...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
- (Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
- bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
4
Phẩm 11:
Thiên Vương Quan Sát [^]
Vào lúc bấy giờ, thiên vương Đa
văn, thiên vương Trì quốc, thiên vương Tăng trưởng, thiên vương Quảng mục,
bốn vị cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối
bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn, đảnh
lễ ngang chân của Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bản kinh Ánh
sáng hoàng kim này chư vị Thế tôn thường quan tâm, chư vị Bồ tát thường
tôn kính, các bộ thiên long thường hiến cúng, tất cả chư thiên thường
vui mừng, tất cả hộ thế thường ca tụng. Kinh này chư vị Thanh văn và
chư vị Độc giác cùng nhau thọ trì. Kinh này có năng lực chiếu sáng cung
điện chư thiên, có năng lực ban cho chúng sinh sự yên vui thượng thặng,
có năng lực làm ngưng sự khổ sở trong các đường dữ, có năng lực loại
trừ mọi sự sợ hãi, giải tỏa mọi sự thù địch, làm no những lúc đói
khát, làm lành những bịnh truyền nhiễm, mọi tai biến với hàng trăm hàng
ngàn khổ não đều tiêu tan cả. Bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng
kim năng lực làm được những lợi lạc như vậy, lợi ích cho chính chúng
con. Kính xin đức Thế tôn, trong đại hội này, tuyên thuyết phong phú
thêm nữa cho chúng con. Bốn thiên vương chúng con, cùng tùy thuộc của
mình, được nghe pháp vị cam lộ tối thượng như thế này, thì khí lực
sung mãn, uy quang tăng thêm, tinh tiến sẽ dũng mãnh hơn, thần lực sẽ phát
triển hơn.
Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương
chúng con làm theo chánh pháp, nói theo chánh pháp, thường đem chánh pháp mà
phục vụ thế giới. Chúng con lại làm cho tám bộ thiên long, cùng các vị
quốc vương, cũng thường đem chánh pháp mà phục vụ thế giới, ngăn chận
và hủy diệt những điều ác. Bao nhiêu quỉ thần không có từ tâm, hấp
tinh khí của người, thì chúng con làm họ phải đi thật xa. Bạch đức Thế
tôn, bốn thiên vương chúng con, cùng đại tướng của hai mươi tám bộ
chúng Dược xoa, với vô số trăm ngàn Dược xoa tùy thuộc, dùng thiên
nhãn trong suốt hơn thị lực của nhân loại mà quan sát và hộ trì cho đại
lục Thiệm bộ này. Do vậy mà, bạch đức Thế tôn, chúng con được gọi
là những người hộ vệ thế giới.
Trong đại lục Thiệm bộ này, nếu
có quốc vương nào quốc gia bị giặc thù xâm phạm luôn, quốc dân bị đói
khát và tật dịch (54) hoành hành, bị hàng trăm hàng ngàn tai ách, thì, bạch
đức Thế tôn, chúng con [vì họ mà] cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng
hoàng kim. Và nếu có vị pháp sư Bí sô nào thọ trì đọc tụng kinh này
thì chúng con cùng đến mà thức tỉnh, khuyến thỉnh vị ấy; vị ấy, do
thần lực của chúng con thức tỉnh khuyến thỉnh, nên đến quốc gia nói
trên, tuyên thuyết rộng rãi bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim. Do thần
lực của kinh này mà hàng trăm hàng ngàn những sự tai ách đều bị loại
trừ. Bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương, khi có vị pháp sư Bí sô
thọ trì kinh này đi đến quốc gia của họ, thì họ phải biết kinh này cũng
đến quốc gia của họ. Do vậy, bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương
ấy hãy đến chỗ vị pháp sư mà lắng nghe vị ấy diễn giảng kinh này.
Nghe rồi hoan hỷ, cung kính hiến cúng vị pháp sư, thâm tâm hộ trì cho vị
ấy khỏi lo lắng để tuyên thuyết kinh này, lợi ích tất cả. Bạch đức
Thế tôn, chính vì kinh này mà bốn thiên vương chúng con cùng nhau nhất
tâm hộ trì vị quốc vương kia, cùng quốc dân của ông, làm cho xa rời
tai họa, thường thường yên ổn. Bạch đức Thế tôn, nếu có vị Bí
sô, Bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca nào thọ trì kinh này, vị quốc vương
kia nên hiến cúng, cung cấp những thứ cần dùng, không để thiếu thốn,
thì bốn thiên vương chúng con làm cho vị quốc vương kia, và quốc dân của
ông, ai cũng yên ổn, tách xa tai họa. Bạch đức Thế tôn, có ai thọ trì
đọc tụng kinh này mà vị quốc vương cung kính, hiến cúng, tôn trọng,
tán dương, thì chúng con làm cho vị quốc vương ấy được cung kính tôn
trọng nhất trong các vị quốc vương, các vị quốc vương ai cũng tán dương
ca tụng.
Đại hội nghe nói như vậy, ai
cũng hoan hỷ, tiếp nhận và ghi nhớ.
Phẩm 12:
Thiên Vương Hộ Quốc [^]
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn
nghe bốn vị thiên vương cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim và hộ
trì cho người thọ trì kinh ấy, thì tán dương rằng lành thay, bốn thiên
vương, các người đã ở nơi vô số chư vị Như lai quá khứ cung kính hiến
cúng tôn trọng tán dương, gieo trồng thiện căn, làm theo chánh pháp, nói
theo chánh pháp, đem chánh pháp phục vụ thế giới. Đối với chúng sinh,
các người trường kỳ nghĩ cách lợi ích, khởi tâm đại bi, nguyện đem
yên vui lại cho họ. Chính vì lý do này mà làm các người hiện được hưởng
thụ quả báo thù thắng. Nếu có quốc vương nào cung kính hiến cúng kinh
Ánh sáng hoàng kim, thì các người phải siêng năng hộ trì cho [ông và quốc
dân của ông] được yên ổn. Bốn thiên vương các người, và vô số dược
xoa tùy thuộc, hộ trì kinh này, thì thế là hộ trì chánh pháp của chư vị
Như lai quá khứ hiện tại vị lai, nên các người, với chư thiên và dược
xoa, chiến đấu với tô la thì thường đắc thắng. Các người hộ trì
kinh này thì do thần lực của kinh này mà loại trừ được mọi sự khổ
não, giặc thù, đói khát, tật dịch. Do vậy, nếu thấy bốn chúng có ai
thọ trì kinh vua này thì các người cũng nên siêng năng chung sức hộ trì,
loại trừ suy tổn và đem lại yên vui cho họ.
Bốn vị thiên vương, lúc ấy, từ
chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì
xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong
thì vị lai, nơi đất nước, thành thị, làng xóm, núi rừng, đồng nội,
chỗ nào và lúc nào bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này lưu hành đến, thì
quốc vương chỗ ấy và lúc ấy nên hết lòng lắng nghe, tán dương, hiến
cúng, lại cung phụng cho những người trong bốn chúng thọ trì kinh này,
thâm tâm hộ trì cho họ tách rời suy não. Vì lý do này, chúng con hộ trì
cho quốc vương ấy, và cho quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, rời xa lo
buồn, thọ lượng tăng thêm, uy đức toàn hảo. Bạch đức Thế tôn, nếu
quốc vương ấy thấy những người trong bốn chúng thọ trì kinh này mà
cung kính hộ vệ như cha như mẹ, cung cấp những thứ nhu cầu, thì bốn
thiên vương chúng con thường hộ vệ cho, làm cho ai cũng tôn kính. Chúng
con và vô số các thần dược xoa, kinh vua này ở đâu cũng ẩn mình hộ vệ,
không để bị cản trở. Chúng con cũng hộ vệ cho những thính giả, và quốc
vương lắng nghe kinh này, loại trừ suy tổn và đem lại yên ổn cho họ,
giặc thù từ xứ khác cũng được làm cho thoái tán. Thế nên nếu có quốc
vương nào khi lắng nghe kinh này mà lân bang thù địch, động binh xâm lăng
phá hoại thì, bạch đức Thế tôn, do thần lực của kinh này mà chúng con
sẽ cùng vô số dược xoa tùy thuộc, ai cũng ẩn mình hỗ trợ, làm cho
lân bang thù địch kia phải tự đầu hàng, không dám bước đến cương giới
của quốc gia ấy, có đâu dám sử dụng vũ khí mà sát phạt (55) .
Đức Thế tôn dạy bốn vị thiên
vương rằng tốt lắm, các người có thể hộ vệ như vậy đối với kinh
này. Vô số kiếp quá khứ, Như lai đã tu đủ loại khổ hạnh, được vô
thượng bồ đề, chứng nhất thế chủng trí, nên ngày nay mới tuyên thuyết
kinh này. Nếu có quốc vương nào thọ trì kinh này, cung kính hiến cúng,
thì [uy lực kinh này] sẽ làm cho quốc vương ấy hết suy tổn, được yên
ổn, lại làm cho tất cả đất nước của quốc vương ấy đến nỗi giặc
thù cũng phải thoái tán. Uy lực kinh này cũng làm cho tất cả quốc vương
trong đại lục Thiệm bộ không có suy tổn, chinh chiến. Mà, các người nên
biết, đại lục Thiệm bộ có tám mươi bốn ngàn quốc gia và quốc vương,
quốc vương nào cũng thích thú, tự do, tài sản sung túc, hưởng thụ đầy
đủ, không xâm lăng chiếm đoạt lẫn nhau. Ai cũng tùy phước nhân đời
trước mà thụ hưởng phước quả đời này, không ai nghĩ xấu, ham chiếm
nước khác. Ai cũng giảm thiểu ham muốn, muốn lợi kẻ khác, không gây
cái khổ chinh chiến, đày ải. Dân chúng của các quốc vương ấy thì thương
nhau, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, mến trọng lẫn nhau, hoan
hỷ thư nhàn, hiền lành khiêm tốn, tăng tiến thiện căn. Do vậy mà đại
lục Thiệm bộ này yên vui, sung túc, dân chúng đông đảo, đất đai màu mỡ,
lạnh nóng điều hòa, thời tiết thích hợp, nhật nguyệt tinh tú vận
hành bình thường, gió mưa đúng lúc, không có tai ương, tài sản phong
phú, tâm tính hào phóng, thường hành huệ thí, đủ mười thiện nghiệp,
và chết thì đa số sinh chư thiên, thiên chúng tăng lên. Bốn thiên vương,
trong thì vị lai, có quốc vương nào lắng nghe kinh này, cung kính hiến
cúng và thọ trì kinh này, thì được bốn chúng ca tụng, lại lợi ích cho
chính các người và tùy thuộc của các người là vô số dược xoa. Vì vậy
mà các quốc vương thường nên lắng nghe bản kinh vua này. Chính cái nước
chánh pháp cái vị cam lộ này tăng thêm sức mạnh và tư thế cho thân tâm
các người, làm cho các người tinh tiến mạnh mẽ, đầy đủ phước đức
uy quang. Các quốc vương ấy nếu hết lòng lắng nghe kinh này thì thế là
đã đem sự hiến cúng lớn lao và hiếm có mà hiến cúng cho ta, Thích ca như
lai. Hiến cúng Như lai là hiến cúng vô số chư vị Như lai trong quá khứ
hiện tại vị lai. Hiến cúng tam thế Như lai thì được cái khối công đức
bất khả tư nghị. Vì lý do ấy, các người nên hộ trì [cho các quốc vương
ấy], cho hoàng gia của họ, cho thần trấn hoàng cung, ai cũng khỏi suy tổn,
được an lạc, thiện căn khó lường. Quốc dân của các quốc vương ấy
cũng hưởng thụ đủ loại lạc thú ngũ dục, mọi sự xấu ác tiêu tan tất
cả.
Bốn thiên vương lại thưa, bạch
đức Thế tôn, trong thì vị lại, có quốc vương nào ưa thích lắng nghe
kinh vua Ánh sáng hoàng kim để cầu mong bản thân và hoàng gia được sự yên
vui bậc nhất; để làm cho ngôi vua hiện tại được thịnh đạt; để thu
hoạch cái khối phước đức vô lượng; để làm cho quốc dân và quốc
gia của mình không bị thù địch, không lo buồn, không tai họa, thì, bạch
đức Thế tôn, quốc vương ấy không nên phóng túng, nghĩ tưởng mông
lung, mà phải cung kính, chân thành, thiết tha, muốn được lắng nghe tiếp
nhận bản kinh vua tối thượng này. Muốn vậy thì trước hết quốc
vương ấy phải trang hoàng một cung điện nào trong hoàng cung mà dễ thấy
nhất và ông quí nhất, bằng cách đem nước thơm rưới đất, rải những
bông hoa danh tiếng, đặt để pháp tòa sư tử đẹp nhất, trang khảm bằng
ngọc quí, treo bảo cái tràng phan lên trên, rồi đốt hương liệu vô giá,
tấu lên các loại âm nhạc. Bản thân quốc vương thì tắm rửa sạch sẽ,
xoa hương thơm vào mình, mặc áo sạch và mới, đeo những chuỗi ngọc,
nhưng ngồi trên cái ghế thấp nhỏ, không tự tôn, bỏ ngôi cao, rời ngạo
mạn, đoan tâm chính niệm để chờ lắng nghe kinh vua này. Lại nữa, đối
với vị pháp sư sẽ đến thì nghĩ tưởng là bậc đại sư; đối với thân
quyến thì sinh từ tâm, nhìn nhau vui vẻ, mặt hiền hòa, nói dịu ngọt, đối
với bản thân thì tràn ngập một nỗi vui mừng lớn lao, nghĩ rằng tôi
được lợi ích vĩ đại, ấy là được hiến cúng long trọng đối với bản
kinh vua chúa. Quốc vương chuẩn bị như vậy rồi, thấy vị pháp sư đến
thì lòng thành kính, khao khát, ngưỡng mộ.
