượng Thích tôn.
- (2) Nghiền núi Tu di
- thành những hạt cải,
- số hạt cải ấy
- có thể biết được,
- mà không biết được
- thọ lượng Thích tôn.
- (3) Có thể biết được
- số bụi đại địa,
- không thể đếm biết
- thọ lượng Thích tôn.
- (4) Lường tính không gian
- biết được biên tế,
- mà không lường nổi
- thọ lượng Thích tôn.
- (5) Nếu ai sống đến
- trăm ngàn đời kiếp,
- tận lực thường xuyên
- dùng toán mà tính,
- cũng không biết được
- thọ lượng Thích tôn.
- (6) Không hại sinh mạng,
- hiến cho ẩm thực,
- chính do hai loại
- diệu nhân như vậy
- làm cho đạt được
- thọ lượng lâu dài.
- (7) Do đó thọ lượng
- của bậc Đại giác
- khó có người nào
- biết được số lượng.
- Tựa như thì gian (4)
- vô cùng vô tận,
- thọ lượng Thích tôn
- cũng y như thế.
- (8) Diệu tràng, nên biết:
- không nên hoài nghi;
- thọ lượng các đấng
- Siêu việt bậc nhất,
- không một người nào
- biết được số lượng.
Lúc ấy bồ tát Diệu tràng nghe bốn
đức Thế tôn nói thọ lượng bất tận của đức Thích ca thế tôn, thì
tác bạch như vầy, kính bạch chư vị Thế tôn, tại sao đức Thích ca thế
tôn thị hiện thọ lượng ngắn ngủi? Bốn đức Thế tôn dạy bồ tát Diệu
tràng, thiện nam tử, khi đức Thích ca thế tôn xuất hiện trong giai đoạn
đủ cả năm thứ dơ bẩn, thì thọ lượng nhân loại chỉ trên dưới bách
kỷ, bẩm tính thấp hèn, thiện căn kém mỏng, không tin hiểu gì. Nhân loại
như vậy đa số quan niệm bản ngã, quan niệm sinh thể, quan niệm linh hồn;
quan niệm tồn tại -- những quan niệm bồi dưỡng, quan niệm sai lầm --
quan niệm bản ngã và sở hữu của bản ngã, quan niệm vĩnh hằng, quan niệm
hư vô (5) . Để lợi ích cho những kẻ dị sinh và dị giáo như vậy, làm
cho họ phát sinh lý giải chính xác, mau chóng đạt đến tuệ giác tối thượng,
nên đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Thiện nam tử,
đức Thích ca như lai muốn làm cho chúng sinh thấy Ngài niết bàn để sinh
ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng; đối với kinh pháp Ngài nói, họ lo
cấp tốc tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, đem nói
cho người, không hề khinh thường. Vì muốn như vậy mà đức Thích ca như
lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Lý do ở đây là, chúng sinh như đã
nói ở trước, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết bàn, thì
không có ý tưởng kính trọng, khó gặp; đối với kinh pháp sâu xa mà
Ngài tuyên thuyết cũng không lo tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc
cho thông suốt, và đem nói cho người. Tại sao như vậy, vì thường xuyên
thấy Phật thì không kính trọng nữa. Thiện nam tử, ví như có kẻ thấy
cha mẹ mình có lắm của cải vàng ngọc thì, đối với tài sản ấy, người
con không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, tại sao, vì đối với cha mẹ,
và tài sản của cha mẹ, người con có ý tưởng còn mãi. Thiện nam tử,
chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết
bàn thì không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, lý do là vì thường thấy.
Thiện nam tử, ví như có kẻ cha mẹ nghèo nàn, thiếu thốn tài sản, người
con nghèo thiếu đến cung vua chúa hay đến dinh đại thần, thấy tài sản
tràn đầy, thì sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp. Người con này muốn có
tài sản nên làm lụng đủ cách, siêng năng không nhác, lý do là để hết
nghèo nàn, hưởng an lạc. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy
đức Thích ca như lai nhập vào niết bàn mới có ý tưởng khó gặp, ý tưởng
lo lắng. Họ nghĩ, vô số kiếp Phật mới xuất hiện, như hoa ô đàm lâu
lắm mới có một lần. Nghĩ vậy nên họ có ý tưởng hiếm có, ý tưởng
khó gặp. Và gặp Phật thì tôn kính, tin tưởng, nghe Ngài thuyết pháp thì
có ý tưởng nói thật, bao nhiêu kinh pháp đều tiếp nhận, ghi nhớ, chớ
không khinh thường. Thiện nam tử, vì lý do đã nói trên đây mà đức Thích
ca như lai không ở đời lâu dài, niết bàn mau chóng. Thiện nam tử, như thế
đó, chư vị Như lai áp dụng phương tiện khéo léo mà tác thành chúng
sinh. Nói như vậy rồi, bốn đức Thế tôn bỗng nhiên ẩn mất.
Bấy giờ bồ tát Diệu tràng cùng
với vô lượng bồ tát, và vô số chúng sinh, cùng nhau đi đến trên đỉnh
Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi đứng
qua một bên. Bồ tát Diệu tràng đem sự thể trên đây trình bạch đầy
đủ với đức Thế tôn. Lúc ấy bốn đức Thế tôn cũng đã đến Thứu
phong, chỗ đức Thích ca thế tôn. Tùy phương hướng của mình, các Ngài
đến bảo tọa mà ngồi, rồi bảo vị bồ tát thị giả, rằng thiện nam
tử, ông hãy đến chỗ đức Thích ca như lai, thay lời Như lailời Như lai
mà vấn an Ngài, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống
yên vui chăng. Ông lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin
Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để
lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thế tôn của
con xin tùy hỷ việc này. Các vị thị giả cùng đến chỗ đức Thích ca
thế tôn, đảnh lễ hai chân của Ngài, rồi đứng qua một bên, cùng tác bạch
rằng, bạch đức Thế tôn, đức Thầy trời người của chúng con vấn an
vô lượng, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên
vui chăng. Các vị thị giả lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn,
xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực
sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thầy
trời người của chúng con xin tùy hỷ việc này. Bấy giờ đức Thích ca
thế tôn, bậc Như lai, bậc ứng cúng, bậc Chánh đẳng giác, nói với các
vị bồ tát thị giả, rằng lành thay, bốn đức Nha lai muốn làm cho chúng
sinh lợi ích yên vui mà khuyến cáo Như lai tuyên dương pháp yếu! Ngài nói
mấy lời chỉnh cú sau đây.
- (9) Như lai thường trú
- trên đỉnh Thứu phong,
- tuyên thuyết kinh bảo
- Ánh sáng hoàng kim;
- nhưng vì tác thành
- cho bao chúng sinh,
- Như lai thị hiện
- nhập vào niết bàn.
- (10) Chúng sinh phàm phu
- quan niệm lầm lẫn,
- nên không tin được
- lời Như lai nói;
- chính vì tác thành
- chúng sinh như vậy,
- Như lai thị hiện
- nhập vào niết bàn.
Bấy giờ trong đại hội có một vị
bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, cùng vô số bà la môn
hiến cúng đức Thế tôn rồi, nghe Ngài nói nhập vào niết bàn, thì nước
mắt nước mũi xen nhau chảy ra, bước tới lạy chân Ngài, thưa rằng, bạch
đức Thế tôn, nếu thật đức Thế tôn có lòng đại từ bi đối với chúng
sinh, thương xót ích lợi, làm cho yên vui, in như cha mẹ không ai sánh bằng;
Ngài làm chỗ nương tựa cho cả thế giới, in như vầng thái âm tròn đầy;
Ngài soi sáng bằng tuệ giác lớn lao, in như vầng thái dương mới mọc; Ngài
nhìn khắp cả, thương tưởng đồng đều, coi ai cũng như tôn giả La hô
la -- thì con xin Ngài ban cho con một điều ước nguyện. Nghe thưa như vậy,
đức Thế tôn chỉ im lặng. Nhưng do uy lực của Ngài, trong đại hội có
một vị đồng tử Lê xa tì tên Ai cũng thích nhìn, nói với bà la môn Kiều
trần như, rằng thưa đại bà la môn, ông muốn xin đức Thế tôn điều ước
nguyện gì, tôi có thể thỏa mãn cho ông. Bà la môn Kiều trần như nói, đồng
tử, tôi muốn hiến cúng (6) đức Thế tôn tối thượng, nên cầu xin Ngài
cho tôi một chút xá lợi chỉ bằng hạt cải. Tại sao tôi cầu xin như vậy?
