- Luận Chỉ Quán
- Đại thừa Chỉ quán pháp môn:
Chỉ quán của đại thừa
- HT. Thích Trí Quang dịch giải
2
- Mở Đầu
- Bản văn của tôn giả Tuệ tư
- phương tiện chỉ dạy về Tâm
(1)
Chính văn .-
Có người nói với tôi (2) , bẩm
thụ thân tâm (3) này thì do tu tập mà khác nhau, như do điêu khắc khác
nhau mà thành phẩm không đồng. Con nghe tôn giả thấu suốt nghĩa lý cứu
cánh, hiểu rõ tôn chỉ sâu rộng, nên vì sự tự thúc dục tu tập mà con
kính mong tôn giả dạy cho được nghe về Phật pháp. Tôi trả lời, từ nhỏ
tôi nhiễm được phong thái xuất gia, nếm được mùi vị Phật pháp, nhưng
ngu muội khó trừ bỏ, tính hạnh chưa thấm nhuần, nên nhục với lời
ông hỏi mà không biết nói gì.
Người ấy nói, nguyện xin tôn giả
không ngại mệt nhọc, chỉ dạy cho con về pháp tu đại thừa. Con xin kính
cẩn ghi nhớ và làm theo, không dám quên mất. Tôi nói, lành thay Phật tử,
ông phát được cái tâm vô thượng, muốn nghe pháp tu đại thừa như vậy!
Vậy là ông đã vượt trên lĩnh vực nhị thừa (4) rồi đó, huống chi
còn muốn nghe mà làm. Nhưng phát tâm thù thắng thì phải tu hành mới
thành đạt. Pháp tu hành có đến hàng vạn, nẻo nhập đạo không phải
duy nhất. Nay tôi căn cứ kinh luận, đại lược nói cho ông về 2 sự chỉ
và quán của đại thừa. Do 2 sự này mà mau chóng thành đạt ước nguyện
của ông.
Người ấy nói, lành thay, xin tôn
giả chỉ dạy. Để thỏa mãn lòng con, lại ích lợi chuyền đến bao nhiêu
người khác. Như thế là truyền đăng bất tuyệt, báo Phật ân đức. Tôi
bảo, Phật tử, hãy nghe cho kyլ hãy khéo tập trung tâm trí lại, tôi sẽ
trình bày cho ông. Chỉ là biết các pháp bản lai tự nó chẳng phải thực
có, chẳng sinh chẳng diệt, chỉ do nhân duyên hư vọng (5) nên chẳng phải
có mà có, nhưng sự có ấy có tức chẳng phải có, chỉ là cái Tâm duy nhất
(6) , không có phân biệt. Quán sát như vậy thì làm cho sự phân biệt
không còn lưu hành, nên gọi là chỉ. Quán là biết các pháp vốn chẳng
sinh, nay chẳng diệt, nhưng do tâm tánh duyên khởi (7) nên không phải không
có cái thế dụng hư vọng (8) , tựa như ảo thuật, chiêm bao, chẳng phải
có mà có, nên gọi là quán.
Lược Giải .-
Những lời mở đầu này cũng có
thể là thật, cũng có thể là giả thiết. Những lời này cho thấy luận
này cốt nói về chỉ và quán của đại thừa. Chỉ là quán sát các pháp
có mà không thực có, thực chất là duy Tâm. Quán là quán sát các pháp
không thực có mà có, thực chất là Tâm duyên khởi.
Giải Thích
Chính Văn.-
Người ấy nói, con hiểu biết kém
cỏi, chỉ nghe như thế thì chưa thể hiểu ngay. Kính xin tôn giả phương
tiện khai thị thêm nữa cho con. Tôi nói, phải, tôi sẽ giải thích phong
phú cho ông, và làm cho những người chưa nghe pháp môn chỉ quán này cũng
được do đó mà lĩnh hội. Giải thích pháp môn chỉ quá thì có 5 chương:
Chương1 nói căn cứ của chỉ quán, chương 2 nói đối tượng của chỉ quán,
chương 3 nói thể trạng của chỉ quán, chương 4 nói hiệu năng của chỉ
quán, chương 5 nói hiệu quả của chỉ quán.
Nói Căn Cứ Của
Chỉ Quán
Chính Văn.-
Chương 1 nói căn cứ của chỉ quán,
lại chia ra 3 tiết: tiết 1 nói căn cứ chỗ nào, tiết 2 nói tại sao căn cứ,
tiết 3 nói căn cứ bằng gì.
- C1. Nói Căn Cứ Chỗ Nào
- D1. Nêu Lên Các Tên Của Tâm
- D2. Giải Thích Các Tên Của Tâm
- Đ1. Giải Thích Tên Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm
- Đ2. Giải Thích Tên Chân Như
- Đ3. Giải Thích Tên Phật Tánh
- Đ4. Giải Thích Tên Pháp Thân
- Đ5. Giải Thích Tên Như Lai Tạng
- Đ6. Giải Thích Tên Pháp Giới
- Đ7. Giải Thích Tên Pháp Tánh
- D3. Biện Minh Thể Trạng Của Tâm
- Đ1. Lấy Sự Siêu Việt Khái Niệm Để Nói Tâm
Là Tịnh Tâm
- E1. Nói Tịnh Tâm Siêu Việt Khái Niệm
- E2. Chỉ Cách Tùy Thuận Hội Nhập
- Đ2. Lấy Sự Không Một Không Khác Để Nói Tâm
Là Pháp Tánh
- Đ3. Lấy 2 Mặt Như Lai Tạng Để Nói Tâm Là
Chân Như
- C2. Nói Tại Sao Căn Cứ
- D1. Thuyết Minh
- Đ1. Nói Vì Tâm Là Căn Bản
- Đ2. Nói Vì Toàn Tánh Khởi Tu
- D2. Giải Nghi
- C3. Nói Căn Cứ Bằng Gì
- D1. Nói Thể Trạng Của Cái Căn Cứ
- Đ1. Tổng Quát Nêu Lên
- Đ2. Nói Thể Trạng Của Chỉ
- E1. Thuyết Minh
- E2. Giải Nghi
- Đ3. Nói Thể Trạng Của Quán
- D2. Phá Cái Chấp Của Tiểu Thừa
- Đ1. Chính Phá
- Đ2. Giải Nghi
- D3. Phá Cái Chấp Của Đại Thừa
Nói Căn Cứ Chỗ Nào
Chính Văn.-
Tiết 1 nói căn cứ chỗ nào, là phải
căn cứ Tâm mới tu tập được chỉ quán. Tiết này lại có 3 mục: mục 1
nêu lên các tên của Tâm, mục 2 giải thích các tên của Tâm, mục 3 biện
minh thể trạng của Tâm.