Đức Thế tôn dạy bốn thiên vương,
quốc vương ấy không nên không đi rước vị pháp sư. Quốc vương ấy phải
mặc đồ sạch sẽ, trang sức bằng những chuỗi ngọc, đích thân cầm lọng
dù màu trắng và hương hoa, nghiêm chỉnh quân cách, dàn nhiều nhạc cụ,
đi bộ mà ra khỏi cửa hoàng thành đón rước vị pháp sư, vận dụng tâm
tưởng, hết lòng tôn kính mà làm cái việc cầu chúc cát tường. Bốn thiên
vương, tại sao quốc vương phải đích thân làm việc tôn kính hiến cúng
như vậy? Vì quốc vương lúc ấy cất chân lên, đặt chân xuống, mỗi bước
đã là tôn kính hiến cúng vô lượng chư vị Như lai, đã là vượt qua ngần
ấy nỗi khổ sinh tử, đã là tương lai được làm ngần ấy ngôi vị
luân vương. Lại tùy mỗi bước mà hiện tại phước đức tăng trưởng,
vương vị tự tại, cảm ứng khó lường, quần chúng kính trọng; mà tương
lai vô số kiếp được cung điện thất bảo trong nhân loại và trên chư
thiên, sinh ra ở đâu cũng làm vua chúa, thọ lượng tăng thêm, nói năng thông
suốt, người trời tin chịu, không e sợ gì, được tiếng khen lớn, ai
cũng ngưỡng mộ, ở trong nhân thiên mà hưởng thụ hạnh phúc tuyệt diệu,
được đại thế lực, có đại oai đức, thân tướng kỳ vĩ, uy nghiêm tột
bậc, gặp được các đấng Nhân thiên sư, gặp được các bậc Thiêển
tri thức, hoàn hảo cái khối phước đức vô lượng. Bốn thiên vương nên
biết, quốc vương ấy thấy những lợi ích như vậy nên phải đích thân
đi rước pháp sư từ một du thiện na cho đến hàng trăm hàng ngàn du thiện
na. Hãy nghĩ tưởng vị pháp sư ấy là Như lai. Rước về hoàng thành rồi,
nghĩ rằng thế là đức Thích ca thế tôn vào trong hoàng cung của tôi, nhận
cho sự hiến cúng của tôi, nói cho tôi nghe về diệu pháp. Rằng nghe diệu
pháp rồi tôi không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, được gặp vô
lượng chư vị Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã tấu những nhạc cụ thượng
thặng, và đem những cúng phẩm thù thắng, hiến lên tam thế Thế tôn. Rằng
ngày nay tôi đã bạt nhổ vĩnh viễn cái khổ trong thế giới Diêm vương,
đã gieo trồng hạt giống thiện căn của Phạn vương, Đế thích, Luân vương.
Rằng việc tôi làm ngày nay sẽ làm cho vô số chúng sinh, thoát sinh tử
được niết bàn, tích tụ cái khối phước đức bất khả tư nghị; làm
cho thân quyến và con dân của tôi yên ổn; làm cho đất nước của tôi
thanh bình, không tai họa, kẻ ác và giặc thù không thể quấy phá, xâm lược,
rời xa mọi nỗi lo buồn. Bốn thiên vương, quốc vương ấy nên trân trọng
như vậy đối với diệu pháp, lại nên hiến cúng cung kính tôn trọng tán
dương đối với bốn bộ đệ tử Như lai. Rồi trước hết đem cái thắng
phước của thiện căn này mà hồi hướng cho chính các người, và tùy thuộc
của các người. Thì quốc vương ấy có cái phước đức rất lớn làm yếu
tố, nên hiện tại được đại tự tại, tăng thêm uy quang, sự cát tường
và tướng tốt đẹp đều trang nghiêm, và đối với mọi loại giặc thù
ông có năng lực đem diệu pháp mà chiến thắng.
Lúc ấy bốn thiên vương lại
thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào tôn kính diệu pháp, muốn
nghe kinh vua được như vậy, lại tôn kính hiến cúng bốn bộ thọ trì
kinh vua, [trong đó có vị pháp sư], và muốn làm cho chúng con hoan hỷ, thì
gần một bên pháp tòa, hãy rưới nước thơm, rải bông hoa, đặt ghế bàn
cho bốn thiên vương chúng con. Chúng con sẽ nghe pháp chung với quốc vương.
Quốc vương được thiện căn thì cũng đem một phần cái phước của thiện
căn ấy hồi hướng cho chúng con. Bạch đức Thế tôn, khi quốc vương thỉnh
mời vị pháp sư bước lên pháp tòa, thì cũng có một phần vì chúng con
mà đốt các danh hương hiến cúng kinh vua này. Bạch đức Thế tôn, khói hương
ấy, trong khoảnh khắc, bay lên không gian, bay đến cung điện của chúng
con, và biến thành hương cái ở trong không gian. Chư thiên chúng con liền
nghe được hơi thơm của danh hương, và thấy khói hương có ánh sáng màu
hoàng kim, chiếu rực cung điện của chúng con, chiếu đến cung điện của
Phạn vương, của Đế thích, của Đại biện tài thiên, của Đại cát tường
thiên, của Kiên lao địa thần, của Chánh liễu tri đại tướng, của chư
thần hai mươi tám bộ dược xoa, của Đại tự tại thiên, của Kim cang mật
chủ, của Bảo hiền đại tướng, của quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm
quỉ tử, của long vương hồ Vô nhiệt não, của long vương Đại dương. Bạch
đức Thế tôn, chư thiên chư thần như vậy, nơi cung điện của mình, ai cũng
thấy khói hương ấy trong khoảnh khắc biến thành hương cái, nghe hơi
thơm của khói hương và thấy ánh sáng của khói hương đến khắp tất cả
cung điện của chư thiên chư thần.
Đức Thế tôn bảo bốn thiên vương,
khói hương ấy, với hơi thơm và ánh sáng, không phải chỉ bay đến, biến
thành hương vân hương cái và phóng ánh sáng lớn ở những cung điện [mà
các người thấy được]. Khói hương do chính tay quốc vương tự bưng lò
hương mà đốt lên để hiến cúng kinh vua ấy, trong khoảnh khắc, còn bay
đến khắp đại thiên thế giới này với trăm ức nhật nguyệt, trăm ức
núi Diệu cao, trăm ức bốn đại lục. Tại cung điện của tất cả tám bộ
trong đại thiên thế giới này, khói hương ấy tràn đầy không gian, biến
thành hương vân và hương cái, ánh sáng màu hoàng kim của vân cái này chiếu
khắp cung điện chư thiên [và chư thần]. Tất cả hương vân và hương cái
trong đại thiên thế giới này toàn là do cái lực của uy thần kinh vua
Ánh sáng hoàng kim. Nhưng không phải khói hương do chính tay quốc vương
bưng lò đốt lên hiến cúng kinh vua này chỉ bay đến khắp đại thiên thế
giới này, mà, trong khoảnh khắc, cũng bay đến khắp vô lượng quốc độ
của chư vị Như lai. Ở trên các Ngài, trong không gian, khói hương cũng [kết
thành hương vân và] biến thành hương cái, chiếu ra ánh sáng hoàng kim. Đức
Như lai nào cũng nghe hơi thơm của khói hương nhiệm mầu ấy, cũng nhìn thấy
hương vân hương cái và ánh sáng hoàng kim ấy hiện ra khắp nơi vô lượng
chư vị Như lai, thì chư vị Như lai cùng quan sát, và khác miệng cùng tiếng
mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay bậc đại trượng phu, ông có năng
lực quảng bá bản kinh sâu xa mầu nhiệm! Như thế là ông đã thành tựu
cái khối phước đức bất khả tư nghị. Ai lắng nghe ông giảng kinh này
thì cái lượng công đức có được thật quá nhiều, huống chi sao chép,
tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, diễn nói cho người, làm đúng
kinh dạy. Tại sao, vì, thiện nam tử, ai nghe bản kinh Ánh sáng hoàng kim
này thì không còn thoái chuyển nữa đối với vô thượng bồ đề. Chư vị
Như lai trong vô lượng quốc độ còn khác miệng cùng tiếng, ngồi ngay
trên pháp tòa mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay thiện nam tử,
trong đời sau, ông do tinh tiến lực mà tu được vô số khổ hạnh, đầy
đủ hai loại tư lương phước đức và trí tuệ, siêu việt trên hiền
thánh, vượt ra quá ba cõi, làm bậc tối tôn tối thắng, sẽ ngồi dưới
bồ đề thọ vương một cách trang nghiêm thù thắng, năng lực cứu được
chúng sinh có liên hệ với mình (56) ở trong đại thiên thế giới, khéo
léo thắng được ma quân hình nghi đáng sợ, thực hiện cái tuệ giác biết
các pháp một cách hơn hết, trong sáng, rất sâu, không gì trên nữa, rất
chính xác và cùng khắp. Thiện nam tử, ông sẽ ngồi trên kim cang tòa, chuyển
cái pháp luân vô thượng, được chư vị Như lai tán dương, đủ cả mười
hai hành tướng mầu nhiệm, cực kỳ sâu xa. Ông gióng trống pháp vô thượng
rất lớn, thổi loa pháp vô thượng rất mầu, dựng cờ pháp vô thượng rất
cao, đốt đuốc pháp vô thượng rất sáng, mưa nước pháp vô thượng rất
ngọt, cắt đứt vô lượng phiền não kết thắt, làm cho vô lượng chúng
sinh vượt qua biển cả đáng sợ mà không bến bờ, chấm dứt sự luân hồi
bất tận của sinh tử, gặp được vô lượng chư vị Như lai.
Bốn thiên vương lại thưa, bạch
đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim này, trong hiện tại vị lai, thành tựu
được vô lượng công đức như vậy. Thế nên quốc vương nào được
nghe bản kinh mầu nhiệm này là vì đã gieo trồng thiện căn nơi vô lượng
chư vị Thế tôn. Chúng con sẽ hộ trì cho quốc vương ấy. Lại vì nhìn
thấy vô lượng phước đức, nên bốn thiên vương chúng con, cùng với vô
lượng chư thần tùy thuộc, khi tại cung điện của mình thấy khói hương
biến hiện hương vân hương cái, thì ẩn mình đi, vì để được nghe pháp
nên đến chỗ thuyết pháp là cung điện bậc nhất của hoàng cung quốc vương.
Các vị Phạn vương, Đế thích, Đại biện tài thiên, Đại cát tường
thiên, Kiên lao địa thần, Chánh liễu tri đại tướng, chư thần hai mươi
tám bộ dược xoa, Đại tự tại thiên, Kim cang mật chủ, Bảo hiền đại
tướng, quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, long vương hồ Vô nhiệt
não, long vương Đại dương, vô lượng chư thiên và dược xoa cũng vì để
được nghe pháp nên ẩn mình mà đến chỗ đặt pháp tòa cao để thuyết
pháp là cung điện bậc nhất của quốc vương. Bạch đức Thế tôn, bốn
thiên vương chúng con, với chư thần dược xoa tùy thuộc, sẽ một lòng
cùng quốc vương làm thiện tri thức cho nhau. Vì ông là đại thí chủ
pháp thí, đem cam lộ vị mà sung mãn cho chúng con, nên chúng con sẽ hộ vệ
cho ông, loại trừ tai họa cho ông, làm cho ông được yên ổn, lại làm
cho hoàng cung, quốc gia và quốc dân của ông tiêu tan được mọi thứ tai
biến.
Bốn thiên vương lại cùng nhau chắp
tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào trong quốc gia của
mình có kinh này mà chưa quảng bá bao giờ, muốn rời bỏ, không thích lắng
nghe, không hiến cúng ca tụng, thấy người trong bốn bộ đệ tử Thế tôn
thọ trì kinh này cũng không tôn trọng hiến cúng, làm cho chúng con cùng
thân thuộc, và vô lượng chư thiên, không ai được nghe diệu pháp rất
sâu xa, mất vị cam lộ, mất nước chánh pháp, không còn uy quang và thế lực,
nẻo dữ thêm lên, người trời bớt đi, rơi sông sinh tử, mất đường niết
bàn. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, và những dược xoa tùy
thuộc của chúng con, thấy như vậy nên bỏ quốc gia ấy, không có lòng
nào hộ vệ. Chẳng những chúng con bỏ quốc gia của quốc vương ấy, mà
các đại thiện thần có thệ nguyện hộ vệ đất nước cũng bỏ mà đi.
