...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
- (Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
- bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
6
Phẩm
25: Truyện Của Lưu Thủy [^]
Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ
thần, thiện nữ, xưa kia, trưởng giả tử Lưu thủy chữa cho bao nhiêu bịnh
nhân trong vương quốc của quốc vương Thiên tự tại quang, làm cho ai cũng
bình phục, yên vui. Bấy giờ vì hết bịnh nên con người làm nhiều phước
nghiệp, làm rộng huệ thí, và tự lấy thế làm vui. Họ cùng đến chỗ
trưởng giả tử. Ai cũng tôn kính mà thưa, lành thay đại trưởng giả tử!
Ngài khéo làm tươi tốt và lớn lên những sự phước đức. Ngài đem thêm
sự yên ổn và sống lâu cho chúng tôi. Ngài thật là thầy thuốc vĩ đại,
là bồ tát từ bi, giỏi y học và chữa bịnh. Khen như vậy khắp cả thành
thị thôn xóm.
Thiện nữ, trưởng giả tử có vợ
tên Thủy kiên tạng, có hai người con, một tên Thủy mãn, một tên Thủy
tạng. Trưởng giả tử đem hai con du hành, qua khu chằm trống, chỗ sâu hiểm,
thấy những cầm thú ăn thịt đều bay và chạy theo một hướng. Ông nghĩ
tại sao những cầm thú này bay chạy về một phía? Ta nên đi theo coi. Ông
tức khắc đi theo, thấy nơi hồ lớn, hồ Dã sinh, nước sắp cạn hết.
Trong hồ có nhiều cá. Thấy vậy nên ông sinh tâm đại bi. Bấy giờ có một
thọ thần hiện ra nửa mình, nói lành thay thiện nam tử. Ông có phải là
người thật tên Lưu thủy thì hãy thương hồ cá này mà cho chúng nước.
Lưu thủy là cái tên có hai lý do, một là làm nước chảy, hai là đem cho
nước. Ông nên làm theo tên mình. Trưởng giả tử Lưu thủy hỏi thọ thần,
hồ cá này có mấy con? Thọ thần nói, đúng mười ngàn. Thiện nữ, Ông
nghe con số ấy thì càng thương. Hồ lại bị phơi nắng, nước còn không
bao nhiêu. Mười ngàn cá sắp chết, xoay trở lội chậm, thấy trưởng giả
tử thì như có hy vọng, nhìn theo không rời. Ông thấy vậy, chạy khắp bốn
phía kiếm nước mà không có. Trông qua một bên thấy có đại thọ, tức
thì trèo lên bẻ nhánh lá mà làm bóng mát. Rồi đi tìm xuất xứ của nước
hồ này. Thì thấy đó là con sông lớn tên Thủy sinh. Bấy giờ bờ sông
có những ngư dân, vì bắt cá nên tìm chỗ hiểm của thượng lưu sông ấy,
xoi nước [cho chảy qua chỗ khác] mà không cho chảy xuống. Chỗ họ xoi thật
khó đắp lại cho chóng. Ông nghĩ, chỗ này sâu hiểm, cả trăm cả ngàn người,
mất vài ba tháng, cũng chưa lấp được, huống chi mình ta. Trưởng giả tử
tức tốc trở về hoàng thành mình ở, đến chỗ quốc vương, đem cả đầu
mặt lạy ngang chân, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính mà tâu, hạ
dân đã chữa bịnh cho cả quốc dân, làm cho ai cũng lành mạnh. Vừa rồi
hạ dân du hành đến khu chằm trống, thấy hồ Dã sinh sắp khô nước. Mười
ngàn cá trong đó bị phơi nắng, sắp chết. Kính xin đại vương thương mà
cho hai mươi con voi lớn, tạm chở nước tới cứu mạng chúng -- như hạ dân
đã đem sự sống lại cho bao bịnh nhân. Quốc vương nghe vậy, tức tốc hạ
lịnh cho đại thần, rằng đem ngay voi lớn cấp cho ông vua thầy thuốc
này. Đại thần tuân lịnh, thưa trưởng giả tử, lành thay đại sĩ, ngài
nên tự theo đến chuồng voi mà tùy ý chọn lấy hai mươi con lớn để lợi
ích chúng sinh. Trưởng giả tử, với hai người con, dẫn hai mươi con voi lớn,
với bao da đã mượn, đến ngay chỗ nước bị xoi, đem bao da chứa nước
cho voi mang về hồ Dã sinh mà đổ. Và nước lại đầy như cũ.
Thiện nữ, trưởng giả tử lúc
ấy đi ven theo bốn phía bờ hồ mà nhìn, thấy đám cá cũng theo bờ hồ mà
lội. Ông nghĩ, đám cá tại sao cứ lội theo ta? Tất chúng đói nên theo ta
kiếm ăn đây. Ta nên cho chúng. Ông bảo hai con, hãy đem con voi mạnh nhất,
chạy mau về nhà, thưa với ông nội, trong nhà có gì ăn được, kể cả
phần ăn của ông bà, của mẹ con các con, của tôi tớ, đều gom lại chở
đến đây. Theo lời cha bảo, hai người con cỡi voi mạnh nhất, chạy về
thưa chuyện với ông nội, thu gom những gì ăn được đặt trên lưng voi,
đi mau trở lại chỗ cha đang chờ bên hồ. Ông thấy con trở lại thì cả
thân ông và tâm ông đều mừng rỡ, đem đồ ăn vãi khắp trong hồ.
Thiện nữ, đám cá ăn no rồi, ông
lại nghĩ, ngày nay ta cho đám cá này thực phẩm, nguyện đời sau ta cho đám
cá này pháp thực. Lại nghĩ, ngày trước, nơi khu rừng trống vắng, ta đã
thấy một vị Bí sô đọc tụng kinh đại thừa, nói về cái pháp sâu xa
là mười hai duyên khởi. Kinh ấy lại nói, chúng sinh sắp chết mà nghe
danh hiêểu đức Bảo kế như lai thì được sinh chư thiên. Ta nay nên vì mười
ngàn cá này mà nói mười hai duyên khởi sâu xa, lại niệm cho chúng hồng
danh đức Bảo kế như lai. Nhưng người đại lục Thiệm bộ có hai loại,
có loại thâm tín đại thừa, có loại phỉ báng không tin. Ta cũng nên
phát sinh và tăng trưởng tín tâm cho loại này. Ông nghĩ ta nên vào trong hồ
nói diệu pháp cho đám cá. Nghĩ rồi, ông bước xuống nước, xướng lớn:
Kính lạy đức Bảo kế như lai đã nhập niết bàn, bậc Đến như chư Phật,
bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự
sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa,
bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác
hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Đức Bảo kế như lai, xưa kia, khi làm
việc làm bồ tát, có lời nguyện như vầy: mười phương quốc độ, bao
nhiêu chúng sinh có ai sắp chết mà nghe được danh hiệu của Như lai, thì
chết rồi được sinh Đao lợi. Trưởng giả tử lại nói diệu pháp cho đám
cá. Diệu pháp ấy là sự thể này có thì có sự thể kia, sự thể này
sinh thì sinh sự thể kia, đó là vô minh sinh nên sinh hành, cho đến sinh
sinh nên sinh già bịnh chết; sự thể này không thì không sự thể kia, sự
thể này diệt thì diệt sự thể kia, đó là vô minh diệt nên diệt hành,
cho đến sinh diệt nên diệt già bịnh chết. Và thế là cái khối đau khổ
thuần túy và cùng cực hủy diệt tất cả. Trưởng giả tử nói diệu
pháp này rồi, lại nói minh chú thích ứng với mười hai duyên khởi: Tát
da tha, vi cha ni, vi cha ni, vi cha ni, săm sơ cha ni, săm sơ cha ni, săm sơ cha
ni, bi si ni, bi si ni, bi si ni, soa ha; tát da tha, na mi ni, na mi ni, na mi ni, soa
ha; sa ti ni, sa ti ni, sa ti ni, soa ha; si pri sa ni, si pri sa ni, si pri sa ni, soa
ha; tát da tha, vê đa ni, vê đa ni, vê đa ni, soa ha; tri si ni, tri si ni, tri si
ni, u pa đi ni, u pa đi ni, u pa đi ni, soa ha; tát da tha, ba vi ni, ba vi ni, ba vi
ni, soa ha; tát da tha, ja ti ni, ja ti ni, ja ti ni, soa ha; jăm ma ni ni, jăm ma ni
ni, jăm ma ni ni, soa ha. (Tadyatha vicani vicani vicani samscani samscani samscani
bhisini bhisini bhisini svaha, tadyatha namini namini namini svaha, satini satini satini
svaha, sprsani sprsani sprsani svaha, tadyatha vedani vedani vedani svaha, trsni trsni
trsni upadhini upadhini upadhini svaha, tadyatha bhavini bhavini bhavini svaha, tadyatha
jatini jatini jatini svaha, jammanini jammanini jammanini svaha).