Vì tôi từng nghe nói, nếu thiện nam hay thiện nữ nào được xá lợi của
đức Thế tôn chỉ bằng hạt cải thôi, để tôn kính hiến cúng, thì sẽ
sinh lên tầng trời Đao lợi mà làm Đế thích. Nghe như vậy, đồng tử Lê
xa tì nói với bà la môn, nếu ông muốn sinh lên Đao lợi hưởng thụ quả
báo hơn người, thì hãy dốc lòng mà nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Kinh này hơn
hết các kinh khác, khó lý giải, khó hội nhập. Thanh văn Độc giác không
thể hiểu nổi. Kinh này sinh ra vô biên quả báo phước đức, cho đến hoàn
thành tuệ giác vô thượng. Tôi nay chỉ nói cho ông vắn tắt như vậy. Bà
la môn nói, lành thay đồng tử; nhưng kinh Ánh sáng hoàng kim cực sâu, tối
thượng, khó lý giải, khó hội nhập, Thanh văn Độc giác không thể hiểu
nổi, huống chi chúng tôi, những kẻ biên dã, trí tuệ kém cỏi, làm sao hiểu
được. Do vậy, hôm nay tôi chỉ cầu xin xá lợi của đức Thế tôn bằng
hạt cải thôi, để đem về bản xứ, tôn trí vào trong hộp ngọc, tôn
kính hiến cúng. Thì mạng chung rồi được làm Đế thích, thường hưởng
yên vui. Tại sao đồng tử không thể từ đấng Đủ sự sáng cầu xin cho
tôi môt điều ước nguyện như vậy? Bà la môn nói rồi, đồng tử Lê xa
tì liền nói cho ông nghe những lời chỉnh cú sau đây.
- (11) Dòng nước chảy xiết
- của sông Hằng hà
- có thể mọc lên
- hoa sen bạch liên;
- loài chim màu vàng
- có thể thành trắng,
- hay chim màu đen
- có thể thành đỏ;
- (12) hoặc cây thiệm bộ
- sinh trái đa la,
- cây khát thụ la
- sinh trái yêm la;
- (13) sự vật hiếm có
- có thể chuyển biến,
- xá lợi Thế tôn
- cũng không thể có.
- (14) Giả sử lông rùa
- dệt thành áo đẹp,
- áo đó có thể
- mặc vào mùa lạnh,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (15) Giả sử chân muỗi
- đỡ được lầu đài
- vô cùng kiên cố
- không thể lay động,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (16) Giả sử miệng đỉa
- mọc lên răng trắng
- đã dài lại lớn
- sắc như mũi nhọn,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (17) Giả sử sừng thỏ
- làm thành cái thang
- và leo thang ấy
- lên đến cung trời,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (18) Chuột leo thang ấy
- lên đánh tu la
- che khuất mặt trăng
- ở trong không gian,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (19) Ruồi uống rượu say
- bay khắp làng xóm
- dựng lên bao nhiêu
- là những nhà cửa,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (20) Giả sử mõm lừa
- đỏ lên in như
- trái cây tần bà
- lại khéo ca vũ,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (21) Quạ với cú mèo
- đứng được một chỗ
- và cả hai bên
- thuận tùng với nhau,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (22) Nếu lá ba la
- thành được tàn lọng
- có thể che được
- cơn mưa to lớn,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (23) Giả sử thuyền lớn
- chở đầy vàng ngọc
- mà lại lướt đi
- trên mặt đất liền,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
- (24) Và nếu chim ri
- mỏ ngậm Hương sơn
- tùy theo ý muốn
- bay đâu cũng được,
- thì mới tìm được
- xá lợi Thế tôn.
Bà la môn Pháp sư thọ ký nghe những
lời chỉnh cú ấy, thì cũng đem chỉnh cú mà đáp lại đồng tử Ai cũng
thích nhìn.
- (25) Lành thay đồng tử
- bậc đại cát tường,
- khéo léo sử dụng
- tuệ giác phương tiện,
- nên được Thế tôn
- thọ vô thượng ký.
- (26) Uy đức Thế tôn
- cực kỳ vĩ đại,
- đầy cả năng lực
- cứu hộ thế giới;
- ông hãy nghe tôi
- tuần tự nói đến.
- (27) Lĩnh vực Thế tôn
- rất khó nghĩ thấu,
- toàn thể thế giới
- không ai đồng đẳng;
- pháp thân của Ngài
- thể tánh thường trú,
- tu hành cũng không
- làm cho sai biệt.
- (28) Chư vị Thế tôn
- thể tánh đồng nhất,
- Pháp các Ngài nói
- cũng là như vậy;
- nên chư Thế tôn
- vốn phi tạo tác,
- lại nữa cũng là
- vốn phi sinh khởi.
- (29) Thân thể kim cương
- của chư Thế tôn
- quyền biến thị hiện
- thân thể ứng hóa;
- thế nên xá lợi
- của chư Thế tôn
- cũng vốn không có
- bằng một hạt cải.
- (30) Thân chư Thế tôn
- không phải máu thịt,
- làm sao mà có
- linh cốt xá lợi;
- thế nhưng phương tiện
- lưu lại linh cốt,
- là để lợi ích
- bao loại chúng sinh.
- (31) Pháp thân là Phật,
- pháp giới cũng Phật;
- pháp thân mới thật
- là thân của Phật,
- Pháp của Phật nói
- là pháp giới ấy.
Trong đại hội có ba mươi hai ngàn
thiên tử, nghe nói như vậy về thọ mạng bất diệt đức Thế tôn, ai cũng
phát tâm vô thượng bồ đề, hoan hỷ, phấn chấn, cảm được sự thể
chưa bao giờ có, nên khác miệng mà đồng tiếng, nói mấy lời chỉnh cú
sau đây.
- (32) Phật không nhập diệt,
- Pháp cũng bất diệt,
- chỉ vì ích lợi
- cho bao chúng sinh,
- nên Phật thị hiện
- có sự diệt tận.
- (33) Phật thì đích thị
- bất khả tư nghị,
- thân mầu của Phật
- không hề biến đổi,
- nhưng vì ích lợi
- cho bao chúng sinh
- mà Phật thị hiện
- mọi sự trang nghiêm.
Bấy giờ bồ tát Diệu tràng đích
thân đối trước đức Thế tôn, trước bốn đức Thế tôn, trước hai vị
đại nhân và bao nhiêu thiên tử, nghe nói thọ lượng của đức Thế tôn,
thì lại từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa với Ngài, rằng
bạch đức Thế tôn, nếu thật chư vị Thế tôn không nhập niết bàn,
không có xá lợi, thì tại sao trong các kinh trước đây nói Ngài có niết
bàn, và có xá lợi để cho nhân loại và chư thiên tôn kính hiến cúng? Chư
vị Thế tôn đã quá khứ rồi, hiện có linh cốt phân bố trong đời, người
trời hiến cúng phước được vô hạn. Vậy mà ngày nay lại nói không
có, gây ra hoài nghi. Con thỉnh cầu đức Thế tôn thương mà giải thích
phong phú cho chúng con.
Vào lúc ấy, đức Thế tôn bảo bồ
tát Diệu tràng, và cả đại hội, rằng các người phải nhận thức, nói
có niết bàn và có xá lợi là nói theo ý nghĩa bí mật. Ý nghĩa như vậy
hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết
như vầy: có mười sự thể có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như
lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là chư
Như lai cứu cánh diệt hết phiền não chướng và sở tri chướng nên nói
là niết bàn. Hai là chư Như lai khéo léo thấu triệt nhân vô tánh và pháp
vô tánh nên nói là niết bàn. Ba là chư Như lai có thể chuyển thân y và
pháp y nên nói là niết bàn. Bốn là chư Như lai đối với chúng sinh, một
cách tự nhiên, tạm ngừng hóa độ [khi cơ duyên hóa độ đã hết], nên
nói là niết bàn. Năm là chư Như lai chứng được pháp thân không có sai
biệt nên nói là niết bàn. Sáu là chư Như lai thấu triệt cái tánh bất
nhị của sinh tử với niết bàn nên nói là niết bàn. Bảy là chư Như lai
thấu triệt căn bản của các pháp, thực hiện thanh tịnh nên nói là niết
bàn. Tám là chư Như lai khéo léo tu hành sự bất sinh diệt của các pháp
nên nói là niết bàn. Chín là chư Như lai chứng được chánh trí đối với
chân như nên nói là niết bàn. Mười là chư Như lai chứng được sự không
sai biệt của tánh các pháp và tánh niết bàn nên nói là niết bàn. Như thế
đó là mười sự thể nói có niết bàn.
Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên
biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật
của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một
là mọi thứ phiền não lấy ưa muốn làm gốc, từ ưa muốn mà sinh, chư
Như lai dứt ưa muốn nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai dứt hết ưa
muốn, không thủ đắc một pháp nào cả: vì không thủ đắc mà không đi
không đến nên nói là niết bàn. Ba là vì không đi đến, không thủ đắc,
thế là pháp thân bất sinh diệt: bất sinh diệt nên nói là niết bàn. Bốn
là sự bất sinh diệt thì không phải ngôn ngữ nói thấu: ngôn ngữ loại
bỏ nên nói là niết bàn. Năm là không có bản ngã và sinh thể, tư duy sự
sinh diệt của các pháp mà được chuyển y nên nói là niết bàn. Sáu là
phiền não là khách, pháp tánh là chủ, không đến không đi: chư Như lai thấu
triệt như vậy nên nói là niết bàn. Bảy là chân như là thật, ngoài ra
là giả: chân như là Như lai nên nói là niết bàn. Tám là thật tế thì
không hý luận: chỉ có Như lai chứng pháp thật tế, vĩnh diệt hý luận
nên nói là niết bàn. Chính là vô sinh thì thật, sinh thì dối: người ngu
chìm đắm sinh tử, còn thật thể Như lai thì không giả dối nên nói là
niết bàn. Mười là cái pháp không thật thì do duyên sinh, cái pháp chân thật
thì phi duyên sinh, mà pháp thân Như lai là chân thật nên nói là niết bàn.
Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.
Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên
biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật
của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một
là Như lai khéo biết bố thí và quả báo của bố thí là không bản ngã
và sở hữu của bản ngã; đối với bố thí và quả báo của bố thí, sự
phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Hai
là Như lai khéo biết trì giới và quả báo của trì giới là không bản
ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trì giới và quả báo của trì
giới, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết
bàn. Ba là Như lai khéo biết nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục là
không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với nhẫn nhục và quả
báo của nhẫn nhục, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên
nói là niết bàn. Bốn là Như lai khéo biết tinh tiến và quả báo của
tinh tiến là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với tinh tiến
và quả báo của tinh tiến, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại
trừ nên nói là niết bàn. Năm là Như lai khéo biết thiền định và quả
báo của thiền định là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với
thiền định và quả báo của thiền định, sự phân biệt không chính xác
vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Sáu là Như lai khéo biết trí
tuệ và quả báo của trí tuệ là không bản ngã và sở hữu của bản
ngã; đối với trí tuệ và quả báo của trí tuệ, sự phân biệt không
chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bảy là Như lai khéo
biết chúng sinh phi chúng sinh, các pháp phi các pháp, sự phân biệt không
chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Tám là thương mình
thì đeo đuổi, theo đuổi thì đau khổ; Như lai dứt thương mình, hết theo
đuổi: hết theo đuổi nên nói là niết bàn. Chín là các pháp hữu vi thì
toàn có số lượng, pháp tánh vô vi thì số lượng loại kết; Như lai rời
hữu vi, chứng vô vi, không số lượng nên nói là niết bàn. Mười là Như
lai thấu triệt chúng sinh và các pháp toàn không: không tánh là pháp thân
chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết
bàn.
Lại nữa, Thiện nam tử, đâu phải
chỉ có cái việc không nhập niết bàn của Như lai là hiếm có, mà còn
có mười sự hiếm có nữa là việc Như lai làm. Thế nào là mười? Một,
sinh tử thì tội lỗi, niết bàn thì vắng lặng, thế nhưng Như lai chứng
được sự bình đẳng của sinh tử với niết bàn, nên không ở sinh tử,
không ở niết bàn, không chán bỏ phản bội chúng sinh, đó là việc Như
lai làm. Hai, đối với chúng sinh, Như lai không nghĩ họ là ngu phu, đi theo
quan niệm thác loạn, bị phiền não ép buộc, Như lai phải khai thị cho họ
siêu thoát; thế nhưng do sức mạnh của từ bi quá khứ, nên đối với chúng
sinh vẫn tùy trình độ, ý thích và nhận định (7) của họ mà tự nhiên
cứu độ, chỉ thị và huấn dụ cho họ lợi ích và hoan hỷ (8) mà không
phân biệt gì hết, cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như
lai làm. Ba, Như lai không nghĩ Như lai phu diễn mười hai thành phần của
giáo pháp (9) , lợi ích chúng sinh; thế nhưng do sức mạnh từ bi quá khứ,
vẫn tuyên thuyết phong phú cho chúng sinh, cho đến cùng tận thì gian, không
có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Bốn, Như lai không nghĩ đi đến thị
thành, thôn quê, những nơi dân cư, vào nhà vua chúa, đại thần, bốn giai
cấp xã hội mà khất thực; nhưng do sức mạnh huân tập của thân miệng
ý quá khứ mà tự nhiên đi đến, vì lợi ích cho họ mà khất thực, đó
là việc Như lai làm. Năm, Như lai thì thân không đói khát, cũng không đại
tiểu, nên tuy khất thực mà không thọ thực; nhưng vì tự nhiên ích lợi
chúng sinh nên hiện có ăn uống, đó là việc Như lai làm. Sáu, Như lai không
nghĩ chúng sinh có cao vừa thấp, tùy trình độ của họ mà thuyết pháp
cho; nhưng Như lai không phân biệt mà vẫn tự nhiên tùy trình độ (10) chúng
sinh, khéo ứng theo cơ duyên mà thuyết pháp cho họ, đó là việc Như lai làm.
Bảy, Như lai không nghĩ có người không tôn kính Như lai, thường phát
ngôn phỉ báng, Như lai không thể đối thoại; có người tôn kính Như lai,
thường phát ngôn ca tụng, Như lai có thể đối thoại; thế nhưng Như lai
thường có tâm từ bi, bình đẳng bất nhị, đó là việc Như lai làm.
Tám, Như lai không có thương ghét, kiêu ngạo, tham tiếc, và mọi thứ phiền
não đồng đẳng như vậy; mà Như lai thường thích vắng lặng, khen thiểu
dục, tách rời huyên náo, đó là việc Như lai làm. Chín, Như lai không có
một pháp nào không biết và không khéo thông suốt, đối với toàn bộ
các pháp thì cảnh trí (11) như ở trước mắt và không có phân biệt; thế
nhưng Như lai vẫn thấy công việc của chúng sinh, tùy ý họ mà phương tiện
dẫn dụ cho họ siêu thoát, đó là việc Như lai làm. Mười, Như lai thấy
ai giàu thịnh thì không mừng, thấy họ suy bại cũng không lo; nhưng thấy
họ làm theo chánh hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên gia hộ, thấy họ
làm theo tà hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên cứu hộ, đó là việc của
Như lai làm. Thiện nam tử, nên biết Như lai nói có vô lượng diệu hạnh
như vậy, và đó là sắc thái thật của niết bàn. Còn có khi các người
thấy Như lai nhập niết bàn, thì đó là phương tiện thích nghi; các người
lại thấy lưu lại xá lợi thì đó là để cho chúng sinh tôn kính hiến
cúng. Những việc như vậy toàn là do sức mạnh từ bi của Như lai, để
ai hiến cúng xá lợi thì vị lai xa rời tám nạn, gặp được chư vị Như
lại, gặp được các bậc Thiện tri thức, thiện tâm liên tục chứ không
mất, phước báo vô cùng, mau được siêu thoát, không bị sinh tử trói buộc.
Diệu hạnh như vậy các người nên nỗ lực mà làm, đừng có phóng dật.
Bồ tát Diệu tràng nghe đức Thế
tôn đích thân nói đến sự không nhập niết bàn và những diệu hạnh cực
sâu, thì chắp tay, cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, ngày nay con mới
biết bậc Thầy cao cả không nhập niết bàn và lưu lại xá lợi, nhưng vì
lợi ích một cách rộng lớn cho chúng sinh [mà thị hiện niết bàn và lưu
lại xá lợi]. Cả cơ thể và tâm trí đều phấn chấn, vui đẹp, bồ tát
Diệu tràng than rằng thật là sự thể chưa bao giờ có.
Khi phẩm thọ lượng Thế tôn được
tuyên thuyết hoàn tất thì vô số chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề.
Và bốn đức Thế tôn đều ẩn mất. Bồ tát Diệu tràng đảnh lễ ngang
chân đức Thế tôn, rồi đứng dậy trở về chỗ cũ.
Phẩm
3: Phân Biệt Ba Thân [^]
Lúc ấy đại bồ tát Hư không tạng
ở trong đại hội từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt pháp y ở vai bên
phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay tôn kính, đảnh lễ
ngang chân đức Thế tôn, đem cái lọng thượng hạng có gắn tràng phan và
kết những thứ hoa vàng ngọc tinh hảo mà hiến dâng lên Ngài, thưa rằng,
bạch đức Thế tôn, bồ tát đại sĩ tu hành chính xác như thế nào về
bí mật sâu xa của chư vị Thế tôn? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử,
hãy nghe cho kyլ hãy khéo suy nghĩ, Như lai sẽ phân tích giải thích cho ông.
Thiện nam tử, chư vị Như lai có
ba thân, một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Ba thân như vậy
bao quát đầy đủ về vô thượng bồ đề, nhận thức chính xác thì mau
chóng siêu thoát sinh tử. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức hóa thân
như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai quá khứ ở trong vị trí tu
hành, vì chúng sinh mà tu tập diệu pháp. Tu tập cho đến vị trí viên
mãn. Thì do sức mạnh tu tập mà được sự tự tại lớn lao. Được sự
tự tại nên tùy ý muốn của chúng sinh, tùy việc làm của chúng sinh, tùy
thế giới của chúng sinh, biết rành tất cả. Rồi không chờ đợi cơ hội,
không lỡ mất cơ hội, thích ứng địa phương, thích ứng thì gian, thích
ứng việc làm, thích ứng thuyết pháp, mà thị hiện mọi loại thân hình,
đó là hóa thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức ứng thân như thế
nào? Nên nhận thức rằng Như lai vì làm cho bồ tát được sự thông đạt
mà nói về chân đế, rằng do thấu triệt sinh tử với niết bàn là nhất
thể, do loại trừ sự sợ hãi và sự vui mừng của chúng sinh chấp ngã,
do làm căn bản cho vô biên phẩm chất Phật đà, do sức mạnh bản nguyện
thích ứng đích thực với như như trí của như như lý, mà hình thành
thân thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi nét đẹp, sau cổ là vầng
sáng tròn, đó là ứng thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức pháp
thân như thế nào? Nên nhận thức rằng do loại trừ phiền não chướng và
sở tri chướng, do đầy đủ thiện pháp, mà chỉ có như như lý của như
như trí (12) , đó là pháp thân.