Bỏ đi rồi, quốc gia ấy có đủ loại tai họa. Vị thế quốc gia bị mất
(57) . Quốc dân không có thiện tâm. Chỉ có tù đày, tàn hại, hận thù,
đấu đá, dèm pha, dua nịnh, cô thế oan khuất, tật dịch hoành hành, sao
chổi thường xuất hiện, hai mặt trời cùng xuất hiện (58) , nhật thực
nguyệt thực bất thường, hai cầu vồng đen trắng xuất hiện, sao sa, địa
chấn, lòng giếng phát tiếng, mưa bạo, gió dữ, thời tiết hổn loạn, đói,
mất mùa, kẻ thù và giặc giã thường từ xứ khác đến cướp phá xâm lược,
quốc dân khổ sở, đất nước không có chỗ nào bình yên. Bạch đức Thế
tôn, khi bốn thiên vương chúng con, vô lượng chư thiên thiện thần, cùng
với thiện thần cũ hộ vệ quốc gia ấy, đều xa lánh cả, thì quốc gia
ấy sinh ra lắm sự tai quái dữ dằng như vậy.
Bạch đức Thế tôn, quốc vương nào
muốn quốc gia vui vẻ, muốn quốc dân yên ổn, muốn chiến thắng ngoại
địch cho đất nước thịnh vượng, muốn lưu bố chánh pháp cho nỗi khổ
điều dữ tan biến, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy nên lắng
nghe kinh vua nhiệm mầu này, nên hiến cúng những người thọ trì kinh này.
Làm như vậy thì chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, do cái thiện
căn lực lắng nghe chánh pháp và uống cam lộ vị mà gia tăng thắng ích
cho chúng con, cho tùy thuộc của chúng con, cho chư thiên thiện thần, tại
sao, vì quốc vương ấy hết lòng lắng nghe tiếp nhận kinh này.
Bạch đức Thế tôn, vì chúng sinh
mà Phạn vương thường nói những luận thuyết xuất thế, mà Đế thích
nói những luận thuyết đa dạng, và các tiên nhân ngũ thông cũng nói mọi
thứ luận thuyết. Phạn vương, Đế thích và tiên nhân ngũ thông tuy có
vô số luận thuyết, nhưng đức Thế tôn vì thương nhân loại và chư thiên
mà tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim thì, so với những luận thuyết
trên, phẩm chất hơn đến vô số bội số, không thể nào ví dụ được
nữa. Tại sao? Vì kinh ấy có năng lực làm cho bao nhiêu quốc vương của
đại lục Thiệm bộ đều đem chánh pháp mà phục vụ quốc gia, có năng lực
ban cho chúng sinh mọi sự an lạc, làm cho bản thân các quốc vương, cho hoàng
gia và quốc dân của các quốc vương ấy, đều không bị khổ não, không
bị giặc thù xâm lăng tàn hại, mọi sự dữ dằng đều đi rất xa, đất
nước trừ hết tai họa, hoán cải bằng chánh pháp mà không còn mọi sự
tranh tụng. Do vậy, các quốc vương mỗi người nơi quốc gia của mình
hãy đốt lên ngọn đuốc chánh pháp mà soi sáng vô tận, tăng thêm chư thiên
và tùy thuộc của chư thiên. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng
con với vô lượng chư thiên thiện thần, bộ chúng dược xoa, với bao nhiêu
chư thiên thiện thần trong đại lục Thiệm bộ, do việc làm của quốc vương
ấy mà được uống cam lộ vị tối thượng, được đại uy đức, thế lực
và ánh sáng có đủ tất cả, và tất cả chúng sinh cũng được yên ổn;
vị lai thì vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc; được gặp chư vị Thế
tôn, gieo trồng thiện căn, để rồi chứng được vô thượng bồ đề. Vô
lượng thắng ích như vậy toàn là do đức Thế tôn đem đại từ bi quá hơn
Phạn vương, đem đại trí tuệ quá hơn Đế thích, đem đại khổ hạnh quá
hơn các tiên nhân ngũ thông, đem những sự trải qua vô số kiếp ấy, vì
chúng sinh mà tuyên thuyết bản kinh nhiệm mầu này, làm cho tất cả quốc
vương và dân chúng trong toàn cõi đại lục Thiệm bộ hiểu được, trong
phạm vi thế gian, những phương thức quản trị quốc gia và cải hóa quốc
dân. Nhờ kinh này quảng bá mà nơi nào cũng được yên vui. Cái phước
như vậy toàn là do từ bi lực của đức Thích tôn, vị thầy cao cả của
chúng con, quảng bá rộng rãi kinh này. Bạch đức Thế tôn, vì vậy mà
các quốc vương hãy thọ trì, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương bản
kinh vua nhiệm mầu này. Tại sao, vì bản kinh này đem những phước đức bất
khả tư nghị như vậy mà lợi ích tất cả, nên còn mệnh danh là bản
kinh Chúa tể tối thượng. Bấy giờ đức Thế tôn dạy bốn thiên vương,
các người, và tùy thuộc của các người, cùng với vô lượng chư thiên,
thấy quốc vương nào hết lòng lắng nghe, hiến cúng cung kính tôn trọng
tán dương kinh này, thì hãy hộ trì cho quốc vương ấy hết mọi suy tổn,
và như vậy cũng làm cho các người hưởng thụ yên vui. Trong bốn bộ đệ
tử của Như lai, ai quảng bá được kinh vua này, thì thế là ngay trong
nhân loại và chư thiên, những người ấy làm việc Phật làm một cách rộng
lớn, đem lại thắng ích cho vô số chúng sinh. Những người như vậy, bốn
thiên vương các người hãy thường xuyên hộ vệ, đừng để họ bị việc
khác quấy nhiễu. Hãy làm cho thân tâm của những người như vậy được
yên tĩnh để quảng bá kinh vua này tồn tại liên tục, lợi ích chúng sinh
cho đến cùng tận thì gian vị lai.
Bây giờ Đa văn thiên vương từ chỗ
ngồi đứng dậy mà thưa, bạch đức Thế tôn, con có một minh chú tên là
Ngọc như ý. Người nào ưa thích thọ trì minh chú ấy thì công đức vô lượng.
Con luôn luôn hộ vệ cho người ấy rời khổ được vui, có năng lực hoàn
thành hai loại tư lương phước đức và trí tuệ. Muốn thọ trì minh chú
ấy thì trước hết phải trì tụng minh chú giữ gìn bản thân. Đa văn thiên
vương liền nói minh chú giữ gìn bản thân: Nam mô, Vai sra va na da ma ha ra
ja da, tát da tha, ra, ra, ra, ra, ku nu, ku nu, khu nu, khu nu, sa pa, sa pa, ma ha vi
ka ra ma, ma ha vi ka ra ma, ma ha ra ja, rát sa, rát săn tu, năng, sa ra, sát toa năng,
soa ha. (Namo Vaisravanayamaharajaya tadyatha ra ra ra ra kunu kunu khunu khunu sapa sapa
mahavikarama mahavikarama maharaja raksa raksantu nam sarva sattvanam svaha).
Bạch đức Thế tôn, trì tụng minh
chú này thì phải lấy chỉ trắng mà trì tụng bảy biến, mỗi biến thắt
một gút, rồi buộc vào sau khuỷu tay, thì việc giữ gìn bản thân được
thành tựu. Kế đó, phải tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi
đem các hương liệu như an tức, chiên đàn, long não, tô hạp, đa yết la,
huân lục, mỗi phần bằng nhau, trộn chung lại, tự tay bưng lò hương mà
đốt hương liệu ấy để hiến cúng. Rồi ở trong cái phòng yên tĩnh (59)
mà trì tụng mình chú triệu thỉnh con, Đa văn thiên vương. Đa văn thiên vương
liền nói minh chú triệu thỉnh: Nam mô, Vai sra va na da, nam mô, Đa na đa da,
Đa nết va ra da, a ka sá, a pa ri mi ta, đa nết va ra, pa ra ma, ka ru ni ka, sa
va, sát toa hi ta chin ta, ma ma, đa na, va đa pa dê, soa dăm, a ka sa, soa ha. (Namo
Vaisravanya namo Danadaya Danesvaraya akarsa aparimita danesvara parama karunika sarva
sattvahitacinta mama dana vardhaparye svayam akarsa svaha).
Trì tụng minh chú này bảy biến rồi
mới trì tụng minh chú căn bản là minh chú Ngọc như ý. Muốn trì tụng
minh chú Ngọc như ý thì trước hết phải xướng hồng danh mà kính lạy
Tam bảo, rồi lạy con, [với lời này: kính lạy] Đa văn thiên vương, người
có năng lực ban cho tiền tài bảo vật, làm cho sở cầu mãn nguyện, thành
tựu an lạc. Xướng lạy như vậy rồi trì tụng minh chú Ngọc như ý của
con, Đa văn thiên vương, minh chú có năng lực đem cho người sự vui vẻ tùy
ý. Đa văn thiên vương liền đối trước đức Thế tôn mà nói minh chú Ngọc
như ý: Nam mô, rát na tra da da, nam mô, Vai sra ma na da, ma ha ra ja da, tát da
tha, si mi, si mi, su mu, su mu, chăn đa, chăn đa, cha rê, cha rê, sa ra, sa ra, ka
ra, ka ra, ki ri, ki ri, ku ru, ku ru, mu ru, mu ru, chu ru, chu ru, sa đa da, át ma năm,
nít dăm, ăn ta ra, đa tu, soa ha; nam mô, Vai sra ma na da, soa ha, đa na đa da,
soa ha, na mô ra tha, pa ri pu ri ka da, soa ha. (Namo ratnatrayaya namo Vaisramanaya
maharajaya tadyatha simi simi sumu sumu canda canda care care sara sara kara kara kiri
kiri kuru kuru muru muru curu curu sadaya atmanam nityam antara dhatu svaha; namo
Vaisramanaya svaha dhanadaya svaha namoratha paripurikaya svaha).
[Bạch đức Thế tôn], thọ trì
minh chú Ngọc như ý thì trước hết tụng một ngàn biến, sau đó, nơi
trong tịnh thất (60) dùng cù ma (61) bôi đất, làm một đàn tràng nhỏ.
Tùy thời mà đem ẩm thực nhất tâm hiến cúng. Thường xuyên đốt hương
quí, sao cho khói hương không ngớt. Rồi tụng minh chú Ngọc như ý, ngày đêm
tập trung tâm trí vào đó. Tụng sao chỉ tai mình tự nghe, đừng để ai biết.
Thì bấy giờ sẽ có con của con, Đa văn thiên vương, tên là vương tử
Thiền ni si, hiện thân đồng tử, đến chỗ người trì tụng, hỏi người
cần gì mà kêu gọi phụ vương của tôi? Người trì tụng hãy trả lời,
rằng tôi muốn hiến cúng Tam bảo nên cần tiền của, xin thiên vương ban
cho. Vương tử Thiền ni si nghe lời ấy rồi, tức tốc trở về, tâu với
con, rằng thưa phụ vương, nay có thiện nhân muốn chí thành hiến cúng Tam
bảo mà thiếu tiền của, vì vậy mà triệu thỉnh phụ vương. Con bảo,
con đi gấp đi, mỗi ngày đem cho thiện nhân ấy một trăm ca lị sa ba na
(62) . Người thọ trì minh chú thấy như vậy thì biết việc thành được.
Hãy một mình ở trong tịnh thất ấy, đốt hương mà nằm. Đặt một cái
hộp thơm bên giường. Mỗi sáng sớm nhìn vào sẽ được của mình cầu.
Mỗi khi được của thì nội ngày ấy hãy hiến cúng Tam bảo bằng hương
hoa ẩm thực, lại đem cho những người nghèo thiếu. Phải sử dụng như vậy
cho hết, không được cất giữ. Đối với chúng sinh phải sinh tâm từ bi,
không được sinh lòng giận dữ, dối trá, dua nịnh, tác hại. Giận dữ
thì tức khắc mất linh nghiệm. Phải thường xuyên giữ cho tâm chớ có giận
dữ. Lại nữa, thọ trì minh chú Ngọc như ý thì mỗi ngày tưởng nhớ đến
con, Đa văn thiên vương, cùng với con trai con gái thân quyến của con, ca tụng,
tán dương, và thường đem mười thiện nghiệp mà hỗ trợ cho nhau, làm
cho chư thiên chúng con phước lực càng sáng, thiện nghiệp càng lớn, chứng
được bồ đề. Chư thiên chúng con thấy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ,
cùng đến hộ vệ cho người thọ trì minh chú. Người thọ trì minh chú
ấy thọ lượng lâu dài, vĩnh ly ba nẻo đường dữ, thường xuyên tuyệt
hết tai nạn. Người ấy cũng được làm cho được ngọc như ý, được
kho tàng ẩn trong lòng đất, thần lực tự tại, sở nguyện thành cả. Cầu
quan chức, vinh hoa, không có gì không vừa ý. Lại còn hiểu được tiếng
nói của chim muông.