Bấy giờ, khi đức Thế tôn nói
cho đại hội truyện xưa của trưởng giả tử Lưu thủy, thì bộ chúng
nhân loại và bộ chúng chư thiên đều than là sự chưa từng có. Bốn vị
Thiên vương cùng ở nơi chỗ họ ngồi, khác miệng cùng tiếng mà nói như
vầy:
- (1) Lành thay đức Thích tôn!
- nói minh chú diệu pháp,
- sinh phước và diệt tội,
- thích ứng mười hai chi.
- (2) Chúng con cũng nói chú
- hộ trì diệu pháp ấy.
- Ai chống đối trái nghịch
- không khéo tùy thuận theo,
- (3) thì đầu vỡ làm bảy
- tựa như ngọn lan hương.
- Đối trước đức Thế tôn
- chúng con nói minh chú:
Tát da tha, hi ri ni, ga tê, găn đa
ri, chăn đa ni, đi ri, jăm va rê, si hi ba rê, pu rê, pu rê, gu gu ma ti, khi ra
ma ti, đa đim mu khi, lau ru ba, mu ru ba, ku cha mu ru kăn tê, đu ru, đu ru, đu
ru, vi ri da, ai đi si, đa đê vê, đa đa vê, út tri, út tra va ti, ăn sa pra ha
ti, pát ma va ti, ku su ma va tê, soa ha. (Tadyatha hirini gate gandhari candari dhiri
jamvare sihibhare pure pure gugumati khiramati dadhimukhi laurubha murubha kucamurukante
duru duru duru virya aidhisi dadheve dadhave ustri ustravati ansaprahati padmavati
kusumavate svaha).
Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ
thần, thiện nữ, bấy giờ trưởng giả tử Lưu thủy với hai con cho nước
cho ăn bầy cá trong hồ, lại thuyết Pháp niệm Phật cho chúng rồi, cùng
nhau về nhà. Sau đó, nhân có cuộc hội họp, ông nghe nhạc, say rượu mà
nằm. Còn mười ngàn cá thì cùng lúc chết với nhau, sinh Đao lợi thiên,
nghĩ rằng chúng ta vì thiện nghiệp nào mà sinh lên cõi trời này? Họ nói
với nhau, trước đây chúng ta đọa vào loài bàng sinh ở đại lục Thiệm
bộ, làm thân cá tất cả. Nhờ trưởng giả tử Lưu thủy cho chúng ta nước
và cho chúng ta ăn, lại thuyết cho chúng ta diệu pháp mười hai duyên khởi
và minh chú tương ứng, niệm cho chúng ta hồng danh của đức Bảo kế như
lai. Vì yếu tố này mà chúng ta được sinh lên đây. Bây giờ chúng ta phải
đến chỗ trưởng giả tử Lưu thủy mà hiến cúng trả ơn. Mười ngàn
thiên tử tức thì ẩn mất khỏi Đao lợi thiên, hiện đến chỗ đại y
vương. Bấy giờ ông đang ngủ yên trên lầu cao. Mười ngàn thiên tử
cùng nhau đem một xâu chuỗi mười ngàn hạt ngọc chân châu để bên
khuôn mặt của ông, đem một xâu nữa đặt chỗ chân ông, đem một xâu nữa
đặt bên hông phải, đem một xâu nữa đặt bên hông trái, rồi rải hoa mạn
đà la và đại mạn đà la cao đến đầu gối, chiếu ánh sáng khắp cả,
tấu thiên nhạc nhiệm mầu, làm cho đại lục Thiệm bộ ai đang ngủ cũng
thức. Trưởng giả tử cũng thức. Mười ngàn thiên tử hiến cúng rồi lướt
không gian mà bay, khắp cả quốc gia của quốc vương Thiên tự tại quang,
chỗ nào họ cũng rải xuống hoa sen đẹp của chư thiên. Họ bay đến chỗ
cũ, nơi hồ trong chằm trống, rải xuống các thứ thiên hoa. Rồi ẩn mất,
trở về thiên cung, hưởng hạnh phúc tùy thích. Quốc vương Thiên tự tại
quang sáng ngày hỏi đại thần, đêm qua vì gì mà bỗng nhiên có hiện tượng
lành là ánh sáng phóng lớn? Đại thần tâu, xin đại vương biết cho, đó
là có một chúng chư thiên đến nhà trưởng giả tử Lưu thủy, hiến bốn
xâu chuỗi mỗi xâu có mười ngàn hạt ngọc chân châu, lại rải thiên hoa
mạn đà la dày đến đầu gối. Quốc vương bảo đại thần, hãy đến nhà
trưởng giả Trì thủy triệu trưởng giả tử Lưu thủy đến đây. Đại
thần tuân lịnh, đến tuyên vương mạng mà mời ông. Ông đến chỗ quốc
vương tức thì. Quốc vương hỏi, vì gì mà đêm qua hiện ra hiện tượng
hiếm có? Ông tâu, theo hạ dân nghĩ, thì chắc chắn bầy cá trong hồ, như
trong kinh dạy, đã chết và sinh lên Đao lợi, họ đến trả ơn nên có những
hiện tượng hiếm có và kỳ lạ như vậy. Quốc vương nói làm sao biết
được? Ông tâu, xin đại vương phái sứ giả đi với hai con hạ dân, đến
ngay hồ ấy mà xét nghiệm coi ra sao? Mười ngàn cá chết hay sống? Quốc vương
nghe vậy, tức thì phái sứ giả và hai con của ông đến ngay bên hồ. Thì
thấy trong hồ có nhiều hoa mạn đà la, dồn thành đống lớn. Bầy cá đã
chết cả. Thấy rồi chạy về tâu rõ với quốc vương. Quốc vương nghe
thế, hoan hỷ hết sức, than là sự thể chưa bao giờ đã có.
Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ
thần, thiện nữ nên biết, trưởng giả tử Lưu thủy xưa kia chính là bản
thân Như lai. Trưởng giả Trì thủy nay là bồ tát Diệu tràng. Hai người
con của trưởng giả tử thì con trưởng Thủy mãn nay là Ngân tràng, con thứ
Thủy tạng nay là Ngân quang. Quốc vương Thiên tự tại quang thì chính là
thiện nữ, Bồ đề thọ thần. Còn bầy cá mười ngàn chính là mười ngàn
thiên tử đây. Vì xưa kia Như lai cho họ nước để họ sống, cho họ ăn
để họ no, lại thuyết cho họ diệu pháp mười hai duyên khởi và minh
chú thích ứng diệu pháp ấy, niệm cho họ hồng danh của đức Bảo kế
như lai, do thiện căn như vậy mà họ sinh chư thiên, [và liên tiếp sinh chư
thiên mãi]. Nay đến chỗ Như lai, hoan hỷ nghe pháp, và Như lai thọ ký cho
họ thành tựu vô thượng bồ đề, nói cho họ biết danh hiệu của họ.
Thiện nữ, xưa kia, trong sinh tử luân hồi mà Như lai vẫn làm lợi ích cho
chúng sinh một cách rộng rãi. Đối với vô lượng chúng sinh, Như lai làm
cho họ tuần tự thành thục vô thượng bồ đề và thọ ký cho họ. Các
người hãy làm như Như lai, cần cầu giải thoát, đừng có phóng dật.
Đại hội lúc ấy nghe đức Thế tôn
nói như vậy thì ai cũng hiểu rằng, phải do đại bi cứu giúp tất cả,
siêng làm khổ hạnh, mới chứng được vô thượng giác. Ai cũng phát ra
tâm nguyện sâu xa, tín thọ một cách hoan hỷ.
Phẩm
26: Xả Bỏ Thân Mạng [^]
Nói cho đại hội về chuyện xưa của
mười ngàn thiên tử rồi, đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần và
đại hội, rằng trong quá khứ, Như lai đi theo đường đi bồ tát, chẳng
những cho nước cho ăn để cứu mạng bầy cá, mà đến nỗi cái thân tiếc
nuối cũng xả bỏ. Sự thể như vậy đáng cùng nhau quan sát.