Thiện nam tử, hai thân trước là
có giả, thân thứ ba mới có thật, làm căn bản cho hai thân trước. Tại
sao? Vì tách rời như như lý và như như trí thì chư vị Như lai không có
phẩm chất nào cả. Nhưng chư vị Như lai thì tuệ giác toàn hảo, phiền
não diệt tận, thủ đắc vị trí Phật đà tối cực thanh tịnh. Thế nên
như như lý và như như trí tổng quát tất cả phẩm chất Phật đà.
Thiện nam tử, chư vị Như lai tuyệt
đối lợi ích mình người (13) . Lợi ích mình là như như lý. Lợi ích người
là như như trí. Như như lý và như như trí làm cho đạt được tự tại
trong sự lợi ích mình người, hoàn thành vô biên diệu dụng, do vậy mà
phẩm chất Phật đà có vô biên các dạng dị biệt. Thiện nam tử, ví như
do vọng tưởng mà nói các loại phiền não, các loại nghiệp dụng, các loại
quả báo; cũng y như vậy, do như như lý và như như trí mà nói các pháp Phật
đà, các pháp Độc giác, các pháp Thanh văn. Do như như lý và như như trí
mà tự tại hoàn thành tất cả Phật pháp, đó là sự thể bậc nhất, bất
khả tư nghị. Thiện nam tử, như vẽ đồ dùng trong không gian, đó là sự
khó thể nghĩ bàn; do như như lý và như như trí mà hoàn thành phẩm chất
Phật đà cũng khó nghĩ bàn như vậy. Tại sao như như lý và như như trí cả
hai đều không phân biệt mà lại tự tại hoàn thành sự thể? Điều này
ví như Như lai nhập niết bàn, nhưng do nguyện lực tự tại mà thành được
đủ mọi sự thể. Như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành mọi
sự cũng là như vậy. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nhập định vô tâm
(14) , nhưng do nguyện lực trước đó mà xuất định vẫn làm mọi sự; như
như lý và như như trí không phân biệt mà vẫn tự tại thành sự cũng vậy.
Như trời trăng không có phân biệt, nước gương không có phân biệt, ánh
sáng không có phân biệt, nhưng cả ba thứ này hợp lại thì có hình ảnh;
như như lý và như như trí không phân biệt, nhưng do nguyện lực tự tại
mà chúng sinh thấy có ứng thân và hóa thân. Thiện nam tử, rất nhiều nước
gương do ánh sáng mà không ảnh (15) hiện ra đủ hình dạng khác nhau, nhưng
không gian thì không có hình dạng như vậy. Cũng y như vậy, những người
tiếp nhận giáo hóa chính là hình ảnh của pháp thân. Do nguyện lực mà
hai thân đủ mọi hình tướng, nhưng pháp thân thì không có hình tướng khác
nhau.
Thiện nam tử, do hai thân mà nói chư
vị Như lai là niết bàn hữu dư, do pháp thân mà nói chư vị Như lai là niết
bàn vô dư, vì những gì dư lại đã tuyệt đối diệt tận. Lại do ba thân
mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn. Hai thân là không trụ niết
bàn, còn tách rời pháp thân thì không có Phật thân nào biệt lập, [nên
pháp thân cũng là không trụ niết bàn]. Tại sao hai thân không trụ niết
bàn, vì hai thân là có giả, sinh diệt như mỗi ý nghĩ, không cố định trụ
lại, lại luôn luôn xuất hiện chứ không cố định. Pháp thân thì không
như vậy. Nên hai thân thì không trụ niết bàn, còn pháp thân thì vì bất
nhị [với hai thân] nên cũng là không trụ niết bàn mà thôi. Do vậy, căn
cứ ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn (16) .
Thiện nam tử, phàm phu vì ba tướng
mà có ràng buộc, có ngăn cách, rời xa ba thân, không đạt đến ba thân.
Ba tướng là gì, một là biến kế, hai là y tha, ba là thành tựu. Ba tướng
như vậy mà không thể lý giải [cái nên lý giải], không thể diệt trừ
[cái nên diệt trừ], không thể trong sáng [cái nên trong sáng], thế nên
không thể đạt đến ba thân. Ba tướng như vậy mà có thể lý giải, có
thể diệt trừ, có thể trong sáng, thì toàn hảo ba thân của chư vị Như
lai. Thiện nam tử, phàm phu chưa trừ bỏ được ba tâm nên rời xa ba thân,
không thể đạt đến. Ba tâm là gì, một là tâm sinh sự, hai làm tâm dựa
vào căn bản, ba là tâm căn bản. Do đạo tạm dẹp mà tâm sinh sự diệt tận,
do đạo đoạn trừ mà tâm dựa vào căn bản diệt tận, do đạo hơn hết
mà tâm căn bản diệt tận. Tâm sinh sự diệt tận thì biến hiện hóa
thân, tâm dựa vào căn bản diệt tận thì hình thành ứng thân, tâm căn bản
diệt tận thì hiển lộ pháp thân. Do vậy, chư vị Như lai đủ cả ba thân.
Thiện nam tử, nơi thân thứ nhất
thì chư vị Như lai đồng nhất công việc, nơi thân thứ hai thì chư vị
Như lai đồng nhất ý muốn, nơi thân thứ ba thì chư vị Như lai đồng nhất
thể tánh.
Thiện nam tử, thân Phật thứ nhất
là tùy ý chúng sinh có lắm dạng nên hiện ra lắm dạng, do vậy mà nói
thân này là nhiều. Thân Phật thứ hai thì ý của đệ tử là một tướng
nên hiện ra một tướng, do vậy mà nói thân này là một. Thân Phật thứ
ba siêu việt tất cả dạng tướng, không phải lĩnh vực dạng tướng, do
vậy mà nói thân này là phi nhất phi dị.
Thiện nam tử, thân thứ nhất dựa
ứng thân mà biểu hiện, thân thứ hai dựa pháp thân mà biểu hiện, còn
thân thứ ba thì có thật, không cần chỗ dựa.
Thiện nam tử, ba thân như vậy có
nghĩa nói là thường còn, có nghĩa nói là vô thường. Hóa thân thường
chuyển pháp luân, nơi nơi tùy duyên, phương tiện liên tục, không có chấm
dứt, nên nói là thường còn; nhưng không phải là căn bản, đại dụng đầy
đủ không được biểu hiện, nên nói là vô thường. thân thì vô thỉ
đến nay liên tục bất đoạn, thu giữ được hết thảy phẩm chất đặc
hữu của chư vị Như lai, chúng sinh vô tận nên diệu dụng cũng vô tận,
nên nói là thường còn; nhưng cũng không phải là căn bản, đại dụng đầy
đủ cũng không biểu hiện, nên nói là vô thường. Pháp thân không phải
là hữu vi (17) , không có các dạng khác nhau, mà là căn bản, tựa như không
gian, nên nói là thường còn. Thiện nam tử, rời như như trí thì không có
tuệ giác tối thượng nào nữa, rời như như lý thì không có đối cảnh
tối thượng nào nữa. Một mặt là như như của các pháp, một mặt là như
như của tuệ giác, hai mặt như như ấy là như như, phi đồng nhất phi dị
biệt. Do vậy, pháp thân thì tuệ giác trong sáng, diệt trừ trong sáng, do
hai sự trong sáng này mà pháp thân hoàn toàn trong sáng.
Thiện nam tử, phân biệt ba thân
thì có 4 sự khác nhau: có hóa thân không phải ứng thân, có ứng thân
không phải hóa thân, có hoá thân cũng là ứng thân, có không phải hoá
thân cũng không phải ứng thân. Hóa thân không phải ứng thân là thế
nào, là chư Như lai nhập niết bàn rồi, do đại nguyện tự tại mà vẫn
tùy duyên lợi ích chúng sinh. thân không phải hóa thân là thế nào, là
cái thân được thấy bởi bồ tát trước mười địa (18) . Hóa thân cũng
là ứng thân là thế nào, là cái thân ở nơi niết bàn hữu dư. Không phải
hóa thân cũng không phải ứng thân là thế nào, là chính pháp thân. Thiện
nam tử, pháp thân như vậy do hai sự vô sở hữu mà hiển lộ. Hai sự vô
sở hữu là thế nào, là nơi pháp thân thì ngã chấp pháp chấp (19) toàn
là không, phi có phi không, phi một phi khác, phi số lượng phi siêu số lượng,
phi sáng suốt phi ngu tối, ấy vậy, như như trí thì không thấy ngã chấp
pháp chấp, không thấy phi có phi không, cho đến không thấy phi sáng suốt
phi ngu tối. Thế nên phải biết đối cảnh trong sáng với tuệ giác trong
sáng là bất khả phân biệt, không phải ở giữa [những khái niệm đối
lập lẫn nhau]; làm căn bản cho diệt đế và đạo đế (20) , nên pháp
thân đầy tính năng biểu hiện đủ loại sự nghiệp của chư vị Như
lai.
