...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
- (Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
- bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
5
Phẩm 16:
Cát Tường Thiên Nữ [^]
Vào lúc bấy giờ Đại cát tường
thiên nữ tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước tới đảnh lễ
ngang chân đức Thế tôn, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn,
nếu con thấy trong bốn bộ đệ tử của đức Thế tôn có ai tiếp nhận,
ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giảng nói cho người bản kinh Ánh sáng
hoàng kim này, thì con chuyên tâm tôn kính hiến cúng những vị pháp sư ấy.
Đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm, dược phẩm, cùng với tất cả đồ dùng cần
thiết cho đời sống, con làm cho đủ cả, không thiếu thứ gì. Để những
vị pháp sư ấy sống thư thái mà, ngày cũng như đêm, tư duy cứu xét văn
tự và nghĩa ý của bản kinh vua này. Nhờ vậy mà làm cho bản kinh vua này
quảng bá rộng rãi trong đại lục Thiệm bộ, để cho những người đã
trồng thiện căn nơi chỗ vô số chư vị Thế tôn thường được lắng
nghe, chứ không ẩn mất mau chóng; để cho những người ấy trong vô số
kiếp sẽ hưởng hạnh phúc vượt bậc trong nhân loại chư thiên, hiện tại
thì sung túc, không bao giờ còn bị đói khát. Lại nhờ vậy mà làm cho
chúng sinh được hưởng yên vui, được gặp chư vị Thế tôn, vị lai mau
được vô thượng bồ đề, tuyệt hẳn cái khổ luân hồi ba nẻo đường
dữ.
Bạch đức Thế tôn, con nhớ quá
khứ có đức Thế tôn danh hiệu Lưu ly kim sơn bảo hoa quang chiếu cát tường
công đức hải như lai, đủ mười đức hiệu. Con đã gieo trồng thiện căn
ở nơi đức Thế tôn ấy. Chính nhờ thần lực của đức Thế tôn ấy từ
bi da trì mà làm cho con nghĩ chỗ nào, nhìn hướng nào, đến nước nào, đều
đem lại lạc thú cho vô số chúng sinh; ngoài y phục, ẩm thực, những thứ
cần thiết để sống, họ còn có cả bạc vàng, lưu ly, xa cừ, mã não,
san hô, hổ phách, chân châu. Do vậy, những ai chí tâm đọc tụng kinh vua
Ánh sáng hoàng kim này, thì cũng nên mỗi ngày đốt những hương liệu danh
tiếng, chưng những bông hoa tốt đẹp, vì con mà hiến cúng đức Lưu ly
kim sơn bảo hoa quang chiếu cát tường công đức hải như lai, thêm nữa, mỗi
ngày ba buổi xưng niệm danh hiệu của con, đặt riêng hương hoa và mĩ vị
mà hiến cúng cho con. Những ai lắng nghe tiếp nhận kinh vua này thì cũng
được phước như trên.
Đại cát tường thiên nữ nói những
lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Do sự trì kinh
- như con đã nói,
- mà bản thân họ
- cùng với thân quyến
- tách rời thật xa
- bao sự suy biến,
- đồ dùng đầy đủ
- không bao giờ thiếu,
- uy quang, thọ lượng
- đều khó cùng tận.
- (2) Cái lực trì kinh
- làm đất màu mỡ,
- làm mưa với gió
- rất đúng thời vụ,
- chư thiên đẹp dạ,
- chư thần ra sức.
- (3) Cây trái tốt tươi,
- lúa má toàn hảo,
- cầu tài cũng thỏa,
- nghĩ gì toại ý.
Đức Thế tôn bảo Đại cát tường
thiên nữ, rằng lành thay, thiện nữ có thể nhớ trả ơn xưa mà chỉ
cách hiến cúng, lợi ích yên vui cho vô số chúng sinh, và quảng bá kinh
này thì phước đức thật bất tận.
Phẩm 17:
Tăng Trưởng Tài Vật [^]
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ
lại thưa, bạch đức Thế tôn, Đa văn thiên vương ở hướng bắc có
thành trì tên là Hữu tài. Cách thành trì ấy không xa thì có hoa viên tên
là Diệu hoa phước quang. Trong hoa viên này có cung điện thù thắng, do bảy
chất liệu quí báu tạo thành. Con thường ở trong cung điện ấy. Những
ai muốn cầu ngũ cốc mỗi ngày mỗi thêm, kho lẫm tràn đầy, thì phải
có cái tâm kính tin, sửa dọn một phòng cho sạch, dùng cù ma mà tráng nền.
Hãy vẽ tượng con với những chuỗi ngọc trang sức khắp người. Phải tắm
rửa mình mẩy, xoa xát hương liệu, mặc đồ sạch sẽ. Vào tịnh thất
thì hãy phát tâm vì con mà mỗi ngày ba buổi xưng niệm hồng danh đức Thế
tôn của con, và danh hiệu kinh này mà kính lạy. Hãy niệm Nam mô Lưu ly kim
sơn bảo hoa quang chiếu cát tường công đức hải như lai, [Nam mô Kim quang
minh tối thắng vương kinh]. Hãy đem hương hoa và mĩ vị mà chí tâm phụng
hiến. Cũng hiến cúng hình tượng của con bằng hương hoa và ẩm thực. Lại
đem ẩm thực mà vãi các phương hướng, hiến cho chư thần. Rồi nói
thành thật mà triệu thỉnh con, Đại cát tường thiên nữ, để phát ra ước
nguyện của mình. Và rằng nếu Thiên nữ nói thật thì đừng để thỉnh
nguyện của con vô hiệu quả. Bấy giờ con, Đại cát tường thiên nữ, biết
sự thể này thì thương tưởng, làm cho nhà họ thêm thóc lúa, thêm tài vật.
Hãy tụng minh chú sau đây mà triệu thỉnh con. Nhưng trước khi tụng minh
chú, hãy chí tâm mà xướng và lạy hồng danh của chư vị Như lai và chư
vị Bồ tát.
- Kính lạy chư vị Như lai khắp mười phương hướng
trong ba thì gian,
- Kính lạy đức Bảo kế như lai,
- Kính lạy đức Vô cấu quang minh bảo tràng như
lai,
- Kính lạy đức Kim tràng quang như lai,
- Kính lạy đức Bách kim quang tạng như lai,
- Kính lạy đức Kim cái bảo tích như lai.
- Kính lạy đức Kim hoa quang tràng như lai,
- Kính lạy đức Đại đăng quang như lai,
- Kính lạy đức Đại bảo tràng như lai,
- Kính lạy đức Bất động như lai ở hướng đông,
- Kính lạy đức Bảo tràng như lai ở hướng nam,
- Kính lạy đức Vô lượng thọ như lai ở hướng
tây,
- Kính lạy đức Thiên cổ âm vương như lai ở hướng
bắc,
- Kính lạy đức Diệu tràng bồ tát,
- Kính lạy đức Kim quang bồ tát,
- Kính lạy đức Kim tạng bồ tát,
- Kính lạy đức Thường đề bồ tát,
- Kính lạy đức Pháp thượng bồ tát,
- Kính lạy đức Thiện an bồ tát.
Kính lạy chư vị Như lai và chư vị
Bồ tát rồi, kế đó, trì tụng minh chú sau đây mà triệu thỉnh con, Đại
cát tường thiên nữ. Do cái lực của minh chú này mà sự nguyện cầu được
hiệu quả. Đại cát tường thiên nữ tức thì tuyên thuyết minh chú ấy:
Nam mô, Sri ma ha đê vi, tát da tha, pa ri pua na cha rê, Sa măn ta đar sa ni, ma
ha vi ha ra ga tê, sa man ta, pi ta ma ma ti, ma ha ka ri da, prát vít tha pi ni, sar văn
tơ, a sa măn tan, su pra ti pu rê, a da na đa ma ta, ma ha ba gê na, ma ha mai tri, u
pa săm hê tê, ma hắt lê sa, su sam gri hơ tê, a nu pu la na, soa ha. (Namo
Srimahadevi tadyatha paripurnacare Samantadarsani mahaviharagate samanta pitamamati
mahakarya prat'visthapini sarvant asamantan (?) supratipure ayanadharmata mahabhagena
mahamaitri upasamhete mahaklesa susamgrh'te anupulana svaha).
Bạch đức Thế tôn, ai trì tụng
minh chú này để triệu thỉnh con, thì con nghe là đến ngay chỗ người ấy
để làm cho họ toại nguyện. Bạch đức Thế tôn, minh chú này là câu chữ
của đại pháp quán đảnh, câu chữ của đại định thành tựu, câu chữ
tối chân thật, câu chữ không dối trá, là việc làm bình đẳng, là thiện
căn chính yếu đối với chúng sinh. Thọ trì đọc tụng minh chú này thì
phải bảy ngày đêm thọ giới Bát quan trai, mỗi buổi sáng sớm đánh răng
súc miệng sạch sẽ rồi, sau lúc quá trưa (83) thì hiến cúng hương hoa lên
chư vị Thế tôn, phát lộ tội lỗi của mình. Hãy vì bản thân và vì
chúng sinh mà hồi hướng, phát nguyện. Như thế mới làm cho hy vọng mau
thành tựu. Hãy dọn sạch một cái phòng, hoặc ở chỗ trống vắng, hoặc
ở chỗ lan nhã, dùng cù ma mà làm đàn tràng, đốt đàn hương mà hiến
cúng. Hãy đặt một cái ghế đặc biệt, trang hoàng tràng phan, lọng dù.