Bạch đức Thế tôn, thọ trì minh
chú Ngọc như ý mà muốn nhìn thấy con tự hiện thân, thì ngày tám hoặc
ngày rằm mỗi tháng, lấy vải trắng vẽ tượng đức Thế tôn, bằng
cách dùng nhựa cây và nhiều màu mà tô vẽ. Người vẽ tượng phải được
truyền thọ cho giới Bát quan trai. Bên trái tượng đức Thế tôn thì vẽ
tượng Cát tường thiên nữ, bên phải tượng đức Thế tôn thì vẽ con,
Đa văn thiên vương. Lại vẽ con trai con gái thân quyến của con. Rồi đặt
để cho đúng phép. Bày ra bông hoa đủ màu, đốt lên hương liệu danh tiếng.
Thắp đèn sáng luôn, ngày đêm không tắt. Aẫm thực thượng hạng và tinh
tế, những thứ quí lạ, đều đem lòng thiết tha mà hiến cúng theo lúc.
Thọ trì minh chú Ngọc như ý thì không được với tâm trí dễ dãi. Và
khi triệu thỉnh con thì tụng minh chú này: Na ma hơ, Sri, kăn na da, bút đa
da, nam mô, Vai sra ma na da, dát sa ra ja da, ma ha ra ja, a đi ra ja da, na ma hơ,
sri dê, ma ha đêv dê, tát da tha, ta ra, ta ra, tu ru, tu ru, ba la, ba la, su sút
đi, ha na, ha na, ma ni ka na ka, va rát vai đu ry da, múc ti ka lăm kri ta, sa ra ra
da, sar va sát toa, hi ta ka ma, Vai sra ma na sri da, đê vi pra đa ya, ê hi, ê hi,
ma vi lăm ba, gu ri na, gu ri na, pra si da, pra si da, đa đa hi, ma ma, a na ka na ma
da, đa sá na, ka ma si da, đa săn năn, ma ma, ma na, pa ri ha ra đa da, soa ha.
(Namah Sri kannaya buddhaya namo Vaisramanaya yaksarajaya maharaja adhirajaya namah sriye
mahadevye tadyatha tara tara turu turu bala bala susuddhi hana hana manikanaka
vajravaidurya muktikalamkrsta sariraya sarvasattva hitakama Vaisramanasriya devipradhaya
ehy ehi mavilamba ghurna ghurna prasya prasya dadhahi mama amakanamaya darsana kamasya
darsanan mama mana pariharadhaya svaha).
Bạch đức Thế tôn, nếu con thấy
người ấy tụng trì minh chú, lại thấy hiến cúng trang trọng như vậy,
thì thương mến và hoan hỷ. Con liền biến thể làm thân thiếu nhi, thân
lão trượng, hay thân Bí sô, tay cầm ngọc như ý và túi vàng mà vào đạo
tràng, thân thì thể hiện tôn kính, miệng thì niệm hồng danh của đức
Thế tôn, rồi nói với người thọ trì minh chú Ngọc như ý, rằng tùy người
cầu gì tôi cũng làm cho như nguyện. Muốn ẩn rừng rú, muốn chế tạo ngọc,
muốn mọi người yêu mến, muốn những thứ bạc vàng, muốn trì minh chú
nào cũng linh nghiệm, muốn thần thông, trường thọ, thắng diệu lạc, không
có gì không vừa ý. Tôi nay chỉ nói mấy việc như vậy. Muốn cầu gì nữa
thì cũng tùy ý thành tựu. Kho báu thì vô tận, phước đức thì vô cùng.
Giả sử mặt trời mặt trăng sa xuống mặt đất, hoặc đại địa có
lúc di chuyển vị trí, lời nói chắc thật của tôi cũng không bao giờ vô
hiệu quả, yên vui thường có, hạnh phúc tùy tâm.
Bạch đức Thế tôn, có ai thọ
trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim mà đọc tụng minh chú Ngọc như ý, thì
không mượn sự mệt nhọc nhiều lắm mà linh nghiệm vẫn mau chóng thành tựu.
Bạch đức Thế tôn, nay con vì bao kẻ nghèo nàn, khốn khó, khổ não, mà
tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý là để cho họ được lợi ích lớn lao,
được giàu vui, tự tại, vô bịnh, cho đến suốt đời vẫn được con hộ
vệ, theo dõi người thọ trì minh chú mà loại trừ cho họ bao nhiêu tai
ách. Con lại làm cho những người quảng bá mà duy trì kinh vua Ánh sáng
hoàng kim, và những người thọ trì minh chú Ngọc như ý, trong chu vi mỗi
phía trăm bước, được ánh sáng chiếu đến. Cả ngàn thần dược xoa của
con cũng thường hộ vệ, tùy ý sai sử, họ làm vừa lòng cả. Con nói
chân thành, không rỗng, không dối, chỉ có đức Thế tôn chứng biết cho
con.
Bấy giờ, khi Đa văn thiên vương nói
về minh chú Ngọc như ý rồi, đức Thế tôn dạy, rằng lành thay thiên vương,
ông có năng lực xé nát mạng lưới nghèo khổ cho chúng sinh, làm cho họ
giàu, vui, nên đã tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý. Ông lại làm cho kinh
vua này quảng bá cả thế giới.
Bốn vị thiên vương cùng từ chỗ
ngồi đứng dậy, vắt vạt áo một bên vai, đảnh lễ ngang chân đức Thế
tôn, rồi gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đem chỉnh
cú tuyệt diệu mà tán dương đức Thế tôn.
- (1) Khuôn mặt Thế tôn
- như trăng tròn sáng,
- như ngàn mặt trời
- phóng ánh quang minh.
- Mắt trong dài rộng
- như cánh sen xanh.
- Răng thì đều khít
- trắng như tuyết ngọc.
- (2) Đức tính Thế tôn
- vô biên như biển,
- bao phẩm chất quí
- dồn lại ở đây;
- nước đại giác tuệ
- được giữ dẫy đầy,
- ngọc đại thắng định
- sung mãn trong đó.
- (3) Bàn chân chỉ tròn
- bố trí tuyệt đẹp,
- bằng phẳng vững vàng
- như bánh xe êm (63) .
- Các ngón tay chân
- có mạng tuyệt đẹp,
- tựa như mạng chân
- của con nga vương.
- (4) Thân thể Thế tôn
- núi vàng sáng rực,
- trong sạch đặc thù
- không ai sánh bằng,
- lại đầy phước đức
- như núi Diệu cao:
- chúng con kính lạy
- Núi chúa như vậy.
- (5) Tướng hảo vô lượng
- tựa như không gian,
- phóng ra ánh sáng
- hơn ngàn mặt trời;
- coi như huyễn ảo
- bất khả tư nghị:
- chúng con kính lạy
- đấng Không vướng mắc.
Bốn thiên vương tán dương đức
Thế tôn rồi, Ngài cũng nói lại bằng những chỉnh cú sau đây.
- (6) Ánh sáng hoàng kim
- kinh tối thượng này
- là được tuyên thuyết
- bởi đấng Vô thượng.
- Thiên vương các người
- hãy thường hộ vệ;
- hãy có tâm chí
- dũng mãnh bất thoái.
- (7) Kinh này quí báu
- cùng cực sâu xa,
- năng lực làm cho
- chúng sinh yên vui.
- Bởi vì làm cho
- chúng sinh yên vui,
- nên thường lưu hành
- đại lục Thiệm bộ.
- (8) Nhưng làm cho cả
- đại thiên thế giới
- bao loại chúng sinh
- trong thế giới ấy,
- nhất là địa ngục
- ngạ quỉ bàng sinh,
- những nẻo khổ ấy
- đều được loại trừ.
- (9) Những vị quốc vương
- toàn cõi Thiệm bộ,
- cùng với bao nhiêu
- quốc dân của họ,
- cái lực kinh này
- làm cho hoan hỷ,
- và được hộ vệ
- giữ cho thanh bình.
- (10) Tất cả nhân loại
- trong đại lục này
- không bịnh không khổ
- không giặc không cướp;
- nhờ trong quốc gia
- quảng bá kinh này,
- quốc dân yên ổn
- sung túc vui thỏa.
- (11) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- muốn cầu cao sang
- cầu tài cầu lợi,
- cầu cho đất nước
- phong phú thái bình,
- tùy tâm cầu nguyện
- thỏa mãn tất cả.
- (12) Giặc từ xứ khác
- cũng làm lui mất,
- trong quốc gia mình
- thường sống yên ổn;
- chính nhờ cái lực
- của kinh vua này
- mà thoát khổ não
- mà không lo sợ.
- (13) Tựa như cây ngọc
- ở chính trong nhà
- thì sinh tất cả
- công cụ hạnh phúc;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- ban cho quốc vương
- bao nhiêu thắng phước.
- (14) Như nước trong sạch
- mà lại mát ngọt,
- thì trừ được hết
- cái nóng đói khát;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- ai ưa phước lạc
- làm cho thỏa mãn.
- (15) Như kẻ trong nhà
- có hộp ngọc quí,
- thì sự hưởng dụng
- toàn theo ý muốn;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- phước lạc tùy tâm
- không thiếu thốn gì.
- (16) Thiên vương các người
- cùng với chư thiên
- hãy nên hiến cúng
- bản kinh vua này;
- phụng trì kinh này
- theo lời Như lai,
- thì đủ tất cả
- trí tuệ uy thần.
- (17) Hiện tại mười phương
- chư vị Như lai
- cùng nhau hộ trì
- bản kinh vua này;
- thấy ai đọc tụng
- thọ trì kinh này
- thì khen lành thay,
- rất là hiếm có!
- (18) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- thân tâm phấn chấn
- hoan hỷ tràn ngập;
- thường có trăm ngàn
- bộ chúng dược xoa
- ở đâu cũng theo
- mà hộ vệ cho.
- (19) Thế giới hệ này
- bộ chúng chư thiên
- số lượng vô lượng
- không thể nghĩ bàn,
- ai cũng lắng nghe
- bản kinh vua này
- hoan hỷ hộ vệ
- chứ không thoái chuyển.
- (20) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- thì uy đức mạnh
- thì tự tại luôn;
- làm cho tăng thêm
- nhân loại chư thiên,
- làm hết suy bại
- làm thêm ánh sáng.
Bốn thiên vương nghe những lời chỉnh
cú này rồi hoan hỷ phấn chấn, thưa rằng bạch đức Thế tôn, từ xưa
đến nay chúng con chưa từng được nghe pháp âm thậm thâm vi diệu như thế
này, trong lòng vừa mừng vừa tủi, mắt mũi trào nước, cả người chấn
động, chứng được sự thể hiếm có, bất khả tư nghị. Các thiên vương
liền lấy thiên hoa mạn đà và đại mạn đà tung rải trên đức Thế tôn.
Họ hiến cúng một cách thù thắng như vậy rồi, lại thưa, bạch đức Thế
tôn, bốn thiên vương chúng con ai cũng có năm trăm dược xoa tùy thuộc, sẽ
thường xuyên hộ vệ kinh này, và vị pháp sư tuyên thuyết kinh này, đem
ánh sáng trí tuệ mà hỗ trợ. Vị pháp sư ấy có quên chữ nghĩa nào
trong kinh vua này, thì chúng con làm cho vị ấy nhớ lại, không quên. Chúng
con cũng hiến cho vị pháp sự ấy minh chú thù thắng, để vị ấy được
toàn hảo. Lại làm cho bản kinh vua tối thượng này ở đâu thì quảng bá
cho người, không mau chóng ẩn mất.
Khi ở trong đại hội, đức thế tôn
tuyên thuyết pháp thoại này, thì vô lượng chúng sinh được sự hùng biện
đầy trí lớn thông minh, thu thập cái khối phước đức vô số lượng, rời
lo buồn, phát hoan hỷ, khéo hiểu mọi thứ luận thuyết, bước lên trên
đường thoát ly, không còn thoái chuyển mà mau chóng chứng được vô thượng
bồ đề.
Phẩm 13:
Minh Chú Ly Nhiễm [^]
Khi ấy đức Thế tôn bảo trưởng
lão Xá lợi tử, có một pháp tên là minh chú Ly nhiễm. Đó là pháp bồ
tát tu. Bồ tát quá khứ đã thọ trì pháp ấy. Pháp ấy là mẹ của bồ
tát. Đức Thế tôn nói như vậy rồi, trưởng lão Xá lợi tử thưa, bạch
đức Thế tôn, minh chú là chữ nghĩa gì? Bạch đức Thế tôn, minh chú
thì phi vị trí, phi siêu vị trí. Trưởng lão Xá lợi tử nói như vậy rồi,
đức Thế tôn bảo, lành thay trưởng lão Xá lợi tử, nay trưởng lão đã
đi đến đại thừa, đã tin hiểu đại thừa, đã tôn trọng đại thừa.