Thiện nam tử, thân này (21) thì bản
thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa
vào căn bản [như như lý] (22) và nó thật khó mà nghĩ bàn. Nếu hiểu nghĩa
ấy thì biết thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào
thai Như lai (23) . Dựa vào thân này thì được cái tâm vị trí mới phát
và cái tâm vị trí tu hành đều hiện ra, cái tâm vị trí bất thoái cũng
hiện ra, cái tâm vị trí bổ xứ, cái tâm vị trí kim cang, cái tâm vị
trí Như lai cũng hiện ra cả, vô lượng vô biên phẩm chất tinh tế của
Như lai cũng hiện ra. Thiện nam tử, dựa vào pháp thân mà đại định và
đại trí được thực hiện, và do đó mà hóa thân dựa vào đại định với
ứng thân dựa vào đại trí cũng được thực hiện. Pháp thân như vậy do
tự thể của Nó mà nói là thường và nói là ngã, do đại định của Nó
mà nói là lạc, do đại trí của Nó mà nói là tịnh. Do vậy mà Như lai
thường trú, tự tại, an lạc, thanh tịnh (24) .
Do đại định mà hết thảy thiền
định, định Thủ lăng nghiêm và các định đồng đẳng, hết thảy niệm
xứ, đại pháp niệm xứ và những niệm xứ đồng đẳng, đại từ đại
bi, hết thảy tổng trì, hết thảy thần thông, hết thảy tự tại, hết
thảy bình đẳng, hết thảy các pháp Phật đà như vậy đều được thực
hiện. Do đại trí mà mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, một trăm
tám mươi pháp bất cọng (25) , hết thảy các pháp bất khả tư nghị như
vậy đều được thực hiện. Ví như do ngọc như ý mà vô số các loại
ngọc quí đều được xuất hiện, cũng là như vậy, do ngọc đại định
và ngọc đại trí mà xuất ra vô số diệu pháp của chư vị Như lai.
Thiện nam tử, pháp thân như vậy,
và đại định đại trí của Nó, toàn là siêu việt hết thảy khái niệm
(26) , không vướng mắc khái niệm nào hết, không thể phân biệt, phi thường
phi đoạn, gọi là trung đạo (27) ; tuy phân biệt mà thể tánh không phân
biệt, tuy có ba số (28) mà thể tánh không phải ba số, bất tăng bất giảm,
tựa như mộng ảo không có năng chấp với sở chấp; là pháp thể như
như, là xứ sở giải thoát, vượt qua lĩnh vực của vua chết, vượt qua
luôn sự tối tăm của sinh tử, là chỗ chúng sinh không thể tu hành và đạt
đến [bằng khái niệm của mình], là chỗ an trú của chư vị Phật đà
và chư vị Bồ tát.
Thiện nam tử, như người muốn có
vàng nên tìm kiếm khắp nơi, và tìm được mỏ vàng. Rồi đập ra, chọn
phần nào tinh hơn thì bỏ vào lò mà luyện, nên thành vàng ròng, chế tạo
đủ thứ đồ trang sức, đồ trang sức khác nhau mà vàng không biến đổi.
Thế nên, thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu giải thoát
siêu việt mà tu hành thiện căn thuộc phạm vi thế gian (29) , thì được
thấy chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, được thân gần, rồi thưa
rằng, bạch đức Thế tôn, cái gì là thiện? cái gì là ác? cái gì là
chính tu hành được thanh tịnh hạnh? Chư vị Như lai, và đệ tử của các
Ngài, thấy họ hỏi thì nghĩ, thiện nam thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh,
muốn nghe chánh pháp. Nghĩ vậy nên liền nói cho họ khai ngộ. Họ nghe rồi
chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ
sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp
họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối,
nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ
sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai.
Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức
quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại
trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ
tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo
léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự
chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập
vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì
thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này
loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa
thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy
sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ
sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa
thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri,
loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa. Như lai địa do ba
sự trong sáng mà gọi là cực trong sáng. Ba sự ấy là những gì? Một là
trong sáng vì loại trừ phiền não, hai là trong sáng vì loại trừ khổ
não, ba là trong sáng vì loại trừ tập khí. Như vàng thật chảy ra vì nung
luyện, nung luyện rồi thì không còn quặng bẩn nữa, chứng tỏ vàng vốn
trong sáng, chứ không phải không có vàng. Như nước dơ mà lọc trong thì
không còn cặn bẩn, chứng tỏ nước vốn trong suốt, chứ không phải
không có nước. Cũng là như vậy, pháp thân vốn tách rời phiền não, khổ
và tập loại trừ rồi thì không còn tập quán thừa lại, chứng tỏ thể
tánh pháp thân vốn trong sáng, chứ không phải không có thể tánh. Như không
gian bị khói mây bụi mù che đi, trừ cái che ấy rồi thì không gian trong
sáng, chứ không phải không có không gian; pháp thân cũng vậy, mọi sự khổ
não loại bỏ hết rồi thì nói là trong sáng, không phải không có thể
tánh pháp thân. Như có kẻ trong mộng thấy bị trôi theo dòng nước sông lớn,
nên vận dụng cả tay chân mà bơi qua, đến được bờ bến bên kia, ấy
là do cả thân tâm kẻ ấy không nhác, không lùi. Khi mộng tỉnh thì không
còn thấy nước, thấy bờ bên này bờ bên kia, nhưng không phải không có
cái tâm: vọng tưởng sinh tử loại bỏ hết rồi thì tuệ giác trong sáng,
chứ không phải không có tuệ giác. Ấy vậy, pháp thân thì mọi thứ vọng
tưởng không còn phát sinh nên nói là trong sáng, chứ không phải chư vị
Như lai không có thật thể.
Lại nữa, thiện nam tử, pháp thân
do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện ứng thân, do làm sạch nghiệp chướng
mà biểu hiện hóa thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện.
Ví như do không gian mà phát điện lực, do điện lực mà phát ánh sáng; cũng
là như vậy, do pháp thân mà biểu hiện ứng thân, do ứng thân mà biểu hiện
hóa thân. Do thể trong sáng mà pháp thân tự biểu hiện, do trí trong sáng
mà biểu hiện ứng thân, do định trong sáng mà biểu hiện hóa thân. Ba sự
trong sáng như vậy là pháp tánh như như, bất dị như như, nhất vị như
như, giải thoát như như, cứu cánh như như, do vậy, chư vị Như lai thì thể
tánh không có dị biệt. Thiện nam tử, nếu thiện nam hay thiện nữ nào
nói đức Thế tôn là bậc Thầy cao cả của tôi, tin tưởng quyết định
như vậy, thì người ấy, từ trong tâm trí sâu xa, thấu hiểu pháp thân Như
lai không có dị biệt. Và thiện nam tử, do vậy mà, đối với các pháp,
người ấy loại trừ hết cả sự tư duy không chính xác, biết các pháp
là phi nhị biên, là vô phân biệt, là thánh giả tu hành. Đối với các
pháp, chính xác tu hành sự không có nhị biên như thế nào, thì đối với
các chướng cũng loại trừ như vậy; loại trừ các chướng như thế nào
thì như như lý và như như trí cũng tối cực trong sáng như vậy; như như
lý và như như trí trong sáng như thế nào thì mọi sự tự tại cũng như vậy,
bao quát đầy đủ, thành đạt tất cả. Các chướng loại trừ, các chướng
lọc sạch, đó là chân tướng của như như lý và như như trí. Thấy như
vậy là cái thấy của thánh giả, và thế gọi là thật thấy Như lai, tại
sao, vì đó là đúng như sự thật mà thấy như như lý của các pháp. Do vậy,
chư vị Như lai thấy biết tất cả chư vị Như lai. Còn chư vị Thanh văn
và Độc giác tuy siêu thoát ba cõi, nhưng cầu mà không thể thấy biết như
như lý. Thánh giả mà còn không thể thấy biết, huống chi phàm phu thì
nghi hoặc, phân biệt thác loạn, nên không thể vượt đến. Khác nào thỏ
mà bơi qua biển cả thì bơi không qua được, vì sức lực của thỏ quá
kém, phàm phu cũng vậy, họ không thể thông đạt như như lý của các
pháp. Nhưng chư vị Như lai thì siêu phân biệt, nên được đại tự tại
đối với hết thảy các pháp, được đầy đủ tuệ giác trong sáng và
sâu xa, và đó là lĩnh vực của chư vị Như lai, chứ không phải chung
cùng với người khác. Do vậy mà biết chư vị Như lai trong vô số kiếp
không tiếc tính mạng, làm khổ hạnh khó làm, mới được pháp thân tối
thượng, không thể sánh bằng, bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực ngôn
ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, rời hết mọi sự sợ hãi (30) .