Hãy dùng bông hoa danh tiếng mà sắp ra trong đàn tràng. Rồi chí tâm tụng
trì minh chú đã nói ở trên, mong ước con đến. Lúc này con tức khắc nghĩ
đến người ấy, quan sát người ấy, và đến trong đàn tràng, ngồi nơi
cái ghế đặc biệt, nhận sự hiến cúng của người ấy. Từ đó về
sau, con làm cho người ấy được mộng thấy con. Người ấy cầu gì thì cứ
nói thật. Thì dầu ở trong làng xóm, ở cạnh đầm chằm, hay ở trong trú
xứ chư tăng, cầu gì cũng thỏa. Bạc vàng, tài sản, gia súc, thóc lúa,
ẩm thực, y phục, đều tùy tâm ước muốn mà hưởng thụ lạc thú. Nhưng
được sự linh nghiệm rồi, trước hết phải đem phần thượng hạng mà
hiến cúng Tam bảo, hồi thí cho con. Hãy làm pháp hội lớn, thiết ẩm thực
và bày hoa hương. Hiến cúng rồi thì cúng phẩm đem bán đi, lấy tiền mà
hiến cúng nữa. Trọn đời người ấy con thường ở bên cạnh, giúp cho
người ấy không thiếu thứ gì, cầu gì cũng thỏa. Nhưng cũng phải thường
xuyên chu cấp cho người nghèo thiếu, không được tiếc lẫn, chỉ vị bản
thân. Lại thường đọc tụng kinh này, hiến cúng không ngớt. Phải đem cái
phước này phổ thí tất cả mà hồi hướng bồ đề, nguyện vượt sinh tử
mà giải thoát mau chóng.
Bấy giờ đức Thế tôn tán dương,
rằng lành thay Đại cát tường thiên nữ. Thiên nữ có thể quảng bá kinh
này như vậy. Thì thật bất khả tư nghị, lợi ích cho cả bản thân và
tha nhân.
Phẩm 18:
Kiên Lao Địa Thần [^]
Vào lúc bấy giờ Kiên lao địa thần
ở trong đại hội tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chắp tay cung
kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong hiện tại hay trong vị lai, những
nơi thành thị, làng xóm, cung vua, lầu đài, lan nhã, chằm núi, rừng hoang,
chỗ nào có bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này quảng bá thì, bạch đức
Thế tôn, con sẽ đến chỗ ấy, hiến cúng, tôn kính, hộ vệ, quảng bá.
Chỗ nào đặt tòa cao cho vị pháp sự diễn giảng kinh này, thì con đem thần
lực, không biểu hiện bản thân, mà ở ngay nơi tòa cao đưa đỉnh đầu
đội chân cho vị pháp sư ấy bước lên. Con được nghe pháp, thâm tâm
hoan hỷ, được hưởng pháp vị, tăng thêm uy quang, mừng vui vô hạn. Bản
thân con được lợi ích như vậy, con làm cho cõi đất to lớn này, sâu một
trăm sáu mươi tám ngàn, sâu đến kim cang luân, màu mỡ của đất đều thêm
lên. Trong bốn biển, đất đai tất cả hải đảo cũng vậy, được làm
cho màu mỡ hơn ngày thường. Trong đại lục Thiệm bộ, bao nhiêu sông rào
ao hồ mà có các loại cây, cỏ thuốc, lùm rừng với các thứ hoa quả, rễ
thân, nhánh lá, cùng với lúa má, thì bề ngoài ai cũng đã thích nhìn, màu
sắc hương vị đủ cả, và thứ nào cũng dùng được. Dùng những ẩm thực
phẩm khác thường như vậy thì tăng thêm sống lâu, sắc đẹp, và sức mạnh,
tất cả giác quan đều ổn định, tươi sáng thêm lên, đau đớn không
còn. Tâm trí mạnh mẽ, đủ mọi kham năng. Cả địa cầu này cần gì thì
hàng trăm hàng ngàn sự việc đều hoàn bị. Bạch đức Thế tôn, vì tình
trạng này mà cả đại lục Thiệm bộ yên ổn sung túc, dân chúng đông đảo,
không mọi suy tổn, ai cũng an lạc.
Cả cơ thể và tâm trí hưởng được
lạc thú như vậy, thì đối với bản kinh vua này càng thêm mến trọng
sâu xa, ở đâu cũng muốn thọ trì, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương.
Lại cùng nhau đến chỗ pháp tòa của vị pháp sư, vì chúng sinh mà thỉnh
cầu diễn giảng bản kinh vua tối thắng này. Tại sao, vì bạch đức Thế
tôn, diễn giảng kinh này thì bản thân con và mọi tùy thuộc đều nhờ lợi
ích, khí lực tươi sáng, uy thế mạnh mẽ, dung mạo đoan trang, sắc tướng
đẹp đẽ, tất cả đều hơn ngày thường. Bạch đức Thế tôn, con, Kiên
lao địa thần, hưởng được pháp vị rồi, có thể làm cho đại lục này,
với bảy ngàn lần trăm triệu chu vi đất đai đều màu mỡ, cho đến như
trước đã nói ai cũng an lạc. Do vậy, bạch đức Thế tôn, lúc đó chúng
sinh, để trả ơn con, nên nghĩ như vậy, ta nhất định phải lắng nghe tiếp
nhận kinh vua ấy, cung kính hiến cúng tôn trọng, tán dương. Nghĩ vậy nên
từ bất cứ chỗ nào họ cư trú, họ cùng đến pháp hội, kính lạy pháp
sư, lắng nghe kinh này. Lắng nghe rồi, ai nấy trở về chỗ cũ, lòng rất
mừng vui, và nói rằng nay chúng ta được nghe cái pháp thậm thâm vô thượng,
thế là đã thu nhận cái khối phước đức bất khả tư nghị. Do cái lực
của kinh này, chúng ta sẽ gặp được vô lượng chư vị Thế tôn mà phụng
sự hiến cúng, vĩnh ly những chỗ tối khổ là ba nẻo đường dữ. Thêm nữa
là vị lai, trong hàng trăm hàng ngàn đời, thường hưởng hạnh phúc hơn hết
ở trong nhân loại và trên chư thiên. Khi trở về chỗ cũ, họ cũng nói
cho những người đồng hương về bản kinh vua này. Họ nói kinh này qua một
sự ví dụ, một phẩm, một chuyện đời trước, một danh hiệu Thế tôn,
một danh hiệu Bồ tát, một bài chỉnh cú bốn câu, hoặc một câu có nghĩa,
hay đến nỗi chỉ nói tên kinh. Như thế thì bạch đức Thế tôn, chỗ họ
cư trú đất đai phì nhiêu hơn chỗ khác. Đất đai ấy sản xuất gì cũng
tăng trưởng, tươi tốt, to lớn, làm cho chúng sinh thụ hưởng lạc thú,
nhiều của, ưa bố thí, tâm chí kiên định mà thâm tín Tam bảo.
Kiên lao địa thần thưa như vậy rồi,
đức Thế tôn bảo, rằng Kiên lao địa thần, nếu ai nghe được kinh vua
Ánh sáng hoàng kim thì, dầu chỉ một câu, họ chết cũng sinh Đao lợi hay
các thiên xứ khác. Ai vì sự hiến cúng kinh vua này mà trang hoàng nhà cửa,
thì đến nỗi chỉ trương một cái lọng dù, treo một cái tràng phan, cũng
do nhân tố ấy mà sinh trong sáu thiên xứ cõi Dục, sống trong cung điện
thất bảo mà thụ hưởng tùy thích, và điều mà ai cũng tự nhiên có được
là vui với bảy ngàn thiên nữ, ngày đêm thường xuyên hưởng thụ cái phước
đặc biệt và khó mà nghĩ bàn.
Đức Thế tôn dạy như vầy rồi,
Kiên lao địa thần lại thưa, bạch đức Thế tôn, chính vì sự thể đức
Thế tôn đã nói, nên những ai trong bốn bộ đệ tử của Ngài lên ngồi
pháp tòa diễn giảng kinh này, thì con ngày đêm hộ vệ những người ấy,
tự ẩn mình đi, đưa đỉnh đầu mình mà đỡ chân cho vị pháp sư khi bước
lên và khi ngồi trên pháp tòa. Bạch đức Thế tôn, kinh này vì những người
đã trồng thiện căn nơi vô số chư vị Thế tôn mà quảng bá bất tuyệt
trong đại lục Thiệm bộ. Những người ấy lắng nghe kinh này thì vị lai
vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc vượt bậc trong chư thiên nhân loại,
được gặp chư vị Thế tôn, được mau thành tựu vô thượng bồ đề, và
nhất là không còn phải trải qua cái khổ sống và chết trong ba nẻo đường
dữ.
Khi ấy Kiên lao địa thần lại
thưa, bạch đức Thế tôn, con có một bài minh chú (84) có năng lực lợi
ích nhân thiên, an lạc tất cả. Nam tử nữ nhân nào, hay bốn bộ đệ tử
của đức Thế tôn, muốn được đích thân nhìn thấy chân thân của con,
thì phải chí tâm mà trì minh chú ấy. Thì tùy sở nguyện mà toại ý cả.
Là như nguyện được đồ dùng để sống, nguyện được tài sản, nguyện
được vàng ngọc, nguyện được kho tàng ẩn trong lòng đất, nguyện được
những khả năng thần kỳ, nguyện được thuốc thần để trường sinh hay
trị liệu mọi bịnh, nguyện chiến thắng thù địch, nguyện chế ngự các
thứ luận thuyết. Hãy dọn một tịnh thất mà thiết đạo tràng, tắm
mình mẩy, mặc đồ sạch, ngồi nệm cỏ. Hãy đối trước hình tượng Phật
có xá lợi, hay trước chùa tháp Phật có xá lợi, mà đốt hương, rải
hoa, hiến dâng ẩm thực. Lấy ngày tám tháng trăng sáng (85) , hoặc là
ngày sao Bố sái (86) mà tụng minh chú triệu thỉnh con, Kiên lao địa thần:
Tát da tha, chi ri, chi ri, chu ru, chu ru, ku ru, ku ru, ku tu, ku tu, tô tu, tô tu,
ba ha, ba ha, sa va ri, sa va ri, soa ha. (Tadyatha ciri ciri curu curu kuru kuru kutu
kutu totu totu bhaha bhaha savari savari svaha).