Đúng như trưởng lão nói, minh chú thì phi vị trí phi siêu vị trí, phi
pháp môn phi siêu pháp môn, phi quá khứ phi vị lai phi hiện tại, phi sự thể
phi siêu sự thể, phi tương quan phi siêu tương quan, phi chuyển biến phi siêu
chuyển biến, không có gì là sinh, không có gì là diệt. Thế nhưng vì lợi
ích cho bồ tát mà Như lai nói. Bằng cách do năng lực, đường chính, lý
thể, sức mạnh (64) , do bốn mặt như vậy mà Như lai lập ra minh chú, và
rằng đó là thành quả của chư vị Như lai, giới điều của chư vị Như
lai, sở học của chư vị Như lai, bí mật của chư vị Như lai, sinh xứ của
chư vị Như lai, nên mệnh danh là minh chú Ly nhiễm, pháp tối nhiệm mầu.
Đức Thế tôn nói như vậy rồi, trưởng lão Xá lợi tử thưa Ngài, bạch
đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho con về minh chú ấy. Bồ tát đứng
vững nơi minh chú ấy thì không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Thành tựu
chánh nguyện, được sự ly nhiễm, tự tánh hùng biện, đạt được hiếm
có, an trú thánh đạo, tất cả toàn là do được có minh chú Ly nhiễm. Đức
Thế tôn dạy trưởng lão Xá lợi tử, lành thay, đúng như vậy, đúng như
trưởng lão nói. Nếu bồ tát nào chứng đắc minh chú Ly nhiễm thì không
khác gì Như lai. Ai hiến cúng vị bồ tát ấy thì trưởng lão hãy nhận thức
rằng đó là hiến cúng Như lai. Trưởng lão Xá lợi tử, ngoài bồ tát ra,
những người khác nếu nghe được minh chú này, thọ trì, đọc tụng, và
sinh ra tin hiểu, thì cũng nên cung kính hiến cúng như đối với Như lai. Bởi
vì nhờ nhân tố này mà được đạo quả tối thượng. Bấy giờ đức Thế
tôn liền tuyên thuyết cho đại hội về minh chú Ly nhiễm: Tát da tha, sa
đa ra ni, a pa đa ra ni, su săm pra tít thi ta, su na ma, su pra tít thi ta, vi ja da
ba la, sát da, pra ti sin ja, su rô ha, sin ja na ma ti, u pa đa ni, a ba na ma ni, a
bi sích ni, a biv da ka ra, sú ba pa ti, su ni sí ta, ba hum, gun ja, a bi pa đa, soa
ha. (Tadyatha sandharani apadharani susampratisthita sunama supratisthita vijayabala satya
pratisinja suroha sinjanamati upadhani ubanamani abhisigni abhivyakara subhapati sunisita
bahum gunja abhipada svaha).
Đức Thế tôn bảo trưởng lão Xá
lợi tử, câu minh chú Ly nhiễm này bồ tát nào khéo léo an trú và chính
xác thọ trì thì phải nhận thức rằng bồ tát ấy một kiếp cho đến
trăm ngàn kiếp đã phát chánh nguyện không có cùng tận, thân thể đã
không bị thương tổn vì khí giới, vì độc tố, vì nước lửa, vì mãnh
thú. Tại sao, trưởng lão Xá lợi tử, vì minh chú Ly nhiễm là mẹ sinh chư
vị Như lai quá khứ, mẹ sinh chư vị Như lai vị lai, mẹ sinh chư vị Như
lai hiện tại. Trưởng lão Xá lợi tử, nếu có người nào, trong mười vô
số kiếp, đem bảy loại quí báu chất đầy đại thiên thế giới mà phụng
hiến chư vị Như lai, lại đem y phục ẩm thực thượng hạng và tinh tế
mà hiến cúng với nhiều dạng thức và trải qua vô số kiếp; mặt khác,
nếu có người nào thọ trì đến nỗi chỉ một chữ của minh chú Ly nhiễm
mà thôi, mà cái phước phát sinh từ sự thọ trì ấy cũng bội phần nhiều
hơn người kia, tại sao, vì Xá lợi tử, minh chú Ly nhiễm là pháp cực kỳ
sâu xa, là mẹ sinh chư vị Như lai.
Bấy giờ trưởng lão Xá lợi tử,
cùng cả đại hội, nghe được minh chú Ly nhiễm thì ai cũng đại hoan hỷ,
cùng nhau phát nguyện thọ trì.
Phẩm 14:
Ngọc Báu Như Ý [^]
Bấy giờ, ở trong đại hội, đức
Thế tôn bảo tôn giả A nan đà, rằng các người nên biết có một minh
chú danh hiệu minh chú Như ý, làm rời xa mọi sự tai ách, lại ngăn chận
những thứ sấm sét dữ dội, và được tuyên thuyết bởi chư vị Như lai
quá khứ. Và nay, trong kinh này, Như lai cũng tuyên thuyết minh chú này cho đại
hội. Minh chú này làm đại lợi ích cho nhân loại chư thiên, xót thương
thế giới mà hộ vệ cho tất cả yên vui. Bấy giờ đại hội cùng với
tôn giả A nan đà nghe lời đức Thế tôn nói như vậy, ai cũng chí thành
chiêm ngưỡng Ngài để lắng nghe minh chú Như ý. Đức Thế tôn nói, đại
hội hãy lắng nghe. Hướng đông vị trí này có chúa sấm sét tên A ga ta,
hướng nam vị trí này có chúa sấm sét tên Sa tát ru, hướng tây vị trí
này có chúa sấm sét tên Chu ta ba, hướng bắc vị trí này có chúa sấm
sét tên Su ta ma ni (65) . Thiện nam hay thiện nữ nào nghe được tên những
chúa sấm sét này, và biết vị trí của họ, thì người ấy hết mọi sợ
hãi và tai họa. Nơi chỗ ở mà viết tên của họ thì chỗ ở ấy không
còn phải sợ sấm sét, không tai ách và chướng nạn, không cả chết phi
thời, chết oan uổng. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú Như
ý: Tát da tha, ni mi ni, ni mi ni, ni min đa ri, tri lô ka, lô ka ni, tri su ra pa
ni, rát sa, rát sa, soa ha; cầu nguyện cho con và chỗ ở này rời xa sự sợ
hãi, sự khổ não, sự sấm sét, sự uổng tử. (Tadyatha nimini nimini
nimindhari triloka lokani trisurapani raksa raksa svaha).
Bấy giờ đại bồ tát Quan tự tại
(66) ở trong đại hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai
bên phải, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, nay con cũng đối
trước đức Thế tôn tuyên thuyết vắn tắt về minh chú Như ý. Minh chú
này làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà
hộ vệ cho tất cả yên vui. Minh chú này có uy lực cực lớn, cầu gì cũng
như ý. Đại bồ tát Quan tự tại liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da
tha, ga tê, vi ga tê, ni ga tê, prát da tha kê, pra ti mi trê, sút đê, mút tê,
vi ma lê, pra ba soa rê, ăn đa rê, păn đa rê, suê tê, Păn đa ra va si ni, Ha
ri, Kăn ta ri, Ka pi li, Pin ga lát si, Đa đi mu khi, rát sa, rát sa, soa ha; cầu
nguyện cho con và chỗ này rời xa mọi nỗi sợ hãi, đau khổ, cho đến uổng
tử; cầu nguyện cho con đừng thấy những sự tội ác, thường được đại
bồ tát Quan tự tại hộ trì cho con bằng ánh sáng đại bi của Ngài.
(Tadyatha gate vigate nigate pratyarthake pratimitre sudhe mukte vimale prabhasvare andare
pandare svete Pandaravasini Hari Kantari Kapili Pingalaksi Dadhimukhi raksa raksa svaha).
Bấy giờ bồ tát bí mật chủ Chấp
kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức
Thế tôn, nay con cũng xin nói minh chú danh hiệu Không gì hơn. Minh chú này cũng
làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ
vệ cho tất cả. Minh chú này cũng có uy lực cực lớn, cầu gì cũng như
ý cả. Bồ tát bí mật chủ Chấp kim cang liền tuyên thuyết minh chú Không
gì hơn: Tát da tha, mu ni, mu ni, mu ni nê, ha rê, ma ti, ma ti, su ma ti, ma ha ma
ti, ha, ha, ha, ha, ma ba, i na si thi tê, pa pa, va jrắt pa ni, a hăn, chi ri, cha,
soa ha. (Tadyatha muni muni munine hare mati mati sumati mahamati ha ha ha ha mabha
inasthite papa vajrapani aham ciri ca svaha).
Bạch đức Thế tôn, minh chú của
con đây gọi là sự hộ vệ không gì hơn. Nam tử hay nữ nhân nào nhất
tâm thọ trì, sao chép, đọc tụng, ghi nhớ không quên, thì cả ngày liền
đêm con thường hộ vệ người ấy, rời xa mọi sự sợ hãi cho đến uổng
tử.
Bấy giờ Phạn vương chủ thế giới
hệ Sách ha cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch
đức Thế tôn, con cũng có minh chú nhiệm mầu, làm đại lợi ích cho nhân
loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả. Minh chú
này cũng có uy lực cực lớn, cầu gì cũng như ý cả. Phạn vương liền
tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, hi li, mi li, đi li, soa ha, Brắt ma pu rê,
Brắt ma ma ni, Brắt ma gar bê, pút pa săm si thi rê, soa ha. (Tadyatha hili mili
dhili svaha Brahmapure Brahmamani Brahmagarbhe puspasamsthire svaha).
Bạch đức Thế tôn, minh chú của
con đây danh hiệu là Phạn vương đối trị, hộ vệ tất cả những ai thọ
trì, làm cho họ xa rời lo buồn, ác nghiệp, cho đến uổng tử.
Bấy giờ Đế thích, chủ chư thiên
Đao lợi, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch
đức thế tôn, con cũng có minh chú tên Va ja xá ni. Đó là minh chú rất
sáng chói, trừ được mọi sự sợ hãi cho đến uổng tử, cứu khổ cho
vui, lợi ích chư thiên nhân loại. Đế thích liền tuyên thuyết minh chú Va
ja xá ni: Tát da tha, vi ni, va ri ni, van đa ma đăn đê, ma ni nê ti ni, Gau ri,
Chăn đa li, Ma tăn gi, Pút ka si, sa ra pra ba, hi na mát da, ta ma, út ta ra ni, ma
ha ra ni, đa ra ni ku, chắt ra va kê, sá va ri, sá va ri, soa ha. (Tadyatha vini
varini vandhamadande maninetini Gauri Candali Matangi Pukkasi saraprabha hinamatya tama
uttarani maharani dharaniku cakravake savari savari svaha).
Bấy giờ Đa văn thiên vương, Trì
quốc thiên vương, Tăng trưởng thiên vương, Quảng mục thiên vương, bốn
thiên vương ấy cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa,
bạch đức Thế tôn, ở đây chúng con cũng có minh chú tên là Ban cho chúng
sinh sự không sợ hãi. Minh chú này thường hộ vệ mọi sự đau khổ, làm
cho yên vui, tăng thêm thọ lượng, không mọi tai họa, cho đến uổng tử
cũng không còn. Bốn thiên vương liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da
tha, pút pê, su pút pê, đu ma, pa ri ha rê, a ry da pa ri sá sít đê, săn ti ni,
mút tê, măm găn dê, si tu tê, sít đa vi tê, soa ha. (Tadyatha puspe supuspe duma
parihare aryaparisasidhe santini mukte mamgalye stute sidhavite svaha).
Bấy giờ lại có các đại long
vương, như long vương Ma na si, long vương Điện quang, long vương hồ Vô nhiệt,
long vương Điện thiệt, long vương Diệu quang, cùng từ chỗ ngồi đứng dậy,
chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cũng có minh chú
Như ý, ngăn được điện khí dữ dằng, loại trừ sợ hãi, làm đại lợi
ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ tất cả,
có uy lực cực lớn, cầu gì cũng thỏa, cho đến uổng tử cũng xa lánh cả,
những loại độc tố đều bị vô hiệu, gieo độc sâu cổ, thư ếm chú
thuật, mọi sự không tốt lành đều bị loại trừ. Chúng con xin đem minh
chú này hiến lên đức Thế tôn, xin đức Thế tôn thương chúng con mà từ
bi nạp thọ, để cho chúng con bỏ được quả báo loài rồng, vĩnh viễn
loại trừ tham lẫn, sự tham lẫn mà do tính xấu ấy chúng con đã phải chịu
lấy khổ sở. Chúng con nguyện [nhờ sự phụng hiến minh chú lên đức Thế
tôn mà] trừ bỏ được hạt giống tham lẫn. Các vị long vương liền tuyên
thuyết minh chú: Tát da tha, a cha lê, a ma lê, ăm ri tê, át sa, dê, a ba dê,
pun da, par dáp tê, sar va pa pa pra sá ma ni dê, soa ha, a li dê, pan đu, su par ni
dê, soa ha. (Tadyatha acale amale amrte aksa ye abhaye punya paryapte sarvapapaprasamanye
svaha aliye pandu suparniye svaha).
Bạch đức Thế tôn, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào miệng nói minh chú này, hoặc sao chép ra, thọ trì đọc
tụng, tôn kính hiến cúng, thì không bao giờ bị sấm sét, mọi sự sợ
hãi, đau khổ, lo buồn, cho đến uổng tử cũng được rời xa, thuốc độc,
sâu cổ, quỉ mị, trù ếm, hay cọp beo, sư tử, rắn độc, muỗi mòng,
không gì hại được.