Bấy giờ đức Thế tôn -- bậc như
lai ứng cúng chánh đẳng giác, bậc cao nhất tôn nhất trên trời dưới trời,
bậc hàng trăm hàng ngàn ánh sáng chiếu khắp thế giới mười phương, bậc
hoàn hảo nhất thế trí và viên mãn đại công đức -- đem các vị Bí sô
và cả đại hội đến khu dân cư Bát giá ra, đi vào một cánh rừng. Ở
đây đất bằng phẳng, không có gai góc, hoa danh tiếng, cỏ mềm mại, bủa
khắp mặt đất. Đức Thế tôn bảo trưởng lão A nan đà hãy trải tọa cụ
cho Như lai dưới gốc cây kia. Trưởng lão vâng lời, trải tọa cụ rồi,
thưa, bạch đức Thế tôn, con đã trải tọa cụ sắp chỗ ngồi rồi, xin
đức Thế tôn biết cho đã đến lúc thích hợp. Đức Thế tôn đến ngồi
xếp bằng trên chỗ ấy, thẳng mình, chính niệm, bảo các vị Bí sô, các
vị muốn thấy xá lợi của Bồ tát khổ hạnh thời xưa không? Các vị
Bí sô thưa, chúng con muốn thấy. Đức Thế tôn liền dùng cái tay trăm
phước trang nghiêm mà ấn xuống đất. Tức thì đại địa chấn động với
sáu hình thức, và nứt ra, một ngôi tháp thất bảo bỗng nhiên xuất hiện,
phủ lên trên là mạng lưới kết ngọc. Đại hội thấy vậy lấy làm hiếm
có. Đức Thế tôn tức thì đứng dậy khỏi chỗ Ngài ngồi, làm lễ bảo
pháp, nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi trở lại chỗ ngồi, bảo trưởng
lão A nan đà hãy mở cửa tháp. Trưởng lão mở ra, thấy có cái hộp thất
bảo, được trang sức bằng những trân bảo kỳ lạ. Trưởng lão bạch đức
Thế tôn, có cái hộp thất bảo, trang sức bằng các loại ngọc. Đức Thế
tôn bảo hãy mở ra. Trưởng lão tuân mệnh, mở ra, thì thấy có xá lợi
trắng như bạch mã não, như tuyết, như sen trắng (100) . Trưởng lão bạch
đức Thế tôn, trong hộp có xá lợi, màu đẹp khác thường. Đức Thế tôn
bảo hãy đem xá lợi của đại sĩ lại đây. Trưởng lão A nan đà liền lấy
xá lợi ấy kính trao cho đức Thế tôn. Ngài cầm lấy mà bảo các vị Bí
sô, các vị hãy nhìn xá lợi của Bồ tát khổ hạnh. Ngài lại nói chỉnh
cú:
- (1) Đức cao của Bồ tát
- tương ứng có tuệ giác,
- dũng mãnh mà tinh tiến
- viên mãn cả sáu độ.
- Thường xuyên tu không ngừng
- và chỉ vì bồ đề,
- không rời sự kiên cố
- tâm không có mệt mỏi.
Các vị Bí sô, hãy cùng nhau kính lạy
xá lợi của Bồ tát. Xá lợi này được xông bởi vô lượng hương liệu
giới định tuệ, là ruộng phước tối thượng, cực kỳ khó gặp. Các vị
Bí sô, và cả đại hội, đều nhất tâm, chắp tay, cung kính mà đảnh lễ
xá lợi ấy, tán dương hiếm có. Bấy giờ trưởng lão A nan đà bước tới,
lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, Ngài là vị thầy
cao cả, vượt trên hết thảy, được hết thảy chúng sinh tôn kính, tại
sao lại lạy linh cốt xá lợi này? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan
đà, Như lai nhờ xá lợi này mà tốc chứng vô thượng bồ đề. Để báo
ơn xưa nên Như lai kính lạy. Ngài lại bảo, An nan đà, Như lai sẽ giải
trừ hoài nghi cho trưởng lão, và cả đại hội, mà nói chuyện cũ của xá
lợi này. Các người hãy khéo nghĩ, hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Trưởng
lão A nan đà thưa, chúng con ước muốn được nghe. Xin đức Thế tôn khai
thị cho chúng con.
Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A
nan đà, quá khứ có một quốc vương tên Đại xa, giàu lớn, lắm của,
kho lẫm đầy ắp, quân binh vũ dũng, ai cũng khâm phục. Quốc vương lại
thường xuyên đem chánh pháp mà khai hóa đến cả những người đen đủi.
Quốc dân đông đảo, không có giặc thù. Hoàng hậu sinh được ba con trai,
đẹp, nghiêm, ai cũng thích nhìn. Thái tử tên Ma ha ba la, thứ tử tên Ma ha
đề bà, ấu tử tên Ma ha tát đỏa. Bấy giờ quốc vương xuất du núi rừng.
Ba vương tử cũng tùy tùng. Ham tìm hoa trái nên ba anh em tách ra, đi quanh quẩn
đến nhằm khu rừng tre lớn, nghỉ ngơi ở đây. Vương tử thứ nhất nói,
anh cảm thấy sợ hãi, chỗ này có mãnh thú hại chúng ta chăng? Vương tử
thứ hai nói, chưa bao giờ em tiếc thân mình, chỉ sợ người thân có cái
khổ biệt ly. Vương tử thứ ba thưa hai anh.
- (2) Đây là nơi chốn
- thần tiên cư trú.
- Em không sợ hãi,
- không khổ biệt ly.
- Thân và tâm em
- tràn ngập hoan hỷ,
- cái điềm sẽ được
- công đức đặc thù !
Ba vương tử nói linh tính mình rồi
đi tới, thấy con cọp sinh bảy con. Sinh mới mấy ngày mà cọp mẹ bị bầy
con quấn quýt nên đói khát, thân hình gầy ốm, có vẻ sắp chết. Vương
tử thứ nhất nói cọp này thật đáng thương, bị con quấn quýt, không
đi kiếm ăn được, đói quá chắc phải ăn đến con. Vương tử Tát đỏa
hỏi anh, cọp mẹ này thường ăn thứ gì? Vương tử thứ nhất nói với
em
- (3) Cọp báo sói sư tử
- chỉ ăn thịt máu nóng
- chứ không ăn gì khác
- mà qua cơn đói này.
Vương tử thứ hai nghe thế, nói
con cọp này đói sắp chết, nhưng chúng ta làm sao kiếm được thực phẩm
như anh nói? Ai chịu bỏ thân mạng mà cứu cơn đói của nó? Vương tử thứ
nhất nói, không có gì khó bỏ cho bằng thân mình. Vương tử Tát đỏa nói,
chúng ta tiếc nuối thân mạng, lại không trí tuệ, không làm được gì lợi
cho kẻ khác. Nhưng bậc đại sĩ thì có đại bi tâm, thường vì lợi người
mà bỏ mình. Vương tử Tát đỏa nghĩ riêng, thân ta đây hàng trăm hàng
ngàn đời vất bỏ thối rã mà chẳng được ích gì, tại sao ngày nay ta
không bỏ để cứu cái khổ cơn đói. Cả ba vương tử nói với nhau như
trên kia, ai cũng thương xót, ái ngại nhìn cọp đói, bồi hồi bỏ đi.
Nhưng vương tử Tát đỏa lại liên tiếp nghĩ riêng, nay chính là lúc
thích đáng cho ta bỏ thân này. Tại sao?
- (4) Vì xưa đến nay
- ta giữ thân này,
- cái thân xú uế
- không thể thích được.
- Ta cấp đồ nằm
- cùng với đồ mặc,
- cung đốn xe ngựa
- và bao của quí.
- (5) Nhưng thân hư rã
- vì vốn vô thường,
- cầu hoài không thỏa
- giữ mãi vẫn chết.
- Ta cung dưỡng nó
- nó lại hại ta,
- cuối cùng bỏ ta
- chẳng biết ơn nghĩa!