Bạch đức Thế tôn, minh chú này,
nếu có ai trong bốn bộ đệ tử Thế tôn tụng được một trăm tám biến
mà triệu thỉnh con, thì con sẽ đến tức khắc. Lại nữa, bạch đức Thế
tôn, nếu ai muốn thấy con biểu hiện thân ra để nói chuyện với nhau,
thì cũng phải sắp đặt như trước rồi tụng minh chú này: Tát da tha, a
cha ni, gri li ga, kơ sa na ti, si ra, sít đa ri, ha, ha, hi, hi, ku ru, ba rê, soa
ha. (Tadyatha acani griliga ksanati sira sidhari ha ha hi hi kuru bhare svaha).
Bạch đức Thế tôn, tụng minh chú
này thì phải một trăm tám biến, lại tụng minh chú trên nữa, thì quyết
chắc con sẽ biểu hiện thân con, thành tựu cho sở nguyện của họ, hoàn
toàn không vô hiệu quả. Nhưng muốn tụng minh chú này thì trước hết phải
tụng minh chú giữ mình: Tát da tha, ni si ri, ma sa ka ni, na ti, ku ti, bút đi,
bút đi rê, bi ti, bi ti, ku ku ti, ba chi ri, soa ha. (Tadyatha nisiri masakani nati
kuti budhi budhire biti biti kukuti baciri svaha).
Bạch đức Thế tôn, tụng minh chú
này thì dùng chỉ ngũ sắc, tụng hai mươi mốt biến thì thắt hai mươi mốt
gút, đem buộc sau khuỷu tay trái, thì giữ mình mà không có gì sợ hãi nữa.
Chí tâm mà tụng minh chú này thì cầu gì cũng thỏa. Con không vọng ngữ.
Phật pháp tăng là chứng điệp của con, chứng nhận cho con.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Kiên
lao địa thần, lành thay, địa thần có thể đem minh chú nói thật mà hộ
trì kinh này và pháp sư quảng bá kinh này. Nhân tố này làm cho địa thần
được phước báo vô số lượng.
Phẩm 19:
Dược Xoa Đại Tướng [^]
Vào lúc bấy giờ, đại tướng Dược
xoa là Chánh liễu tri, cùng với chư thần hai mươi tám bộ Dược xoa, ở
trong đại hội cùng nhau đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, vắt vạt áo của
vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức
Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, ở
thành thị, ở làng xóm, ở chằm núi, ở rừng hoang, ở cung điện vua, ở
tăng trú xứ, ở bất cứ chỗ nào mà bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này
quảng bá đến, thì, bạch đức Thế tôn, con, đại tướng Chánh liễu
tri, cùng chư thần hai mươi tám bộ Dược xoa, đều đến chỗ ấy, cùng
ẩn mình đi, tùy chỗ mà hộ vệ cho vị thuyết pháp khỏi suy tổn, hưởng
yên vui; hộ vệ cho những người nghe pháp, bất kể nam hay nữ, đồng nam
hay đồng nữ, mà đối với bản kinh vua này dầu chỉ tiếp nhận ghi nhớ
một bài chỉnh cú bốn câu, hoặc một câu có nghĩa, hoặc cái tên của bản
kinh vua này mà thôi, hoặc một danh hiệu Thế tôn hay một danh hiệu Bồ
tát trong bản kinh vua này mà phát tâm xưng niệm tôn kính hiến cúng, thì
con hộ vệ, thu nhận, làm cho khỏi tai nạn, rời khổ được vui.
Bạch đức Thế tôn, tại sao tên
con là Chánh liễu tri, [thấu hiểu chính xác]? Điều này thì chính đức Thế
tôn đích thân làm chứng cho con. Con biết các pháp, con hiểu các pháp. Tùy
các pháp có gì, như các pháp là gì (87) thì, bạch đức Thế tôn, con thấu
hiểu cả. Con có ánh sáng trí tuệ khó lường, có ánh đuốc trí tuệ khó
lường, có việc làm trí tuệ khó lường, có cái khối trí tuêể khó lường,
nên đối với lĩnh vực trí tuệ khó lường con thông suốt được cả. Bạch
đức Thế tôn, vì đối với các pháp con biết chính xác, hiểu chính xác,
ngộ chính xác, có năng lực chính xác quan sát, nên bạch đức Thế tôn,
con tên là đại tướng Chánh liễu tri. Do yếu tố này mà con làm cho người
thuyết pháp ngôn từ hùng biện đều cụ túc trang nghiêm, lại làm cho sinh
khí nhập vào qua lỗ chân lông nên toàn hảo tất cả thể lực sung mãn,
uy thần mạnh mẽ, trí quang khó lường; được ký ức chính xác nên không
có khuất phục, được thể lực gia tăng nên không có suy tổn, được giác
quan thư thái nên thường sinh hoan hỷ; và vì vậy mà quảng bá kinh vua này
trong đại lục Thiệm bộ cho những người gieo trồng thiện căn và tu tạo
phước nghiệp nơi vô số chư vị Thế tôn, chứ không để ẩn mất mau chóng.
Những người này lắng nghe kinh vua này thì được cái ánh trí tuệ nan tư
nghị và được cái khối phước trí vô số lượng; và trong thì vị lai
thì vô số kiếp thường được thụ hưởng hạnh phúc vượt bậc trong nhân
loại chư thiên, được gặp chư vị Thế tôn, được mau chứng vô thượng
bồ đề, đặc biệt không còn đi qua những nỗi tối khổ trong ba nẻo
đường dữ của lĩnh vực Diêm la.
Bấy giờ đại tướng Chánh liễu
tri thưa rằng, bạch đức Thế tôn, con có một minh chú, xin đích thân tự
trình bày trước đức Thế tôn, để thương tưởng lợi ích cho bao chúng
sinh: Nam mô Bút đa da, nam mô Đa ma da, nam mô Săm ga da, nam mô Brắt ma da,
nam mô In đra da, na ma hơ cha tu năm, ma ha ra ja năm, tát da tha, hi ri, hi ri, mi
li, mi li, Gau ri, Ma ha gau ri, Găn đa ri, Ma ha găn đa ri, Đra vi đi, Ma ha đra
vi đi, đăn đa, khu kun tê, ha, ha, ha, ha, ha, hi, hi ,hi, hi, hi, hô, hô, hô,
hô, hô, ha la, đa ma, ku đa mê, cha, cha, cha, cha, chi, chi, chi, chi, chu, chu,
chu, chu, chăn đê soa ra, sít kha ra, sít kha ra, út tít ta hi, ba ga văn, săm
chin ja da, soa ha. (Namo Buddhaya, namo Dharmaya, namah Samghaya, namo Brahmaya, namo
Indraya, namah caturnam mahasjanam, tadyatha hiri hiri mili mili Gauri Mahagauri Gandhari
Mahagandhari Dravidi Mahadravidi danda khukunte ha ha ha ha ha, hi hi hi hi hi, ho ho ho
ho ho, hala dhana kudame, ca ca ca ca, ci ci ci ci, cu cu cu cu, candesvara sikhara
sikhara uttistahi bhagavan saceinjaya svaha).
Bạch đức Thế tôn, ai thọ trì
được minh chú này thì con cung phụng đủ cả đồ dùng để sống để
vui, cung cấp ẩm thực, y phục, hoa quả, trân bảo, hoặc cầu con trai con
gái, cầu bạc vàng trân bảo, hay cầu những chuỗi ngọc, con cung phụng
cho cả, không để nguyện cầu mà thiếu thốn. Minh chú này có uy lực cực
lớn. Trì tụng minh chú này thì con đến mau chỗ người ấy, làm cho toại
ý mà không có gì trở ngại. Trì tụng minh chú này thì phải biết cách thức.
Ấy là trước hết vẽ tượng con trên một mặt phẳng, cao bốn năm thước
xưa, tay cầm mâu thử (88) . Trước tượng này làm cái đàn bốn hướng,
đặt bốn cái bình trong đựng đầy nước mật hay nước đường. Rồi
xoa hương liệu, đốt hương liệu, và hiến những vòng hoa. Trước đàn để
cái lò đất, trong để tro nóng có lửa mà đốt tô ma giới tử. Tụng
minh chú trên một trăm tám biến, mỗi biến đốt một lần. Cho đến lúc
con, đại tướng Chánh liễu tri, tự đến biểu hiện bản thân, hỏi người
tụng chú, rằng cần gì thì cứ nói. Con tức khắc tùy lời người ấy nói
mà làm cho thỏa mãn. Cần bạc vàng, cần kho tàng ẩn trong lòng đất, cần
thần tiên lướt không gian mà đến, cần thiên nhãn thông, cần tha tâm
thông, tất cả sự cần cầu như vậy để lợi ích chúng sinh thì tùy ý
thành tựu, cho đến làm cho chúng sinh diệt phiền não, chứng giải thoát,
cũng thực hiện được cả.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo đại
tướng dược xoa Chánh liễu tri, rằng lành thay đại tướng. Đại tướng
có thể lợi ích chúng sinh như vậy, tuyên thuyết minh chú để hộ vệ chánh
pháp, phước lợi thật vô biên.