Lược Giải.-
Căn cứ vào Tâm mới có thể tu tập
chỉ quán là đối tượng hóa Tâm ra mà chỉ và quán. Điều này là căn bản
nghĩa của luận này.
Nêu Lên Các Tên Của
Tâm
Chính Văn.-
Mục 1 nêu lên các tên của Tâm
thì Tâm ấy tên là tự tánh thanh tịnh tâm, là chân như, là phật tánh,
là pháp thân, là như lai tạng, là pháp giới, là pháp tánh. Đồng đẳng
như vậy, Tâm có vô lượng tên gọi.
Giải Thích Tên Tự
Tánh Thanh Tịnh Tâm
Chính Văn.-
Mục 2 giải thích các tên của
Tâm. Hỏi, tại sao gọi Tâm là tự tánh thanh tịnh tâm? Đáp, Tâm (9) ấy
vô thỉ đến giờ tuy bị vô minh che đậy, nhưng bản tánh trong sáng vẫn
không biến đổi, nên gọi là tự tánh thanh tịnh - Tại sao, vì pháp dơbẩn
vô minh bản lai tách rời (10) với Tâm; tách rời là thế nào, là vô minh
không thực, có tức chẳng phải có, vì chẳng phải có nên không có gì để
thích ứng với Tâm, như thế gọi là tách rời. Vì không có sự thích ứng
của vô minh, nên gọi là tự tánh thanh tịnh (11) . Là cái bản giác (12)
tim lõi, chắc thật, nên gọi là tâm. Gồm lại gọi là tự tánh thanh tịnh
tâm.
Lược Giải.-
Tự tánh thanh tịnh tâm là cái bản
giác không thích ứng với vô minh.
Giải Thích Tên
Chân Như
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao gọi Tâm là chân như?
Đáp, toàn thể các pháp do Tâm mà có, lấy Tâm làm bản thể. Từ Tâm mà
nhìn qua các pháp thì các pháp là hư vọng cả, có tức chẳng phải có; so
với các pháp hư vọng ấy nên gọi Tâm là chân. Thêm nữa, các pháp tuy thật
chẳng phải có, chỉ do nhân duyên hư vọng mà có trạng thái sinh diệt; nhưng
khi các pháp hư vọng sinh thì Tâm bất sinh, khi các pháp hư vọng diệt thì
Tâm bất diệt, bất sinh nên bất tăng, bất diệt nên bất giảm, vì Tâm bất
sinh diệt bất tăng giảm nên gọi là chân. Còn tâm mà gọi là như, là vì
chư Phật cả ba thì gian, và hết thảy các loại chúng sinh, cùng lấy cái
Tâm duy nhất và trong sạch mà làm bản thể; các pháp nơi phàm và nơi thánh
tự có sự dị biệt, mà cái Tâm chắc thật thì không có sự dị biệt
ấy, nên gọi là như. Lại nữa, chân như nghĩa là các pháp đích thực như
thế, duy là cái Tâm duy nhất, nên gọi cái Tâm duy nhất là chân như. Nếu
ngoài Tâm có pháp thì không phải đích thực, cũng không phải như thế, thì
thế là ngụy dị (13) . Do vậy, luận Khởi tín nói, các pháp xưa nay phi ngôn
ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không hề chuyển
biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể duy nhất, nên mệnh danh chân
như. Do ý nghĩa như vậy mà Tâm lại gọi là chân như.
Lược Giải.-
Chân như nghĩa là trung thực như thế,
không người nào, cái gì, ở đâu, và lúc nào, mà không như thế. Như vậy
nếu phân biệt và khái niệm thì không là chân như nữa.
Giải Thích Tên Phật
Tánh
- E1. Giải Thích Sơ Lược
- E2. Giải Thích Rộng Rãi
- G1. Lấy Bất Giác Mà Giải Thích
- H1. Nói Thẳng Tâm Không Phải Bất Giác
- H2. Nói Cả 2 Phật Tánh
- G2. Lấy Tuệ Giác Mà Giải Thích
- H1. Nói Trí Tuệ Phật Tánh
- I1. Nhận Có 2 Nghĩa
- I2. Lấy Sự Tu Mà Giải Thích
- K1. Nói Trạng Huống Mê Chân Khỏi Vọng Để Thành
Nghĩa Bất Giác
- K2. Nói Trạng Huống Phản Vọng Qui Chân Để Thành
Nghĩa Đủ Cả 2 Nghĩa Giác Ngộ
- L1. Nói Nghĩa Giác Ngộ Tâm
- M1. Nói Giác Ngộ Theo Ngôn Từ
- M2. Nói Giác Ngộ Do Quán Sát
- M3. Nói Giác Ngộ Tương Tự
- N1. Nói Giác Ngộ Diệt Trừ Bất Giác Nơi Phàm
Phu
- N2. Nói Giác Ngộ Diệt Trừ Bất Giác Nơi Hiền
Thánh
- M4. Nói Giác Ngộ Từng Lớp
- M5. Nói Giác Ngộ Cứu Cánh
- L2. Nói Nghĩa Tâm Tự Giác Ngộ
- I3. Nói Thí Dụ Mà Tổng Kết
- H2. Nói Báo Phật Tánh
- H3. Nói Xuất Chướng Phật Tánh
- H4. Nói Bình Đẳng Phật Tánh (18)
- G3. Giải Thích Các Mối Hoài Nghi
- H1. Giải Thích Cái Nghi Chấp Tánh Bỏ Tu
- H2. Giải Thích Cái Nghi Vốn Có Bất Giác
- H3. Giải Thích Cái Nghi Tự Nhiên Nhân Duyên
- H4. Giải Thích Cái Nghi Vô Minh Tâm Tánh
Giải Thích Sơ Lược
Chính văn.-
Hỏi, tại sao gọi Tâm là phật
tánh? Đáp, phật là giác, tánh là tâm: bản thể của cái Tâm trong sạch
không phải là bất giác, nên gọi là giác tâm (phật tánh).