Thêm nữa, thân này không bền, vô
ích cho ta. Thân này đáng sợ như giặc, dơ bẩn như phân. Ngày nay ta sai
cái thân này làm cái việc cao cả. Trong biển sinh tử, nó phải là thuyền
tàu to lớn. Nó phải bỏ luân hồi, đạt đến giải thoát. Vương tử lại
nghĩ, bỏ thân này là bỏ không ít ác bịnh và bao nhiêu kinh hãi. Thân này
chỉ có phân giải. Nó mong manh như bóng nước. Nó, nơi sâu giòi tập hợp,
sống chỉ vì gân cốt huyết mạch dính líu với nhau. Vậy ta nên bỏ, để
cầu Niết bàn tối thượng và cứu cánh. Ở đó vĩnh biệt vô thường,
vĩnh ly sinh tử, vĩnh đoạn trần lụy. Ở đó huân tu bằng định lực và
tuệ lực, trang nghiêm với cả trăm phước đức. Ở đó hoàn thành nhất
thế trí, chứng đắc diệu pháp thân. Hoàn thành và chứng đắc như vậy
rồi đem cho chúng sinh vô biên pháp lạc. Vương tử Tát đỏa bấy giờ nổi
dậy sự đại dũng mãnh, phát ra sự đại thệ nguyện, và tăng cường tâm
mình bằng sự đại từ bi. Nhưng vương tử sợ hai anh lưu luyến sợ hãi
mà cản trở, nên nói, hai anh đi trước, em đi sau một chút. Vương tử Ma
ha tát đỏa liền trở lại khu rừng, đến chỗ cọp đói, thoát hết y phục
mắc trên cây tre, phát nguyện như vầy.
- (6) Ta vì chúng sinh
- khắp cả pháp giới,
- chí cầu Bồ đề
- tuệ giác tối thượng.
- Khởi tâm đại bi
- không thể dao động,
- mà bỏ cái thân
- phàm phu luyến tiếc.
- (7) Trạng huống Bồ đề
- không có nóng bức,
- ai người có trí
- đều rất ưa thích.
- Bao nhiêu chúng sinh
- trong biển khổ lớn,
- ta nguyện cứu vớt
- đưa lên Bồ đề.
Vương tử phát nguyện như vậy rồi
đến nằm buông mình trước cọp đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát,
cọp không làm gì được. Thấy vậy, Bồ tát chạy lên núi cao mà gieo
mình xuống, thì thần tiên tiếp đỡ nên không thương tổn gì. Vương tử
nghĩ, cọp đói lả, không ăn ta nổi. Liền đứng dậy tìm dao, dao không
có. Nên vương tử lấy tre khô thích cổ chảy huyết, đi lại bên cọp. Bấy
giờ đại địa chấn động với sáu hình thức, như gió khích nước, vọt
lên dội xuống không yên. Mặt trời không sáng, như bị la hầu che. Khắp
nơi mờ tối, không còn ánh sáng. Chư thiên rải xuống danh hoa và diệu hương
khắp cả khu rừng. Trong không gian, chư thiên nhìn cảnh tượng như vậy thì
tâm tùy hỷ, than hiếm có, cùng khen lành thay bậc đại sĩ! Họ ca tụng
- (8) Đại sĩ vận dụng
- đại bi cứu vật,
- nhìn toàn chúng sinh
- coi như con một;
- mạnh mẽ hoan hỷ,
- lòng không tiếc nuối,
- xả thân cứu khổ,
- việc thật khó lường!
- (9) Quyết định đạt đến
- chân thường siêu việt,
- thoát bỏ sinh tử
- mọi thứ buộc ràng;
- mau chóng chứng được
- tuệ giác Bồ đề,
- vắng lặng yên vui
- thể hiện Vô sinh.
Bấy giờ cọp đói ngửi thấy huyết
từ cổ Bồ tát chảy ra thì liếm lấy, và ăn hết thịt Bồ tát, còn lại
chỉ có xương.
Vương tử thứ nhất thấy đất động
thì nói với em hai
- (10) Đại địa núi sông
- chấn động tất cả,
- bốn phía mờ tối
- không ánh mặt trời,
- thiên hoa rơi xuống
- khắp cả không gian,
- chắc chắn là điềm
- em ba bỏ mình.
Vương tử thứ hai nghe anh nói rồi,
tự nói chỉnh cú
- (11) Em nghe Tát đỏa
- nói lời từ bi,
- khi thấy cọp đói
- thân thể ốm xọp,
- đói hành nó quá
- chắc ăn cả con.
- Em nghi em ba
- xả thân mất rồi.
Vương tử thứ hai rất buồn rầu
đau khổ, khóc lóc than thở. Tức khắc cùng anh trở lại chỗ cọp. Thì thấy
y phục của em treo để trên tre, còn xương với tóc thì vung vãi ra. Máu thấm
đỏ cả đất. Thấy thế ngất đi, không tự chủ được. Rơi mình trên xương
em, hồi lâu mới tỉnh, dơ tay, kêu gào, khóc lớn, than thở:
- (12) Em ta dung mạo đẹp,
- cha mẹ thương hơn hết,
- tại sao cùng ra đi
- giờ bỏ mình, không về!
- (13) Nếu cha mẹ ta hỏi,
- ta phải nói thế nào?
- Thà ta cùng bỏ mình,
- chứ sống để làm gì?
Hai anh em vương tử khóc lóc áo
não, tạm rời mà về. Trong khi những kẻ tháp tùng của vương tử út thì
bảo nhau, vương tử đi đâu, chúng ta phải tìm.
Còn hoàng hậu thì ngủ trên lầu
cao. Trong mộng thấy hiện tượng bất tường. Nhũ bộ bị cắt cả đôi.
Răng rụng hết. Được ba con bồ câu non, một con bị cắt bắt, hai con
kinh hoàng. Khi động đất, hoàng hậu thức, thì trong lòng sầu não:
- (14) Tại sao hôm nay
- đại địa chấn động,
- sông ngòi rừng rú
- đều rung lắc cả,
- mặt trời mờ tối
- như bị che khuất,
- mắt máy vú động
- khác hơn ngày thường?
- (15) Tim như trúng tên
- lo sợ bức xúc,
- cả người run rẩy
- không kềm chế được.
- Hiện tượng bất tường
- mà ta mộng thấy,
- tất có tai biến
- phi thường nào đây!
Nhũ bộ của hoàng hậu bỗng nhiên
chảy sữa. Bà nghĩ tất có biến quái. Bấy giờ thị nữ nghe người ngoài
nói tìm vương tử chưa được thì sợ quá, tức tốc vào tâu với hoàng hậu,
rằng xin hoàng hậu biết cho, ở ngoài người ta bổ ra đi tìm vương tử
khắp cả mà chưa thấy. Hoàng hậu nghe thế càng lo sợ, nước mắt đầy
tròng, đến chỗ quốc vương mà tâu: Đại vương, thần thiếp nghe người
ngoài nói đứa con nhỏ nhất mà chúng ta thương nhất đã mất đâu rồi.
Quốc vương nghe thì kinh hoàng, nấc lên: Khổ quá, ta mất đứa con yêu thương
rồi. Nhưng ông phải lau nước mắt mà an ủi hoàng hậu: Hiền thủ, đừng
khóc nữa. Chúng ta cùng đi tìm đứa con yêu thương của chúng ta. Rồi ông
cùng hoàng hậu và thần dân ra khỏi hoàng thành, phân tán tìm tòi khắp nơi.
Một lát, một đại thần bước tới, tâu rằng đã nghe các vương tử hãy
còn, xin vương thượng đừng lo. Chỉ vương tử nhỏ nhất thì tìm chưa thấy
mà thôi. Quốc vương nghe vậy, than thở khổ thay cho ta, ta mất đứa con
thương yêu nhất rồi!
- (16) Khi mới có con
- ta vui mừng ít,
- giờ con mất đi
- ta khổ sở nhiều.
- Ai làm con ta
- sống còn lại được,
- thì mất mạng ta
- ta cũng không khổ.
Hoàng hậu nghe thì như bị trúng
tên bắn, than thở
- (17) Con ta ba đứa
- đi với thị tùng,
- cùng vào trong rừng
- thưởng ngoạn cảnh trí.
- Giờ đứa nhỏ nhất
- mình nó không về,
- chắc chắn có điều
- tai biến mất rồi!
Kế tiếp, vị đại thần thứ hai
đến chỗ quốc vương, vương hỏi ngay, con ta đâu? Đại thần áo não, lưỡi
khô, cổ rát, miệng không nói được, không biết trả lời làm sao. Hoàng
hậu bảo
- (18) Thượng quan nói gấp,
- con ta ở đâu?
- Ta nóng cả người
- như thiêu như đốt,
- kinh hoàng hoảng hốt
- mất cả bình tâm,
- đừng để bụng ta
- rách vỡ cả ra!