Phẩm 20:
Vương Pháp Chính Luận [^]
Bấy giờ nữ thần đại địa tên
Kiên lao địa thần, ở trong đại hội lại từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ ngang chân đức Thế tôn, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn,
trong mọi quốc gia, những người làm quốc vương, nếu không có chánh
pháp thì không thể quản trị quốc gia, an dưỡng quốc dân, bảo đảm bản
thân ngồi lâu vương vị. Kính xin đức Thế tôn từ bi thương tưởng, dạy
cho con nghe về vương pháp chính luận, chủ yếu của sự quản trị quốc
gia. Để cho các vị quốc vương nghe được chánh pháp này thì tuân hành
đúng như huấn dụ, đem chánh pháp mà hoá cải quốc dân, làm cho ngôi vua
an ninh, quốc dân lợi lạc. Lúc ấy, ở trong đại hội, đức Thế tôn bảo
Kiên lao địa thần, địa thần hãy nghe cho kyծ Quá khứ có quốc vương tên
là Lực tôn tràng. Quốc vương có thái tử tên Diệu tràng. Đăng quang không
bao lâu, phụ vương bảo Diệu tràng, có vương pháp chính luận tên là
Pháp của trời dạy. Trước đây ta đăng quang làm quốc vương, thì phụ vương
của ta tên Trí lực tôn tràng đã dạy cho ta chính luận ấy. Ta y theo nên
khéo quản trị quốc gia trong hai mươi ngàn năm, ta nhớ không hề mống
lên một ý nghĩ làm điều phi pháp. Ngày nay con cũng phải như vậy. Đừng
đem điều phi pháp mà quản trị quốc gia. Vương pháp chính luận là gì,
con hãy nghe cho khéo, ta sẽ nói cho. Thế rồi quốc vương Lực tôn tràng liền
nói cho con về chính luận ấy, bằng những chỉnh cú sau đây.
- (1) Tôi nói vương pháp luận
- lợi lạc bao sinh linh,
- để loại trừ hoài nghi
- và loại bỏ lỗi lầm.
- (2) Tất cả các thiên chủ
- cùng với các nhân vương
- nên sinh tâm hoan hỷ
- chắp tay nghe tôi nói.
- (3) Xưa bộ chúng chư thiên
- họp tại Kim cương sơn,
- bốn Thiên vương đứng dậy
- xin hỏi Đại phạn vương.
- (4) Đại phạn vương tối tôn
- tự tại nhất chư thiên,
- xin thương tưởng chúng tôi
- loại trừ giúp hoài nghi.
- (5) Làm sao ở nhân loại
- mà được gọi là trời?
- lại vì lý do nào
- mà gọi là con trời?
- (6) Tại sao sinh nhân gian
- một mình làm nhân vương?
- rồi sao tại chư thiên
- lại được làm thiên chủ?
- (7) Người hộ vệ thế giới
- hỏi Đại phạn vương rồi,
- Đại phạn vương bấy giờ
- liền nói cho họ nghe.
- (8) Người hộ vệ thế giới,
- vì ích lợi bao kẻ
- mà hỏi phép trị nước,
- ta nói, hãy lắng nghe.
- (9) Do lực thiện nghiệp cũ
- sinh thiên làm thiên chủ;
- lại ở trong nhân loại
- làm quốc vương thống lĩnh.
- (10) Chư thiên cùng da hộ
- mới nhập vào thai mẹ,
- khi ở trong thai mẹ
- chư thiên vẫn giữ gìn.
- (11) Dẫu sinh trong nhân loại
- tôn hơn nên gọi trời,
- do chư thiên hộ vệ
- nên được gọi con trời.
- (12) Chúa trời Đao lợi thiên
- phân sức giúp nhân vương,
- và tất cả chư thiên
- cũng giúp sức tự tại.
- (13) Loại trừ mọi phi pháp
- không cho sinh ác nghiệp,
- dạy người tu điều thiện
- để họ sinh chư thiên.
- (14) Nhân loại, a tô la,
- càn thát bà vân vân,
- la sát, chiên trà la,
- cùng giúp đến nửa sức.
- (15) Cha mẹ giúp nửa sức
- để bỏ ác làm lành,
- chư thiên càng hộ trì
- chỉ cho thấy phước báo.
- (16) Nếu tạo tác ác nghiệp
- thì ngay trong hiện tại
- chư thiên đã không giúp
- chỉ cho thấy ác báo.
- (17) Quốc dân tạo ác nghiệp,
- quốc vương không cấm đoán,
- thế là phi chánh pháp
- không đúng cách trị đuổi.
- (18) Thấy ác mà không chận,
- phi pháp tự tươi lớn,
- thế là trong vương quốc
- gian trá ngày càng nhiều.
- (19) Quốc vương thấy quốc dân
- làm ác mà không ngăn,
- thì chư thiên Đạo lợi
- cùng sinh ra phẫn nộ.
- (20) Nên quốc chính thương tổn
- dối trá lan khắp nước,
- bị ngoại thù xâm lược
- hủy diệt cả vương quốc.
- (21) Nhà ở với đồ dùng
- tài sản đều tan hoang,
- nịnh và láo đa dạng
- chiếm đoạt hại lẫn nhau.
- (22) Do Pháp mới làm vua,
- mà không tuân hành Pháp,
- quốc dân phải tan rã
- như hồ sen voi dẫm.
- (23) Gió dữ nổi lên mãi,
- mưa dữ đổ trái mùa,
- yêu tinh lắm biến quái,
- nhật nguyệt thực tối mờ.
- (24) Ngũ cốc cùng hoa quả
- trái hạt đều hư hỏng,
- quốc gia bị đói khát
- vì vua bỏ chánh pháp.
- (25) Vua mà bỏ chánh pháp
- đem phi pháp dạy dân,
- thì ở cung điện mình
- chư thiên vẫn lo rầu.
- (26) Những vị thiên vương ấy
- cùng nhau nói như vầy,
- vua mà làm phi pháp,
- phe ác hùa với nhau.
- (27) Thì ngôi vua bất an,
- chư thiên cùng phẫn nộ,
- chư thiên mà phẫn nộ,
- quốc gia ấy bại vong.
- (28) Giáo dục bằng phi pháp
- lan tràn trong quốc gia,
- thì đấu tranh gian dối,
- thì bịnh dịch hoành hành.
- (29) Thiên chủ không hộ vệ,
- chư thiên khác cũng bỏ,
- quốc gia sẽ diệt vong,
- quốc vương bị khổ ách.
- (30) Cha mẹ và vợ con
- anh em và chị em
- đều bị khổ biệt ly,
- đến nỗi phải mất mạng.
- (31) Biến quái và sao sa,
- nóng như hai mặt trời,
- giặc thù đến từ ngoài,
- quốc dân phải tan hoang.
- (32) Đại thần cả nước trọng
- thì chết oan chết uổng,
- đến voi ngựa vân vân
- cũng tản mát sạch không.
- (33) Giặc giã khắp mọi nơi,
- dân chết vì phi pháp,
- ác quỉ thì xâm nhập,
- bịnh dịch thì hoành hành.
- (34) Tối đại thần trong nước,
- cùng các vị phụ tướng,
- lòng đầy những dua nịnh,
- cùng nhau làm phi pháp.
- (35) Thấy kẻ làm phi pháp
- mà yêu mến kính nể,
- thấy người làm thiện pháp
- lại hành hạ khổ sở.
- (36) Do yêu nể kẻ ác
- mà hành hạ người lành,
- nên tinh tú, phong, vũ,
- không còn thuận thời tiết.
- (37) Ba điều xấu ấy sinh
- thì chánh pháp ẩn mất,
- con người hết tươi sáng,
- màu mở đất cũng mất.
- (38) Vì nể ác khinh lành,
- có ba điều xấu nữa:
- sương, mưa đá trái mùa,
- đói, dịch, cùng lưu hành.
- (39) Lúa má với trái hạt
- phẩm chất đều tổn giảm,
- thế nên trong quốc gia
- dân đa số bịnh tật.
- (40) Những loại cây thổ sản
- trước đây là ngon ngọt,
- nay vì thế tổn giảm
- đắng chát không ra gì.
- (41) Trước đây lâm viên đẹp,
- toàn chỗ du ngoạn tốt,
- nay bỗng nhiên khô cằn,
- ai thấy cũng lo rầu.
- (42) Lúa, nếp, thứ chắc hạt,
- phẩm chất tiêu mất dần,
- ăn không còn thấy thích,
- làm sao tăng thể lực?
- (43) Dân chúng mất tươi sáng,
- đẹp và khỏe suy tàn,
- ăn với uống tuy nhiều,
- vẫn không làm sung sức.
- (64) Trong cả quốc gia ấy
- mọi tầng lớp quốc dân
- ít sức, không khoẻ mạnh,
- làm việc không kham năng.
- (65) Quốc dân nhiều bịnh hoạn
- cơ thể nhiều đau đớn,
- quỉ mị tràn khắp nơi
- tùy theo sinh la sát.
- (66) Vua mà làm phi pháp
- thân gần với kẻ ác,
- thì cả ba thế giới (89)
- do vậy suy tổn cả.
- (67) Vô số hiện tượng xấu
- xuất hiện trong quốc gia,
- toàn do thấy kẻ ác
- bỏ qua, không trị, đuổi.
- (68) Do chư thiên da hộ
- được làm vị quốc vương,
- mà không đem chánh pháp
- bảo vệ lấy quốc gia.
- (69) Nhưng người làm điều lành
- thì sẽ sinh chư thiên,
- còn kẻ làm điều ác
- chết đọa ba đường dữ.
- (70) Quốc vương mà buông thả
- để quốc dân làm ác,
- thì chư thiên Đao lợi
- nóng bức cả tâm trí.
- (71) Chư thiên dạy không nghe
- cha mẹ nói không cứ
- thì là người phi pháp
- phi vua phi hiếu tử.
- (72) Nếu trong quốc gia mình
- thấy ai làm phi pháp,
- phải trị phạt đúng phép
- không nên bỏ cho qua.