Ấy vậy, thiện nam tử, thấy biết
như như lý của các pháp thì không sinh không già không chết, thọ lượng
bất tận, không ngủ nghỉ, không đói khát, tâm thường thiền định, không
có loạn động. Đối với Như lai mà tranh luận thì thế là không thể thấy
được Như lai. Chư vị Như lai thì nói gì cũng lợi ích, ai nghe cũng giải
thoát, và vì nghe pháp mà phước báo bất tận, đến nỗi chim dữ, thú dữ,
người dữ, quỉ dữ, tất cả không bao giờ gặp phải. Nhưng chư vị Như
lai không có sự vô ký (31) , không sinh tâm muốn biết đối với các pháp
[mà vẫn tự nhiên biết hết], không có ý tưởng sinh tử với niết bàn
khác nhau. Chư vị Như lai phán quyết gì cũng là chắc chắn. Chư vị Như
lai thì tất cả cử động toàn là tuệ giác, tất cả sự việc toàn là từ
bi, không có gì không vì lợi ích yên vui chúng sinh. Thiện nam tử, đối với
bản kinh Ánh sáng hoàng kim này, thiện nam hay thiện nữ nào nghe, tin, hiểu,
thì không sa vào các nẻo địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, tu la, thường
sinh trong nhân loại và chư thiên mà không phải những nơi thấp hèn; thì
thân gần chư vị Như lai, nghe và tiếp nhận chánh pháp; thì thường sinh
thế giới trong sạch của chư vị Như lai: tất cả thành quả này là do
nghe được kinh pháp cực kỳ sâu xa này. Thiện nam hay thiện nữ như vậy
là được Như lai đã thấy biết và đã ghi nhận sẽ được không thoái
chuyển vô thượng bồ đề. Thiện nam hay thiện nữ nào được kinh pháp cực
kỳ sâu xa này một khi lướt qua thính giác, thì nên biết người ấy không
phỉ báng Phật, không hủy hoại Pháp, không khinh dể Tăng. Ai chưa gieo trồng
thiện căn họ làm cho gieo trồng, ai gieo trồng thiện căn rồi họ làm cho
tăng trưởng và thành thục. Họ khuyến khích mọi người trong mọi thế
giới làm theo sáu pháp ba la mật.
Bấy giờ đại bồ tát Hư không tạng,
Phạn vương, Đế thích, bốn Thiên vương, chư thiên, tức thì từ chỗ ngồi
đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ
ngang chân đức Thế tôn, rồi thưa rằng, bạch Ngài, ở đâu mà có giảng
diễn bản kinh mầu nhiệm Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy có bốn
cái lợi. Một, quân đội hoàng gia cường thịnh, không có thù địch, vua
và dân không bịnh tật, sống lâu dài, an lạc cát tường, hưng hiển Phật
pháp. Hai, hoàng gia và quần thần vui đẹp với nhau, rời xa sự dua nịnh,
vua cũng trọng nể. Ba, tu sĩ và quốc dân thực tu Phật pháp, không bịnh,
yên vui, không ai uổng tử, phụng sự tất cả ruộng phước. Bốn, ngày đêm
cơ thể điều hòa, thư thái, chư thiên tăng thêm giữ gìn hộ vệ, tâm lý
từ bi, bình đẳng, không có sự thương tổn, tác hại, làm cho ai cũng qui
kính Tam bảo, ai cũng nguyện tu tập bồ đề hạnh. Như thế đó là bốn
cái lợi. Bạch đức Thế tôn, chúng con cũng thường xuyên vì làm cho kinh
pháp này lan rộng nên theo dõi những người thọ trì, họ ở đâu chúng
con cũng đem lại lợi ích cho họ. Đức Thế tôn dạy rằng, lành thay các
thiện nam tử, các người hãy làm đúng như vậy. Các người hãy nỗ lực
phổ biến bản kinh nhiệm mầu và chúa tể này, và thế là làm cho Phật
pháp ở đời lâu dài.
Phẩm
4: Âm Thanh Trống Vàng (32) [^]
Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu
tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan
hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ
tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái
dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười
phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được
bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị
Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm
thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp
sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc
trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm
hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu
phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp
hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung
kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi,
con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng
hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những
bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm
giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con
tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những
chỉnh cú sau đây.
- (1) Đêm hôm vừa rồi
- trong mộng con thấy
- cái trống bằng vàng
- rất lớn và đẹp,
- khắp cả thân trống
- có ánh sáng vàng.
- (2) Như vầng thái dương,
- ánh sáng như vậy
- chiếu rực khắp cả
- mười phương thế giới,
- làm ai cũng thấy
- chư vị Thế tôn.
- (3) Dưới những cây ngọc,
- các Ngài cùng ngồi
- pháp tòa lưu ly,
- có hàng ngàn người
- rất mực cung kính
- bao quanh các Ngài.
- (4) Một bà la môn
- cầm dùi mà đánh
- trống vàng hoàng kim
- phát âm thanh lớn,
- và chính âm thanh
- phát từ trống ấy
- nói những chỉnh cú
- nhiệm mầu sau đây.
- (5) Trống vàng sáng rực
- phát ra tiếng mầu
- vang khắp tất cả
- đại thiên thế giới,
- diệt tội cực nặng
- trong ba đường ác
- cùng bao khổ ách
- của trong nhân loại.
- (6) Uy lực âm thanh
- của trống vàng này
- diệt hẳn hết thảy
- phiền não chướng ngại
- loại trừ sợ hãi
- làm cho yên vui,
- in như chính đấng
- Mâu ni tự tại.
- (7) Chính trong cái nơi
- biển cả sống chết,
- Thế tôn tu hành
- thành trí toàn giác,
- làm cho chúng sinh
- đủ các giác phần,
- cứu cánh qui về
- biển cả công đức.
- (8) Trống vàng xuất ra
- âm thanh mầu nhiệm
- người nghe cùng được
- phạn âm thâm thúy,
- và rồi chứng được
- vô thượng bồ đề,
- thường chuyển pháp luân
- trong sáng nhiệm mầu.
- (9) Lại được thọ lượng
- bất khả tư nghị,
- tùy nghi thuyết pháp
- lợi ích chúng sinh,
- cắt đứt dòng nước
- bao nhiêu khổ lụy,
- bao nhiêu phiền não
- cũng diệt trừ cả.
- (10) Những người ở trong
- nẻo đường rất dữ,
- ngọn lửa dữ dội
- phủ cả châu thân,
- nghe được tiếng mầu
- của trống vàng này
- thì liền thoát khổ
- qui y Phật đà.
- (11) Và rồi thành được
- trí biết đời trước,
- nhớ được quá khứ
- đến trăm ngàn đời,
- nên cùng nhớ đến
- đức Đại mâu ni,
- được nghe kinh pháp
- sâu xa của Ngài.
- (12) Bởi nghe tiếng mầu
- xuất từ trống vàng,
- nên thường thân gần
- chư vị Thế tôn,
- lại thường rời bỏ
- mọi hành vi ác,
- thuần túy tu tập
- các loại thiện pháp.
- (13) Tất cả chúng sinh
- nhân loại chư thiên
- thiết tha chí thành
- nguyện cầu những gì,
- thì nghe tiếng mầu
- xuất từ trống vàng
- là thỏa mãn cả
- những nguyện cầu ấy.
- (14) Những kẻ sa vào
- địa ngục vô gián,
- lửa dữ bùng lên
- đốt cháy thân thể,
- và kẻ ở nơi
- không ai cứu hộ,
- nghe tiếng trống vàng
- khổ sở mất cả.
- (15) Chư thiên nhân loại
- và các loài khác,
- những ai hiện chịu
- bao nỗi khổ nạn,
- mà nghe tiếng mầu
- xuất từ trống vàng
- cũng hết đau khổ
- và được giải thoát.
- (16) Nguyện cầu tất cả
- đấng Lưỡng túc tôn
- hiện tại đang ở
- mười phương thế giới,
- đem lòng đại bi
- nhớ nghĩ đến con.
- (17) Tất cả những ai
- không nơi nương tựa
- không ai cứu hộ,
- con nguyện làm nơi
- nương tựa lớn lao
- cho những người ấy.
- (18) Trước đây con làm
- bao nhiêu tội lỗi
- trong đó gồm có
- ác nghiệp nặng nề,
- ngày nay đối trước
- các đấng Thập lực
- dốc lòng chí thành
- sám hối tất cả.