Vị đại thần phải đem việc
vương tử xả thân mà tâu quốc vương. Quốc vương với hoàng hậu nghe rồi,
bi thiết không thể chịu nổi, nhắm chỗ vương tử xả thân mà chạy tới.
Đi đến rừng tre, chỗ Bồ tát xả thân. Thấy xương vung vãi, ai cũng gieo
mình xuống đất, cơ hồ sắp chết. Họ như đại thọ bị gió mạnh xô
ngã. Họ bất tỉnh. Đại thần rưới nước, một lát tỉnh lại. Họ lại
dơ tay, khóc, than:
- (19) Tai họa cho con!
- con đẹp đẽ lắm!
- tại sao cái chết
- áp bức con trước?
- Phải chi nếu cha
- được chết trước con
- thì đâu phải thấy
- khổ quá thế này!
Hoàng hậu hơi tỉnh, lại đầu bù
tóc rối, hai tay đấm bụng, quằn quại dưới đất. Như cá trên đất,
như bò mất con, hoàng hậu buồn thảm:
- (20) Ai giết mất con ta
- mà chỉ còn xương cốt?
- ta mất con yêu thương
- bi thiết chịu sao nổi!
- (21) Ai giết mất con ta
- gây ra cảnh bi thảm?
- lòng ta phi kim cương
- làm sao không tan nát!
- (22) Trong mộng ta đã thấy
- nhũ bộ ta bị cắt,
- răng cũng rụng mất cả,
- nay khổ quá thế này!
- (23) Lại mộng ba bồ câu
- một bị cắt bắt đi,
- ra ta mất con quí,
- ác mộng thật không sai!
Bấy giờ quốc vương, cùng hoàng hậu
với hai con, ai cũng gào khóc, bỏ cả chuỗi ngọc. Họ cùng quốc dân thu
nhặt xá lợi của Bồ tát, tôn trí trong tháp để hiến cúng. Trưởng lão
A nan đà, các người nên biết, đây là xá lợi ấy của Bồ tát.
Đức Thế tôn lại bảo trưởng lão
A nan đà, xưa kia, Như lai đủ cả tham sân si, mọi thứ phiền não, vậy
mà ngay trong năm nẻo đường dữ, Như lai vẫn tùy cảnh ngộ cứu vớt
chúng sinh ra khỏi chỗ ấy; huống chi nay đây Như lai đã hết cả phiền
não, thói quen cũng không còn, được gọi là bậc Thiên nhân sư, đủ Nhất
thế trí, mà không thể vì mỗi một chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở
ngay trong địa ngục, và bao chỗ khác, thay họ chịu khổ, làm cho họ
thoát ly sinh tử, phiền não và luân hồi hay sao. Bấy giờ đức Thế tôn
muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (24) Như lai nhớ quá khứ
- vô lượng vô số kiếp,
- khi thì làm quốc vương
- khi thì làm vương tử.
- (25) Thường làm bố thí lớn,
- cho cả thân đáng tiếc,
- nguyện thoát sinh tử khổ
- đi đến đại bồ đề
- (26) Xưa có quốc gia lớn
- quốc vương tên Đại xa,
- vương tử tên Dũng mãnh
- bố thí không tiếc lẫn.
- (27) Vương tử có hai anh
- Đại cừ với Đại thiên.
- Ba anh em xuất du,
- đi lần vào núi rừng.
- (28) Thấy cọp mẹ bị đói
- thì nghĩ như thế này,
- cọp bị đói hành hạ
- mà không có gì ăn.
- (29) Đại sĩ thấy như thế
- sợ nó ăn con nó,
- nên xả thân không tiếc
- để cứu cả mẹ con.
- (30) Đại địa và núi non
- đồng thời chấn động cả,
- sông biển cũng sôi sục
- sóng dữ mà nước ngược.
- (31) Trời đất mất ánh sáng
- mờ tối không thấy gì.
- Cầm thú rừng, đồng nội
- bay chạy mất chỗ ở.
- (32) Hai anh quái mất em
- lo buồn đến bi thảm,
- tức khắc cùng thị tùng
- tìm khắp cả lùm rừng.
- (33) Hai anh bàn với nhau
- hãy trở lại núi sâu,
- nhìn quanh không có em
- chỉ thấy con cọp đói.
- (34) Cọp mẹ với bảy con
- miệng toàn có vấy máu,
- còn xương tàn với tóc
- thì vung vãi mặt đất.
- (35) Lại thấy có huyết chảy
- dính nhằm mấy cây rừng.
- Hai anh thấy như thế
- lòng sinh đại sợ hãi.
- (36) Ngã đất mà chết giấc
- mê man hết biết gì,
- bụi đất lấm cả người
- giác quan mất ý thức.
- (37) Thị tùng hai vương tử
- khóc lóc lòng lo sợ,
- lấy nước rưới tỉnh lại
- lại dơ tay gào khóc.
- (38) Khi Bồ tát bỏ mình
- thì mẹ ở trong cung,
- cùng năm trăm thế nữ
- đang hưởng thụ vui thú.
- (39) Hai nhũ bộ hoàng hậu
- bỗng nhiên chảy sữa ra,
- cả người như kim chích
- đau đớn rất bất an.
- (40) Đột nhiên nghĩ mất con
- sợ như tim trúng tên,
- tức khắc tâu vua hay
- nỗi khổ bà đang có.
- (41) Khóc lóc không nhịn được
- thảm thiết nói với vua,
- vua nên biết cho thiếp
- thiếp đang khổ vô cùng.
- (42) Nhũ bộ bỗng chảy sữa
- ngưng lại cũng không được,
- cả mình như kim chích
- nóng bực bụng muốn vỡ.
- (42) Điềm ác mộng trước đây
- biết chắc mất con yêu.
- Xin vua cứu mạng thiếp
- tìm biết con còn mất.
- (44) Mộng thấy ba bồ câu
- nhỏ nhất là con cưng,
- bỗng bị cắt bắt mất
- đau buồn khó nói hết.
- (45) Thiếp ngập trong lo sợ
- đi mau đến cái chết,
- e con không toàn mạng
- xin vua đi tìm gấp.
- (46) Lại nghe người ngoài nói
- con út tìm không thấy,
- lòng thiếp rất bồn chồn
- xin vua thương xót thiếp!
- (47) Hoàng hậu tâu vua rồi
- cả người quị xuống đất,
- đau đớn tâm mê man
- hôn mê hết hay biết.
- (48) Thế nữ thấy hoàng hậu
- ngất xỉu xuống mặt đất
- thì cất tiếng khóc lớn
- bàng hoàng mất chỗ dựa.
- (49) Vua nghe hoàng hậu nói
- cũng lo không chịu nổi,
- ra lịnh cho quần thần
- tìm kiếm con thương nhất.
- (50) Vua tôi ra hoàng thành
- chia nhau mà truy tìm,
- gặp ai cũng khóc hỏi
- thấy vương tử ở đâu.
- (51) Vương tử còn hay mất?
- ai biết đi chỗ nào?
- làm sao cho ta thấy
- giải cho ta lo sợ.
- (52) Ai cũng nghe nói chuyền
- rằng vương tử chết rồi.
- Ai nghe cũng thương cảm
- buồn đau khó chế ngự.
- (53) Bấy giờ Đại xa vương
- kêu than mà đứng dậy
- đến chỗ hoàng hậu ngất
- lấy nước rưới thân bà.
- (54) Hoàng hậu được nước rưới
- lát lâu mới hồi tỉnh,
- khóc thảm mà hỏi vua
- con của thiếp còn không?
- (55) Vua nói với hoàng hậu
- ta đã phái mọi người
- bốn hướng tìm vương tử
- nhưng chưa có tin tức.
- (56) Vua lại bảo hoàng hậu
- hậu đừng quá phiền muộn,
- cố bình tỉnh một chút
- để cùng đi tìm con.
- (57) Vua cùng với hoàng hậu
- xa giá đi mau tới,
- với tiếng kêu thê thảm
- lo như lửa đốt lòng.
- (58) Cả ngàn vạn dân chúng
- cùng đi theo nhà vua,
- cùng muốn tìm vương tử,
- tiếng kêu than không ngớt.
- (59) Vua cố tìm con yêu,
- mắt nhìn cả bốn phía,
- thấy một người bước đến,
- tóc xõa mình đầy máu,
- (60) khắp mình dính đất bụi,
- buồn khóc đi ngược lại.
- Vua thấy ác tướng ấy
- càng nóng ruột lo sợ.
- (61) Vua giơ cả hai tay
- gào thảm không tự chế.