- (73) Thế nên hàng chư thiên
- cùng hộ trì vua ấy,
- vì vua diệt ác pháp
- và theo được thiện pháp.
- (74) Vua ấy trong đời này
- đón nhận quả báo tốt,
- vì đối với thiện, ác
- biết khuyên dân làm, bỏ.
- (75) Huấn thị thiện ác báo,
- nên làm vị quốc vương,
- chư thiên cùng hộ trì,
- chư thiên cùng tùy hỷ.
- (76) Do tự lợi lợi tha
- trị nước bằng chánh pháp,
- nên thấy kẻ dua nịnh
- thì phải trị đúng phép.
- (77) Giả sử mất ngôi vua,
- gặp cảnh ngộ mất mạng,
- cũng quyết không làm ác,
- không thấy ác bỏ qua.
- (78) Tai hại nặng nề nhất
- cho sự mất ngôi vua
- là toàn vì dua nịnh,
- do đó phải trị phạt.
- (79) Dua nịnh là dối trá
- làm tan nát quốc gia,
- làm thương tổn vương pháp,
- như voi vào vườn hoa.
- (80) Thiên chủ tức giận cả,
- a tô la cũng vậy,
- ấy là làm quốc vương
- không trị nước bằng Pháp.
- (81) Thế nên phải đúng phép
- trị phạt những kẻ ác,
- cải hóa bằng điều thiện,
- chứ không theo phi pháp.
- (82) Thà là mất thân mạng
- không theo bạn phi pháp,
- với thân với không thân
- bình đẳng nhìn tất cả.
- (83) Làm vị vua chánh pháp
- không thiên vị phe cánh,
- thì tiếng khen"vua pháp"
- vang cả trong ba cõi.
- (84) Chư thiên ở Đao lợi
- hoan hỷ mà nói rằng
- vị vua nhân loại này
- chính là con của ta.
- (85) Biết thiện hóa quốc dân,
- biết chánh pháp trị nước,
- khuyến hóa thực hành Pháp,
- sẽ sinh cung điện ta.
- (86) Chư thiên, chư thiên tử,
- cùng bộ chúng tô la,
- do vua hành hóa Pháp
- mà tâm họ hoan hỷ.
- (87) Chư thiên cùng hoan hỷ
- hộ trì cho vua ấy,
- tinh tú đi đúng ngôi,
- nhật nguyệt không sai độ.
- (88) Gió hòa đúng thời tiết,
- mưa ngọt thuận thời vụ,
- thóc trái khéo sinh, lớn,
- quốc dân không đói khát.
- (89) Tất cả hàng chư thiên
- hay ẩn mình cung vua
- cầu chúc cho nhà vua
- quên mình quảng bá Pháp.
- (90) Hãy tôn trọng Pháp bảo
- mà yên vui quốc dân,
- hãy thân thiết Pháp bảo,
- phước báo tự trang hoàng.
- (91) Thân quyến thường hoan hỷ
- thường lánh xa ác pháp:
- đem Pháp giáo dục người
- thì an lạc thường xuyên.
- (92) Làm cho cả quốc dân
- tu hành mười thiện nghiệp,
- thì cả nước sung túc,
- thì quốc gia thanh bình.
- (93) Vua mà hành hóa Pháp
- thuần hóa kẻ làm ác,
- thì được danh vọng tốt
- vì lợi lạc quốc dân.
Bấy giờ đại hội, trong đó có
các vị quốc vương, nghe đức Thế tôn nói về chánh pháp quản trị quốc
gia của quốc vương xưa, ai cũng được sự tâm đắc hiếm có, cùng đại
hoan hỷ mà tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành.
Phẩm 21:
Thiện Sinh Luân Vương [^]
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn
vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội
các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng
hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những
lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Như lai xưa kia
- làm vị luân vương,
- bỏ hết đại địa
- và cả đại dương,
- đem bao trân bảo
- đầy bốn đại lục
- cung kính hiến cúng
- chư vị Như lai.
- (2) Như lai xưa kia
- trong vô lượng kiếp,
- vì cầu pháp thân
- tối cực chân tịnh,
- nên bao bảo vật
- đều xả bỏ cả,
- cả đến thân mạng
- cũng không tiếc lẫn.
- (3) Trong thì quá khứ
- khó lường đời kiếp,
- có bậc đẳng giác
- danh hiệu Bảo kế;
- sau khi Ngài đã
- nhập vào niết bàn,
- có một vị vua
- tên là Thiện sinh.
- (4) Làm bậc luân vương
- cả bốn đại lục,
- ngoại biên đại dương
- đều qui phục cả;
- vua có hoàng thành
- tên Diệu âm nhạc,
- vua thường cư trú
- nơi hoàng thành ấy.
- (5) Đêm mộng thấy nói
- phước trí Như lai.
- Thấy có pháp sư
- tên là Bảo tích,
- ngồi nghiêm trên tòa
- tựa vầng thái dương,
- diễn giảng kinh mầu
- Ánh sáng hoàng kim.
- (6) Sau khi tỉnh mộng,
- vua rất hoan hỷ,
- nỗi hoan hỷ lớn
- tràn khắp cơ thể.
- Đến lúc trời sáng,
- vua ra hoàng cung,
- đi đến dà lam
- của chư Bí sô.
- (7) Luân vương tôn kính
- cúng thánh chúng rồi,
- liền hỏi các ngài :
- trong thánh chúng này
- có hay không có
- pháp sư Bảo tích
- thành tựu công hạnh
- hóa độ chúng sinh?
- (8) Bấy giờ Bảo tích,
- vị đại pháp sư,
- cư trú ở trong
- một cái tịnh thất,
- chánh niệm trì tụng
- kinh mầu Hoàng kim,
- trang nghiêm bất động,
- thân tâm vui đẹp.
- (9) Một vị Bí sô
- hướng dẫn luân vương
- đến chỗ cư trú
- của ngài Bảo tích,
- thấy trong tịnh thất
- ngài ngồi thẳng mình,
- toàn thân đầy cả
- ánh sáng tướng đẹp.
- (10) Bí sô bảo vua:
- đây, ngài Bảo tích,
- giữ được hành xứ
- sâu xa của Phật,
- đó là bản kinh
- Ánh sáng hoàng kim,
- kinh vua các kinh,
- tối thượng bậc nhất.
- (11) Luân vương tức thì
- lạy ngài Bảo tích,
- cung kính chắp tay
- mà thỉnh cầu ngài:
- Xin bậc mặt đẹp
- tựa như trăng đầy,
- nói cho con nghe
- diệu pháp Hoàng kim.
- (12) Pháp sư Bảo tích
- nhận lời thỉnh cầu,
- hứa sẽ nói cho
- bản kinh vua ấy.
- Thế là khắp cả
- đại thiên thế giới,
- hết thảy chư thiên
- cùng đại hoan hỷ.
- (13) Vua dùng một nơi
- rộng rãi sạch sẽ,
- tận lực trang hoàng
- trân bảo quí lạ,
- rưới bụi bằng nước
- hương liệu thượng hạng,
- rải những bông hoa
- màu sắc đa dạng.
- (14) Nơi đặc biệt này
- vua đặt tòa cao,
- trang hoàng bảo cái
- tràng phan gấm lụa;
- xát hương xoa hương
- với đủ mọi cách,
- hơi thơm tỏa ra
- khắp cả mọi nơi.
- (15) Thiên, long, tô la,
- và khẩn na la,
- ma hô lạc dà
- cùng với dược xoa,
- nhất là chư thiên
- rải hoa mạn đà,
- hiến cúng pháp tòa
- rất cao cả ấy.
- (16) Lại có hàng ngàn
- hàng vạn chư thiên
- ưa nghe chánh pháp
- cùng đến tụ tập.
- Pháp sư bắt đầu
- rời chỗ ngồi cũ,
- họ đã hiến cúng
- bằng những thiên hoa.
- (17) Bấy giờ Bảo tích,
- vị đại pháp sư,
- tắm rửa mình mẩy,
- mặc đồ sạch sẽ,
- đi đến đại hội,
- lại chỗ pháp tòa,
- chắp tay chân thành
- mà kính lễ bái.
- (18) Thiên chủ, thiên chúng,
- cùng với thiên nữ,
- chung nhau rải xuống
- thiên hoa mạn đà;
- trăm ngàn thiên nhạc
- khó nghĩ khó tả,
- ở trong không trung
- xuất ra tiếng mầu.
- (19) Bấy giờ Bảo tích,
- vị đại pháp sư,
- liền lên pháp tòa
- mà ngồi xếp bằng,
- tập trung tâm trí
- nghĩ đến mười phương
- trăm ngàn vạn ức
- bậc Đại từ tôn.
- (20) Nghĩ đến tất cả
- chúng sinh đau khổ,
- phát sinh ý niệm
- từ bi bình đẳng.
- Rồi vì chủ mời
- là Thiện sinh vương,
- mà giảng kinh mầu
- Ánh sáng hoàng kim.
- (21) Vua đã nghe được
- diệu pháp như vậy,
- thành tâm chắp tay
- nói rằng tùy hỷ.
- Nghe pháp hiếm có,
- Vua trào nước mắt,
- nỗi mừng lớn lao
- tràn ngập thân tâm.
- (22) Bấy giờ quốc chúa
- luân vương Thiện sinh,
- vì muốn hiến cúng
- kinh vua Hoàng kim,
- nên cầm viên ngọc
- như ý ma ni,
- nguyện rằng hãy vì
- bao loại chúng sinh.
- (23) Hãy ngay nơi đây,
- đại lục Thiệm bộ,
- mưa xuống thất bảo,
- những xâu chuỗi ngọc,
- để người nghèo thiếu
- đồ dùng tiền của
- hảy đều tùy ý
- thụ hưởng hạnh phúc.