Nói Thẳng Tâm
Không Phải Bất Giác
Chính Văn.-
Hỏi, làm sao biết Tâm không phải
bất giác? Đáp, bất giác là vô minh trú địa (14) . Nếu Tâm mà là vô
minh, thì khi chúng sinh thành Phật đà, vô minh diệt trừ, lẽ ra không còn
cái Tâm ấy, tại sao, vì cho Tâm là vô minh. Nhưng vô minh tự diệt mà Tâm
tự còn, nên biết Tâm không phải bất giác; thêm nữa, bất giác diệt mới
chứng ngộ Tâm, nên biết Tâm không phải bất giác.
Lược Giải.-
Tâm không phải vô minh (bất giác),
vì một, vô minh diệt mà Tâm vẫn còn, và hai, diệt vô minh mới chứng ngộ
Tâm.
Nói Cả 2 Phật
Tánh
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao không lấy cái nghĩa
tâm thể là tuệ giác nên gọi là giác, mà lấy cái nghĩa tâm thể không
phải bất giác nên gọi là giác? Đáp, tâm thể thì phi tuệ giác, phi bất
giác, đó là như như phật (15) , và nói tâm thể là tuệ giác thì chỉ là
đối đãi với bất giác mà nói. Thế nên kinh Lăng dà nói,"tất cả
phi niết bàn, phi Phật nhập niết bàn, phi niết bàn của Phật, phi năng giác
sở giác, hoặc có và hoặc không, siêu việt cả nhị biên". Nói như vậy
là căn cứ bình đẳng của tâm thể mà nói là giác tánh (16) . Nếu căn cứ
tánh dụng của tâm thể mà nói là giác tánh, thì vì tâm thể đủ 3 tuệ
giác, tuệ giác không thầy, tuệ giác tự nhiên, tuệ giác vô ngại: tâm thể
vốn đủ cái tánh của 3 tuệ giác ấy nên nói là giác tánh. Như vậy thì
nên biết sự đồng và sự khác ở đây. Đồng thế nào, tâm thể là tuệ
giác, tuệ giác là tâm thể, nên nói là đồng. Khác thế nào, tuệ giác
là tánh dụng, ở nơi chúng sinh, còn trong chướng ngại, thì gọi là phật
tánh, là tánh của 3 tuệ giác, ở nơi Phật đà, thoát khỏi chướng ngại,
thì gọi là trí tuệ phật (17) ; còn tâm thể là bình đẳng, chúng sinh với
Phật đà là bất nhị, chỉ gọi là như như phật, nên nói là khác. Nên
hiểu như vậy.
Lược Giải.-
Phật tánh thì Phật có 3. Ở đây
hãy nói 2. Một, căn cứ như như phật mà nói Tâm là phật tánh, thì tâm
ấy siêu việt cả tuệ giác và bất giác, nên gọi là phật tánh. Hai, căn
cứ trí tuệ phật mà nói Tâm là phật tánh, thì Tâm ấy đủ cả tánh của
3 trí và đủ cả 3 trí, nên gọi là phật tánh.
Nhận Có 2 Nghĩa
Chính Văn.-
Hỏi, trí tuệ phật là có thể
giác ngộ cái Tâm trong sạch mà gọi là phật, hay cái Tâm trong sạch tự
giác ngộ mà gọi là phật? Đáp, đủ cả 2 nghĩa, giác ngộ cái Tâm trong
sạch và cái Tâm trong sạch tự giác ngộ. Dẫu nói 2 nghĩa mà thực thể
không dị biệt.
Lược Giải.-
Lời này mở đầu để nói sự
giác ngộ của Tâm, do sự giác ngộ ấy mà gọi Tâm là phật tánh. Phân
khoa.- I2 lấy sự tu mà giải thích , có 2 K: K1 nói trạng huống mê chân khởi
vọng để thành nghĩa bất giác, K2 nói trạng huống phản vọng qui chân để
thành nghĩa đủ cả 2 nghĩa giác ngộ.
Nói Trạng Huống
Mê Chân Khỏi Vọng Để Thành Nghĩa Bất Giác
Chính Văn.-
Ý nghĩa ấy thế nào? Chư vị Phật
đà khi còn là chúng sinh, thì Tâm do huân tập mà biến hiện (19) . Nghĩa là
do bất giác mà chuyển động, biểu hiện hư trạng (20) . Hư trạng này là
5 âm (21) của chúng sinh. Hư trạng này cũng gọi là tợ thức tợ căn tợ
cảnh (22) . Tợ thức là thức thứ 6 và thức thứ 7 (23) . Do tợ thức này
khi nổi lên liên tục trong từng đơn vị ngắn nhất của thì gian, thì
không thấu hiểu tợ căn tợ cảnh là duy Tâm biểu hiện, là hư trạng chứ
không thực. Vì không thấu hiểu mà vọng chấp hư trạng là thật. Sự vọng
chấp này trở lại huân tập cái Tâm trong sạch.
Lược Giải.-
Đoạn này mô tả trạng huống mê
chân khởi vọng.