- Vị đại thần thứ nhất
- vội vàng đến chỗ vua,
- (62) gắng gượng mà tấu bạch,
- xin đừng quá bi thương,
- vương tử vua thương nhất,
- hiện vẫn chưa tìm được,
- (63) nhưng lát nữa chắc đến
- để giải lo cho vua.
- Vua lại đi tới nữa
- gặp đại thần thứ hai.
- (64) Vị này đến chỗ vua
- chảy nước mắt mà tâu,
- hai vương tử hiện còn
- nhưng đang bị quá lo.
- (65) Còn vương tử thứ ba
- vô thường nuốt mất rồi.
- Cọp đói mới sinh con
- sắp ăn chính con nó.
- (66) Tiểu vương tử Tát đỏa
- thấy vậy lòng thương xót,
- nguyện cầu đạo vô thượng
- quảng độ cho tất cả.
- (67) Chuyên tâm đại bồ đề
- rộng sâu như biển cả,
- nên lên trên núi cao
- gieo mình trước cọp đói.
- (68) Cọp yếu nên không thể
- vồ mà ăn vương tử,
- vương tử phải dùng tre
- tự thích cổ đổ máu.
- Cọp liếm, ăn vương tử,
- chỉ còn lại xương cốt.
- (69) Vua cùng với hoàng hậu
- nghe rồi cùng ngất xỉu,
- lòng ngập trong đau thương
- trong lửa dữ phiền não.
- (70) Đại thần lấy nước hương
- rưới vua và hoàng hậu,
- hồi tỉnh lại thét gào
- tự tay đấm ngực bụng.
- (71) Vị đại thần thứ ba
- tâu vua như thế này,
- đã thấy hai vương tử
- ngất xỉu ở trong rừng.
- (72) Hạ thần rưới nước lạnh
- hai vương tử mới tỉnh,
- nhìn khắp cả bốn phía
- thấy như lửa lan tràn.
- (73) Nên dậy rồi lại ngã,
- gào khóc không ngưng nổi,
- và giơ tay mà than
- em tôi thật hiếm có.
- (74) Vua nghe nói như vậy
- lo càng nung nấu hơn.
- Hoàng hậu gào lớn lên
- mà than vãn như vầy.
- (75) Con út của ta
- ta thương xiết bao,
- nay thì đã bị
- quỉ chết nuốt rồi!
- Hai đứa con lớn
- tuy vẫn hiện còn,
- nhưng bị thiêu đốt
- bởi lửa lo buồn.
- (76) Ta phải đi mau
- đến dưới núi kia,
- an ủi cho chúng
- bảo tồn mạng sống.
- Hoàng hậu tức khắc
- rong xe đi tới,
- cố mong đến gấp
- chỗ út bỏ mình.
- (77) Trên đường gặp con
- vừa đi vừa khóc,
- đấm bụng áo não
- mất hết uy phong.
- Cha mẹ thấy vậy
- buồn thảm ôm con,
- cùng vào núi rừng
- chỗ út bỏ mình.
- (78) Khi đến cái chỗ
- Bồ tát xả thân,
- cả nhà gào khóc
- đau đớn cùng cực,
- cởi bỏ chuỗi ngọc,
- cùng nhau bi thương
- thu nhặt xương cốt
- của thân Bồ tát.
- (79) Rồi cùng mọi người
- chung nhau hiến cúng:
- đem xá lợi trên
- đặt trong hộp này,
- xây dựng tại đó
- ngôi tháp thất bảo,
- mới về hoàng thành
- với sự đau buồn.
- (80) Trưởng lão A nan đà,
- Tát đỏa xưa kia ấy
- nay là ta, Mâu ni,
- đừng nghĩ là ai khác.
- (81) Quốc vương là Tịnh phạn,
- hoàng hậu là Ma da,
- thái tử là Từ thị,
- thứ tử là Mạn thù,
- (82) Cọp là Đại thế chúa (101) ,
- năm con: năm Bí sô (102) ,
- một nữa: Mục kiền liên
- một nữa: Xá lợi phất.
- (83) Như lai nói việc cũ
- để thấy phải lợi tha
- mới là bồ tát hạnh,
- là nhân tố thành Phật:
- toàn thể đại hội này
- phải học tập như vậy.
- (84) Khi Bồ tát xả thân
- thì đã phát đại nguyện,
- nguyện xương cốt của mình
- sẽ lợi ích lớn lao
- cho bao nhiêu chúng sinh
- trong bao kiếp sau đó.
- (85) Và địa điểm này đây
- chính là chỗ xưa kia
- Bồ tát đã xả thân,
- là chỗ tháp thất bảo,
- vì trải qua nhiều kiếp
- nên vùi sâu xuống đất.
- (86) Do nguyện lực xưa kia,
- rằng tùy theo cơ hội
- mà tế độ chúng sinh,
- nên nay vì ích lợi
- cho bao nhiêu nhân thiên
- mà bảo tháp xuất hiện.
Khi đức Thế tôn nói về chuyện cũ
này thì cả đại hội, bao gồm vô số nhân loại và chư thiên, ai cũng vô
cùng bi cảm, hoan hỷ, tán dương là sự thể chưa bao giờ đã có, và cùng
phát tâm vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần,
Như lai vì trả ơn mà kính lạy. Rồi Ngài thu hồi thần lực thì bảo
tháp trở lại lòng đất.
Phẩm
27: Bồ Tát Tán Dương [^]
Khi đức Thích ca mâu ni thế tôn
tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, thì mười phương quốc độ có vô lượng
bồ tát, đều từ quốc độ của mình mà đến đỉnh Thứu phong, chỗ đức
Thế tôn, năm bộ phận gieo xuống sát đất, đảnh lễ Ngài rồi nhất
tâm chấp tay, khác miệng cùng tiếng mà tán dương.
- (1) Sắc thân Thế tôn
- như màu hoàng kim,
- ánh sáng trải khắp
- như núi vàng thật,
- trong sạch ôn nhu
- như là hoa sen,
- với bao màu sắc
- trang sức tuyệt đẹp.
- (2) Ba mươi hai tướng
- trang hoàng cả người,
- tám mươi nét đẹp
- trang sức toàn hảo,
- ánh sáng rực rỡ
- không ai đồng đẳng,
- trong suốt tựa như
- vầng trăng tròn đầy.
- (3) Tiếng Ngài trong thanh
- cực kỳ tinh tế,
- oai như sấm nổ
- như sư tử gầm,
- với tám đặc tính (103)
- thích ứng mọi người,
- hơn cả tiếng chim
- tần dà vân vân.
- (4) Trang nghiêm hình dung
- bằng trăm phước mầu,
- ánh sáng toàn hảo
- không gợn vẩn đục,
- tuệ giác lắng trong
- in như biển cả,
- công đức rộng lớn
- in như không gian.
- (5) Viên quang chiếu khắp
- mười phương quốc độ,
- tùy duyên hóa độ
- vô lượng sinh linh,
- ái nhiễm thì đến
- thói quen cũng hết,
- đuốc Pháp thường đốt
- không bao giờ tắt.
- (6) Xót thương ích lợi
- bao loại chúng sinh,
- hiện tại vị lai
- đều cho yên vui,
- thường tuyên thuyết cho
- đệ nhất nghĩa đế,
- làm cho thể chứng
- Niết bàn chân tịnh.
- (7) Thế tôn nói pháp
- cam lộ siêu việt,
- đem cho nghĩa lý
- cam lộ nhiệm mầu,
- dẫn vào thành trì
- cam lộ niết bàn,
- làm cho thụ hưởng
- cam lộ pháp lạc.
- (8) Thường xuyên ở trong
- biển cả sống chết,
- cứu vớt đau khổ
- cho bao chúng sinh,
- làm họ đứng vững
- đại lộ yên ổn,
- đem cho cái vui
- như ý khó lường.
- (9) Biển cả công đức
- cực kỳ sâu rộng,
- không phải ví dụ
- có thể minh họa,
- thường nổi đại bi
- đối với chúng sinh,
- phương tiện hóa độ
- không lúc nào ngừng.
- (10) Biển cả tuệ giác
- không có ngoại biên,
- nhân loại chư thiên
- cùng nhau ước lượng,
- giả sử đến cả
- ngàn vạn ức kiếp
- cũng không biết được
- một phần chút ít.
- (11) Chúng con ước lược
- tán dương Phật đức,
- chỉ là một giọt
- trong biển đức ấy,
- hướng khối phước này
- về cho chúng sinh,
- nguyện cùng tốc chứng
- bồ đề diệu quả.