- (24) Tức thì thất bảo
- đổ xuống khắp nơi,
- sung mãn dân chúng
- cả bốn đại lục,
- cần gì tùy ý:
- chuỗi ngọc làm đẹp
- y phục ẩm thực
- không thiếu thứ gì.
- (25) Bấy giờ quốc chúa
- luân vương Thiện sinh
- thấy bốn đại lục
- được mưa trân bảo,
- thì đem hiến cúng
- Bảo kế như lai,
- và Bí sô tăng
- theo di huấn Ngài.
- (26) Đại hội nên biết
- luân vương Thiện sinh
- ngày nay chính là
- bản thân Như lai,
- xưa kia đã bỏ
- cả đại địa này,
- cả bao trân bảo
- đầy bốn đại lục.
- (27) Còn ngài Bảo tích,
- vị đại pháp sư,
- đã thuyết diệu pháp
- cho Thiện sinh vương,
- diễn giảng kinh vua
- cho nhà vua ấy,
- nay ở hướng đông
- thành đức Bất động.
- (28) Như lai xưa kia
- lắng nghe kinh vua,
- chắp tay nói rằng
- con xin tùy hỷ,
- quảng thí thất bảo,
- do những phước ấy
- được kim cương thân
- tối thắng bậc nhất.
- (29) Thân ấy ánh vàng
- trăm phước trang nghiêm,
- ai nhìn thấy được
- cũng hoan hỷ cả;
- tất cả chúng sinh
- không ai không thích,
- vô số chư thiên
- cũng thích như vậy.
- (30) Như lai trải qua
- chín mươi chín lần
- vô số đời kiếp
- làm vị luân vương,
- hoặc làm quốc vương
- cho những tiểu quốc
- cũng đến số lượng
- trăm ngàn đời kiếp.
- (31) Trong vô lượng kiếp
- lại làm Đế thích,
- và cũng đã làm
- bậc Đại phạn vương,
- hiến cúng Thập lực
- đại từ thế tôn
- số lượng đời kiếp
- cũng khó biết hết.
- (32) Như lai xưa kia
- nghe kinh, tùy hỷ,
- khối phước có được
- số lượng khó biết;
- do khối phước ấy
- được vô thượng giác,
- được pháp tánh thân
- diệu trí chân thường.
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên
thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua
Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.
Phẩm 22:
Tám Bộ Hộ Trì (90) [^]
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại
cát tường thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong
sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai
trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các
Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở
đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là
thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải
bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy
giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiên và đại
hội.
- (1) Đối với chư Như lai
- muốn hiến cúng siêu việt,
- lại muốn hiểu lĩnh vực
- sâu xa của các Ngài,
- (2) thì thấy ai diễn giảng
- kinh Ánh sáng hoàng kim,
- hãy đích thân đi đến
- những chỗ diễn giảng ấy.
- (3) Kinh ấy khó nghĩ bàn,
- phát sinh mọi phước đức,
- trong biển khổ rộng lớn
- cứu vớt bao chúng sinh.
- (4) Như lai thấy kinh này
- đầu giữa cuối đều hay,
- đều sâu không lường nổi,
- thí dụ cũng không bằng.
- (5) Giả như cát sông Hằng,
- bụi đại địa, nước biển,
- đá núi cả không gian,
- không ví được ít phần.
- (6) Muốn hội nhập pháp tánh
- hãy lắng nghe kinh này:
- nơi chùa tháp pháp tánh
- mới khéo được hội nhập.
- (7) Trong chùa tháp như vậy
- Thấy ta, đấng Mâu ni,
- với ý đẹp lời hay
- quảng diễn kinh vua này.
- (8) Thấy thế nên nhiều kiếp
- số lượng khó nghĩ bàn,
- thường ở trong trời người
- hưởng được vui siêu việt.
- (9) Lắng nghe kinh vua này
- hãy tư duy như vầy:
- ta được một hợp thể
- phước đức bất tư nghị.
- (10) Giả sử khối lửa lớn
- trải dài trăm thiện na,
- nhưng vì nghe kinh này
- bước qua không do dự.
- (11) Đến chỗ giảng kinh này
- được nghe kinh này rồi,
- ác nghiệp loại trừ hết,
- ác mộng cũng loại trừ.
- (12) Ác tinh và biến quái
- cổ đạo cùng tà mị,
- lúc nghe được kinh này
- thì rời xa tất cả.
- (13) Hãy trang trí tòa cao
- đẹp sạch tựa hoa sen,
- pháp sư ngồi trên đó
- trông như chúa đại dương.
- (14) An tọa pháp tòa rồi
- giảng kinh sâu xa này,
- lại sao chép tụng trì
- và giải thích ý nghĩa
- (15) Pháp sư rời tòa ấy
- đi đến các nơi khác,
- thì nơi tòa cao ấy
- tưởng thấy bao thần biến.
- (16) Hoặc thấy hình pháp sư
- còn ngồi trên tòa cao.
- Hoặc thấy hình Như lai
- cùng chư vị Bồ tát.
- (17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền,
- hoặc tưởng Diệu cát tường,
- hoặc thấy Từ thị tôn,
- ngồi trên tòa cao ấy.
- (18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu
- hay thấy hình chư thiên,
- và mới thấy như vậy
- thoạt cái đã biến mất.
- (19) Thấy những điềm lành ấy
- làm gì cũng vừa ý,
- phước đức viên mãn cả:
- Như lai nói như vậy.
- (20) Siêu việt và danh tiếng,
- hủy diệt mọi phiền não,
- giặc ngoại xâm trừ được,
- chiến đấu thường đắc thắng.
- (21) Ác mộng toàn không có
- độc tố cũng tiêu tan,
- ác nghiệp thân miệng ý
- kinh lực cũng diệt được.
- (22) Trong đại lục Thiệm bộ
- danh tiếng tràn đầy cả,
- bao nhiêu những oán thù
- rời xa được hết thảy.
- (23) Thù địch đến xâm lăng
- nghe danh cũng triệt thoái,
- không động đến vũ khí,
- đối trận sinh hoan hỷ.
- (24) Phạn vương và Đế thích,
- bốn Thiên vương hộ thế,
- và Kim cương dược xoa,
- Chánh liễu tri đại tướng,
- (25) long vương hồ Vô nhiệt,
- cùng với Sa yết la,
- nhạc thần Khẩn na la,
- Tô la kim sí chủ,
- (26) Đại biện tài thiên nữ,
- Đại cát tường thiên nữ,
- chư thiên đứng đầu này
- thống lãnh cả thiên chúng,
- (27) thường hiến cúng Như lai
- và Pháp bảo siêu việt,
- thường sinh tâm hoan hỷ
- tôn kính kinh vua này.
- (28) Thiên chúng như thế này
- đều cùng nhau suy nghĩ,
- quan sát người làm phước
- rồi cùng nói như vầy:
- (29) Hãy coi những người ấy
- là bậc đại phước đức,
- thiện căn tinh tiến lực
- sẽ sinh lên Thiên giới.
- (30) Để nghe kinh vua này,
- người ấy kính đến đây,
- hiến cúng chùa tháp Pháp
- vì lòng tôn trọng Pháp.
- (31) Người ấy thương chúng sinh
- mà làm đại lợi ích,
- và là đồ chứa đựng
- kinh vua sâu xa này.
- (32) Nhập được pháp môn này
- là nhập được pháp tánh,
- nên với kinh Hoàng kim
- hãy hết lòng lắng nghe.
- (33) Người ấy đã hiến cúng
- vô số chư Như lai,
- do thiện căn lực ấy
- mới được nghe kinh này.
- (34) Do vậy các thiên chủ,
- thiên nữ Đại biện tài,
- thiên nữ Đại cát tường,
- cùng bốn vị Thiên vương,
- (35) và vô số Dược xoa
- dũng mãnh đầy thần lực,
- phân nhau ra bốn phía
- thường đến hộ vệ cho.
- (36) Nhật nguyệt và Đế thích,
- chư thần nước gió lửa,
- Phệ sốt nộ, Diêm la,
- Đại biện tài vân vân,
- (37) Các Thiên vương hộ thế
- dũng liệt, đủ uy thần,
- hộ vệ người trì kinh
- ngày đêm không rời xa.
- (38) Đại lực dược xoa vương,
- Na la diên, Tự tại,
- hâm tám thần Dược xoa,
- Chánh liễu tri cầm đầu,
- (39) và trăm ngàn Dược xoa
- sức lớn lại thần thông,
- thường đến chỗ hiểm nguy
- ủng hộ người trì kinh.
- (40) Kim cương dược xoa vương
- với năm trăm tùy thuộc,
- cùng chư đại bồ tát
- cũng thường đến hộ trì.
- (41) Bảo vương dược xoa chủ,
- cùng với Mãn hiền vương,
- Khoáng dã, Kim tì la,
- Tân độ la, Hoàng sắc (92) .
- (42) Mỗi dược xoa vương này
- cùng năm trăm tùy thuộc,
- thấy ai nghe kinh vua
- thì cùng đến hộ vệ.
- (43) Thái quân, Kiền thát bà,
- Vi vương, Thường chiến thắng,
- Châu cảnh và Thanh cảnh,
- và Bột lý sa vương,
- (44) Đại tối thắng, Đại hắc,
- Tô bạt noa kê xá,
- Bán chi ca, Dương túc,
- cùng với Đại bà dà,
- (45) Tiểu cừ và Hộ pháp,
- cọng với Di hầu vương,
- Châm mao và Nhật chi,
- Bảo phát, cùng đến giúp.