Chính Văn.-
Sự không thấu hiểu của tợ thức
là vô minh trái (24) , là vô minh mê mờ sự vật, và trong kinh nói là ngu si
đối với đối tượng. Do vậy, sự vọng chấp của tợ thức gọi là vọng
tưởng (25) , đối tượng của vọng chấp gọi là vọng cảnh. Vô minh
trái huân tập trở lại cho Tâm, làm Tâm càng bất giác, sự bất giác ấy
là vô minh hạt (26) , là trú địa vô minh. Vọng tưởng huân tập làm cho
Tâm càng biến động, sự biến động ấy là nghiệp thức (27) . Vọng cảnh
huân tập Tâm thành chủng tử tợ cảnh, tợ thức huân tập Tâm thành chủng
tử tợ thức, 2 loại chủng tử này gọi chung là chủng tử hư trạng (28)
.
Lược Giải.-
Đoạn này nêu mấy tên của trạng
thái mê chơn khởi vọng.
Chính Văn.-
Những thứ như vô minh trái v/v
trên đây, tuy mỗi thứ huân tập phát khởi một pháp, nhưng phải cùng
lúc hòa hợp mới huân tập được, tại sao, vì những thứ ấy không tách
rời nhau, phải nương nhờ nhau mới có. Không tợ thức thì không vô minh
trái, không vô minh trái thì không vọng tưởng, không vọng tưởng thì
không hình thành vọng cảnh, nên 4 thứ này phải cùng lúc hòa hợp mới biểu
hiện hư trạng, tại sao, vì chúng không tách rời nhau. Thêm nữa, chủng tử
hư trạng dựa vào vô minh hạt mà tồn tại, chủng tử hư trạng ấy cũng
không thể đơn độc biểu hiện hư trạng, nên nếu không vô minh hạt thì
không nghiệp thức, không nghiệp thức thì chủng tử hư trạng không thể
biểu hiện hư trạng, và chính bản thân của nó cũng không có, do đó, phải
hòa hợp mới biểu hiện hư trạng. Thế nên trong cái hư trạng lại có đủ
cả tợ thức, tợ cảnh, vô minh và vọng chấp. Chính trạng huống này
được nói tổng quát rằng bất giác biến động biểu hiện hư trạng.
Ấy vậy, trái hạt sinh nhau, lưu chuyển từ vô thỉ, mệnh danh là chúng
sinh.
Lược Giải.-
Đoạn này nói sự dựa nhau trong trạng
huống mê chân khởi vọng. Câu cuối cùng là tổng kết sự bất giác của
Tâm trong trạng huống ấy, để rồi sẽ thấy sự giác ngộ của Tâm trong
trạng huống phản vọng qui chân tiếp theo sau đây. Điều phải chú ý, là
trong trạng huống mê chân khởi vọng, và rồi trong trạng huống phản vọng
qui chân, đều nói đến sự huân tập, đều là huân tập. Nhưng sự huân
tập mà luận này nói, từ căn bản, không giống Nhiếp luận, mà cũng không
giống lắm Khởi tín luận. Căn bản ấy, Nhiếp luận nói là a lại da,
nói thật chặt chẽ; Khởi tín luận nói là chân như, nói thật thú vị;còn
luận này nói là Tâm, nói khá độc đáo.
Nói Giác Ngộ Do
Quán Sát
Chính Văn.-
Nhưng về sau gặp được thiện tri
thức (29) , nói cho đạo lý các pháp toàn là Tâm biểu hiện, tuồng như có
chứ không thực có. Nghe đạo lý như vậy rồi thuận theo mà tu tập, dần
dần thấu hiểu các pháp toàn là Tâm biểu hiện, hư vọng không thật.
Lược Giải.-
M1 tức chỗ khác nói là đa văn huân
tập. M2 tức chỗ khác nói là như lý tác ý và như thật tầm tư.
Nói Giác Ngộ Diệt
Trừ Bất Giác Nơi Phàm Phu
Chính Văn.-
Khi thành tựu sự thấu hiểu các
pháp toàn là Tâm biểu hiện, hư vọng không thật, thì vô minh trái hủy diệt.
Vô minh trái hủy diệt thì hết chấp hư trạng là thật, nghĩa là vọng tưởng
và vọng cảnh hủy diệt. Bấy giờ ý thức chuyển tên là vô trần trí
(30) , cái trí giác ngộ không có trần cảnh thực hữu.
Lược Giải.-
Giai đoạn giác ngộ tương tự này,
trước hết là diệt trừ bất giác nơi phàm phu, nói theo thông thường là
diệt trừ kiến hoặc và tu hoặc trong 3 cõi.
Nói Giác Ngộ Diệt
Trừ Bất Giác Nơi Hiền Thánh
Chính Văn.-
Thấu hiểu các pháp toàn là Tâm biểu
hiện, hư vọng không thật, thì đó là vô minh trái hủy diệt, nhưng vẫn
còn thấy cái có của hư tướng ấy, không biết đạo lý có tức chẳng
phải có, vốn không sinh thì nay không diệt, toàn chỉ là Tâm, sự không biết
này là vô minh hạt, cũng tên là vô minh mê mờ chân lý (31) , vi tế hơn vô
minh mê mờ sự vật, chỉ vì phần thô hủy diệt nên gọi là vô minh trái
hủy diệt. Thêm nữa, không chấp hư trạng là thật nên nói là vọng tưởng
hủy diệt, nhưng còn thấy có hư tướng, chấp là khác với Tâm, thì cái
chấp ấy cũng là vọng tưởng, cũng là hư tướng, vi tế hơn trước, chỉ
vì phần thô hủy diệt nên nói là vọng tưởng hủy diệt. Và thêm nữa,
hư cảnh do vô minh vi tế và vọng tưởng vi tế chấp thủ, như là khác với
Tâm, và có lắm ấn tượng, thì đó cũng là vọng cảnh, vi tế hơn trước,
vì vi tế nên gọi là hư cảnh, và vì phần thô chấp các pháp thật có bị
hủy diệt, nên nói là vọng cảnh hủy diệt.