Bấy giờ đức Thế tôn phổ cáo
đại hội, lành thay, những minh chú [mà các người tuyên thuyết] đều có
sức lớn, chúng sinh cầu gì cũng được thỏa mãn. Có lợi ích lớn lao như
vậy, trừ ra không chí tâm. Đại hội các người đừng có nghi hoặc. Cả
đại hội, lúc ấy, nghe đức Thế tôn huấn dụ, ai cũng hoan hỷ, tin tưởng,
tiếp nhận.
Phẩm
15/1: Đại Biện Thiên Nữ [^]
Vào lúc bấy giờ, ở trong đại hội,
Đại biện tài thiên nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang
chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, có vị pháp sư nào giảng
nói kinh Ánh sáng hoàng kim này thì con sẽ tăng thêm trí tuệ cho vị ấy,
làm cho vị ấy toàn hảo sự hùng biện đầy nghiêm chỉnh và thuyết phục.
Vị pháp sư ấy nếu quên mất văn chữ nào trong kinh Ánh sáng hoàng kim
thì con làm cho nhớ lại, khéo léo mở mắt và thức tỉnh cho người. Con lại
cho vị ấy minh chú để vị ấy được sự tổng trì thông suốt. Lại nữa,
kinh Ánh sáng hoàng kim này được thường xuyên thọ trì bởi những người
đã gieo trồng thiện căn nơi hàng trăm hàng ngàn chư vị Thế tôn, nên quảng
bá trong đại lục Thiểm bộ mà không ẩn mất mau chóng, giúp cho những ai
lắng nghe kinh này thì được sự hùng biện lanh lợi khó nghĩ khó bàn;
được đại trí vô tận, khéo hiểu các loại luận thuyết và kyՠthuật;
được mau thoát sinh tử, đạt đến vô thượng bồ đề; và hiện tại
thì được tăng thêm thọ lượng, đời sống đầy đủ. Bạch đức Thế
tôn, con sẽ nói cho vị pháp sư thọ trì quảng bá kinh này, và những ai
ưa thích lắng nghe kinh này, về cách tắm rửa nước thuốc, để những
người ấy nếu có tai biến sao dữ, nếu lúc mới sinh có sự xung khắc với
ngôi sao sở thuộc, nếu có cái khổ của những bịnh truyền nhiễm, của
chiến tranh, của ác mộng, ác thần, sâu cổ, quỉ mị, ác chú, quỉ khởi
thi, có những điều dữ như vậy làm chướng nạn thì được loại trừ cả.
Cách ấy là những người có trí hãy tắm rửa như thế này. Hãy dùng ba mươi
hai loại hương dược (67) sau đây, cân lượng bằng nhau:
- (1) xương bồ,
- (2) ngưu hoàng,
- (3) mục túc hương,
- (4) xạ hương,
- (5) hùng hoàng,
- (6) hợp hôn thọ,
- (7) bạch cập,
- (8) khung cùng,
- (9) câu kỷ căn,
- (10) tùng chi,
- (11) quế bì,
- (12) hương phụ tử,
- (13) trầm hương,
- (14) chiên đàn,
- (15) linh lăng hương,
- (16) đinh tử,
- (17) uất kim,
- (18) bà luật cao,
- (19) vi hương,
- (20) trúc hoàng,
- (21) tế đậu khấu,
- (22) cam tùng,
- (23) hoắc hương,
- (24) mao căn hương,
- (25) sất chi,
- (26) ngải nạp,
- (27) an tức hương,
- (28) giới tử,
- (29) mã cân,
- (30) long hoa tu,
- (31) bạch giao,
- (32) thanh mộc
Lấy ngày sao Bố sái (68) mà giã,
rây lấy bột, và chú nguyện bằng một trăm lẻ tám biến minh chú này:
Tát da tha, su kri ti, kri ti, kri ti, ka ma ta lê, jăn ka ra ti, u ka ra ti, in dra ja
li ni, sát a ran tê, va cha chi lê, a ban ti, ka si kê na, ku đu, ku đu, kha ka vi lê,
ka pi lê, ka pi lê, ka pi la ma ti, si la ma ti, săn đi đu ra ma ti, pa ba, ka, bam
chi lê, Si rê, Si lê, sa ti dát thi tê, soa ha. (Tadyatha sukrti krti krti kamatale
jankarati ukarati indrajanili sakarante vacacile abanti kasikena kudu kudu khakavile
kapile kapile kapilamati silamati sandhiduramati paba ka bhamcile Sire Sile satyasthite
svaha).
- (1) Khi muốn đúng cách
- tắm rửa theo phép,
- thì làm đàn tràng
- vuông tám khuỷu tay,
- nơi chỗ tĩnh lặng
- và phải yên ổn,
- tại đó chú tâm
- vào điều nguyện cầu.
- (2) Đàn ấy phải dùng
- ngưu phấn (69) tráng nền,
- phía trên rải khắp
- bông hoa nhiều màu.
- Rồi dùng khí mãnh
- bạc vàng tinh khiết
- đựng đầy mĩ vị
- hay sữa hoặc mật.
- (3) Bốn phía đàn tràng
- hay là bốn cửa,
- hãy đặt bốn người
- giữ gìn đúng phép.
- Nhờ bốn đồng tử (70)
- phục sức trang nghiêm,
- mỗi người một góc
- tay bưng bình nước.
- (4) Thế rồi thường xuyên
- đốt an tức hương,
- và nhạc ngũ âm (71)
- không hề ngớt tiếng
- Phan lọng nghiêm chỉnh,
- lại treo lụa màu,
- trang hoàng bốn phía
- của đàn tràng ấy.
- (5) Ở trong đàn tràng
- thì đặt gương sáng,
- dao sắc kèm tên
- mỗi loại bốn cái.
- Chính giữa đàn tràng
- vùi cái bồn lớn,
- với ván xoi lỗ
- đặt ở phía trên.
- (6) Đem bột hương dược
- hòa với nước nóng,
- và cũng đặt để
- ở trong đàn tràng.
- Thiết trí như vậy
- xong xuôi cả rồi,
- sau đó tụng chú
- kiết giới đàn tràng.
Minh chú kiết giới đàn tràng như
vầy: Tát da tha, ăn ra kê, na da nê, hi lê, mi lê, gi lê, ki ki lê, soa ha
(Tadyatha anrake nayane hile mile gile kikite svaha).
- (7) Kiết giới như vậy
- cho đàn tràng rồi,
- sau đó mới vào
- nơi trong đàn tràng,
- chú nguyện nước [bình]
- hai mươi mốt biến,
- rồi rưới khắp cả
- bốn phía đàn ấy.
- (8) Kế đó chú nguyện
- nước nóng hương dược
- cho đủ số lượng
- một trăm tám biến,
- rồi bốn phía đàn
- dùng màn mà che,
- và rồi tắm rửa
- cho cả thân thể.
Minh chú chú nguyện cho nước [bình]
và nước nóng hương dược như vầy: Tát da tha, su ga ti, vi ga ti, vi ga cha,
va đê, soa ha. (Tadyatha sugati vigati vigaca vade svaha).
Tắm rửa rồi, nước nóng tắm rửa
ấy [đã chảy xuống bồn lớn], và những cúng phẩm hiến cúng trong đàn
tràng, đều đem bỏ trong sông trong hồ. Ngoài ra thì thu dọn lại. Tắm rửa
rồi mới mặc đồ sạch. Khi ra đàn tràng mà vào tịnh thất, thì vị thầy
chú nguyện phải dạy cho người ấy cách phát đại nguyện nhắm vào sự
diệt ác tu thiện, vào sự phát đại bi tâm đối với chúng sinh. Chính do
yếu tố phát đại nguyện này mà được bao phước báo tùy tâm. Đại biện
tài thiên nữ lại nói chỉnh cú sau đây.
- (9) Những người khổ sở
- vì các thứ bịnh,
- điều trị đủ cách
- mà không lành được,
- thì hãy tắm rửa
- đúng cách như trên,
- cọng thêm đọc tụng
- bản kinh vua này.
- (10) Ngày đêm ý niệm
- không hề tán loạn,
- chuyên tâm thiết tha
- và rất tin tưởng,
- thì bao bịnh hoạn
- được tiêu tan cả,
- lại hết nghèo khó
- có đủ tài sản.
- (11) Tinh tú bốn hướng
- cùng với nhật nguyệt
- thần lực hộ vệ
- cho được nhiều tuổi,
- cát tường yên ổn
- phước đức tăng thêm,
- tai biến ách nạn
- đều loại trừ cả.
Sau khi [phát đại nguyện], hãy tụng
minh chú hộ trì thân thể sau đây, hai mươi mốt biến: Tát da tha, săm mê,
vi săm mê, soa ha; su ga tê, vi ga tê, soa ha. Vi ga ta, va ti, soa ha; Sà ga ra săm
bút đa da, soa ha; si kăn đa, ma ta da, soa ha; ni la kăn ta da, soa ha; a pa ra ji
ta, via da da, soa ha; hi ma van ta da, soa ha; a ni mi la vát ta da, soa ha; nam mô, ba
ga va tê, Brắt, ma ni, soa ha; nam mô, Sa rát va ti, ma ha, đev dê, soa ha; sít dăn
tu, măm, măn tra pa đa, soa ha; đa ra ta, va chi tô, Brắt ma nu, ma nô ra, soa ha.
(Tadyatha samme visamme svaha; sugate vigate svaha. Vigata vati svaha; Sagarasambudhaya
svaha; skanda mataya svaha; nilakantaya svaha; aparajita viryaya svaha; himavantaya svaha;
animilavaktaya svaha; namo bhagavate Brah mani svaha; namo Sarasvati maha devye svaha;
siddyantu mam mantrapada svaha ; dharata vacito Brahmanu manora svaha).
Đại biện tài thiên nữ nói về
cách tắm, về đàn tràng, và về minh chú rồi, bước tới lạy ngang chân
đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong bốn bộ đệ tử đức
Thế tôn có ai thọ trì đọc tụng sao chép lưu hành bản kinh vua nhiệm mầu
này và tu hành đúng như kinh dạy, thì ở thành thị, thôn xóm, đồng nội,
núi rừng, trú xứ tăng ni, bất cứ ở đâu con cũng vì họ mà đem tùy thuộc,
tấu thiên nhạc, cùng đến chỗ ấy mà hộ vệ, loại trừ bịnh khổ, sao
sa, quái tượng, truyền nhiễm, chinh chiến, tù đày, ác mộng, ác thần, cổ
đạo, thuật ếm, những chướng nạn như vậy đều bị trấn áp mà ích lợi
cho người trì kinh. Chúng con lại giúp cho bốn đệ tử đức Thế tôn, và
những người lắng nghe kinh này, ai cũng mau chóng vượt qua biển cả sinh tử,
không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề.
Bấy giờ đức Thế tôn nghe Đại
biện tài thiên nữ trình bày như vậy thì khen rằng, lành thay thiên nữ,
thiên nữ có thể lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh, bằng cách nói về minh
chú, về nước thơm và đàn tràng như vậy. Phước báo của thiên nữ thật
khó nghĩ thấu. Thiên nữ nên hộ trì bản kinh vua tối thượng, đừng để
mai một mà được lưu hành mãi. Đại biện tài thiên nữ, lúc ấy, lạy
ngang chân đức Thế tôn rồi trở về chỗ cũ.
Bấy giờ vị Bà la môn họ Kiều
trần như, tên Pháp sư thọ ký, vâng theo uy lực của đức Thế tôn, đứng
trước đại hội mà tán dương Đại biện tài thiên nữ.
- (12) Biện tài thiên nữ
- thông minh tinh tiến,
- người trời hiến cúng
- đáng nên tiếp nhận,
- danh vang thế giới
- tràn khắp mọi nơi,
- ban cho ước nguyện
- của bao chúng sinh.
- (13) Trên đỉnh núi cao
- nơi rất siêu việt,
- lợp tranh làm phòng
- mà ở trong đó,
- bện những cỏ mềm
- mà làm áo mặc,
- bất cứ ở đâu
- thường kiễng một chân.
- (14) Vậy mà chư thiên
- thường đến tụ tập
- cùng nhau một lòng
- tán dương thỉnh cầu.
- Kính xin thiên nữ
- bậc đại hùng biện,
- hãy cho mọi người
- lời tiếng vi diệu.