- (46) Đại cừ, Nặc câu la,
- Chiên đàn, Dục trung thắng,
- Xá la với Tuyết sơn,
- cùng với Sa đa sơn (93) ,
- (47) đều có thần thông lớn
- hùng mãnh đủ đại lực,
- thấy người trì kinh ấy,
- cùng đến mà hộ vệ.
- (48) A na bà đáp đa,
- cùng với Sa yết ra,
- Mục chân, Ê La diệp,
- Nan đà, Nan đà nhỏ (94) ,
- (49) rồng trong trăm ngàn rồng,
- đủ thần thông uy đức,
- cùng giúp người trì kinh,
- ngày đêm không rời bỏ.
- (50) Bà trĩ, La hầu la,
- Tì ma chất đa la,
- Mẫu chỉ chiêm bát ra,
- Đại kiên và Hoan hỷ (95) .
- (51) Và tô la vương khác
- cùng vô số thiên chúng,
- có sức lớn, mạnh mẽ,
- đều đến giữ người ấy.
- (52) Mẫu thần Ha lị để,
- Dược xoa chúng năm trăm,
- người trì kinh thức dậy
- là đến hộ vệ cho.
- (53) Chiên trà, Chiên trà lị,
- Chiên trĩ nữ dược xoa,
- Côn đế, Câu tra xỉ,
- Hút tinh chất chúng sinh (96) ,
- (54) thần chúng như thế ấy
- sức lớn, có thần thông,
- giữ gìn người trì kinh
- ngày đêm thường không rời.
- (55) Vô lượng các thiên nữ
- Biện tài thiên cầm đầu,
- bao nhiêu là tùy thuộc
- Cát tường thiên lãnh đạo,
- (56) Nữ thần đại địa này,
- thần trái hạt vườn rừng,
- thần cây, thần sông rào,
- thần chùa tháp, vân vân,
- (57) chư thiên thần như vậy
- lòng sinh đại hoan hỷ,
- cùng đến mà hộ vệ
- người đọc tụng kinh vua.
- (58) Thấy ai trì kinh vua,
- tăng thọ lượng sắc lực,
- tăng uy quang phước đức,
- tăng tướng tốt trang nghiêm,
- (59) mà tinh tú biến quái
- xúc phạm đến người ấy,
- thì đến nỗi ác mộng
- cũng làm cho tan biến.
- (60) Nữ thần đại địa này
- Kiên cố đầy uy thế,
- bằng năng lực pháp vị
- của kinh vua Hoàng kim,
- (61) làm cho màu mỡ đất
- vốn thấm xuống rất sâu,
- nay lại được thấm lên
- tươi nhuần cho đại địa.
- (62) Đại địa dày sáu mươi
- tám ức du thiện na,
- từ ngoại biên kim cương
- màu đất vẫn thấm lên.
- (63) Lại do nghe kinh vua
- được khối đại công đức,
- làm cho chính chư thiên
- cũng nhờ được ích lợi;
- (64) làm cho chư thiên ấy
- tăng uy lực ánh sáng,
- tăng hoan hỷ yên vui,
- hết hiện tượng suy đồi.
- (65) Đại lục phía nam này
- thần cây trái lúa thóc
- cũng do lực kinh vua
- mà tâm thường hoan hỷ,
- (66) làm lúa cây thành thục,
- bông hoa đều sum sê,
- trái hạt đầy phẩm chất,
- tất cả tràn đại địa.
- (67) Bao nhiêu loại cây cỏ,
- và cả những vườn rừng,
- đều sinh ra hoa đẹp,
- hương thơm thường lan tỏa.
- (68) Những loại cây có hoa
- kết ra các thứ trái,
- thì trái ngon và ngọt,
- và chỗ nào cũng có.
- (69) Cũng tại đại lục này,
- vô số những long nữ
- tâm sinh đại hoan hỷ,
- cùng vào trong ao hồ.
- (70) Sen hồng, sen trắng nở,
- sen xanh và sen trắng,
- ao hồ nào cũng trồng
- và hoa đầy ao hồ.
- (71) Uy lực kinh vua này
- làm không gian trong sáng,
- mây mù bị xua tan,
- toàn bộ đều sáng sủa.
- (72) Thái dương phóng ánh sáng
- trong suốt và rực rỡ,
- do lực kinh vua này
- sáng huy hoàng khắp nơi.
- (73) Uy lực kinh vua này
- hỗ trợ cho quốc chúa,
- có và dùng vàng ròng
- mà kiến tạo cung điện.
- (74) Thần thái dương vui vẻ
- nhìn thấy đại lục này,
- nên thường đem sáng lớn
- chiếu rực khắp mọi nơi.
- (75) Do vậy trong đại địa
- bao nhiêu hồ ao sen,
- ánh sáng chiếu đúng lúc
- nên hoa sinh nở cả.
- (76) Trong cả đại lục này
- trái hạt và dược liệu
- đều khéo thành thục hết
- và tràn đầy đại địa.
- (77) Do uy lực kinh vua,
- nhật nguyệt chiếu đến đâu
- tinh tú đúng hành độ
- gió mưa thuận thời tiết.
- (78) Khắp đại lục Thiệm bộ
- đất nước rất giàu vui,
- chỗ nào có kinh vua
- hơn chỗ khác bội phần.
- (79) Kinh Ánh sáng hoàng kim
- quảng bá đến chỗ nào,
- có người giảng và tụng
- thì phước được như vậy.
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ,
cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng
đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua,
làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.
Phẩm 23:
Thọ Ký Thành Phật [^]
Bấy giờ đức Thế tôn ở trong đại
hội thuyết pháp phong phú rồi, muốn thọ ký cho bồ tát Diệu tràng và
hai người con, Ngân tràng và Ngân quang, sẽ được vô thượng bồ đề. Lúc
ấy có mười ngàn thiên tử, do thiên tử Tối thắng quang minh cầm đầu,
từ Đao lợi thiên đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi
ngồi qua một phía, lắng nghe Ngài thuyết pháp.
Đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu
tràng, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, tại thế giới hệ Kim
quang minh, ông sẽ thành vô thượng giác, với danh hiệu Kim bảo sơn vương
như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Kim bảo sơn vương như lai nhập
niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì trưởng tử là Ngân tràng sẽ ở chính
nơi thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà danh
hiệu Kim tràng quang như lai, đủ mười đức hiệu, và thế giới hệ ấy
bấy giờ chuyển danh là Tịnh tràng. Sau khi đức Kim tràng quang như lai nhập
niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì thứ tử là Ngân quang cũng ở chính nơi
thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà, danh hiệu
Kim quang minh như lai, đủ mười đức hiệu.
Mười ngàn thiên tử nghe ba vị đại
sĩ được thọ ký, trước đó lại nghe kinh vua tối thượng, nên tâm hoan
hỷ, sạch như hư không. Đức Thế tôn biết mười ngàn thiên tử ấy thiện
căn thuần thục, nên cũng thọ ký cho sẽ được đại bồ đề. Rằng các
thiên tử, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, các người sẽ ở
nơi thế giới hệ Tối thắng nhân đà ra cao tràng mà thành tựu vô thượng
bồ đề, cùng một dòng họ, cùng một danh hiệu. Danh hiệu ấy là Diệm mục
thanh tịnh ưu bát la hương sơn như lai, đủ mười đức hiệu. Mười ngàn
đức Như lai như vậy tuần tự tiếp nhau mà xuất hiện.
Bấy giờ Bồ đề thọ thần thưa,
bạch đức Thế tôn, mười ngàn thiên tử này mới từ Đao lợi đến chỗ
đức Thế tôn để nghe pháp, tại sao đức Thế tôn thọ ký liền cho sẽ
thành Phật đà? Bạch đức Thế tôn, con chưa nghe những thiên tử này tu tập
đầy đủ sáu ba la mật và những khổ hạnh khó làm như vô lượng bồ tát
khác, xả bỏ tay chân, đầu mắt, tủy não, thân quyến, vợ con, voi ngựa,
xe cộ, tôi tớ, bộc tùng, cung điện, vườn rừng, bạc vàng, lưu ly, xa cừ,
mã não, san hô, hổ phách, bích ngọc, bạch ngọc, đồ ăn, đồ mặc, đồ
nằm, dược phẩm, đem cúng phẩm hiến cúng vô số chư vị Thế tôn. Mà bồ
tát thì phải làm như vậy, và ai cũng phải trải qua vô số kiếp, sau đó
mới được thọ ký thành tựu vô thượng bồ đề. Bạch đức Thế tôn,
các thiên tử này vì lý do nào, tu thắng hạnh gì, trồng thiện căn chi, mà
từ Đao lợi đến đây, mới nghe pháp lại được thọ ký liền? Xin đức
Thế tôn giải thích cho con khỏi hoài nghi.
Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ
thần, theo thiện nữ nói thì phải từ thiện căn thắng diệu là siêng khổ
tu tập mới được thọ ký. Nhưng các thiên tử này từ bỏ lạc thú ở
thiên cung mà cố đến đây lắng nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Nghe rồi thiết
tha tôn trọng kinh ấy. Tâm họ như lưu ly, không gợn dơ bẩn. Họ lại
nghe sự thọ ký của ba vị đại sĩ. Họ còn có yếu tố thệ nguyện và
chánh hạnh mà quá khứ đã tu tập lâu xa. Do vậy mà Như lai thọ ký cho
trong vị lại sẽ thành tựu vô thượng bồ đề. Bồ đề thọ thần nghe
đức Thế tôn giải thích như vậy thì hoan hỷ tín thọ.
Phẩm 24:
Chữa Trị Bịnh Khổ [^]
Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề
thọ thần, hãy nghe cho kyլ hãy khéo nghĩ nhớ. Như lai nay nói cho thiện nữ
nghe về bản nguyện của mười ngàn thiên tử.