Lược Giải.-
Có 2 đoạn văn nói trạng huống diệt
trừ bất giác nơi hiền thánh, tức là trần sa hoặc ngoài 3 cõi. Trước hết,
đoạn văn này cho thấy, đoạn trước nói diệt trừ bất giác nơi phàm
phu là diệt trừ vô minh, vọng tưởng, vọng cảnh, sự diệt trừ ấy chỉ
là diệt trừ phần thô của 3 thứ này. Nhưng 3 thứ này còn có phần tế,
như đoạn văn này nói, và sự diêt trừ dần dần phần tế ấy thì đoạn
văn sau đây nói đến. Phần tế của 3 thứ vô minh, vọng tưởng, vọng cảnh,
là vô minh hạt, hư tưởng, hư cảnh.
Chính Văn.-
Lấy sự cứu xét trên mà luận định,
thì không phải chỉ vô minh trái diệt trừ mà vô minh hạt cũng bị diệt
trừ ít lớp. Sự diệt trừ mà không phải dần dần từng lớp thì chính
vô minh trái cũng không thể dần dần diệt trừ từng lớp; nhưng không
nói vô minh hạt đã diệt trừ từng lớp, là chỉ vì sắc thái này vi tế
khó nói. Nay, căn cứ sau khi vô minh trái diệt trừ để nói cái lý do vô
minh hạt diệt trừ dần dần thì biết, từ lúc có ý nghĩ phát tâm tu
hành sắp đi, vô minh hạt cũng đã diệt trừ dần dần. Lý do ấy là gì,
là do 2 lý do sau đây mà vô minh hạt và nghiệp thức v/v đã dần dần kém
và mỏng đi. Hai lý do ấy, một là cái trí biết đối cảnh hư vọng nó
huân tập cho Tâm, nên làm cho chủng tử của vô minh hạt và của nghiệp
thức v/v bị diệt trừ dần dần, tại sao, vì trí thì minh sát, có tính năng
đối trị vô minh; hai là vô minh hạt, hư tưởng và hư cảnh vi tế, chúng
huân tập cho Tâm, làm cho vô minh hạt v/v dẫu khởi lên cũng đã yếu kém,
không như sự khởi lên trước đó do vô minh trái, vọng tưởng và vọng cảnh
huân tập, tại sao, vì sự huân tập đã vi tế thì sự khởi lên cũng yếu
kém. Vì 2 lý do như vậy mà vô minh hạt với nghiệp thức v/v đã dần dần
diệt trừ. Sau khi vô minh trái diệt trừ đã có trạng huống như trên,
thì nên nhận thức rằng, từ lúc mới có ý nghĩ bắt đầu phát tâm tu
hành, vô minh hạt cũng đã diệt trừ từng lớp. Vì vô minh hạt diệt trừ
từng lớp nên trí tuệ được khởi lên cũng từng lớp sáng dần, đó là
lý do diệt trừ được vô minh trái.
Nói Giác Ngộ Từng
Lớp
Chính Văn.-
Sau khi vô minh trái diệt trừ, từ
đó sắp đi, nghiệp thức với vô minh hạt dần dần mỏng đi, cái quả
báo hư trạng được khởi lên cũng chuyển thành nhẹ nhàng, tinh tế, chứ
không như trước đó. Vì lý do này mà tợ thức chuyển dần trong sáng, sắc
bén, tợ cảnh cũng không còn làm cho ý thức mê hoặc. Trong thì tợ thức,
ngoài thì tợ cảnh do tợ thức hình thành, tất cả đều vi tế, sắc bén,
nên vô trần trí bội phần sáng lên, vô minh và vọng tưởng cùng cực mỏng
đi, như vậy mà trở lại huân tập cho Tâm, thì làm cho chủng tử của vô
minh hạt và nghiệp thức dần dần sắp đến chỗ diệt hết, vô trần
trí được chuyển sinh càng bội phần sáng tỏ. Cứ như thế, ý nghĩ này
nối tiếp ý nghĩ khác, dần dần huân tập, nên vô minh hạt gần hết, vô
trần trí thấu triệt quả báo hư trạng thực thể chẳng phải là có, vốn
bất sinh, nay bất diệt, toàn chỉ là Tâm, không có phân biệt, vì ngoài
Tâm không có pháp gì (32) . Trí ấy bấy giờ thành kim cang vô ngại trí
(33) .
Nói Giác Ngộ Cứu Cánh
Chính Văn.-
Kim cang vô ngại trí thành đạt thì
lại huân tập cho Tâm. Tâm được trí ấy huân tập, nên chủng tử của
cái nhất niệm vô minh (34) diệt hết ở đây. Vô minh diệt hết, nên chủng
tử của nghiệp thức và pháp dơ bẩn cũng diệt hết theo. Trong kinh nói,
đất của chúng đã tan vỡ thì chúng cũng tan vỡ. Lời ấy là nghĩa này
đây.
Nói Nghĩa Tâm Tự
Giác Ngộ
Chính Văn.-
Chủng tử diệt hết nên hư trạng
mất hẳn. Hư trạng mất hẳn nên tâm thể tịch chiếu (35) , như thế gọi
là thể chứng chân như. Tại sao, vì không có cái pháp nào khác làm năng
chứng. Và như thế chính là tịch chiếu, không có năng chứng sở chứng
khác nhau, gọi là vô phân biệt trí, tại sao, vì ngoài cái trí ấy thì
không có cái chân như nào khác để có thể phân biệt, mà là tâm hiển lộ
thành trí, trí là dụng của tâm, tâm là thể của trí, thể dụng là một,
tự tánh bất nhị. Như thế gọi là Tâm tự thể chứng.
Nói Thí Dụ Mà Tổng
Kết
Chính Văn.-
Như nước trong lặng thì chiếu
soi, chiếu soi với trong lặng khác nhau mà nước thường duy nhất, vì sao,
vì chiếu soi là trong lặng, trong lặng là chiếu soi. Tâm cũng vậy. Tịch
chiếu phân ra mà thể là bất nhị, vì sao, vì chiếu là tịch, tịch là
chiếu. Chiếu mà tịch là thuận với thể, tịch mà chiếu là thuận với
dụng. Chiếu tự thể là giác ngộ Tâm, thể tự chiếu là Tâm tự giác ngộ,
nên trước đây đã nói 2 nghĩa chỉ 1 thể. Ở đây, như vậy, là lấy vô
phân biệt trí làm giác ngộ. Tâm bản lai có đủ tánh của trí ấy, không
thêm không bớt, nên nói Tâm là phật tánh. Và đến đây đã kết thúc việc
lấy trí tuệ phật mà nói Tâm là phật tánh.