Khi ấy đức Thế tôn bảo chư vị
bồ tát, lành thay, chư vị khéo tán dương như vậy đối với phẩm chất
của Phật, lợi ích chúng sinh, quảng tác việc Phật: diệt được vô lượng
ác nghiệp, sinh được vô lượng phước báo.
Phẩm
28: Diệu Tràng Tán Dương [^]
Lúc ấy bồ tát Diệu tràng liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì
xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn mà tán dương.
- (1) Tướng hảo Thế tôn
- trăm phước viên mãn,
- vô lượng công đức
- tự trang nghiêm mình,
- thanh tịnh bàng bạc
- ai cũng thích nhìn,
- ánh sáng chiếu tỏa
- như ngàn mặt nhật.
- (2) Ánh sáng rực lên
- với bao màu sắc,
- tướng hảo uy nghi
- như khối ngọc quí,
- như mặt trời mọc
- chiếu sáng không gian,
- với màu hồng, trắng
- xen màu hoàng kim.
- (3) Và như núi vàng
- trải rộng ánh sáng
- khắp mọi nơi chốn
- trăm ngàn quốc độ,
- diệt cho chúng sinh
- vô lượng đau khổ,
- đem cho chúng sinh
- an vui siêu việt.
- (4) Tướng hảo đầy đủ
- và rất nghiêm tịnh,
- chúng sinh thích nhìn
- không ai biết chán.
- Tóc thì mềm mịn
- với màu xanh sẫm,
- như ong đen huyền
- họp trên hoa đẹp.
- (5) Đại hỷ đại xả
- rất là trang nghiêm,
- đại từ đại bi
- rất là viên mãn,
- tướng hảo tuyệt diệu
- trang sức thân thể,
- là do các pháp
- giác phần tạo thành.
- (6) Ban cho chúng sinh
- bao nhiêu phước đức,
- để họ thường được
- yên vui lớn lao.
- Và được trang hoàng
- bằng các diệu đức,
- nên trải ánh sáng
- ngàn vạn quốc độ.
- (7) Ánh sáng, tướng hảo
- cùng cực viên minh,
- nên như mặt trời
- sáng rực không trung.
- Và như tu di
- công đức đủ cả,
- biến thể cùng khắp
- mười phương quốc độ.
- (8) Miệng vàng tuyệt đẹp
- và rất uy nghiêm.
- Răng trắng, đều, khít
- giống như tuyết, ngọc.
- Và cả khuôn mặt
- không ai sánh bằng,
- với tướng bạch hào
- uốn theo chiều phải;
- (9) sáng nhuận tươi trắng
- in như pha lê,
- lại như trăng tròn
- lồng lộng không trung.
Đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu
tràng, bồ tát tán dương Phật đức như vậy thật bất khả tư nghị, lợi
ích chúng sinh, làm cho những người trước đây chưa biết đến đều tùy
thuận tu học.
Phẩm
29: Thọ Thần Tán Dương [^]
Bấy giờ Bồ đề thọ thần cũng
sử dụng chỉnh cú tán dương đức Thế tôn.
- (1) Kính lạy tuệ giác
- cực kỳ thanh tịnh,
- kính lạy tuệ giác
- thường cầu chánh pháp,
- kính lạy tuệ giác
- tách rời phi pháp,
- kính lạy tuệ giác
- vĩnh siêu phân biệt.
- (2) Hiếm có cái hạnh
- không có biên cương,
- hiếm có khó thấy
- như hoa ưu đàm,
- hiếm có như biển
- trấn cho núi chúa (104) ,
- hiếm có ánh sáng
- không có số lượng.
- (3) Hiếm có cái nguyện
- từ bi rộng lớn,
- hiếm có cái sáng
- vượt quá thái dương,
- tuyên thuyết kinh này
- ngọc trong các kinh,
- thương tưởng lợi ích
- cho bao sinh linh.
- (4) Thể hiện vắng lặng
- giác quan định tĩnh,
- hội nhập vắng lặng
- thành trì niết bàn,
- sống trong vắng lặng.
- các pháp đẳng trì (105) ,
- thấu triệt vắng lặng
- lĩnh vực sâu xa.
- (5) Trú ở ở trong
- cái Không siêu việt,
- đệ tử cũng thấy
- bản thân là không,
- cũng thấy các pháp
- toàn không tự tánh,
- cũng thấy chúng sinh
- toàn là vắng lặng.
- (6) Con thường nhớ đến
- chư vị Thế tôn,
- con thường thích nhìn
- chư vị Thế tôn,
- con thường thiết tha
- đối với Thế tôn,
- con thường gặp được
- mặt trời Thế tôn.
- (7) Con thường kính lạy
- chư vị Thế tôn,
- khao khát ước nguyện
- lòng không rời bỏ,
- cảm kích rơi lệ
- lòng không gián đoạn,
- nguyện được phụng sự
- lòng không nhàm chán.
- (8) Xin đức Thế tôn
- khởi tâm đại bi,
- cho con thường thấy
- dung nghi Thế tôn,
- nguyện cầu Thế tôn
- cùng Thanh tịnh chúng
- thường xuyên tế độ
- vô lượng nhân thiên.
- (9) Thân Ngài rỗng sáng
- in như không gian,
- biến thể thì như
- ảo tượng, trăng nước (106) .
- Xin Ngài tuyên thuyết
- niết bàn cam lộ,
- để phát sinh ra
- cái khối công đức.
- (10) Lĩnh vực thanh tịnh
- của đức Thế tôn,
- từ bi, chánh hạnh
- toàn bất tư nghị;
- Thanh văn Độc giác
- đã không lường nổi,
- mà chư Bồ tát
- cũng không lường thấu.
- (11) Xin đức Thế tôn
- thương tưởng đến con,
- thường cho con thấy
- thân đấng Đại bi.
- Con đem ba nghiệp
- không hề mệt mỏi
- thờ đức Đại từ,
- nguyện con mau chóng
- thoát khỏi sinh tử
- hội về chân như.
Đức Thế tôn nghe những chỉnh cú
tán dương này rồi, dùng tiếng Phạn âm mà bảo Bồ đề thọ thần, lành
thay thiện nữ; thiện nữ có thể có những lời tán dương tự lợi lợi
tha như vậy, tán dương diệu tướng của pháp thân Như lai, cái thân chân
thật, không dối, trong sáng. Do công đức tán dương này làm cho thiện nữ
mau chóng chứng được bồ đề tối thượng, lại làm cho chúng sinh cùng
tu tập như thiện nữ. Ai nghe được những lời tán dương này thì nhập
vào Cam lộ, vào cửa Vô sinh.
Phẩm
30: Biện Tài Tán Dương [^]
Vào lúc bấy giờ Đại biện tài
thiên nữ tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chắp tay cung kính,
đem những trực từ dưới đây mà tán dương đức Thế tôn.
Con xin kính lạy Ngài, đức Thích
ca mâu ni, đấng Như lai, đấng cúng, đấng Chánh đẳng giác. Thân màu
hoàng kim. Cổ như xa cừ. Mặt như trăng rằm. Mắt như sen xanh. Môi và miệng
đỏ và đẹp như pha lê. Mũi cao, dài và thẳng như đỉnh vàng. Răng trắng,
đều và khít như sen trắng. Ánh sáng thân thể chiếu tỏa như trăm ngàn mặt
trời. Màu sắc ánh sáng ấy như vàng Thiệm bộ.
Nói không sai lầm. Mở ba cửa giải
thoát và chỉ ba đường giác ngộ. Tâm thường thanh tịnh, ý thích cũng vậy.
Chỗ Ngài ở và chỗ Ngài đi (107) cũng thường thanh tịnh. Không thiếu uy
nghi, cử chỉ không sơ suất. Hành khổ hạnh sáu năm, chuyển pháp luân ba
vòng, hóa độ chúng sinh khốn khổ, làm cho trở về bờ giác. Thân tướng
giống như câu đà đại thọ. Sáu độ huân tu, ba nghiệp toàn hảo. Đủ
nhất thế trí, viên mãn tự lợi lợi tha. Nói gì cũng là vì chúng sinh.
Nói không vô ích, làm đại sư tử họ Thích. Kiên cố, dũng mãnh, hoàn thiện
tám pháp giải thoát.
Nay con tùy khả năng của mình mà
tán dương chút ít phẩm chất của đức Thế tôn. Việc ấy chỉ như muỗi
mòng uống nước biển cả. Nhưng con xin đem cái phước này hồi hướng
cho tất cả chúng sinh, nguyện cùng vĩnh ly sinh tử khổ, thành tựu vô thượng
đạo.