Thiện nữ, quá khứ vô số kiếp,
bấy giờ có đức Phật đà xuất hiện thế giới, danh hiệu Bảo kế như
lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Như lai ấy nhập niết bàn, giáo
pháp nguyên chất hết rồi, trong giáo pháp tương tự có một quốc vương
tên Thiên tự tại quang, luôn luôn áp dụng chánh pháp mà hóa cải quốc
dân, tựa như cha mẹ đối với con cái. Trong vương quốc có một trưởng
giả tên Trì thủy, hiểu rành y học, thông suốt tám thuật. Ai bịnh khổ,
tứ đại bất ổn, ông cứu chữa được cả.
Thiện nữ, Trì thủy trưởng giả
có người con trai duy nhất, tên là Lưu thủy. Người đẹp, nghiêm chỉnh,
ai cũng thích nhìn. Bẩm tính thông minh, quán triệt mọi luận thuyết và kyՠthuật.
Bấy giờ trong vương quốc nhiều người bị bịnh truyền nhiễm, khổ sở
đến nỗi không thích sống nữa. Thiện nữ, trưởng giả tử Lưu thủy thấy
vậy thì sinh đại bi tâm, nghĩ như vầy. Bao nhiêu là người bịnh khổ!
Cha ta rành y học, khéo tám thuật, chữa được mọi bịnh do tứ đại hoặc
thêm hoặc bớt. Nhưng cha ta già yếu rồi. Đi đâu cũng phải đỡ, làm sao
đến được những nơi làng xóm thành thị mà chữa bịnh. Thế thì bao người
bịnh nặng mà không ai cứu chữa. Vậy ta hãy đến chỗ cha ta, vị đại
lương y, hỏi bí quyết chữa bịnh. Biết được bí quyết ấy, ta sẽ đi
đến thành thị làng xóm mà cứu chữa cho người, làm cho họ an lạc. Trưởng
giả tử nghĩ rồi tức tốc đến chỗ cha, lạy ngang chân ông, chắp tay
cung kính, đứng qua một bên, dùng lời chỉnh cú mà thỉnh cầu.
- (1) Xin cha thương tưởng con.
- Con muốn cứu mọi người.
- Nay con hỏi y thuật,
- mong cha nói cho con.
- (2) Tại sao thân suy hỏng,
- tứ đại có thêm bớt?
- Và ở vào lúc nào
- thì bịnh tật sinh ra?
- (3) Ăn uống như thế nào
- để hưởng được yên vui?
- Làm sao trong cơ thể
- nhiệt lực không suy tổn?
- (4) Bịnh con người có bốn,
- có bịnh phong, nhiệt, đàm,
- lại có bịnh hỗn hợp,
- làm sao trị liệu được?
- (5) Lúc nào nổi bịnh phong?
- lúc nào phát bịnh nhiệt?
- lúc nào động bịnh đàm?
- lúc nào bịnh hỗn hợp?
- Trì thủy trưởng gia nghe con hỏi rồi, cũng nói
lại bằng chỉnh cú.
- (6) Y theo phép chữa bịnh
- của tiên nhân đời xưa,
- cha tuần tự nói cho,
- khéo nghe để cứu người.
- (7) Ba tháng là mùa xuân,
- ba tháng là mùa hè,
- ba tháng là mùa thu,
- ba tháng là mùa đông.
- (8) Ấy là theo một năm
- ba tháng một mà nói.
- Hai tháng một một tiết
- một năm thành sáu tiết:
- (9) giêng hai là tiết hoa,
- ba tư là tiết nóng,
- năm sáu là tiết mưa,
- bảy tám là tiết thu,
- (10) chín mười là tiết lạnh
- một chạp là tiết tuyết.
- Phải phân biệt như vậy,
- cho thuốc đừng sai chậy
- (11) Tùy theo mùa tiết ấy
- mà điều hòa ăn uống,
- vào bụng tiêu hóa được,
- mọi bịnh mới không sinh.
- (12) Khí hậu nếu thay đổi
- thì tứ đại biến động,
- bấy giờ mà không thuốc
- thì tất sinh bịnh khổ.
- (13) Thầy thuốc biết bốn mùa,
- lại biết về sáu tiết,
- biết bảy phần cơ thể
- thì cho thuốc không sai.
- (14) Bảy phần là vị (97) , máu,
- thịt, mỡ, xương, tủy, não.
- Biết bịnh nhập bảy phần
- lại biết chữa được không.
- (15) Bịnh thì có bốn loại:
- các loại phong, nhiệt, đàm,
- và loại bịnh hỗn hợp,
- nên biết lúc chúng phát:
- (16) mùa xuân phát bịnh đàm
- mùa hè phát bịnh phong,
- mùa thu phát bịnh nhiệt,
- mùa đông biểnh hỗn hợp.
- (17) Xuân ăn chất nóng cay,
- hè béo nóng mặn dấm,
- thu ăn lạnh ngọt béo,
- đông ăn chát béo ngọt.
- (18) Trong bốn mùa như vậy,
- dùng thuốc và ăn uống
- theo như mùi vị ấy,
- bịnh không lý do sinh.
- (19) Sau ăn bịnh do đàm,
- ăn tiêu bịnh do nhiệt,
- sau tiêu bịnh do phong,
- cứ thế nhận thức bịnh.
- (20) Nhận thức gốc bịnh rồi,
- tùy bịnh mà cho thuốc.
- Nếu bịnh trạng khác đi,
- cũng chữa cái gốc trước.
- (21) Phong thì dùng dầu, kem,
- nhiệt thì lợi đại tiểu,
- đàm thì hóa, thông, thổ,
- hỗn hợp thì cả ba.
- (22) Phong nhiệt đàm cùng có,
- thế gọi là hỗn hợp.
- Tuy biết lúc bịnh phát,
- cũng phải xét gốc bịnh.
- (23) Xét biết như vậy rồi,
- tùy lúc mà cho thuốc.
- Ăn, uống, thuốc, không sai,
- mới gọi thầy thuốc giỏi.
- (24) Lại nữa biết tám thuật
- bao quát mọi cách chữa.
- Nếu hiểu rõ tám thuật
- hãy chữa bịnh cho người.
- (25) Tám thuật là châm chích,
- giải phẫu, chữa thân bịnh,
- chữa tâm bịnh, trúng độc,
- khoa nhi với khoa lão,
- sau hết là dưỡng sinh,
- [đó, tám thuật chữa bịnh].
- (26) Trước xem xét hình sắc,
- nói năng và tánh tình,
- sau hỏi đến chiêm bao,
- thì biết phong nhiệt đàm.
- (27) Khô ốm đầu ít tóc,
- tâm tính không ổn định,
- nói nhiều mộng bay đi,
- đó là thuộc loại phong.
- (28) Tuổi trẻ mọc tóc trắng,
- nhiều mồ hôi, hay giận,
- thông minh, mộng thấy lửa,
- đó là thuộc loại nhiệt.
- (29) Tâm ổn, thân ngay thẳng,
- nghĩ kyլ đầu nhờn, cáu,
- mộng thấy nước, vật trắng,
- đó là thuộc loại đàm.
- (30) Hỗn hợp thì có chung,
- chung hai hay chung ba,
- và hễ loại nào nhiều
- là tính bịnh hỗn hợp.
- (31) Biết gốc, đặc tính bịnh,
- chuẩn bịnh mà cho thuốc.
- Nhưng thấy không tướng chết
- mới rõ bịnh cứu được.
- (32) Giác quan thì thác loạn,
- khinh khi thầy thuốc giỏi,
- thấy bạn thân cũng giận,
- đó là hiện tượng chết.
- (33) Mắt trái biến màu trắng
- lưỡi đen, sống mũi lệch,
- vành tai không như cũ,
- môi dưới thì xệ xuống (98)
- (34) Ha lê lặc một thứ
- có đủ cả sáu vị,
- trừ được tất cả bịnh,
- là thuốc vua, không kị.
- (35) Lại ba trái ba cay (99)
- là thuốc dễ có được,
- đường cát, mật ong, sữa,
- cũng chữa được nhiều bịnh.
- (36) Ngoài ra, dược liệu khác,
- tùy bịnh mà thêm vào.
- Nhưng trước phải từ tâm,
- đừng mưu tính tài lợi.
- (37) Cha đã nói những việc
- cần cho sự chữa bịnh.
- Con đem ra cứu người
- thì phước sẽ vô biên.
Thiện nữ, bấy giờ trưởng giả
tử Lưu thủy đích thân hỏi và nghe cha nói về tám thuật, về tứ đại
thêm bớt, về thời tiết bất đồng, về cách cho thuốc. Hiểu biết rành
rẽ rồi, trưởng giả tử tự xét kyՠmình đủ sức cứu chữa mọi bịnh.
Bèn đi đến thành thị thôn xóm, chỗ nào có bịnh nhân cũng đến, dịu
ngọt an ủi, và rằng tôi là thầy thuốc, tôi là thầy thuốc, tôi rành
thuốc chữa bịnh. Tôi sẽ chữa cho các người lành mạnh. Thiện nữ, bấy
giờ người ta nghe trưởng giả tử an ủi, hứa chữa bịnh cho, thì bao
nhiêu bịnh nhân trầm trọng nghe lời ấy cũng phấn chấn thân tâm, vui mừng
hiếm có. Do vậy mà bịnh khổ tiêu tan, khí lực sung mãn, bình phục như
cũ. Thiện nữ, bấy giờ lại có bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng mà khó cứu
chữa, tức thì đến chỗ trưởng giả tử xin chữa thêm. Trưởng giả tử
tức thì cho thuốc, bảo dùng, và ai cũng lành cả. Thiện nữ, cứ như thế,
trưởng giả tử Lưu thủy chữa lành cho bao nhiêu bịnh nhân ở trong vương
quốc.
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn
Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm
này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ
3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
|
|