Đại biện tài thiên nữ liền chấp
nhận thỉnh cầu mà tuyên thuyết minh chú sau đây: Tát da tha, mi ri, chi ô
rê, a va tê, a va jê va ti, hin gu lê, min gu lê, pin ga lê va ti, ăn khu sa, ma ri
chi dê, sặm ma ti, vi sặm ma ti, a gra ti, mắc khi dê, ta ra chi, ta ra chi va ti,
chia si, chi ri, si ri mi ri, ma nan đi, đa ma khê, ma ri chi dê, pra na pa ri dê,
lô ka ji dết tha, lô ka, si nết thi, lô ka via dê, sít đa, pa ra tê, bi ma mu
khi, su chi cha ri, a pra ti ha tê, a pra ti ha ta bút đi, na mút chi, na mu chi, ma
ha đếp dê, pra ti, gra ha, na mát ka ra, ma ma, bút đi, đa sa hi, bút đi, a pra
ti ha ta, ba va tu, si ra ha mê, vi sút đa, chi tô, sát tra si lô ka, măn tra, pi
ta ka, ka pi da đi sô, tát da tha, ma ha pra ba va, hi li, mi li, vi cha ra tu, vi bút
đi, ma ma, bút đi, sút đi, ba ga vát ti dê, đê vê dăm, Sa rát va tim, ka ra
ti, kê du ra ma ti, hi ri, mi ri, hi ri, mi ri, a ba da, mê, ma ha đê vi, bút đa, sát
dê na, đa ma, sát dê na, săn ga, sát dê na, In dra, sát dê na, Va ru na, sát dê
na, dê lô ki dê sát da, sát dê na, tê săm, sát dê na, sát da va cha ni da, a ba
da, mê, ma ha đê vi, hi li, mi li, hi li, mi li, vi cha ra tu, ma ma, bút đi, nô,
nam mô, ba ga va ti, ma ha đê vê, Sa rát va ti da, sít đi dăn tu, măn tra, pa
đa, mê, soa ha. (Tadyatha miri cyore avate avajevati hingule mingule pingalevati ankhusa
maricye sammati visammati agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri sirimiri manandhi
damakhe maricye pranaparye lokajyestha loka snesthi lokavirye siddha parate bhimamukhi
sucicari apratihate apratihatabuddhi namuci namuci mahadevye prati graha namaskara mama
buddhi darsahi buddhi apratihata bhavatu sirahame visuddha cito sastrasloka mantra pitaka
kapiyadiso tadyatha mahaprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi suddhi bhagavatye
deveyam Sarasvatim karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahadevi buddha satyena
dharma satyena sangha satyena Indra satyena Varuna satyena yelokyesatya satyena tesam
satyena satyavacaniya abhaya me mahadevi hili mili hili mili vicaratu mama buddhi no namo
bhagavati mahadeve Sarasvatya siddhiyantu mantra pada me svaha).
Đại biện tài thiên nữ tuyên thuyết
minh chú như vậy rồi, nói với Bà la môn, rằng lành thay đại nhân, ông
có thể vì những người cầu sự hùng biện nhiệm mầu, cầu châu ngọc,
cầu thần thông trí tuệ, để lợi ích tất cả và mau chứng bồ đề, thì
nên biết cách thức thọ trì minh chú nói trên. Đại biện tài thiên nữ tức
thì nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (15) Trì minh chú này
- trước phải thuộc lòng
- sao cho thuần thục
- không sai không sót.
- Kế đó qui kính
- Tam bảo chư thiên,
- cầu xin da trì
- ước nguyện tùy tâm.
- (16) Kính lạy Phật bảo
- cùng với Pháp bảo
- Tăng bảo Bồ tát
- Độc giác Thanh văn,
- kế lạy Phạn vương
- cùng với Đế thích
- bốn vị Thiên vương
- hộ vệ thế giới.
- (17) Đối với những vị
- thường tu phạn hạnh,
- thì hết lòng thành
- thiết tha kính lạy.
- Hãy ở lan nhã
- yên tĩnh yên ổn
- mà tụng lớn tiếng
- minh chú nói trên.
- (18) Trước tượng Thế tôn
- và trước thiên long,
- tùy mình có gì
- thì đem hiến cúng.
- Đối với hết thảy
- bao loại chúng sinh
- tâm hãy nổi dậy
- từ bi thương cảm.
- (19) Thế tôn tướng tốt
- thân màu vàng tía,
- tập trung tâm tưởng
- vào tướng tốt ấy.
- Thế tôn da trì
- tuyên thuyết giáo pháp
- cho người thích hợp
- tu tập thiền định.
- (20) Khéo nghĩ chữ nghĩa
- của giáo pháp ấy,
- lại theo nghĩa Không
- tu tập chính xác.
- Hãy ngồi ở trước
- hình tượng Thế tôn
- nhất tâm chánh niệm
- về giáo pháp Ngài.
- (21) Thế thì thực hiện
- Diệu trí tam muội,
- lại còn thực hiện
- tổng trì tối thắng.
- Miệng vàng Thế tôn
- tuyên thuyết giáo pháp,
- tiếng mầu thuần hóa
- chư thiên nhân loại.
- (22) Tướng lưỡi tùy cơ
- biểu hiện hiếm có
- rộng dài bao trùm
- đại thiên thế giới ;
- tiếng mầu lưỡi ấy
- của đức Thế tôn
- chí thành nhớ lấy
- lòng không nghi ngại.
- (23) Thế tôn do sự
- phát nguyện rộng lớn,
- nên được tướng lưỡi
- bất khả tư nghị,
- tuyên thuyết các pháp
- toàn là phi hữu,
- tựa như không gian
- không có vướng mắc.
- (24) Â thanh, trường thiệt
- của đức Thế tôn,
- tư duy hai tướng
- thì thỏa nguyện cầu.
- Thấy ai hiến cúng
- Đại biện thiên nữ,
- hoặc thấy đệ tử
- theo lời thầy dạy,
- (25) truyền cho mật pháp
- bảo nên tu học,
- trân trọng thiết tha
- nguyện gì cũng thành.
- Muốn thực hiện được
- trí giác tối thượng,
- thì phải nhất tâm
- trì mật pháp ấy.
- (26) Tăng trưởng tư lương
- phước đức trí tuệ,
- quyết định thành tựu
- đừng có nghi hoặc;
- cầu mong tài sản
- được lắm tài sản,
- cầu mong danh vọng
- được danh vọng tốt.
- (27) Cầu nguyện giải thoát
- thì được giải thoát,
- quyết định thành tựu
- đừng có nghi hoặc.
- Thành tựu công đức
- vô lượng vô biên,
- toàn đúng ước nguyện
- nội tâm người cầu.
- (28) Nếu có khả năng
- y thế tu hành
- thì được thành tựu
- đừng có nghi hoặc.
- (29) Nên chọn chỗ sạch
- và mặc đồ sạch,
- mà làm đàn tràng
- lớn nhỏ tùy ý.
- Dùng bốn bình sạch
- mà đựng mĩ vị,
- cùng với hương hoa
- hiến cúng tùy lúc.
- (30) Giăng treo lụa màu
- tràng phan bảo cái,
- bôi rải khắp cả
- bằng bột hương liệu,
- hiến cúng Thế tôn
- và Biện tài thiên,
- cầu thấy thiên thân
- cũng được toại nguyện.
- (31) Hai mươi mốt ngày
- tụng minh chú trên,
- bằng cách đối trước
- tượng Biện tài thiên.
- Nếu chưa thấy được
- thân Biện tài thiên,
- thì nên dụng tâm
- thêm chín ngày nữa.
- (32) Mà nửa đêm sau
- vẫn chưa thấy được,
- thì nên tìm chỗ
- thanh tịnh đẹp hơn,
- rồi vẽ đúng cách
- tượng Biện tài thiên,
- hiến cúng trì tụng
- chứ không xả bỏ.
- (33) Cả ngày liền đêm
- không hề biếng nhác,
- sẽ được vô cùng
- tự lợi lợi tha.
- Đem kết quả ấy
- hồi hướng chúng sinh,
- thì cầu nguyện gì
- cũng thành tựu cả.
- (34) Nếu chưa toại ý
- thì phải ba tháng,
- sáu tháng chín tháng
- cho đến một năm,
- thiết tha thỉnh cầu
- lòng không dao động,
- thì được thiên nhãn
- được tha tâm thông.
Bà la môn Kiều trần như nghe Đại
biện tài thiên nữ nói như vậy thì hoan hỷ, phấn chấn, khen chưa từng có.
Ông thưa đại hội mà nói như vầy, tất cả đại hội nhân loại chư thiên
nên biết và nghe cho, tôi lại muốn theo phép thế đế mà tán dương Đại
biện tài thiên nữ. Ông liền nói những chỉnh cú sau đây.
- (35) Kính lạy Thiên nữ
- bậc đại dũng mãnh
- và đại tự tại
- trong thế giới này;
- nay tôi tán dương
- bậc tôn cao ấy,
- với lời tựa như
- lời tiên nhân xưa.
- (36) Cát tường hoàn thiện
- tâm trí thanh thoát,
- thông minh tàm quí
- có danh tiếng lớn.
- Là bậc mẹ sinh
- của cả thế giới,
- dũng mãnh thường hành
- sự đại tinh tiến.
- (37) Ở trong quân trận
- chiến đấu thường thắng,
- giáo dục thuần hóa
- từ bi nhẫn nhục.
- Hiện làm chị cả
- của Diêm la vương,
- mà thường mặc áo
- kén tằm hoang xanh.
- (38) Dung nhan khi đẹp
- khi thì xấu xí,
- xấu thì mắt nhìn
- đã làm khiếp sợ.
- Nhiều việc đặc thù
- vượt trên thế giới,
- những ai tin tưởng
- thì thu nhận cả.
- (39) Hoặc ở hang núi
- chỗ sâu và hiểm,
- hoặc ở hầm sâu
- hay ở bên sông,
- hoặc ở đại thụ
- hay ở lùm cây,
- Thiên nữ phần nhiều
- cư trú như vậy.
- (40) Giả sử những người
- rừng núi hoang dã,
- mà thường hiến cúng
- đối với Thiên nữ,
- lấy những lông công
- mà làm phan cờ,
- thì cũng thường được
- Thiên nữ hộ trì.
- (41) Sư tử cọp beo
- thường thường vây quanh,
- bò dê gà trĩ
- cũng thường nương tựa.
- Rung cái linh lớn
- âm thanh phát ra,
- chúng núi Tân đà
- cũng nghe âm vang.
- (42) Hoặc cầm cái kích,
- đầu tóc búi tròn,
- và tay thường cầm
- tinh kỳ nhật nguyệt.
- Ngày chín, mười một
- của tháng trăng tối (72)
- lúc ấy thì nên
- hiến cúng Thiên nữ.
- (43) Hiện làm em gái
- Bà tô đại thiên,
- thấy có chiến tranh
- lòng đầy thương xót.
- Quan sát tất cả
- bao loại chúng sinh,
- thấy không có ai
- hơn được Thiên nữ.
- (44) Lại hiện nữ nhân
- Mục ngưu hoan hỷ,
- chiến với chư thiên
- thường thường đắc thắng.
- Có thể sống lâu
- ở trong cuộc đời,
- khi thì hòa nhẫn
- khi thì bạo ác.
- (45) Bốn loại minh luận
- của Bà la môn,
- trong có biến hóa,
- đều tinh thông cả.
- Là tự tại nhất
- trong chúng thiên tiên,
- tạo ra hạt giống
- cùng với đất đai.
- (46) Khi các thiên nữ
- tụ tập với nhau,
- Thiên nữ ứng đến
- y như thủy triều (73) .
- Với các bộ loại
- long thần dược xoa,
- thì làm cầm đầu
- thuần hóa được cả.
- (47) Phạn hạnh Thiên nữ
- hơn mọi nữ nhân.
- Nói thật, y như
- chúa tể thế giới.
- Trong giới vua chúa
- thì như hoa sen.
- Sông mê bến khổ
- thì làm cầu, thuyền.
- (48) Khuôn mặt thì giống
- mặt trăng tròn đầy.
- Đa văn toàn hảo
- là nơi nương tựa.
- Hùng biện nổi bật
- in như núi cao.
- Ai tưởng niệm đến
- thì làm cồn, bãi (74) .
- (49) Bộ loại tu la
- cùng với chư thiên,
- ai cũng tán dương
- công đức Thiên nữ.
- Ngay như Đế thích
- với cả ngàn mắt,
- cũng nhìn với lòng
- kính trọng nồng hậu.
- (50) Chúng sinh nếu có
- mong cầu những gì,
- thì làm cho họ
- thành đạt mau chóng.
- Giúp kẻ hùng biện
- toàn hảo nghe nhớ.
- Là kẻ hơn hết
- giữ cho địa cầu.
- (51) Ở trong thế giới
- khắp cả mười phương,
- làm ánh đèn lớn
- chiếu soi thường xuyên.
- Cho đến quỉ thần
- cùng với cầm thú
- cũng toại nguyện cho
- những gì chúng cầu.
- (52) Trong mọi nữ nhân,
- như đỉnh núi cao.
- Sống lâu ở đời
- như tiên nhân xưa.
- Thường xuyên ly dục
- như Thiếu nữ thiên.
- Lời nói chân thành
- như Đại thế chúa.
- (53) Nhìn khắp thế giới
- chủng loại khác nhau,
- cho đến chư thiên
- của cả Dục giới,
- chỉ thấy Thiên nữ
- đáng xưng tôn quí,
- không thấy có ai
- hơn được Thiên nữ.