Đức Thế tôn bảo Đại biện tài
thiên nữ, lành thay thiện nữ; thiện nữ tu tập đã lâu và có đại hùng
biện, nay lại trình bày sự tán dương đối với Như lai. Việc này làm
cho thiện nữ tốc chứng pháp môn tối thượng, tướng hảo viên minh, ích
lợi tất cả.
Phẩm
31: Ký Thác Kinh Vua [^]
Khi ấy đức Thế tôn phổ cáo đại
hội, gồm có vô lượng bồ tát, nhân loại và chư thiên, rằng các người
nên biết, trong vô số đại kiếp, Như lai siêng tu khổ hạnh, mới được
cái Pháp cực sâu -- cái Pháp làm nhân tố chính yếu cho tuệ giác bồ đề,
và nay đã đem nói cho các người. Các người ai có chí dũng mãnh mà cung
kính giữ gìn Pháp ấy? Như lai nhập niết bàn rồi, đối với Pháp ấy ai
là người có khả năng quảng bá lưu thông, làm cho tồn tại lâu dài trên
thế giới này?
Trong đại hội, bấy giờ, có sáu
mươi câu chi bồ tát và sáu mươi câu chi chư thiên, khác miệng cùng tiếng
mà tác bạch như vầy, bạch đức Thế tôn, chúng con ai cũng hân hoan,
thích thú, không tiếc tính mạng để kính giữ cái Pháp cực sâu -- cái
Pháp làm nhân tố chính yếu của tuệ giác bồ đề, mà đức Thế tôn tu
hành khổ hạnh trong vô số đại kiếp mới đạt được. Sau khi đức Thế
tôn nhập niết bàn, đối với Pháp ấy, chúng con sẽ quảng bá lưu thông,
làm cho tồn tại lâu dài trên thế giới này. Các vị đại bồ tát tức
thì đối trước đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Thế tôn nói chân thật,
- trú ở pháp chân thật:
- chính sự chân thật ấy
- hộ trì cho kinh này.
- (2) Đại bi làm áo giáp,
- đại từ làm đất đứng:
- do từ bi lực ấy
- hộ trì cho kinh này.
- (3) Viên mãn phước tư lương,
- thì sinh trí tư lương;
- chính sự viên mãn ấy
- hộ trì cho kinh này.
- (4) Chiến thắng các loại ma,
- hủy diệt các tà thuyết,
- loại trừ các ác kiến,
- hộ trì cho kinh này.
- (5) Thiên vương và Đế thích,
- Phạn vương và tám bộ,
- chư thiên thiện thần ấy
- hộ trì cho kinh này.
- (6) Trên đất và trong không,
- ở lâu những chỗ này,
- kính tuân lời Phật dạy
- hộ trì cho kinh này.
- (7) Thích ứng bốn phạn trú,
- trang hoàng bốn thánh đế,
- chiến thắng bốn loại ma,
- hộ trì cho kinh này.
- (8) Hư không thành chất ngại,
- chất ngại thành hư không,
- nhưng Pháp mà Phật giữ
- thì không thể khuynh đảo.
Bốn vị Thiên vương nghe đức Thế
tôn hỏi sự hộ trì Pháp, thì ai cũng tùy hỷ, hộ trì Pháp ấy, và cùng
lúc cùng tiếng mà nói chỉnh cú.
- (9) Đối với kinh pháp này,
- chúng con và quyến thuộc
- đều nhất tâm hộ trì
- cho lưu thông rộng rãi.
- (9) Có ai trì kinh này,
- tạo bồ đề chính nhân,
- chúng con từ mọi phía
- hộ vệ và phụng sự.
Đế thích chắp tay cung kính mà
nói chỉnh cú.
- (10) Thế tôn chứng Pháp này,
- rồi muốn báo ơn đức
- nên tuyên thuyết kinh này
- lợi ích cho bồ tát.
- (11) Con đối với Thế tôn
- thường nghĩ sự báo ơn,
- nên hộ vệ kinh này
- cùng những người thọ trì.
Đỗ sử đa thiên tử chắp tay cung
kính mà nói chỉnh cú.
- (12) Thế tôn thuyết kinh này,
- nếu ai thọ trì được
- thì ở ngôi tuệ giác
- mà sinh Đỗ sử đa.
- (13) Thế tôn, con hân hoan
- bỏ lạc thú chư thiên
- mà ở trong Thiệm bộ
- tuyên dương kinh vua này.
Phạn vương chủ thế giới Sách ha
chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
- (14) Các định có vô lượng,
- các thiền, các giải thoát,
- toàn xuất từ kinh này,
- nên kinh này phải nói.
- (15) Ngay chỗ nói kinh này,
- con bỏ vui của con,
- để được nghe kinh này,
- thường hộ vệ chỗ ấy.
Con trai của Ma vương tên là Thương
chủ, chắp tay cung kính mà nói chỉnh cú.
- (16) Những ai trì kinh này,
- bản kinh thuận chánh hạnh,
- thì không tùy ma hành,
- và diệt trừ ma nghiệp.
- (17) Nên đối với kinh này
- chúng con cũng hộ vệ;
- chúng con đại tinh tiến
- tùy chỗ mà quảng bá.
Ma vương chắp tay cung kính mà nói
chỉnh cú.
- (18) Những ai trì kinh này,
- đàn áp các phiền não,
- thì những người như vậy
- con giữ cho yên vui.
- (19) Những ai giảng kinh này
- thì ma không được dịp;
- do uy thần Thế tôn
- con sẽ hộ vệ họ.
Diệu cát tường thiên tử cũng đối
trước đức Thế tôn mà nói chỉnh cú.
- (20) Tuệ giác của Thế tôn
- được nói trong kinh này,
- nên ai trì kinh này
- là hiến cúng Thế tôn.
- (21) Con sẽ trì kinh này
- giảng nói cho chư thiên,
- ai cung kính lắng nghe
- thì khuyên đến bồ đề.
Di lạc từ tôn chắp tay cung kính
mà nói chỉnh cú.
- (22) Những ai đứng vững vàng
- nơi bản thể bồ đề,
- thì vì họ con làm
- người bạn không cần mời;
- cho đến bỏ tính mạng
- mà hộ trì kinh vua.
- (23) Con nghe Pháp này rồi
- trở về Đỗ sử đa,
- do Thế tôn da trì
- mà nói cho nhân thiên.
Đại ca diếp ba thượng thủ chắp
tay cung kính mà nói chỉnh cú.
- (24) Đức Thế tôn đã nói
- rằng con ít trí tuệ,
- nên con tùy sức mình
- mà hộ trì kinh này.
- (25) Ai trì được kinh này
- thì con sẽ thu nhận,
- trao cho từ vô ngại
- cùng với biện vô ngại (108) ,
- và con thường tùy hỷ
- tán dương rằng lành thay.
Trưởng lão A nan đà chắp tay hướng
về đức Thế tôn mà nói chỉnh cú.
- (26) Đích thân từ Thế tôn
- con nghe vô số kinh,
- nhưng chưa từng được nghe
- kinh vua của các kinh.
- (27) Con nghe được kinh này
- là thân nghe trước Ngài,
- ai ưa thích tuệ giác
- con quảng bá cho họ.
Bấy giờ đức Thế tôn thấy chư
vị bồ tát, chư thiên và nhân loại, cùng cả đại hội, ai cũng phát tâm
quảng bá hộ vệ kinh vua này, khuyến tiến bồ tát và quảng lợi chúng
sinh, nên đức Thế tôn tán dương rằng lành thay, đối với kinh vua này
các người chân thành quảng bá được như vậy, đến nỗi sau khi Như lai
niết bàn cũng nguyện không để kinh vua này mất đi. Việc làm này chính
là nhân tố chính yếu của vô thượng bồ đề, và công đức đạt được
thì nói mấy kiếp cũng không cùng tận. Bốn bộ đệ tử của Như lai, và
những thiện nam hay thiện nữ khác, biết hiến cúng, tôn kính, sao chép, lưu
hành và giải thích đối với kinh vua này, thì công đức đạt được
cũng là như vậy. Do vậy, đại hội các người hãy siêng năng thực thi sự
khuyến khích của Như lai.
Bấy giờ cả đại hội nghe đức
Thế tôn huấn dụ, thì ai cũng đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn
Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm
này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ
3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
|
|