Nói Báo Phật Tánh
Chính Văn.-
Thêm nữa, tự thể của Tâm có đủ
tánh của phước đức và tánh của diệu dụng, rồi do nghiệp trong sạch
huân tập mà xuất sinh báo phật và ứng phật, nên gọi Tâm ấy là phật
tánh.
Nói Xuất Chướng
Phật Tánh
Chính Văn.-
Thêm nữa, bất giác diệt nên nói
Tâm là giác, biến động hết nên nói Tâm bất động, hư tướng mất nên
nói Tâm vô tướng. Nhưng tâm thể thì phi giác bất giác, phi động bất động,
phi tướng vô tướng. Dầu vậy, vì bất giác diệt mà nói Tâm là giác cũng
không ngại gì. Ấy là căn cứ tâm thể do sự đối trị nên ra khỏi chướng
ngại mà nói là giác, không căn cứ trí dụng mà nói là giác.
Nói Bình Đẳng Phật
Tánh
Chính Văn.-
Lại thêm nữa, Tâm vốn không bất
giác nên nói là bản giác, vốn không biến động nên nói là bản tịch, vốn
không hư tướng nên nói là bình đẳng. Nhưng bản thể của Tâm phi giác bất
giác, phi động bất động, phi tướng vô tướng. Chỉ vì Tâm vốn không bất
giác nên nói là bản giác cũng không lỗi gì. Ấy là căn cứ chúng sinh với
Phật đà vốn bình đẳng để nói tâm thể là như như phật, không căn cứ
tâm thể vốn đủ cái dụng tánh giác mà nói.
Giải Thích Cái
Nghi Chấp Tánh Bỏ Tu
Chính Văn.-
Hỏi, nếu căn cứ vốn không bất
giác mà nói là Phật đà, thì chúng sinh tức là Phật đà, cần gì tu tập?
Đáp, nếu căn cứ tâm thể bình đẳng thì không có tu với không tu, thành
với không thành, giác với bất giác, chỉ vì muốn nói về như như phật
nên đối đãi với bất giác mà nói là giác. Lại nữa, nếu căn cứ tâm
thể bình đẳng thì cũng không có sự khác nhau giữa chúng sinh, Phật đà
và Tâm, nên kinh Hoa nghiêm có chỉnh cú nói "Tâm, Phật với chúng sinh,
cả ba không sai biệt". Thế nhưng căn cứ pháp môn tâm tánh duyên khởi
(36) thì pháp nhĩ (37) không có phá hoại, nên thường bình đẳng mà thường
sai biệt. Thường bình đẳng nên Tâm, Phật với chúng sinh cả ba không sai
biệt, nhưng thường sai biệt nên trôi theo năm đường thì nói là chúng
sinh, ngược dòng tận nguồn thì nói là chư Phật. Bình đẳng thì không
có Phật đà và chúng sinh, nhưng duyên khởi thì chúng sinh phải tu tập.
Giải Thích Cái
Nghi Vốn Có Bất Giác
Chính Văn.-
Hỏi, làm sao biết được tâm thể
vốn không bất giác? Đáp, nếu tâm thể vốn có bất giác thì thánh giả
thể chứng (38) cái Tâm trong sạch rồi đáng lẽ trở lại bất giác, còn
phàm phu chưa thể chứng cái Tâm trong sạch mà đáng lẽ đã là giác ngộ.
Nhưng thấy người thể chứng thì không có bất giác, người chưa thể chứng
thì không gọi là giác ngộ, nên biết chắc tâm thể vốn không bất giác.
Hỏi, thánh giả diệt bất giác nên thể chứng tịnh tâm, vậy bất giác nếu
không sao lại nói diệt, chưa kể không bất giác thì thế là không có
chúng sinh. Đáp, trước đã giải thích đủ rồi. Tâm thể bình đẳng, không
phàm không thánh, nên nói vốn không bất giác; nhưng không phải không có
tâm tánh duyên khởi, nên có diệt có chứng, có phàm có thánh. Thêm nữa,
cái có của sự duyên khởi là "có tức chẳng phải có", nên nói
vốn không bất giác, nay cũng không bất giác; nhưng"chẳng phải có mà
chẳng phải chẳng có", nên nói có diệt có chứng, có phàm có thánh.
Có điều thể chứng là dụng thuận mà nhập thể, tức không bất giác,
và nghiệm biết tâm thể vốn không bất giác; còn phàm phu là dụng trái,
một thể mà cho khác nhau, vì vậy mà không thể chứng cái thể bình đẳng.
Giải Thích Cái
Nghi Tự Nhiên Nhân Duyên
Chính Văn.-
Hỏi, Tâm hiển lộ thành trí, là
vô minh hết mà tự nhiên là trí, hay còn lý do nào khác? Đáp, Tâm ở trong
giai đoạn dơ bẩn thì vốn đủ cả mà không thiếu gì về tánh của 2 thứ
phước trí, không khác với Phật, chỉ vì pháp dơ bẩn vô minh ngăn che nên
không hiển lộ được cái dụng của tánh nói trên. Về sau, được huân tập
bởi 2 loại nghiệp trong sạch phước trí, nên pháp dơ bẩn hết cả. Nghiệp
trong sạch loại hết pháp dơ bẩn thì cái tánh của 2 thứ phước trí hiển
lộ thành sự dụng ẫ đó là tướng hảo quang minh, y báo trang nghiêm, trí
nhất thế trí v/v. Như vậy, thể của trí là cái tính năng"chiếu"
của Tâm, còn dụng của trí thì do huân tập mà thành.