- (54) Những ai kinh hoàng
- ở trong chiến trận,
- những ai sa vào
- ở trong hố lửa,
- sông ngòi hiểm nạn
- và gặp đạo tặc,
- thì được làm cho
- hết cả sợ hãi.
- (55) Ai bị phép vua
- bắt bớ cùm kẹp,
- ai bị oán thù
- muốn giết muốn hại,
- mà nhớ Thiên nữ
- lòng không dao động,
- quyết định thoát được
- mọi nỗi lo sợ.
- (56) Người hiền kẻ dữ
- đều giúp đỡ cả,
- ý niệm từ bi
- thường ở trước mắt.
- Thế nên nay tôi
- đem lòng chân thành
- kính lạy ngưỡng vọng
- Đại biện thiên nữ.
Bà la môn, lúc ấy, lại chú tán
(75) Đại biện tài thiên nữ như sau:
- (57) Tôi kính lạy bậc
- tôn quí trong đời,
- là mẹ hơn hết
- tất cả bà mẹ.
- Ba loại thế giới (76)
- đều hiến cúng cả.
- Mặt và dáng dấp
- ai cũng thích nhìn.
- (58) Diệu đức đa dạng
- trang sức thân thể.
- Mắt như cánh sen
- xanh mà lớn dài.
- Ánh sáng phước trí
- nổi tiếng khắp nơi,
- tựa như ngọc quí
- như ý vô giá.
- (59) Tôi nay ca tụng
- một bậc siêu việt,
- bậc làm thành tựu
- cho sự mong cầu,
- bậc diệu cát tường
- chân thật công đức,
- bậc như hoa sen
- rất ư thanh khiết.
- (60) Thân sắc uy nghiêm
- ai cũng thích nhìn.
- Tướng tốt hiếm có
- không thể nghĩ bàn.
- Phóng ra ánh sáng
- trí tuệ trong sạch.
- Ý niệm hơn hết
- trong mọi ý niệm.
- (61) Ví như sư tử
- nhất trong loài thú,
- thường có tám tay
- tự trang hoàng mình:
- cầm cung, cầm tên
- cầm đao, giáo, búa,
- chày, bánh xe sắt,
- cùng với dây buộc.
- (62) Đẹp đẽ thích nhìn
- tựa như trăng tròn.
- Nói năng thông suốt
- mà lại hòa nhã.
- Những ai trong lòng
- cầu nguyện những gì,
- bậc Thiện sĩ này
- tùy niệm thỏa mãn.
- (63) Đế thích, chư thiên
- đều kính trọng cả,
- đều cùng tán dương
- là nơi nương tựa.
- Công đức xuất sinh
- thật khó nghĩ bàn,
- trong mọi thì gian
- tôi khởi cung kính
- Soa ha (svaha) (77) .
- (64) Ai muốn cầu đảo
- Đại biện thiên nữ,
- hãy y lời chữ
- bài chú tán này,
- hôm sớm tinh khiết
- chí thành mà tụng,
- thì điều cầu nguyện
- ứng nghiệm tùy tâm.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Bà la
môn, lành thay, ông có thể lợi ích chúng sinh như vậy, ban cho họ yên vui,
bằng cách tán dương Đại biện tài thiên nữ, thỉnh cầu da hộ, được
phước vô biên (78) .
Phẩm
15/2: Đại Biện Thiên Nữ [^]
Bà la môn Kiều trần như nói những
chỉnh cú tán dương và chú tán Đại biện tài thiên nữ rồi, lại nói với
đại hội, thưa các vị, nếu muốn thỉnh cầu Đại biện tài thiên nữ từ
mẫn da hộ, để hiện tại được hùng biện vô ngại, đại trí thông
minh, ngôn ngữ tuyệt diệu, bác học kỳ tài, thảo luận văn hoa, tùy ý
hoàn thành mà không ngưng trệ, thì nên làm như thế này. Trước hết chí
thành thiết tha mà triệu thỉnh
- Nam mô Phật đà da,
- Nam mô Đạt ma da,
- Nam mô Tăng dà da,
- Kính lạy chư vị Bồ tát,
- Kính lạy chư vị Độc giác,
- Kính lạy chư vị Thanh văn,
- Kính lạy chư vị Hiền thánh.
Chư vị Thế tôn quá khứ hiện tại
đã tập lời nói chân thật, lời nói tùy thuận, lời nói hợp thời cơ,
lời nói không lừa dối. Chư vị Thế tôn trong vô lượng đại kiếp thường
xuyên nói chắc chắn. Nói chắc chắn thì ai cũng tùy hỷ. Vì không vọng
ngữ nên quảng trường thiệt tướng xuất ra thì khắp cả khuôn mặt, khắp
cả đại lục Thiệm bộ và ba đại lục khác, khắp một ngàn cho đến ba
ngàn thế giới, khắp mười phương thế giới, phủ khắp tất cả một cách
bất khả tư nghị, loại trừ nhiệt lực cao độ của phiền não. Kính lạy
kính lạy quảng trường thiệt tướng như vậy của chư vị Thế tôn, nguyện
con thành tựu hùng biện nhiệm mầu. Con xin chí tâm kính lạy
- (65) Kính lạy sự hùng biện
- của chư vị Thế tôn.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chư vị Bồ tát.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chư vị Độc giác.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chư vị Thanh văn.
- (66) Kính lạy sự hùng biện
- của tiếng nói tứ đế.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chánh hành chánh kiến.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Phạn thiên, chư tiên.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Ô ma đại thiên.
- (67) Kính lạy sự hùng biện
- của Tắc kiến đà thiên.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Ma na tư vương.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Thông minh dạ thiên.
- Kính lạy sự hùng biện
- của bốn Đại thiên vương.
- (68) Kính lạy sự hùng biện
- của Thiện trú thiên tử.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Kim cang mật chủ.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Phệ sốt nộ thiên.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Tì ma thiên nữ.
- (69) Kính lạy sự hùng biện
- của Thị số thiên thần.
- Kính lạy sự hùng biện
- của Thất thị mạt đa.
- Kính lạy sự hùng biện
- của lời tiếng Hê lị.
- (70) Kính lạy sự hùng biện
- của Mẹ lớn các mẹ.
- Kính lạy sự hùng biện
- quỉ mẫu Ha rị để.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chư thần Dược xoa.
- Kính lạy sự hùng biện
- của chư vương mười phương(79) .
- (71) Có bao nhiêu thắng nghiệp
- xin giúp đỡ cho con,
- làm cho con thực hiện
- sự hùng biện nhiệm mầu.
- (72) Con xin kính lạy
- bậc không dối trá.
- Con xin kính lạy
- bậc đã giải thoát.
- Con xin kính lạy
- bậc đã ly dục.
- Con xin kính lạy
- bậc hết triền cái (80) .
- (73) Con xin kính lạy
- bậc tâm thanh tịnh.
- Con xin kính lạy
- bậc đầy ánh sáng.
- Con xin kính lạy
- bậc nói chân thật.
- Con xin kính lạy
- bậc hết trần tập (81) .
- (74) Con xin kính lạy
- bậc ở thắng nghĩa.
- Con xin kính lạy
- bậc đại chúng sinh.
- Con xin kính lạy
- Đại biện thiên nữ,
- hãy làm cho con
- lời tiếng vô ngại.
- (75) Cầu cho cái điều
- con nguyện cầu đây
- mau chóng thành đạt
- một cách toàn hảo.
- Cầu con vô bịnh,
- cầu con yên ổn,
- cầu con thọ lượng
- được kéo dài ra,
- (76) cầu con thể hội
- các lời minh chú,
- cầu con siêng tu
- các pháp giác phần,
- cầu con lợi lạc
- cho bao chúng sinh,
- cầu con sớm toại
- tâm nguyện như trên.
- (77) Con nói những lời
- chân thành chắc thật,
- con nói những lời
- không hề dối trá;
- cầu sự hùng biện
- của Đại thiên nữ
- giúp đỡ cho con
- được thành đạt cả.
- (78) Cầu nguyện Thiên nữ
- ứng đến chỗ con,
- làm con nói năng
- không bị ngưng trệ,
- đưa vào mau chóng
- trong thân miệng con
- sự đại thông minh
- hùng biện toàn hảo.
- (79) Cầu nguyện làm cho
- cái lưỡi của con
- sẽ được hùng biện
- giống đức Thế tôn,
- và do uy lực
- của hùng biện ấy
- mà con thuần hóa
- cho bao chúng sinh.
- (80) Lúc con xuất ra
- lời tiếng hùng biện,
- thì tùy sự việc
- được thành tựu cả;
- bởi vì người nghe
- sinh ra kính trọng,
- nên nói và làm
- không vô hiệu quả.
- (81) Nếu con cầu nguyện
- về sự hùng biện
- mà sự thể ấy
- không được hiệu nghiệm,
- thì lời chắc thật
- Thiên nữ đã nói
- sẽ toàn thành ra
- hư vọng tất cả.
- (82) Có kẻ đã làm
- năm tội vô gián,
- mà lời Thế tôn
- làm họ thuần hóa.
- Lại như các bậc
- thánh giả La hán
- nói ra những lời
- báo đáp ân huệ.
- (83) Và lời các ngài
- Thu tử, Mục liên,
- đứng đầu thánh chúng
- đệ tử Thế tôn.
- Tất cả lời nói
- chân thật trên đây,
- nguyện cầu cho con
- cũng được như vậy.
- (84) Nay con chí thành
- triệu thỉnh các bậc
- thánh chúng Thanh văn
- của đức Thế tôn,
- nguyện xin các ngài
- mau đến chỗ con,
- tác thành cho con
- lời nguyện cầu này.
- (85) Lời cầu của con
- là lời chân thật,
- lời nguyện của con
- là không hư dối.
- Trên từ chư thiên
- của Sắc cứu cánh,
- cùng với thánh giả
- năm nơi Tịnh cư;
- (86) chư vị Phạn vương
- chư thiên Phạn phụ
- cùng với tất cả
- chư thiên Phạn chúng;
- và Đại phạn vương
- chúa tể tự phong
- của cả đại thiên
- thế giới Sách ha,
- (87) cùng với tất cả
- chư thiên tùy thuộc;
- giờ này con xin
- triệu thỉnh tất cả,
- ước nguyện tất cả
- rủ lòng từ mẫn,
- thương tưởng đến con
- mà cùng nhiếp thọ.
- (88) Tha hóa tự tại,
- Lạc biến hóa thiên,
- Đỗ sư đa thiên
- nơi có Từ tôn;
- (89) chư thiên Dạ ma,
- chư thiên Đao lợi,
- cùng với chư thiên
- nơi bốn Thiên vương;
- (90) tất cả chư thần
- đất nước lửa gió
- ở núi Diệu cao
- tất cả chư thần
- bảy lớp biển cả
- bảy lớp núi lớn,
- cùng với bao nhiêu
- tùy thuộc của họ;
- (91) Mãn tài, Ngũ đỉnh (82) ,
- nhật nguyệt tinh tú,
- tất cả chư thiên
- có cái tâm nguyện
- làm cho thế giới
- nhân loại yên ổn;
- (92) chư thiên chư thần
- không thích tạo tội;
- quỉ mẫu cùng với
- đứa con nhỏ nhất;
- (93) lại còn tất cả
- tám bộ thiên long.
- (94) Nay con dựa vào
- uy lực Thế tôn
- mà triệu thỉnh cả,
- nguyện xin từ mẫn
- mà giúp cho con
- hùng biện vô ngại.
- (95) Tất cả nhân loại
- cùng với chư thiên
- những vị biết được
- tâm nguyện của người,
- nguyện đem thần lực
- gia hộ cho con,
- giúp con có được
- hùng biện nhiệm mầu.
- (96) Cho đến nguyện cầu
- hết thảy chúng sinh
- cùng tận không gian
- khắp cả pháp giới,
- giúp con có được
- hùng biện nhiệm mầu.
Đại biện tài thiên nữ, bấy giờ,
nghe lời nguyện cầu như vậy, thì nói với Bà la môn, rằng lành thay, đại
nhân! Nếu thiện nam hay thiện nữ nào có thể y theo minh chú và chú tán như
trước đã nói mà thọ trì đúng cách, qui kính Tam bảo, chí thành chánh niệm,
thì mọi sự cầu nguyện đều không vô hiệu. Những người ấy nếu còn
thọ trì đọc tụng bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này, thì mọi sở
nguyện càng không vô hiệu, thành đạt mau chóng, trừ kẻ không có chí
tâm. Bấy giờ Bà la môn, từ trong tâm trí sâu xa, rất là hoan hỷ, chắp
tay thành kính mà vâng lời.
Đức Thế tôn bảo Đại biện tài
thiên nữ, rằng lành thay, thiện nữ! Thiện nữ có thể quảng bá kinh này
như vậy, hộ vệ cho những người thọ trì kinh này, và lợi ích cho chúng
sinh an lạc.
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết
pháp thoại này, [kết thúc rằng] ban cho hùng biện thì bất khả tư nghị,
phước được vô lượng, làm cho những người phát tâm cùng đi mau đến
vô thượng bồ đề.
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn
Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm
này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ
3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
|
|