- (19) Con đã không tin
- chư vị Thế tôn,
- cũng không kính trọng
- cha mẹ tôn trưởng,
- không chăm tu hành
- mọi thứ thiện nghiệp,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (20) Con đã tự thị
- tôn quí cao sang
- dòng dõi đẳng cấp
- tiền tài địa vị,
- tự thị trẻ mạnh
- kiêu xa phóng túng,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (21) Tâm trí thường xuyên
- nổi dậy tà niệm,
- miệng nói độc ác,
- không thấy tội lỗi,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (22) Con đã thường xuyên
- làm việc phàm phu,
- vô minh ám chướng
- đi theo bạn xấu,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (23) Hoặc vì ăn chơi,
- hoặc vì buồn nản,
- ham muốn, tức giận
- thắt kết trong lòng,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (24) Thân với người xấu,
- keo kiết, ganh ghét
- nghèo nàn, cùng khổ
- nịnh hót, lừa dối,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (25) Cũng có những lúc
- không thích tội ác,
- nhưng vì e sợ,
- vì bị sai sử,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (26) Hoặc vì háo động
- hoặc vì hận thù
- hoặc vì đói khát
- dày vò hành hạ,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (27) Vì ăn vì mặc
- vì ham nữ sắc,
- vì lửa phiền não
- thiêu đốt nung nấu,
- nên thường tạo ra
- bao nhiêu ác nghiệp.
- (28) Với Phật Pháp Tăng
- không biết tôn kính,
- nên đã tạo ra
- ác nghiệp như trên,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- (29) Độc giác Bồ tát
- cũng không kính trọng,
- nên đã tạo ra
- ác nghiệp như trên,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- (30) Phỉ báng Phật pháp
- bất hiếu cha mẹ,
- nên đã tạo ra
- ác nghiệp như trên,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- (31) Ngu muội kiêu căng
- tham lam giận dữ
- nên đã tạo ra
- ác nghiệp như trên,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- (32) Trong mọi thế giới
- hiến cúng vô lượng
- chư vị Thế tôn,
- con nguyện cứu vớt
- cho bao chúng sinh
- thoát ly khổ nạn.
- (33) Nguyện cầu chúng sinh
- đứng trong mười địa,
- tròn đầy phước trí
- thành Phật đà rồi
- hướng dẫn bao kẻ
- mê mờ ngu muội.
- (34) Con vì chúng sinh
- tu hành khổ hạnh
- trăm ngàn đời kiếp,
- đem đại trí lực
- mà làm cho họ
- vượt qua biển khổ.
- (35) Con vì chúng sinh
- diễn giảng kinh pháp
- Ánh sáng hoàng kim,
- bản kinh tối thượng
- năng lực trừ được
- bao thứ ác nghiệp.
- (36) Những ai trải qua
- trăm ngàn đời kiếp
- tạo ra bao tội
- cực kỳ nặng nề,
- mà biết phát lộ
- thì cũng tiêu trừ.
- (37) Y theo kinh pháp
- Ánh sáng hoàng kim,
- sám hối như trên,
- thì mau tận diệt
- bao nhiêu ác nghiệp
- đã gây đau khổ.
- (38) Cả trăm cả ngàn
- thiền định siêu việt,
- cùng với tổng trì
- bất khả tư nghị,
- năm căn năm lực
- bảy chi tuệ giác
- tám chi thánh đạo
- ba mươi bảy pháp,
- con nguyện thường xuyên
- tu tập không mỏi.
- (39) Và con sẽ đến
- mười bồ tát địa,
- nơi đầy đủ cả
- mọi thứ quí báu,
- viên mãn tất cả
- phẩm chất Phật đà,
- cứu vớt chúng sinh
- vượt dòng sinh tử.
- (40) Đối với biển cả
- quả vị Phật đà,
- và với kho tàng
- công đức sâu xa,
- tuệ giác mầu nhiệm
- bất khả tư nghị,
- con nguyện thành tựu
- một cách đầy đủ.
- (41) Nguyện cầu mười phương
- chư vị Thế tôn
- hộ niệm cho con,
- đem tâm đại bi
- thương tưởng chấp nhận
- cho con sám hối.
- (42) Trong bao đời kiếp
- con tạo ác nghiệp,
- do ác nghiệp ấy
- mà sinh đau khổ,
- nguyện Phật thương tưởng
- cho con trừ diệt.
- (43) Con gây ác nghiệp
- nên thường lo sợ,
- trong mọi cử động
- đi đứng nằm ngồi,
- chưa hề có được
- một chút vui vẻ.
- (44) Thế tôn đại từ
- trừ cho chúng sinh
- bao nỗi sợ hãi,
- nguyện xin chấp nhận
- cho con sám hối
- thoát ly lo sợ.
- (45) Con có đủ cả
- hoặc chướng nghiệp hướng
- cùng với báo chướng,
- nguyện xin Thế tôn,
- đem nước đại bi
- rửa cho sạch sẽ.
- (46) Ác nghiệp quá khứ
- ác nghiệp hiện tại
- mà con tạo ra,
- con xin chí thành
- phát lộ tất cả
- nguyện tiêu diệt hết.
- (47) Và bao ác nghiệp
- trong thì vị lai,
- con xin giữ gìn
- không cho nổi dậy,
- giả sử vi phạm
- lời thệ nguyện này
- thì không bao giờ
- con dám che giấu.
- (48) Thân có ba nghiệp
- miệng có bốn nghiệp,
- ý có ba nghiệp
- trói buộc chúng sinh
- vô thỉ đến nay
- thường xuyên liên tục.
- (49) Do thân miệng ý
- mà tạo thập ác,
- tội ác như vậy
- rất nhiều sắc thái,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- (50) Ác nghiệp con làm
- sẽ phải tự chịu
- ác báo đau khổ
- [nếu không sám hối];
- ngày nay đối trước
- chư vị Thế tôn
- con xin chí thành
- sám hối tất cả.
- (51) Đại lục Thiệm bộ
- và bao thế giới
- trong đó được có
- bao nhiêu thiện nghiệp,
- ngày nay con xin
- tùy hỷ tất cả.
- (50) Nguyện bỏ thập ác
- nguyện tu thập thiện
- an trú mười địa
- thường thấy Thế tôn.
- (53) Bao nhiêu những nghiệp
- phước đức trí tuệ
- mà thân miệng ý
- của con tu được,
- con xin vận dụng
- thiện nghiệp như vậy
- mau chóng đạt đến
- tuệ giác tối thượng.
- (54) Nay con đích thân
- đối trước Thế tôn
- chân thành phát lộ
- lắm cái ác nạn :
- cái nạn ngu muội
- si mê ba cõi,
- cái nạn thường làm
- ác nghiệp cực nặng,
- (55) cái nạn tập hợp
- dục vọng, tà kiến,
- cái nạn tham ái
- thường xuyên chảy dài,
- cái nạn đam mê
- thế giới hiện hữu,
- cái nạn toàn là
- phiền não phàm phu,
- (56) cái nạn cuồng phóng
- náo động thác loạn,
- cái nạn thân gần
- bạn bè bất lương,
- cái nạn tham nhiễm
- trong chốn sinh tử,
- cái nạn sân si
- ngu độn làm ác,
- (57) cái nạn sinh nhằm
- tám nơi không rảnh (33) ,
- cái nạn chưa hề
- tập hợp công đức,
- nay con đối trước
- các đấng Tối thắng
- sám hối vô số
- ác nạn như vậy.
- (58) Nay con qui y
- các đấng Thiện thệ,
- kính lạy các đấng
- Biển đức vô thượng;
- Ngài, núi vàng lớn
- chiếu sáng khắp cả,
- nguyện xin từ bi
- gia hộ cho con.
- (59) Thân Phật rực lên
- ánh sáng hoàng kim,
- mắt Phật tựa như
- lưu ly xanh biếc;
- là đấng cát tường
- uy đức đặc tôn,
- Ngài đem mặt trời
- của lòng đại bi
- xua tan u ám
- cho bao chúng sinh.
- (60) Phật như mặt trời
- sáng soi khắp cả,
- sáng không vẩn đục,
- sáng sạch bụi dơ ;
- Phật như mặt trăng
- sáng soi mát mẻ,
- sáng tan nhiệt lực
- của bao phiền não.
- (61) Ba hai tướng tốt
- châu thân uy nghiêm,
- tám mươi tướng phụ
- toàn hảo cả người,
- phước đức tuyệt bậc
- khó nghĩ khó bàn,
- như vầng thái dương
- chiếu soi thế giới.
- (62) Sắc thân tựa như
- lưu ly trong suốt
- lại như trăng đầy
- ở giữa không trung.
- Thân vàng như phủ
- mạng lưới pha lê
- rực rỡ bởi những
- ánh sáng đủ màu.
- (63) Trong cái thác nước
- sinh tử khổ não,
- già bịnh lo rầu
- trôi cuốn chúng sinh;
- biển khổ như vậy
- khó mà chịu nổi,
- mặt trời Phật đà
- chiếu cho khô cạn.
- (64) Con xin lạy đấng
- Trí tuệ toàn giác,
- đấng Hiếm có nhất
- thế giới đại thiên,
- đấng mình vàng tía
- sáng lên rực rỡ,
- đấng trang sức mình
- với bao cái đẹp.