Giải Thích Cái
Nghi Vô Minh Tâm Tánh
Chính Văn.-
Hỏi, Tâm hiển lộ thành trí nên lấy
Tâm làm phật tánh, vậy Tâm khởi bất giác cũng nên lấy Tâm làm vô minh?
Đáp, nếu căn cứ pháp tánh mà nói thì cũng có thể nói là tánh của vô
minh, nên trong kinh đã nói, minh với vô minh tánh thật bất nhị. Cái tánh
bất nhị ấy chính là thật tánh.
Giải Thích Tên
Pháp Thân
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao gọi Tâm là pháp
thân? Đáp, pháp là công năng, thân là chỗ y cứ. Tâm có cái tính năng tùy
nhiễm, nên các pháp dơ bẩn huân tập. Chính cái tính năng tùy nhiễm ấy
thâu giữ tập khí của sự huân tập, và y theo sự huân tập mà biểu hiện
pháp dơ bẩn. Như vậy 2 thứ công năng thâu giữ và biểu hiện cùng với
2 thứ pháp dơ bẩn được thâu giữ và được biểu hiện toàn là do Tâm
mà có, không một không khác với Tâm, nên Tâm ấy được gọi là pháp
thân. Cái công năng thâu giữ cùng với cái tập khí được thâu giữ hóa
hợp thì gọi là a lại da hạt; cái công năng biểu hiện theo tập khí
cùng với hiện tượng được biểu hiện hóa hợp thì gọi là a lại da
trái. Hai thức như vậy thể một dụng khác. Nhưng a lại da tức có 2 phần.
Một là phần dơ bẩn, tức là nghiệp với nghiệp báo. Hai là phần trong sạch,
tức là tính năng của Tâm với pháp trong sạch huân tập. Nhưng tính của
phần dơ bẩn tức là tính của phần trong sạch chứ không gì khác. Và
Tâm ấy là chỗ y cứ của nghiệp và nghiệp quả, nên nói sinh tử y cứ
như lai tạng. Như lai tạng ở đây là pháp thân tạng. Lại nữa, Tâm ấy
tuy bị vô lượng pháp dơ bẩn ngăn che, nhưng vẫn đủ vô lượng tánh đức
vô lậu, được vô lượng nghiệp trong sạch huân tập, thì cái tính trong
sạch thâu giữ tập khí của sự huân tập ấy, rồi y theo sự huân tập
ấy mà biểu hiện dụng trong sạch. Chính vô lượng tánh đức vô lậu,
và 2 thứ công năng thâu giữ và biểu hiện, cùng với 2 thứ dụng trong sạch
được thâu giữ và được biểu hiện, toàn do Tâm mà có, không một
không khác với Tâm, nên gọi Tâm là pháp thân.
Giải Thích Tên Như
Lai Tạng
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao gọi Tâm là như lai tạng?
Đáp, có 3 nghĩa: năng tàng, sở tàng và năng sinh. Năng tàng có 2, một là
pháp thân quả đức nơi Phật đà, hai là tịnh tâm tánh đức nơi chúng
sinh. Cả 2 đều bao hàm tính dơ bẩn tính trong sạch và dụng dơ bẩn dụng
trong sạch, không có trở ngạigì. Nên nói năng tàng là tạng; tạng thể
bình đẳng là như; bình đẳng duyên khởi là lai. Đó là năng tàng gọi
là như lai tạng. Sở tàng gọi là tạng, là chính chân tâm ấy bị vỏ vô
minh che phủ nên gọi là sở tàng; tạng thể không khác và không tướng là
như; thể đủ 2 dụng dơ bẩn trong sạch là lai. Đó là sở tàng gọi là
như lai tạng. Năng sinh gọi là tạng, là như thai tạng phụ nữ có thể
sinh con, Tâm này cũng vậy, thể đủ cái dụng của 2 tính dơ bẩn trong sạch,
nên do sức mạnh huân tập của 2 thứ dơ bẩn trong sạch mà sinh ra pháp thế
gian và pháp xuất thế. Do vậy, trong kinh nói như lai tạng là nhân của thiện
ác, lại nói tâm tánh là một mà sinh ra quả báo đủ thứ, lại nói biển
chánh biến tri của chư Phật sinh từ tâm tưởng. Nên dơ bẩn trong sạch bình
đẳng là như, sinh ra dơ bẩn trong sạch là lai, và nói năng sinh là như lai
tạng.
Giải Thích Tên
Pháp Giới
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao gọi nhất Tâm là
pháp giới? Đáp, pháp là pháp nhĩ, giới là tính khác biệt. Tâm pháp nhĩ
đủ các pháp, nên gọi là pháp giới.
Giải Thích Tên
Pháp Tánh
Chính Văn.-
Hỏi, tại sao gọi Tâm là pháp
tánh? Đáp, pháp là các pháp, tánh là tánh khác biệt. Tâm có cái tánh
khác biệt nên làm bản thể cho các pháp. Thêm nữa, tánh là chắc thật bất
biến; các pháp lấy Tâm làm bản thể, các pháp tự có sinh diệt nên gọi
là hư vọng, còn Tâm thì chắc thật bất biến nên gọi là pháp tánh.
Ngoài 7 tên còn có nhiều tên nữa, như thật tế, thật tướng, v/v, không
thể giải thích hết được. Từ trên đến đây là đã nói xong mục 2 giải
thích các tên của Tâm.
Biện Minh Thể Trạng
Của Tâm
Chính Văn.-
Mục 3 biện minh thể trạng của Tâm.
Biện minh thể trạng của Tâm thì có 3 mặt: một, lấy sự siêu việt
khái niệm (39) để nói [Tâm là] tịnh tâm; hai, lấy sự không một không
khác để nói [Tâm là] pháp tánh; ba, lấy 2 mặt như lai tạng để nói
[Tâm là] chân như. Tuy có 3 mặt như vậy nhưng là tổng quát biện minh thể
trạng của Tâm.