- (65) Ngài như đại dương
- mênh mông khó biết,
- Ngài như đại địa
- bụi nhỏ khó tính,
- Ngài như núi cao
- trọng lượng khó cân,
- Ngài như không gian
- giới hạn khó cùng.
- (66) Phật đức là vậy,
- chúng sinh khó biết;
- càng nghĩ càng xét
- trong lắm đời kiếp,
- càng không biết nổi
- bờ biển Phật đức.
- (67) Nghiền nát đại địa
- toán biết cực vi,
- toán biết nước giọt
- của cả đại dương
- số lượng Phật đức
- vẫn không biết nổi.
- (68) Tất cả chúng sinh
- cùng nhau ca tụng
- phẩm chất danh tiếng
- tướng hảo thanh tịnh
- uy nghiêm nhiệm mầu
- của đức Thế tôn,
- cũng không khả năng
- hết được giới hạn.
- (69) Bao nhiêu thiện nghiệp
- mà con có được,
- con nguyện mau chóng
- thành đấng Vô thượng,
- thuyết pháp phong phú
- ích lợi sinh linh,
- làm cho tất cả
- giải thoát khổ đau.
- (70) Chiến thắng ma quân
- có sức mạnh lớn,
- chuyển đẩy bánh xe
- chánh pháp tối thượng,
- ở đời với những
- thì gian khó tính,
- con đem cam lộ
- sung mãn chúng sinh.
- (71) Y như quá khứ
- các đấng Tối thắng
- đã viên mãn cả
- sáu ba la mật,
- hủy diệt tham dục
- sân hận ngu si,
- loại trừ phiền não,
- triệt đoạn khổ lụy.
- (72) Con nguyện thường được
- trí biết đời trước
- nhớ được quá khứ
- cả trăm ngàn đời,
- nhất là thường nhớ
- đấng Đại mâu ni,
- được nghe diệu pháp
- rất sâu của Ngài.
- (73) Nguyện con biết đem
- thiển căn như vậy
- phụng sự vô biên
- các đấng Tối thắng,
- viễn ly hết thảy
- nghiệp nhân bất thiện,
- thường được tu hành
- Pháp mầu chân thật.
- (74) Làm cho chúng sinh
- trong mọi thế giới
- khổ não thoát ly
- yên vui thật hiện,
- bao kẻ giác quan
- không được toàn hảo
- thì làm cho được
- cơ thể đầy đủ.
- (75) Những ai gặp phải
- khổ vì bịnh tật,
- thân hình ốm yếu
- không nơi nương tựa,
- thì con làm cho
- hết cả bịnh khổ,
- sức khỏe tướng tốt
- cùng được đủ cả.
- (76) Những ai phạm pháp
- sắp bị hành hình,
- khổ sở hành hạ
- lo sợ dày vò ;
- khi họ đau khổ
- cực độ như vậy,
- không biết nhờ ai
- thì con cứu giúp.
- (77) Ai bị đánh khảo
- gông cùm xiềng xích,
- đủ loại hình cụ
- hành hạ thân thể,
- trong khi vô số
- những nỗi lo sợ
- dày vò tâm trí
- không chút yên vui ;
- (78) thì con làm cho
- thoát được giam cầm
- mà bao hình cụ
- đã làm khổ họ,
- sắp bị hành hình
- thì toàn tính mạng,
- bao khổ sở khác
- cũng hết vĩnh viễn.
- (79) Có những chúng sinh
- đói khát hoành hành,
- thì con làm cho
- hưởng đủ myՠvị,
- làm mù được thấy
- làm điếc được nghe
- làm què được đi
- làm ngọng được nói.
- (80) Những kẻ nghèo nàn
- thì được kho báu,
- kho lẫm dẫy đầy
- không thiếu thốn chi.
- Con làm tất cả
- hưởng vui thượng thặng,
- không còn một ai
- chịu lấy đau khổ.
- (81) Người nào cũng được
- mọi người thích nhìn,
- dung nghi phong nhã
- mà lại nghiêm chỉnh,
- ai nấy cùng được
- hiện tại yên vui,
- đời sống phong phú
- phước đức đủ cả.
- (82) Tùy ý chúng sinh
- nghĩ đến âm nhạc,
- âm nhạc tuyệt hảo
- tức thì tấu lên ;
- và nghĩ đến nước
- nước mát đầy hồ,
- sen màu hoàng kim
- nổi trên nước ấy.
- (83) Tùy ý chúng sinh
- nghĩ đến vật dụng,
- vật dụng đủ cả
- cơm áo ghế giường,
- đủ vàng đủ ngọc,
- đủ ngọc lưu ly,
- chuỗi ngọc vòng xuyến
- có đủ hết thảy.
- (84) Lại làm chúng sinh
- không nghe tiếng dữ,
- cũng không nhìn thấy
- những gì trái ý;
- dung mạo có được
- toàn là đoan trang,
- và hướng về nhau
- toàn bằng lòng từ.
- (85) Lạc cụ để sống
- nghĩ là có đủ,
- vàng ngọc có được
- không hề tiếc nuối,
- phân cho tất cả
- những ai cần thiết.
- (86) Các loại hương liệu
- và các loại hoa
- từ cây rơi xuống
- mỗi ngày ba lần,
- tùy ý hưởng dụng
- lòng tràn hoan hỷ.
- (87) Con nguyện chúng sinh
- đều biết hiến cúng
- các đấng Tối thắng
- thế giới mười phương,
- hiến cúng Diệu pháp
- hoàn bị cả ba
- cỗ xe sáng sủa,
- hiến cúng Thánh chúng
- đủ cả Bồ tát
- Độc giác Thanh văn.
- (88) Con nguyện chúng sinh
- đừng ai ở vào
- những nơi hèn hạ
- những chỗ tám nạn,
- thường sinh làm người
- có thể tu hành,
- thường được phụng sự
- chư vị Thế tôn.
- (89) Con nguyện chúng sinh
- sinh nhà sang giàu
- tài sản bảo vật
- đầy kho đầy lẫm,
- tướng mạo, danh tiếng
- không ai sánh bằng,
- thọ lượng trải qua
- nhiều kiếp lâu dài.
- (90) Con nguyện chúng sinh
- nữ biến thành nam
- thông minh khỏe mạnh
- đa trí đa năng,
- và ai cũng đi
- đường đi bồ tát
- là siêng mà tu
- sáu ba la mật.
- (91) Con nguyện chúng sinh
- thường thấy chư Phật
- an tọa bảo tòa
- dưới những cây ngọc --
- bảo tòa sư tử
- bằng chất lưu ly,
- thường được thân nghe
- Phật chuyển pháp luân.
- (92) Quá khứ hiện tại
- nếu con luân hồi
- ở trong ba cõi
- tạo các ác nghiệp
- khả năng rước lấy
- ác báo đáng ghét,
- thì nguyện diệt sạch
- không còn thừa sót.
- (93) Ở trong biển có (34)
- bao nhiêu chúng sinh
- bị buộc thắt chặt
- trong lưới sinh tử,
- con nguyện vì họ
- cắt đứt lưới ấy
- bằng kiếm trí tuệ,
- làm cho mau chóng
- thoát khỏi sinh tử
- chứng đắc tuệ giác.
- (94) Đại lục Thiệm bộ
- hay thế giới khác,
- chúng sinh trong đó
- tạo bao thắng phước,
- nay con nguyện xin
- tùy hỷ tất cả.
- (95) Con nguyện vận dụng
- sự tùy hỷ này,
- và bao thiện hạnh
- của than miệng ý,
- làm cho thắng nghiệp
- thường xuyên lớn lên,
- thực hiện mau chóng
- tuệ giác vĩ đại.
- (96) Bao nhiêu thắng phước
- lễ bái tán dương
- công đức chư Phật,
- với tâm sâu xa
- cực kỳ trong sáng
- không chút gợn bẩn,
- con đem hồi hướng,
- lại đem phát nguyện,
- thì sáu mươi kiếp
- vượt nẻo đường dữ.
- (97) Nếu có thiện nam
- hay thiện nữ nào,
- hoặc các vọng tộc
- như Bà la môn,
- chắp tay dốc lòng
- tán dương chư Phật,
- thì sinh ở đâu
- cũng nhớ đời trước,
- (98) giác quan toàn hảo
- cơ thể toàn myլ
- và hoàn thành hết
- công đức siêu việt,
- thì trong vị lai
- sinh ra ở đâu
- chư thiên nhân loại
- cũng thường chiêm ngưỡng.
- (99) Người ấy không phải
- ở nơi một đức
- mười đức Phật đà
- tu tập thiện căn
- mà nay nghe được
- pháp sám hối này,
- mà phải ở nơi
- trăm ngàn Phật đà
- gieo trồng thiện căn,
- mới được nghe đến
- pháp mầu sám hối
- như thế này đây.
Bấy giờ đức Thế tôn nghe những
lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện
nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công
đức Phật đà và diệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được
rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh,
loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này
nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và
sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân
ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .
Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp
thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn
Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm
này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ
3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
|
|