Nói Tịnh Tâm Siêu
Việt Khái Niệm
Chính Văn.-
Đoạn 1 lấy sự siêu việt khái niệm
để nói Tâm là tịnh tâm, thì Tâm này là cái Tâm chân như thuộc chân lý
bậc nhất (40) tự tánh viên dung, thể đủ diệu dụng, chỉ do thánh trí tự
giác (41) thể hội, chứ không phải tư duy thường tình hiểu thấu. Thế
nên được nói là ngôn ngữ mất, tư duy diệt, không thể gọi bằng từ
ngữ, không thể chỉ bằng khái niệm. Tại sao, vì Tâm thì siêu việt từ
ngữ và khái niệm. Tâm siêu việt từ ngữ nên không thể thiết lập từ
ngữ để nói đến Tâm, Tâm siêu việt khái niệm nên không thể căn cứ
khái niệm để nói đến Tâm. Do vậy mà nay nói đến thể trạng của Tâm
thì thật rất khó. Chỉ có thể nói cái khái niệm được tách rời để
chống lại và hủy diệt khái niệm ấy mà tự thể hội. Ấy là Tâm này
xưa nay tách rời tất cả khái niệm, bản thể thuần nhất, bất biến:
phi có, phi không, phi chẳng có chẳng không, phi cũng có cũng không; phi quá
khứ, vị lai, hiện tại; phi trên, giữa, dưới; phi đây, kia; phi động,
tĩnh; phi nhiễm, tịnh; phi thường, đoạn; phi sáng, tối; phi một, khác,
v/v, phi tất cả khái niệm"4 câu" (42) như vậy. Nói tổng quát,
Tâm phi tất cả pháp có thể nói có thể nghĩ, lại phi tất cả pháp
không thể nói không thể nghĩ, tại sao, vì không thể nói không thể nghĩ
là đối với có thể nói có thể nghĩ mà có, không phải là pháp tự thể,
tức không phải tịnh tâm. Do vậy nên chỉ biết tất cả pháp có thể
nói có thể nghĩ không thể nói không thể nghĩ toàn không phải tịnh tâm,
mà chỉ là hư tướng do tịnh tâm hình thành. Nhưng hư tướng ấy không thứ
gì tự thật, có là chẳng có. Cái chẳng có ấy cũng không thể nhận lấy,
tại sao, vì có vốn chẳng có, có vốn chẳng có thì làm gì có cái khái
niệm chẳng có. Do vậy phải nhận thức bản thể Tâm không thể biết bằng
tư duy, không thể nói bằng mô tả, tại sao, vì ngoài Tâm thì không có
pháp nào, không có pháp nào thì cái gì biết được nói được Tâm ấy.
Như vậy thì nên biết cái biết cái nói chỉ là hư vọng, không thật mà
có, xét thật thì không. Cái biết đã không thật thì cái được biết thật
sao được. Biết với được biết đều không thật, mà Tâm là thật, nên
không thể đem cái biết mà biết Nó. Ví như mắt thì không thể tự thấy;
ngoài mắt ấy phải có mắt khác mới thấy mắt ấy, như vậy là có 2 con
mắt, của ta và của người. Tâm không như vậy. Tâm là Như, ngoài Như không
có pháp nào. Thêm nữa, Tâm không tự biết thì có cái biết nào để biết
Tâm ấy. Phàm phu biết Tâm thì cũng như người ngu mở lớn mắt ra để tìm
mắt mình, bảo cái này cái kia là mắt mình, nhưng rốt cuộc vẫn không tự
biết mắt mình. Do vậy mà nên nhận thức, rằng có biết và có được biết
chỉ là Tâm mình bị vọng tưởng vô thỉ huân tập, không biết tự tánh
nên vọng sinh phân biệt, ngoài Tâm dựng lên cái Tâm (43) , lại đem vọng
tưởng mà nhận lấy làm Tâm. Nhưng nói xác thật thì cái tướng ấy chính
là thức tướng (43B) không phải là Tâm.
Chi Cách Tùy Thuận
Hội Nhập
Chính Văn.-
Hỏi, bản thể tịnh tâm là phi
phân biệt, vậy chúng sinh làm sao tùy thuận để hội nhập? Đáp, phải biết
bản thể của mọi sự phân biệt chính là Tâm, chỉ vì phân biệt không
ngừng nên nói là mâu thuẫn với bản thể ấy. Biết như vậy rồi phải
quán sát tất cả các pháp và tất cả phân biệt có tức chẳng có, như
thế là tùy thuận. Tu tập lâu ngày, viễn ly phân biệt thì là hội nhập-
tức siêu việt khái niệm hội nhập chân như. Và đến đây đã nói xong
đoạn 1 lấy sự siêu việt khái niệm để biện minh thể trạng của Tâm.
Lấy Sự Không Một
Không Khác Để Nói Tâm Là Pháp Tánh
Chính Văn.-
Đoạn 2 lấy sự không một không
khác để nói Tâm là pháp tánh, thì đoạn trên tuy nói Tâm siêu việt phân
biệt và hư tướng, nhưng những thứ này không khác với Tâm. Tại sao, vì
Tâm tuy thuần nhất nhưng vốn đủ 2 dụng dơ bẩn trong sạch, nên do sức
mạnh huân tập của vô minh phân biệt mà cái dụng dơ bẩn của Tâm y theo
sự huân tập ấy biểu hiện hư tướng. Hư tướng không thật thể mà chỉ
là Tâm, nên nói là không khác. Nhưng không khác mà cũng không một. Tại
sao, vì Tâm tuy có đủ 2 dụng dơ bẩn trong sạch mà không có sự khác nhau
của 2 tính dơ bẩn trong sạch, thuần nhất, bình đẳng, chỉ do sức mạnh
của sự huân tập mà biểu hiện hư tướng khác nhau. Hư tướng ấy có
sinh có diệt mà Tâm vẫn không sinh diệt, thường hằng bất biến, nên
nói là không một. Và thế là đã nói xong đoạn 2 lấy sự không một
không khác mà biện minh thể trạng của Tâm.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |