- Luận Chỉ Quán
- Đại thừa Chỉ quán pháp môn:
Chỉ quán của đại thừa
- HT. Thích Trí Quang dịch giải
- 6
- Phụ Lục Bản Dịch Luận
Chỉ Quán của Trưởng giả Tâm Minh Lê Đình Thám
Như đã nói trong 1 ghi chú của lời
dẫn 1, xin phụ lục sau đây nguyên vẹn bản dịch luận này của trưởng
giả Tâm minh. Trưởng giả là bậc thầy của tôi. Bản dich của trưởng
giả rất sát chính văn. Xin phụ lục ra để ai muốn thì tham khảo.
Trí Quang
Lời Giới Thiệu
Pháp-môn chỉ quán Đại-thừa là một
bộ luận rất quan trọng do Ngài Nam-nhạc sáng tác trong thời kỳ Ngũ-đại
trước nhà Đường ở Trung-Quốc.
Ngài Nam-nhạc họ lý, húy là Tuệ-tư,
là người huyện Thượng-thái, tỉnh Hà-nam. Ngài xuất gia từ lúc 15 tuổi,
theo Tuệ-văn-đại-sư học đạo và đã chứng được Pháp-hoa tam-muội,
trong một niệm vô-sư-trí, tự-nhiên-trí, vô-ngại-trí đều hiện tiền.
Ngài là nghiệp-sư của Thiên-thai-trí-giả-thiền-sư và là sơ-tổ của Thiên-thai-tông.
Ngài trụ tích ở Nam-nhạc, chuyên tâm hoằng dương Đại-thừa và có rất
nhiều đệ-tử đã thành đạo chứng quả. Sau khi Ngài tịch, vua nhà Trần
đã sắc phong cho Ngài cái hiệu là Tư-đại-thiền-sư.
Trong đời Ngũ-đại, thiền-tông rất
thịnh hành, nhưng cũng có nhiều người không rõ ý nghĩa của câu "bất-lập
văn-tự", không chịu tham học Phật-pháp, tu tập mù quáng, lạc vào
các đường trẽ. Ngài động lòng thương xót, theo duyên của căn cơ hiện
tiền, viết ra bộ luận "Pháp-môn chỉ quán Đại-thừa", lời lẽ
vắn tắt mà ý nghĩa sâu xa, để dắt dìu những người tu hành đi theo con
đường chính-pháp.
Pháp-môn chỉ quán Đại-thừa chủ
yếu dạy về ba phép chỉ và ba phép quán trong ba tính biến-kế-chấp,
y-tha-khởi và viên-thành-thật. Chỉ là quán các pháp tuy có nhưng không phải
thật có, cốt để trừ diệt những kiến-chấp mê lầm. Quán là quán các
pháp theo duyên thì hiện ra hình như có, cốt để nhận rõ sự thật
duyên-khởi của tất cả sự vật. Đến khi tu song song hai pháp chỉ quán,
tức nơi tịch mà chiếu, tức nơi chiếu mà tịch, tịch chiếu đồng thời,
tịch chiếu không hai, thì sẽ chứng được chân như tam-muội.
Nhưng trong bộ luận nầy, Ngài
Nam-nhạc không phải chỉ tuyên dương về tam-chỉ tam quán. Trong phần đầu
là phần quan trọng nhất về sự "Nương tựa của chỉ quán",
Ngài đã phương tiện chỉ dạy về cơ sở của mọi sự tu tập trong đạo
Phật, dầu là thuộc về Đại-thừa hoặc Tiểu-thừa. Ngài đặc biệt phân
tích về tự-tướng và về thể-trạng của tự-tính-thanh-tịnh-tâm tức
là cái tâm chung của tất cả phàm thánh, nhằm nêu ra cái đích của tất
cả mọi sự tu hành theo Đại-thừa, đồng thời nêu ra cái bản-thể của
các sự tu hành ấy, làm cho tất cả những người tu hành theo
pháp-tính-tông cũng như theo pháp-tướng-tông, theo thiền-tông cũng như theo
tịnh-độ-tông, nhận rõ con đường tu hành chân chính, không lạc vào các
đường trẽ.
Còn pháp-môn tam-chỉ tam-quán, thì
rõ thật là một sáng tạo tuyệt diệu của Ngài Nam-nhạc, nhằm dắt dìu
người tu hành tiến lên từng bước theo trung-đạo đệ-nhất-nghĩa-đế,
không lạc vào ngoại-đạo tà-giáo.
Do pháp-môn chỉ quán Đại-thừa
nương theo tâm-tính, y như tâm-tính mà tu trì, nhằm đi đến nhập một với
tâm-tính nên gọi là tâm-yếu.
Chỗ chứng của Ngài Nam-nhạc
không thể nghĩ bàn, ra ngoài văn tự và lời nói, nhưng vì từ bi thương xót
chúng sinh, Ngài tìm cách mượn lời nói mà chỉ dạy trong bộ luận nầy
nên gọi là phương-tiện.
Tất cả những người tu hành theo
Đại-thừa đều nên nhất tâm học tập bộ luận nầy cho thấu đáo để
nhận rõ con đường tu tiến của mình, không nên nghĩ rằng vì mình tu theo
tông phái khác mà không chịu học tập, bỏ mất một cơ hội tốt để hiểu
rõ thêm thế nào là tu hành, thế nào là giác-ngộ.
Phiên dịch bộ luận "Pháp-môn
chỉ quán Đại-thừa", chúng tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều thấm
nhuần tâm-yếu của Ngài Nam-nhạc đã dạy, cùng nhau tinh tiến tu hành theo
trung-đạo đệ-nhất-nghĩa-đế, phả độ chúng sinh, viên thành Phật-đạo.
- Viết ngày 20-6-65
- Tâm Minh
- Pháp Môn Chỉ Quán Đại Thừa
- Ngài Nam-nhạc, Tư-đại-thiền-sư,
phương tiện chỉ dạy tâm-yếu.
- I. Phần Thứ Nhất - Chỉ Dạy Tổng Quát
- A1. Chương 1 : Đặt Lời Vấn Đáp Để Chỉ Tỏ
Đương Cơ
- A2. Chương 2 : Chỉ Dạy Tóm Tắt Phép Chỉ Quán
- II. Phần Thứ Hai - Phân Tích Rộng Thêm
- A1. Chương 1 : Chia Ra Để Phân Tích
- A2. Chương 2 : Chỉ Tỏ Sự Nương Tựa Của
"Chỉ, Quán"
- A3. Chương 3 : Chỉ Tỏ Cảnh Giới Của Chỉ, Quán
- A4. Chương 4 : Chỉ Tỏ Thể Trạng Của Chỉ, Quán
- A5. Chương 5 : Phân Tích Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Chỉ, Quán
- A6. Chương 6 : Chỉ Tỏ Tác Dụng Của Chỉ, Quán
- III. Phần Thứ Ba - Chỉ Dạy Qua Các Sự Việc
- A1. Chương 1 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Trong Lúc Lễ
Phật
- B1. Khoa 1 : Về Phép Quán
- C1. Mục 1 : Quán Sự Thật
- D1. Đoạn 1 : Nói Pháp
- D2. Đoạn 2 : Ví Dụ
- D3. Đoạn 3 : Kết Hợp
- C2. Mục 2 : Quán Theo Giả-Trưởng
- D1. Đoạn 1 : Quán Thân Phật
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Thẳng
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Điều Nghi
- E1. Khoản 1 : Chỉ Tỏ Giả-Tướng Không Phải Vọng
- G1. Chi 1 : Chỉ Thẳng Là Không Phải Vọng
- G2. Chi 2 : Hơn Xa Nhị-Thừa
- G3. Chi 3 : Liền Bằng Bồ Tát
- E2. Khoản 2 : Chỉ Tỏ Cảm Và Cùng Thành Lập
- G1. Chi 1 : Chỉ Tỏ Thâm-Tính Đồng Thể
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Nương Theo Quán-Tưởng Được
Thấy Phật Thật
- G3. Chi 3 : Đối Chiếu Luận Về Chúng Sinh Và Phật
Huân-Tập Cái Tâm
- G4. Chi 4 : Kết Luận Cảm Không Hai
- D2. Đoạn 2 : Quán Thức Cúng
- B2. Khoa 2 : Về Phép Chỉ
- B3. Khoa 3 : Tu Song Song
- A2. Chương 2 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Lúc Ăn
- B1. Khoa 1 : Phép Quán
- C1. Mục 1 : Quán Phả-Cúng-Dàng
- D1. Đoạn 1 : Quán Chuyển Biến Thô-Sơ Thành Thượng-Diệu
- D2. Đoạn 2 : Quán Chuyển Biến Số Ít Thành Số
Nhiều
- C2. Mục 2 : Quán Trừ Lòng Tham
- B2. Khoa 2 : Phép Chỉ
- A3. Chương 3 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Trong Lúc Tiện
Lợi
- B1. Khoa 1 : Chỉ Thẳng
- C1. Mục 1 : Phép Quán
- C2. Mục 2 : Phép Chỉ
- B2. Khoa 2 : Giải Thích Điều Nghi
- C1. Mục 1 : Giải Thích
- C2. Mục 2 : Lệ Chung Cho Các Pháp
- D1. Đoạn 1 : Giải Thích Là Phương Tiện
- D2. Đoạn 2 : Giải Thích Ly Do Thấy Và Không Thấy
- D3. Đoạn 3 : Giải Thích Duyên Cớ Thần Thông
Khác Nhau
-
- Chương 2: Chỉ Tỏ Sự Nương Tựa Của "Chỉ,
Quán"
- B1. Khoa 1 : Chia Khoa
- B2. Khoa 2 : Chỉ Tỏ Nương Tựa Chỗ Nào
- C1. Mục 1 : Chia Các Mục
- C2. Mục 2 : Chia Ra Nhiều Tên
- C3. Mục 3 : Thích Nghĩa Các Tên
- C4. Mục 4 : Phân Tích Thể-Trạng Của Tịnh-Tâm
- B3. Khoa 3 : Chỉ Tỏ Vì Cớ Gì Mà NươngTựa Như
Thế
- C1. Mục 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Các Nghĩa Tu Hành Cần Phải
Nương Theo Cỗi Gốc
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Nghĩa Toàn-Tính Phát Khởi
Tu Hành
- C2. Mục 2 : Giải Thích Điều Nghi
- B4. Khoa 4 : Chỉ Tỏ Lấy Cái Gì Mà Nương Tựa
- C1. Mục 1 : Chia Mục
- C2. Mục 2 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Lấy Cái Gì Mà Nương
Tựa
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tổng Quát
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Tu Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Điều Nghi
- D3. Đoạn 3 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Tu Quán
- C3. Mục 3 : Phá Cái Chấp Của Hàng Tiểu Thừa
- D1. Đoạn 1 : Chính Diện Phá Chấp
- D2. Đoạn 2 : Giải Thích Điều Nghi
- C4. Mục 4 : Phá Cái Chấp Của Hàng Đại Thừa
- D1. Đoạn 1 : Phá Danh Ngôn
- D2. Đoạn 2 : Phá Lối Chứng Mù Quáng
- Đ1. Điều 1 : Luận Về Chứng Để Phá
- E1. Khoản 1 : Phân Tích Để Phá
- E2. Khoản 2 : Phá Thuyết Tự Chứng
- E3. Khoản 3 : Phá Thuyết Tha Chứng
- E4. Khoản 4 : Phá Thuyết Chứng Tha
- Đ2. Điều 2 : Luận Về Tu Để Phá Lôi Chứng Mù
Quáng
- E1. Khoản 1 : Chính Diện Phá
- E2. Khoản 2 : Phê Phán
-
- Mục 3: Thích Nghĩa Các Tên
- D1. Đoạn 1 : Thích Nghĩa Cái Tên Tự-Tính-Thanh-Tịnh-Tâm
- D2. Đoạn 2 : Thích Nghĩa Cái Tên Chân Như
- D3. Đoạn 3 : Thích Nghĩa Cái Tên Phật Tính
- Đ1. Điều 1 : Sơ Lược Thích Nghĩa
- Đ2. Điều 2 : Phân Tích Rộng
- E1. Khoản 1 : Luận Về Bất Giác Để Phân Tích
- E2. Khoản 2 : Luận Về Giác Để Phân Tích
- G1. Chi 1 : Phân Tích Trí-Tuệ Phật-Tính
- G2. Chi 2 : Phân Tích Bảo Phật-tính
- G3. Chi 3 : Phân Tích Xuất-Chướng Phật-Tính
- G4. Chi 4 : Phân Tích Bình- Đẳng Phật-Tính
- E3. Khoản 3 : Giải Thích Các Điều Nghi Còn Lại
- G1. Chi 1 : Giải Thích Điều Nghi Về Chấp Cái
Tính Mà Bỏ Tu
- G2. Chi 2 : Giải Thích Điều Nghi Về Vốn Có Bất
Giác
- G3. Chi 3 : Giải Thích Điều Nghi Nhân-Duyên, Tự-Nhiên
- G4. Chi 4 : Giải Thích Điều Nghi Về Vô-Minh
Tâm-Tính
- D4. Đoạn 4 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Thân
- D5. Đoạn 5 : Thích Nghĩa Cái Tên Như-Lai-Tạng
- D6. Đoạn 6 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Giới
- D7. Đoạn 7 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Tính
- D8. Đoạn 8 : Kết Luận
-
-
- Mục 4: Phân Tích Thể-Trạng Của Tịnh-Tâm
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tổng Quát
- D2. Đoạn 2 : Nêu Ra Nghĩa Ly-Tướng Để Chỉ Tỏ
Tịnh-Tâm
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Hẳn Tịnh-Tâm Là Ly-Tướng
- Đ2. Điều 2 : Khai Thị Phương Tiện Tùy Thuận,
Nhập Vào Tâm Tính
- D3. Đoạn 3 : Nêu Ra Nghĩa Bất-Nhất Bất-Dị Để
Luận Về Pháp-Tính
- D4. Đoạn 4 : Nêu Ra Hai Thứ NhựLai-Tạng Để Chỉ
Tỏ Chân-Như
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa Không
- E1. Khoản 1 : Chỉ Thẳng Nghĩa Không
- E2. Khoản 2 : Dùng Vấn Đáp Để Trừ Nghi
- G1. Chi 1 : Trừ Cái Nghi Chúng Sinh Hiện Có
- G2. Chi 2 : Trừ Cái Nghi Vì Nhân Gì Mà Mê Vọng
- G3. Chi 3 : Trừ Cái Nghi Vô Minh Có Tự-Thể
- G4. Chi 4 : Trừ Cái Nghi Năng-Luân Làm Thể
- G5. Chi 5 : Trừ Cái Nghi Nhân Với Quả Là Một Hay
Là Khác
- Đ2. Điều 2 : Chỉ Tỏ Nghĩa Bất Không
- E1. Khoản 1 : Tóm Nêu
- E2. Khoản 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hai Pháp Nhiểm Tịnh
- G1. Chi 1 : Chỉ Tỏ Đủ Pháp Tịnh
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Đủ Các Pháp Tính-Công-Đức
Vô-Lậu
- H2. Tiết 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hết Những Pháp-Tịnh
Ra Khỏi Các Chướng
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Đủ Pháp-Nhiễm
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Đủ Tính-Nhiễm
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Cái Nghi Đã Là Tính Thì
Không Thể Chuyển Được
- H3. Tiết 3 : Giải Thích Cái Nghi Hai Tính Trái Nhau
- H4. Tiết 4 : Giải Thích Cái Nghi Hai Nghiệp Do Đâu
Có Khởi Có Diệt
- H5. Tiết 5 : Giải Thích Cái Nghi Tính Không Trừ
Nhau
- H6. Tiết 6 : Giải Thích Cái Nghi Tương Đối Trái
Nhau
- H7. Tiết 7 : Giải Thích Cái Nghi Gốc Ngọn Cùng
Diệt
- H8. Tiết 8 : Giải Thích Cái Nghi Trái Nhau Vì
Không Huân Tập Được
- H9. Tiết 9 : Chỉ Tỏ Đầy Đủ Sự Nhiễm
- E3. Khoản 3 : Chỉ Tỏ Thể-Tính Như-Lai-Tạng Là
Một Hay Là Khác
- G1. Chi 1 : Chia Khoa
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Pháp-Môn Pháp-Giới Viên-Dụng
Vô Ngại
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Pháp Giới Chỉ Một Thể
- H2. Tiết 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hết Hai Tính Và Hai Sự
Nhiễm Tịnh
- H3. Tiết 3 : Chỉ Tỏ Nghĩa Viên-Dụng Vô-Ngại
- G3. Chi 3 : Chỉ Tỏ Cái Nghĩa Tên Gọi Khác Nhau Của
Pháp-Thân Trong Nhân Trong Quả
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- G4. Chi 4 : Chỉ Tỏ Cái Lý Chân-Thể Trong Chướng,
Khỏi Chướng
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Lý Ấy
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- G5. Chi 5 : Chỉ Tỏ Cái Tướng Thu Nhiếp Lẫn Nhau
Của Sự- Dụng
- H1. Tiết 1 : Dùng Lý Phương-Tiện Chỉ Tỏ
- H2. Tiết 2 : Dùng Sự Để Phương Tiện Chỉ Dạy
- G6. Chi 6 : Chỉ Tỏ Cái Nghĩa Đối Trị Mê Lầm
Chịu Quả-Báo Không Đồng
- H1. Tiết 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- H3. Tiết 3 : Phá Chấp
- G7. Chi 7 : Chỉ Tỏ Cộng-Tướng-Thức Và Bất-Công-Bất-Tướng-Thức
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tổng Quát
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Về Cộng-Tướng-Thức
- H3. Tiết 3 : Giải Thích Về Bất-Cộng-Tướng-Thức
- H4. Tiết 4 : Giải Thích Về Bất Cộng Trong Cộng
- H5. Tiết 5 : Giải Thích Về Cộng Trong Bất Cộng
- H6. Tiết 6 : Tổng Kết
-
- Chương 3: Chỉ Tỏ Cảnh Giới Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Tóm Chỉ Tỏ Ba Tính
- B2. Khoa 2 : Riêng Chỉ Tỏ Ba Tính
- C1. Mục 1 : Chia Riêng Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Riêng Về Chân-Thật-Tính
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Riêng Vì Y-Tha-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chia Khoa
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Về Tịnh-Phần
Y-Tha-Tính
- Đ3. Điều 3 : Giải Thích Về Nhiễm-Phần
Y-Tha-Tính
- D3. Đoạn 3 : Chỉ Riêng Vì Phân-Biệt-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Về Tịnh-Phần Phân-Biệt-Tính
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Về Nhiễm-Phần Phân-Biệt-Tính
- C2. Mục 2 : Hợp Lại Để Chỉ Tỏ
-
- Chương 4: Chỉ Tỏ Thể Trạng Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Tóm Nêu Ra
- B2. Khoa 2 : Luận Về Tính Nhiễm-Trược Để Chỉ
Tỏ
- C1. Mục 1 : Chia Ra Các Mục
- C2. Mục 2 : Nương Với Phân-Biệt-Tính Để Chỉ
Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Từ Quán Vào Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Nói Về Quán
- Đ1. Điều 2 : Nói Về Chỉ
- D2. Đoạn 2 : Từ Chỉ Khởi Ra Quán
- C3. Mục 3 : Luận Về Y-Tha-Tính Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Từ Quán Vào Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Nói Về Quán
- Đ1. Điều 2 : Nói Về Chỉ
- D2. Đoạn 2 : Từ Chỉ Khởi Ra Quán
- C4. Mục 4 : Luận Về Chân-Thật-Tính Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ
Vô-Tính-Tính
- D2. Đoạn 2 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ
Vô-Chân-Tính
- D3. Đoạn 3 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Căn Bản
Chân-Như-Tam-Muội
- D4. Đoạn 4 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Tịch
Chiếu Hiện Tiền
- C5. Mục 5 : Phân Tích Rõ Thêm
- D1. Đoạn 1 : Nói Về Công Năng Chỉ Quán
- D2. Đoạn 2 : Nói Về Bốn Lớp Tu Hành Trong
Chân-Thật-Tính
- D3. Đoạn 3 : Nói Về Tu Có Thứ Lớp
- D4. Đoạn 4 : Nói Về Căn Trừ Vọng Chấp
- C6. Mục 6 : Lấy Sự Huyễn Làm Ví Dụ Để Chỉ
Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Ví Dụ Với Phép Quán Của Ba Tính
- D2. Đoạn 2 : Ví Dụ Với Phép Chỉ Của Ba Tính
- D3. Đoạn 3 : Kết Hợp Tu Trì Chỉ Quán
- D4. Đoạn 4 : Suy Rộng Đến Các Ví Dụ Khác
- C7. Mục 7 : Lấy Chiêm Bao Làm Ví Dụ Để Chỉ Tỏ
- B3. Khoa 3 : Luận Về Ba TínhThanh Tịnh Để Chỉ Tỏ
- C1. Mục 1 : Chia Mục
- C2. Mục 2 : Luận Về Phân-Biệt-Tính Để Chỉ Tỏ
- C3. Mục 3 : Luận Về Y-Tha-Tính Để Chỉ Tỏ
- C4. Mục 4 : Luận Về Chân-Thật-Tính Để Chỉ Tỏ
- C5. Mục 5 : Phân Tích Thêm Các Nghĩa
- D1. Đoạn 1 : Phân Tích Cái Tướng Khởi Dụng Vẳng
Lặng
- D2. Đoạn 2 : Phân Tích Về Cân Xứng Với Tính
Mà Phát Khởi Sự Tu Hành
- D3. Đoạn 3 : Phân Tích Về Danh Từ Phật Và
Chúng Sinh
- D4. Đoạn 4 : Phân Tích Cái Nghĩa Đồng Nhau Khác
Nhau
- D5. Đoạn 5 : Phân Tích Về Mình Và Người Tu Hành
Và Được Ích Lợi
- D6. Đoạn 6 : Phân Tích Đức-Tịnh Chư Phật Là
Thật Hay La Hư
- D7. Đoạn 7 : Phân Tích Thường Trụ Và Sinh Diệt
-
- Chương 5: Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích
Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Chia Khoa
- B2. Khoa 2 : Giải Thích Theo Mỗi Tính
- C1. Mục 1 : Luận Về Phân-Biệt-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Quán Trong Phân-Biệt-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- Đ2. Điều 2 : Dùng Ví Dụ Để Chỉ Tỏ
- Đ3. Điều 3 : Kết Hợp Với Pháp
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Chỉ Trong Phân-Biệt-Tính
- C2. Mục 2 : Luận Về Y-Tha-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Quán
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Chỉ
- C3. Mục 3 : Luận Về Chân-Thật-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Tu Quán
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được
Ích Của Phép Tu Chỉ
- B3. Khoa 3 : Tổng Quát Chỉ Tỏ
- C1. Mục 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa Đoạn Trừ Mê-Chướng
- C2. Mục 2 : Chỉ Tỏ Lý Do Huân Tập Cái Tâm
- C3. Mục 3 : Chỉ Tỏ Về Địa Vị
- C4. Mục 4 : Tóm Chỉ Tỏ
-
- Chương 6: Chỉ Tỏ Tác Dụng Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Chỉ Thẳng
- C1. Mục 1 : Chỉ Tỏ Đầy Đủ Tác Dụng
- C2. Mục 2 : Lại Chỉ Tỏ Nương Tính Nào Mà Khởi
Ra Dụng
- C3. Mục 3 : Lại Khai Thị Về Phương Tiện
- B2. Khoa 2 : Kệ Tụng
- C1. Mục 1 : Tụng Về Lý-Tính
- C2. Mục 2 : Tụng Về Phép Quán
- C3. Mục 3 : Tụng Về Khuyên Tu
- Chương 1: Đặt Lời Vấn Đáp
Để Chỉ Tỏ Đương-Cơ
Có người hỏi vị Sa-môn rằng:
Phàm bẩm thụ tính chất nầy, đều nương sự tu hành mà khác nhau. Lại
ông thợ chạm trổ có khác, thì khí-mãnh tạo thành cũng khác. Tôi nghe Đại-đức
rỗng suốt lý rốt ráo, soi tỏ tông rộng lớn, nên trông mong được Ngài
chỉ dạy chính-pháp để sách tiến sự tu tập.
Vị Sa-môn đáp rằng: Tôi tuy từ
bé xuất-gia, chút nghe mùi đạo, nhưng bản-chất hạ-ngu khó đổi, không
thấm nhuần đạo-lý tu hành. Nay được ông hỏi, chẳng biết nói gì đây.
Người ngoài thưa: Kính bạch Đại-đức,
trông mong Ngài không ngại khó nhọc, vì tôi nói phép tu hành Đại-thừa, tôi
xin kính cẩn lập tức phụng trì, không dám quên dám sót.
Vị Sa-môn đáp rằng: Hay thay vị
Phật-tử, phát được cái tâm vô-thượng, thích nghe phép tu hành Đại-thừa;
ngay bây giờ ông đã vượt trên cảnh-giới Nhị-thừa, huống lại còn muốn
nghe để mà thật hành. Song tuy ông phát được cái tâm tốt đó, cốt yếu
phải nhờ thật hành mới thành tựu được quả-đức. Nhưng phép tu hành
hàng vạn, lối nhập-đạo không phải một; nay tôi hãy nương theo kinh luận,
vì ông nói sơ lược hai phép chỉ quán Đại-thừa; nương theo những phép
ấy, ông có thể mau được thành tựu sở-nguyện vậy.
Chương 2: Chỉ Dạy
Tóm Tắt Phép Chỉ Quán
Người ngoài thưa: Hay thay, mong Ngài
nói cho để thỏa mãn ý-nguyện của tôi, cũng khiến cho người khác được
lợi ích dây chuyền, như thế truyền-đăng không dứt, để báo ơn Phật.
Vị Sa-môn dạy: Hãy khéo nhiếp niệm mà nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà
nói.
Cái gọi là "Chỉ", nghĩa là
biết tính bản-lai tất cả các pháp tự nó không phải là có, không sinh
không diệt, chỉ do nhân duyên hư-vọng nên không phải có mà hóa thành
có. Song cái có của các pháp kia tức là không phải có, chỉ là nhất-tâm,
thể-tính không phân biệt. Quán như thế, có thể khiến vọng-niệm không
lưu-hành nên gọi là "Chỉ'".
Cái gọi là "Quán", nghĩa là
tuy biết các pháp vốn không sinh không diệt, nhưng do tâm-tính duyên khởi
ra, không phải không có tác dụng thế-gian giả dối, như huyễn-thuật,
như chiêm bao, không phải có mà có, nên gọi là "Quán".
Chương 1: Chia Ra Để
Phân Tích
Người ngoài thưa:"Tôi nhận hiểu
chậm chạp, kiến thức kém cỏi, nghe như thế vẫn chưa ngộ được, xin
Ngài dùng phương-tiện khai-thị thêm cho".
Vị Sa-môn đáp:"Phải, tôi sẽ
vì ông phân tích rộng thêm, đồng thời khiến cho những người chưa nghe
pháp lần hồi cũng được lĩnh-hội và giác-ngộ". Trong phần phân
tích rộng thêm pháp-môn "Chỉ quán", sẽ lập ra năm chương để
chỉ tỏ.
- Một là chỉ tỏ sự nương tựa của Chỉ, quán.
- Hai là chỉ tỏ cảnh-giới của Chỉ, quán.
- Ba là chỉ tỏ thể-trạng của Chỉ, quán.
- Bốn là chỉ tỏ sự đoạn trừ và được ích của
Chỉ, quán.
- Năm là chỉ tỏ tác-dụng của Chỉ, quán.
- Khoa 1: Chia Khoa
- Trong phần đầu nói về sự nương tựa, lại
chia làm ba khoa:
- Một là chỉ tỏ nương tựa chỗ nào.
- Hai là chỉ tỏ vì cớ gì mà nương tựa như thế.
- Bà là chỉ tỏ lấy cái gì mà nương tựa.
Mục 1: Chia Các Mục
Trong phần đầu chỉ tỏ nương tựa
chỗ nào, tức là chỉ tỏ nương tựa nhất-tâm để tu chỉ, quán vậy.
Trong khoa nầy, lại chia ra ba mục khác nhau:
- Một là chỉ ra nhiều tên.
- Hai là thích nghĩa các tên.
- Ba là nhận rõ thể-trạng.
Mục 2: Chỉ Ra Nhiều
Tên
Trong phân chỉ ra nhiều tên thì
cái tâm ấy tức là tự-tính-thanh-tịnh-tâm, lại gọi là chân-như, cũng gọi
là Phật-tính, cũng gọi là pháp-thân, lại xưng là Như-lai-tạng, cũng gọi
là pháp-giới, cũng gọi là pháp-tính. Những tên như thế, vô-lượng vô-biên,
nên gọi là nhiều tên.
Đoạn 1: Thích Nghĩa
Cái Tên Tự-Tính-Thanh-Tịnh-Tâm
Thứ nữa thích nghĩa các tên.
Hỏi : Vì sao gọi là tự-tính-thanh-tịnh-tâm?
Đáp : Tâm ấy, từ vô-thủy đến
bây giờ, tuy bị những pháp-nhiễm vô-minh che lấp, nhưng bản-tính thanh-tịnh
không thay đổi nên gọi là thanh-tịnh. Vì cớ sao? Vì pháp-nhiễm vô-minh bản-lai
xa rời cái tâm vậy. Thế nào là xa rời? Nghĩa là tự-thể của vô-minh
là rỗng-không, cái có của nó tức là không phải có; do nó không phải
có, không có gì kết hợp được với tâm, nên gọi là xa rời. Tâm không
kết hợp với những pháp-nhiễm vô-minh, nên gọi là bản-tính thanh-tịnh.
Bản giác trung-hòa chân thật thì gọi là tâm. Vì thế nên gọi là tự-tính-thanh-tịnh-tâm.
Đoạn 2: Thích Nghĩa
Cái Tên Chân-Như
Hỏi: Vì sao gọi là chân-như?
Đáp: Tất cả các pháp nương với
tâm ấy mà có, lấy tâm làm thể. Từ thể ấy trông về các pháp thì các
pháp đều là hư-vọng và cái có của các pháp tức là không phải có; đối
với các pháp giả dối đó nên gọi là cái tâm là chân. Lại nữa, tuy
các pháp thật không phải là có, nhưng do những nhân duyên hư-vọng, nó cũng
có những tướng sinh diệt; song khi những pháp hư-vọng kia sinh thì tâm ấy
không sinh, khi những pháp đó diệt thì tâm ấy không diệt; không sinh nên
không thêm, không diệt nên không bớt; do tâm ấy không sinh không diệt,
không thêm không bớt, nên gọi là chân. Tam thế chư Phật và tất cả
chúng sinh đồng lấy nhất-tâm thanh-tịnh ấy làm thể; các pháp phàm
thánh tự có những tướng khác nhau, nhưng cái chân-tâm ấy thì không có
khác, không có tướng, nên gọi là như.
Lại chân-như nghĩa là tất cả
các pháp chân thật như thế, chỉ là nhất-tâm nên gọi nhất-tâm là
chân-như. Nếu ngoài tâm có pháp thì tức là không phải chân thật, cũng
không phải như thế và tức là những tướng giả dối khác nhau vậy. Vì
thế, luận Khởi-tín có nói:"Tất cả các pháp bản-lai rời tướng nói
năng, rời tướng danh-tự, rời tướng nghĩ biết, rốt ráo bình-đẳng, không
có biến khác, không thể phá hoại, chỉ là nhất-tâm nên gọi là chân-như".
Do những nghĩa đó, nên tự-tính-thanh-tịnh-tâm
lại có tên là chân-như vậy.
Điều 1: Sơ Lược
Thích Nghĩa
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy
là Phật-tính?
Đáp: Phật nghĩa là giác, tính nghĩa
là tâm. Do cái thể của tịnh-tâm nầy không phải là bất-giác nên gọi
là giác-tâm vậy.
Khoản 1: Luận Về
Bất Giác Để Phân Tích
Hỏi: Làm sao biết được cái
chân-tâm đó không phải là bất-giác?
Đáp: Bất-giác tức là vô-minh trụ-địa;
nếu cái tịnh-tâm ấy là vô-minh thì khi chúng sinh thành Phật, vô-minh diệt
hết, lẽ ra không có chân-tâm. Vì cớ sao? Vì tâm là vô-minh vậy. Song vì
vô-minh tự diệt, tịnh-tâm tự còn, nên biết tịnh-tâm không phải là bất-giác;
lại nữa do bất-giác diệt rồi, mới chứng được tịnh-tâm nên biết tịnh-tâm
không phải là bất-giác vậy.
Hỏi: Sao không lấy nghĩa tự-thể
là giác mà gọi là giác, lại lấy cái nghĩa không phải là bất-giác mà gọi
là giác?
Đáp: Tâm-thể bình đẳng, không phải
giác, không phải bất giác, chỉ vì muốn chỉ tỏ Như-như-Phật nên dùng
nghĩa đối đãi mà gọi là giác. Vậy nên trong kinh nói rằng:"Tất cả
không niết bàn, không có đức Phật niết-bàn, không có niết-bàn của Phật,
xa rời năng-giác sở-giác, dầu có dầu không có, cả hai đều rời cả".
Đó là nói riêng về tâm-thể bình đẳng vậy. Nếu chính nơi cái nghĩa diệu-dụng
pháp-giới của tâm-thể để chỉ tỏ cái giác thì tâm-thể ấy đủ ba thứ
đại-trí là vô-sư-trí, tự-nhiên-trí và vô-ngại-trí; bản-thế giác-tâm
vốn đủ cái tính của ba trí đó nên gọi tâm ấy là giác-tính.
Vậy nên cần biết những nghĩa đồng
nhau khác nhau. Thế nào là đồng? nghĩa là tâm-thể bình-đẳng tức là
trí-giác; trí-giác tức là tâm-thể bình đẳng, cho nên gọi là đồng vậy.
Lại thế nào là khác? Cái nghĩa bản-giác là dụng, nơi phàm-phu thì gọi
là Phật-tính, cũng gọi là cái tính của ba trí; khi ra khỏi hai chướng thì
gọi là Trí-tuệ-Phật vậy. Còn cái nghĩa tâm-thể bình đẳng là thể
nên thánh phàm không hai, chỉ gọi là Như-như-Phật vậy. Do đó nên bảo
là khác nhau và nên biết khác nhau là như thế.
Chi 1: Phân Tích
Trí-Tuệ Phật-Tính
Hỏi: Trí-tuệ-Phật là giác ngộ tịnh-tâm
nên gọi là Phật hay là tịnh-tâm tự giác nên gọi là Phật ?
Đáp: Có đủ hai nghĩa, một là
giác ngộ tịnh-tâm, hai là tịnh-tâm tự giác; tuy nói hai nghĩa nhưng về
thể, không có khác vậy.
Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là tất cả
chư Phật, trong lúc còn là phàm phu, tâm nương theo huân tập mà biến đổi.
Do không giác nên tâm tự động, hiện ra các hư-trạng. Hư-trạng tức là
năm ấm của phàm phu và sáu trần, cũng gọi là tợ-thức, tợ-sắc, tợ-trần
vậy.
Tợ-thức tức là thức thứ sáu
và thức thứ bẩy. Do khi các tợ-thức đó niệm niệm khởi lên, không rõ
biết những pháp tợ-sắc, chỉ do tâm hiện ra và là những hư-tướng không
thật; rồi do không rõ biết như thế, vọng-chấp các hư-tướng là thật-sự;
khi vọng-chấp như thế thì liền trở lại huân tập tịnh-tâm vậy.
Song tợ-thức không rõ như thế tức
là quả-thời-vô-minh, cũng gọi là mê-cảnh-vô-minh; như trong kinh dạy là
cái "si trong duyên". Còn cái nghĩa tợ-thức vọng-chấp, tức là vọng-tưởng,
và cái cảnh sở-chấp tức là vọng-cảnh-giới vậy. Do quả-thời-vô-minh
huân-tập cái tâm, khiến cho cái tâm không giác, đó tức là tử-thời-vô-minh,
cũng gọi là trụ-địa vô-minh vậy, đo vọng-tưởng huân-tập cái tâm,
khiến cái tâm biến động, tức là nghiệp-thức. Do vọng-cảnh huân-tập
cái tâm, khiến cho nơi tâm có những chủng-tử tợ-trần; do tợ-thức
huân-tập cái tâm khiến cho nơi tâm có những chủng-tử tợ-thức; hai thứ
chủng-tử tợ-trần tợ-thức nầy, tóm lại, gọi là chủng-tử hư-trạng
vậy. Song các thứ quả-thời-vô-minh, vân vân ..., tuy gọi rằng mỗi cái
huân-tập riêng, khởi ra một pháp, nhưng cần phải đồng một thời hòa hợp
với nhau mới huân-tập được. Vì cớ sao? Vì các thứ đó không rời nhau
và nương nhau mới có vậy. Nếu không có tợ-thức thì tức cũng không có
quả-thời-vô-minh; nếu không có vô-minh thì tức cũng không có vọng-tưởng;
nếu không có vọng-tưởng thì tức cũng không thành vọng-cảnh; vậy nên
bốn thứ đó đồng một thời hòa hợp với nhau mới hiện ra được cái
quả hư-trạng. Vì cớ sao? Vì nó không rời nhau vậy. Lại nữa, những chủng-tử
hư-trạng nương với tử-thời-vô-minh kia mà an-trụ và các chủng-tử hư-trạng
không thể một mình hiện ra quả vậy. Nếu không tử-thời-vô-minh thì tức
là không có nghiệp-thức; nếu không có nghiệp-thức thì tức là các chủng-tử
hư-trạng không thể hiện ra thành quả và tự-thể của nó cũng không
thành lập được. Vậy nên phải hòa hợp mới hiện ra cái quả hư-trạng.
Vì thế, trong quả hư-trạng lại
cũng đủ cả những tợ-thức, tợ-trần, hư-vọng, vô-minh, vọng-chấp. Do
những nghĩa đó nên lược nói rằng bất-giác nên động và hiện ra các hư-trạng
vậy.
Quả và tử vô-thủy xoay vần sinh
nhau như thế, gọi là chúng sinh.
Về sau gặp được thiện-hữu dạy
cho rằng các pháp đều do nhất-tâm hiện ra, hình như có mà không thật;
nghe pháp ấy rồi thuận theo tu hành, lần biết các pháp đều do tâm biến
hiện, rỗng dối không thật.
Khi mà sự nhận hiểu như thế được
thành tựu thì quả-thời-vô-minh diệt; vì vô-minh diệt, không chấp hư-trạng
là thật nên vọng-tưởng và vọng-cảnh cũng diệt vậy. Lúc bấy giờ,
ý-thức chuyển thành vô-trần-trí và biết được không có thật trần vậy.
Tuy biết được cảnh-giới là hư-vọng
mà gọi là quả-thời-vô-minh diệt, song lại còn thấy có hư-tướng; cái
có đó tức là không phải có, bản-tính không sinh, nay cũng không diệt, chỉ
là nhất-tâm. Do không biết lý do nên cũng gọi là tử-thời-vô-minh hoặc
mê-lý-vô-minh, nhưng nó vi tế hơn mê-sự-vô-minh trước kia; do cái thô trước
kia đã diệt nên bảo rằng quả-thời-vô-minh diệt vậy.
Lại không chấp hư-trạng là thật
nên gọi là vọng-tưởng diệt, song còn thấy có hư-tướng, cho rằng có
cái khác với tâm thì cái chấp như thế cũng là vọng-tưởng, cũng gọi là
hư-tướng, nhưng vi tế hơn trước; do cái thô kia đã diệt nên gọi rằng
vọng-tưởng diệt vậy. Lại hư-cảnh đó, do có vô-minh và vọng-tưởng
vi tế chấp trược nên hình như khác với tâm, tướng nầy tướng khác bất
nhất, tức là vọng-cảnh, nhưng vi tế hơn trước và vì nó vi tế nên gọi
là hư-cảnh; lại cái chấp thật có tướng thô kia đã diệt nên cũng gọi
là vọng-cảnh diệt vậy.
Lấy đó luận rộng ra thì không những
quả-thời-mê-sự-vô-minh diệt mà trụ-địa-vô-minh cũng trừ được phần
ít vậy. Nếu trụ-địa-vô-minh không lần lần trừ được từng phần thì
quả-thời-vô-minh cũng không thể lần lần diệt được từng phần, chỉ
vì tướng đó vi tế khó chỉ bày, nên không nói trụ-địa-vô-minh cũng diệt
từng phần vậy. Nay luận về sau khi mê-sự-vô-minh diệt rồi để nói
nguyên do tiêu diệt dần dần của trụ-địa-vô-minh thì cũng liền biết
được từ lúc một niệm phát tâm tu hành, vô-minh cũng có thể dần dần
tiêu diệt.
Nghĩa đó thế nào? Do nhân duyên
hai nghĩa sau nầy nên trụ-địa-vô-minh và nghiệp-thức dần dần giảm bớt.
Hai nghĩa đó là gì? Một là do cái trí, biết được cảnh là hư vọng, huân
tập cái tâm, khiến cho tập-khí vô-minh-trụ-địa cũ và nghiệp-thức lần
lần trừ bớt. Tại sao tế? Trí là pháp sáng suốt, tính nó có thể đối
trị vô-minh vậy. Hai là do vô-minh vi tế, chấp có hư-tướng và hư-cảnh,
huân-tập cái tâm, tuy cũng khởi ra trụ-địa-vô-minh, nhưng kém yếu hơn,
không đồng như khi mê-cảnh-vô-minh huân-tập khởi lên. Tại sao thế? do
cái năng-huân vi tế nên cái bất-giác khởi lên cũng nhẹ hơn vậy. Do những
nghĩa đó nên trụ-địa-vô-minh và nghiệp-thức lần lần cũng đã bị giảm
bớt.
Như sau khi mê-sự-vô-minh tiêu diệt
rồi là đã có nghĩa ấy thì cũng nên biết rằng khi một niệm bắt đầu
phát tâm tu hành, vô-minh-trụ-địa liền đó cũng đã diệt được một phần.
Do vô-minh tiêu diệt từng phần từng phần mà trí tuệ khởi ra cũng thêm
sáng suốt từng phần từng phần, vì thế quả-thời-mê-sự-vô-minh mới
diệt được vậy.
Từ sau mê-sự-vô-minh diệt rồi,
do nghiệp-thức và trụ-địa-vô-minh dần dần kém yếu nên quả-báo hư-trạng
khởi ra cũng chuyển thành nhẹ nhàng nhỏ nhiệm, không đồng như trước.
Do cái nghĩa đó, tợ-thức chuyển thêm sáng suốt hơn, những pháp tợ-sắc
vân vân... không còn khiến ý-thức sinh mê lầm nữa. Do nội-thức và ngoại-sắc,
do thức sinh ra, đều nhỏ nhiệm thông suốt nên trí vô-trần cũng thêm
sáng tỏ và vô-minh vọng-tưởng thì tột bậc kém yếu. Các điều nầy trở
lại huân-tập cái tâm, khiến cho những tập-khí trụ-địa-vô-minh và nghiệp-thức
gần muốn đi đến hết sạch và cái trí vô-trần hiện ra lại càng thêm
sáng tỏ hơn nữa. Do từng niệm từng niệm lần lượt huân-tập chuyển dần
như thế, trụ-địa-vô-minh sắp hết và trí vô-trần khởi ra liền biết
được quả-báo hư-trạng kia, thể-tính không phải có, vốn tự không
sinh, nay cũng không diệt, chỉ là nhất-tâm, thể-tính không có phân biệt,
vì ngoài duy-tâm, không có pháp vậy; trí ấy tức là kim-cương-vô-ngại-trí.
Trí đó đã thành rồi, liền trở
lại huân-tập cái tâm. Tâm được trí sáng suốt đó huân-tập, nên tập-khí
nhất-niệm vô-minh liền diệt. Vô-minh đã hết thì những tập-khí chủng-tử
của nghiệp thức và pháp-nhiễm liền tan vỡ theo; vậy nên trong kinh nói rằng:
"Chỗ đứng đã tan vỡ thì những cái kia cũng tan vỡ theo", tức là
cái nghĩa đó vậy.
Chúng-tử tập-khí đã phá trừ rồi
thì hư-trạng dứt-hẳn; do hư-trạng dứt hẳn nên tâm-thể tịch chiếu, gọi
là thể-chứng chân-như. Vì cớ sao? Vì không có pháp nào khác làm năng-chứng
vậy.
Tức cái tịch chiếu đó không chia
ra có năng-chứng sở-chứng thì gọi là vô-phân-biệt-trí. Vì cớ sao? Vì
ngoài trí đó, không riêng có chân-như có thể phân biệt được. Đây tức
là tâm tỏ ra thành trí; trí là dụng của tâm, tâm là thể của trí; thể
và dụng chỉ là một pháp, tự-tính không hai, nên gọi là tự-tính thể-chứng
vậy.
Ví như nước đứng lặng chiếu bóng,
tuy chiếu bóng và thấm ướt, ý nghĩa khác nhau, mà nước vẫn thường là
một. Vì sao? Vì cái chiếu bóng là cái thấm ướt, cái thấm ướt là cái
chiếu bóng vậy. Tâm cũng như thế, tuy chia ra có tịch có chiếu, mà bản-thể
dung hòa không hai. Vì sao? Cái chiếu đó là tịch, cái tịch đó là chiếu
vậy. Cái chiếu là tịch, là thuận theo thể; cái tịch là chiếu, là thuận
theo dụng; chiếu cái tự-thể gọi là giác-ngộ tịnh-tâm, cái thể tự-chiếu
gọi là tịnh-tâm tự giác; cho nên nói rằng hai nghĩa đó là một thể.
Ở đây tức là lấy cái vô-phân-biệt-trí mà làm giác vậy. Tịnh-tâm bản-lai
sẵn đủ cái tính của trí đó, không thêm không bớt nên gọi tịnh-tâm
là Phật-tính.
Đó là đứng về trí-tuệ-Phật để
tỏ tịnh-tâm là Phật-tính.
Chi 2: Phân Tích
Báo- Phật-Tính
Lại tự-thể của tịnh-tâm ấy, sẵn
đủ các tính của phúc đức và của diệu-dụng, khi được nghiệp-tịnh
huân-tập thì phát sinh ra Báo-Phật và ứng-Phật, nên gọi cái tâm đó là
Phật-tính vậy.
Chi 3: Phân Tích Xuất-Chướng
Phật-Tính
Lại nữa, do bất-giác kia diệt, gọi
cái tâm là giác; sự biến động dừng nghỉ, gọi cái tâm là bất-động;
các hư-tướng dứt sạch, gọi cái tâm là vô-tướng; song cái tâm-thể đó
không phải giác, không phải bất-giác, không phải động, không phải bất-động,
không phải tướng, không phải vô-tướng. Tuy vậy, do bất-giác tiêu diệt
mà gọi cái tâm là giác, cũng không ngại gì. Đây chính nơi tâm-thể đã
đối trị và ra khỏi các chướng mà luận nghĩa chữ giác, chứ không căn-cứ
cái trí-dụng mà gọi là giác.
Chi 4: Phân Tích
Bình-Đẳng Phật-Tính
Lại nữa, tịnh-tâm vốn không bất-giác
nên gọi cái tâm là bản-giác, vốn không biến động nên gọi cái tâm là
bản-tịch, vốn không hư-tướng nên gọi cái tâm là bản bình-đẳng; song
cái tâm-thể đó không phải giác, không phải bất-giác, không phải động,
không phải bất động, không phải tướng, không phải vô-tướng. Tuy vậy,
do vốn không bất-giác mà gọi cái tâm là bản-giác, cũng không lỗi gì.
Đây chính nơi phàm thánh không hai để chỉ tỏ tâm-thể là Như-như-Phật,
không luận về cái tâm-thể vốn đủ cái dụng của tính-giác vậy.
Chi 1: Giải Thích
Điều Nghi Về Chấp Cái Tính Mà Bỏ Tu
Hỏi: Nếu chính do vốn không bất-giác
mà gọi là Phật thì phàm phu tức là Phật rồi, còn cần phải tu làm gì?
Đáp : Nếu chính nơi tâm-thể
bình-đẳng mà nói thì không có tu và không tu, thành và không thành, cũng
không giác và bất-giác, chỉ vì để chỉ tỏ Như-như-Phật nên đối lại
mà nói là giác vậy. Lại nếu căn cứ nơi tâm-thể bình-đẳng thì cũng
không có chúng sinh và chư Phật cùng với tâm-thể đó có sự sai khác. Vậy
nên trong kinh có bài kệ rằng: "Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không
khác nhau". Song lại do pháp-môn pháp-giới duyên-khởi của tâm-tính, bản
nhiên như thế, không thể hoại diệt, nên thường bình-đẳng và thường
khác nhau. Do thường bình-đẳng nên tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không
khác nhau; do thường khác nhau nên trôi lăn trong năm đường thì gọi là
chúng sinh, ngược dòng đến tột nguồn thì gọi là Phật. Do cái nghĩa bình-đẳng
đó nên không Phật, không chúng sinh; do cái nghĩa duyên khởi khác nhau đó
nên chúng sinh phải tu đạo.
Chi 2: Giải Thích
Điều Nghi Về Vốn Có Bất-Giác
Hỏi: Thế nào biết được tâm-thể
vốn không bất-giác?
Đáp: Nếu tâm-thể vốn có bất-giác
thì khi thánh-nhân chứng được tịnh-tâm rồi, lẽ ra lại cứ bất-giác
và phàm phu chưa chứng, lẽ ra cũng được gọi là giác. Đã thấy các vị
chứng rồi không có bất-giác và những người chưa chứng không gọi là
giác nên nhận biết rằng tâm-thể vốn không bất-giác.
Hỏi: Thánh-nhân do diệt trừ bất-giác
nên tự chứng được tịnh-tâm; nếu không có bất-giác thì làm sao lại bảo
là diệt trừ; lại nếu không có bất-giác thì cũng không có chúng sinh?
Đáp: Trước đã giải thích đầy
đủ rồi, do tâm-thể bình-đẳng không phàm không thánh nên bảo là vốn
không bất-giác; nhưng không phải không có tâm-tính duyên khởi, nên có diệt,
có có chứng, có phàm, có thánh. Lại nữa, cái có do duyên khởi, tức là
không phải có, nên bảo là vốn không bất-giác và hiện nay cũng không bất-giác,
song nó cũng lại không phải là không có nên nói có diệt, có chứng, có
phàm, có thánh. Chỉ các vị đã chứng, do dụng-thuận mà nhập vào thể
nên liền không có bất-giác và nghiệm biết được rằng tâm-thể vốn
không bất-giác; còn phàm phu thì do dụng-trái, một thể lại gọi là
khác, nên không chứng biết được cái thể bình-đẳng vậy.
Chi 3: Giải Thích
Điều Nghi Về Nhân-Duyên, Tự-Nhiên
Hỏi: Tâm tỏ ra thành trí, là vì
vô-minh đã hết, tự nhiên là trí, hay là còn có nhân duyên khác nữa.
Đáp: Cái tâm đó trong lúc còn
trong nhiễm, vốn đủ hai cái tính của phúc-đức và trí-tuệ, chẳng thiếu
một pháp nào và cùng với Phật không khác, chỉ vì bị những pháp-nhiễm
vô-minh che lấp nên không tỏ ra được cái dụng đó mà thôi; về sau do
được hai thứ nghiệp-tịnh phúc-đức và trí-tuệ huân-tập nên các
pháp-nhiễm đều hết; song trong khi những nghiệp-tịnh đó trừ được nhiễm
thì liền tỏ bày hai tính phúc-đức trí-tuệ kia, khiến cho thành được sự-dụng,
tức là tướng tốt, y-báo, nhất-thiết-trí, vân vân ..., trí-thể tức là
công-năng tính chiếu của chân-tâm, còn trí-dụng là do huân-tập mà thành
vậy.
Chi 4: Giải Thích
Điều Nghi Về Vô-Minh Tâm-Tính
Hỏi: Tâm tỏ ra thành trí, thì lấy
cái tâm đó làm Phật-tính; vậy tâm khởi ra bất-giác, thì cũng nên lấy
cái tâm làm vô-minh-tính.
Đáp: Nếu luận theo cái nghĩa pháp-tính
thì cũng được cho là vô-minh-tính, vì thế, trong kinh có nói :"Minh và
vô-minh, cái tính không hai, tính không hai đó, tức là Phật-tính".
Đoạn 4: Thích Nghĩa
Cái Tên Pháp-Thân
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy
là pháp-thân?
Đáp: Pháp nghĩa là công-năng, thân
nghĩa là chỗ nương đứng. Do cái tâm-thể ấy có cái dụng theo nhiễm
nên bị tất cả pháp-nhiễm huân-tập; tức cái tâm theo nhiễm, thu giữ
được các tập-khí huân-tập đó, lại có thể nương theo huân-tập mà hiện
ra các pháp-nhiễm; cả hai công-năng năng-trì năng-hiện của tâm-tính và
hai thứ pháp-nhiễm sở-trì sở-hiện đều nương nơi nhất tâm mà an-lập,
cùng với tâm ấy không phải một, không phải khác nên gọi tâm ấy là
pháp-thân. Cái công-năng năng-trì, cùng với các tập-khí sở-trì đó, hòa
hợp lại thì gọi là tử-thời a-lai-gia-thức; còn cái công-năng nương
theo huân-tập hiện ra các pháp, cùng với các tướng sở-hiện, hòa hợp lại
thì gọi là quả-báo a-lai-gia-thức; hai cái thức đó, thể là một mà dụng
thì khác vậy.
Song trong a-lai-gia-thức nầy, lại
có hai phần: một là phần-nhiễm, tức là những tướng của các nghiệp
và quả-báo; hai là phần-tịnh, tức cái tâm-tính và các pháp-tịnh năng-huân,
gọi là phần-tịnh, là vì cái tính-nhiễm tức là tính-tịnh, chứ không
có pháp khác.
Do tâm-tính ấy làm chỗ nương đứng
của những sự-nhiễm nghiệp-quả kia nên gọi là sinh-tử-y Như-lai-tạng,
tức là Pháp thân-tạng vậy.
Lại Tâm-thể ấy, tuy bị vô-lượng
pháp-nhiễm che lấp, nhưng vẫn đủ tính của các pháp công-đức vô-lậu
như số cát sông Hằng. Khi được vô-lượng nghiệp-tịnh huân-tập thì những
tính-tịnh ấy liền có thể thu giữ tập-khí huân-tập, lại có thể nương
theo sự huân-tập ấy hiện ra cái dụng của các công-đức-tịnh. Chính những
tính của các công-đức-tịnh như số cát sông Hằng, cùng với hai công-năng
năng-trì năng-hiện và hai dụng-tịnh sở-trì sở-hiện, đều nương nơi
nhất-tâm mà an-lập, cùng với tâm ấy không phải một, không phải khác,
nên gọi tâm ấy là pháp-thân vậy.
Đoạn 5: Thích Nghĩa
Cái Tên Như-Lai-Tạng
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy
là Như-lai-tạng?
Đáp: Có ba nghĩa: một là năng-tàng,
gọi là tạng; hai là sở-tàng, gọi là tạng, ba là năng-sinh, gọi là tạng.
Cái gọi là năng-tang lại có hai thứ:
một là quả-đức pháp-thân của Như-lai, hai là tính-đức tịnh-tâm của
chúng sinh; cả hai đều bao trùm hai tính nhiễm tịnh và hai sự nhiễm tịnh,
không có trở ngại, nên gọi năng-tàng là tạng; tạng-thể bình đẳng thì
gọi là như, bình đẳng duyên khởi thì gọi là lai; đó tức cái năng-tàng
mà gọi là Như-lai-tạng vậy. Hai là lấy nghĩa sở-tàng mà gọi là tạng,
tức là cái chân-tâm ấy bị cái vỏ vô-minh che giấu nên gọi là sở-tàng
vậy. Tạng-thể không có khác, không có tướng thì gọi là như, tạng-thể
đầy đủ hai dụng nhiễm tịnh thì gọi là lai; vậy nên gọi sở-tàng là
Như-lai-tạng.
Ba là lấy nghĩa năng-sinh mà gọi
là tạng. Như thai-tạng người con gái có thể sinh con, cái tâm ấy cũng vậy,
thể nó đủ cả cái dụng của hai tính nhiễm tịnh nên nương theo hai sức
huân-tập nhiễm tịnh, có thể sinh ra các pháp thế-gian và xuất-thế-gian.
Vì thế, trong kinh nói rằng: "Như-lai-tạng là cái nhân của thiện và
bất-thiện"; lại nói rằng: "Tâm-tính là một, làm sao sinh được
các thứ quả-báo"; lại nói rằng :"Biển chính-biến-tri của chư
Phật từ tâm-tưởng mà sinh vậy". Thế nên nhiễm tịnh bình đẳng thì
gọi là như, có thể sinh ra nhiễm tịnh thì gọi là lai; vậy nên gọi cái
năng-sinh là Như-lai-tạng vậy.
Đoạn 6: Thích Nghĩa
Cái Tên Pháp Giới
Hỏi: Vì sao lại gọi tịnh-tâm là
pháp-giới?
Đáp: Pháp là pháp-nhĩ, giới là
tính sai khác. Do cái tâm-thể đó bản-nhiên đủ hết tất cả các pháp
nên gọi là pháp-giới.
Đoạn 7: Thích Nghĩa
Cái Tên Pháp-Tính
Hỏi: Vì sao lại gọi tịnh-tâm là
pháp-tính?
Đáp: Pháp nghĩa là tất cả các
pháp, tính nghĩa là thể sai khác. Do tịnh-tâm ấy có tính sai khác nên có
khả-năng làm cái thể cho các pháp vậy. Lại tính cũng có nghĩa là thể-thật
không đổi, do tất cả các pháp đều lấy tâm làm thể; tướng của các
pháp tự có sinh diệt nên gọi là hư-vọng; tâm ấy chân thật, không đổi
không diệt nên gọi là pháp-tính vậy.
Đoạn 8: Kết Luận
Còn lại những danh tự vô-lượng
khác, như thật-tế, thật-tướng v.v... không thể thích nghĩa hết được.
Trên đây đã thích nghĩa các tên xong.
Đoạn 1: Chỉ Tổng
Quát
Thứ nữa chỉ ra thể-trạng. Trong
chỗ nói về thể-trạng, lại chia ra ba nghĩa khác nhau: một là nêu ra nghĩa
ly-tướng để chỉ tỏ tịnh-tâm, hai là nêu ra nghĩa bất-nhất bất-dị
để luận về pháp-tính, ba là nêu ra hai thứ Như-lai-tạng để chỉ tỏ
chân-như. Tuy có ba nghĩa khác nhau như thế, nhưng tóm lại chỉ để phân
tích thể-trạng của tịnh-tâm vậy.
Điều 1: Chỉ Hẳn
Tịnh-Tâm Là Ly-Tướng
Phần thứ nhất chỉ tỏ nghĩa
ly-tướng thì cái tâm đó tức là cái tâm chân-như đệ-nhất-nghĩa-đế.
Tự-tính của nó viên-dung, thể nó đầy đủ đại-dụng, chỉ tự-giác-thánh-trí
mới biết được, chứ không phải so đo theo tình-chấp mà có thể lường
được vậy. Thế nên bảo là đường nói năng dứt, chỗ nghĩ ngợi diệt,
không thể dùng cái tên mà gọi, không thể dùng cái tướng mà nhận; vì cớ
sao? Vì tâm-thể rời danh tướng vậy. Thể đã rời cái danh thì không thể
dùng cái danh mà gọi được cái thể; tâm đã tuyệt cái tướng thì không
thể nương cái tướng mà nhận được cái tâm; vậy nên muốn luận bàn
thể-trạng của tịnh-tâm, thật cũng khó vậy. Chỉ có thể nói cái tướng
sở-ly; trái cái tướng, diệt cái tướng đó mà tự khế-hợp thôi.
Nghĩa là nói cái tâm đó bản-lai,
rời tất cả các tướng, bình đẳng tịch-diệt, không phải hữu-tướng,
không phải vô-tướng, không phải phi-hữu-tướng, không phải phi-vô-tướng,
không phải diệc-hữu-tướng, không phải diệc-vô-tướng, không phải
quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, không phải thượng, trung, hạ, không phải bỉ,
không phải thử, không phải tĩnh, không phải loạn, không phải nhiễm,
không phải tịnh, không phải thường, không phải đoạn, không phải minh,
không phải ám, không phải nhất, không phải dị, không phải tất cả các
pháp tứ-cú, v.v... tóm lại cho đến không phải tất cả các pháp có thể
nói, có thể nghĩ, cũng không phải là pháp không thể nói, không thể nghĩ;
vì cớ sao? Vì pháp không thể nói, không thể nghĩ đối với các pháp có
thể nói, có thể nghĩ mà sinh, chứ không phải là pháp tự-thể, nên
không phải là tịnh-tâm.
Thế mới biết rằng các pháp có
thể nói, có thể nghĩ, không thể nói, không thể nghĩ, vân vân... thẩy đều
không phải là tịnh-tâm và chỉ là những hư-tướng do tịnh-tâm hiện ra;
song các hư-tướng đó đều tự không có thật, có tức là không phải
có. Cả cái tướng không phải có cũng không thể nhận lấy, vì cớ sao?
Vì cái có vốn là không có vậy; nếu cái có vốn là không có thì làm gì
còn cái tướng không phải có được. Vậy nên thể của tịnh-tâm không
thể dùng phân biệt mà biết, không thể dùng lời nói mà đến được; vì
cớ sao? Vì ngoài tịnh-tâm, không có một pháp vậy. Nếu ngoài tâm không
có pháp, thì lại còn có cái gì duyên được, nói được cái tâm ấy nữa.
Vậy nên biết rằng có ra những cái năng-duyên năng-thuyết, chỉ là cái
có giả dối không thật; xét thật thì vốn là không vậy. Năng-duyên đã
không thật thì sở-duyên làm sao thật được. Năng-duyên sở-duyên thẩy
đều không thật, còn tịnh-tâm là sự thật nên không thể dùng phân biệt
mà biết được vậy.
Ví như con mắt không tự thấy; do
ngoài con mắt đó lại có con mắt khác thấy được con mắt đó, tức là
có con mắt của mình và của người khác. Tâm thì không như vậy, chỉ là
nhất-như, ngoài như không có pháp; lại nữa tịnh-tâm không tự phân biệt,
thì làm sao có được cái gì phân biệt nhận được tịnh-tâm nữa. Thế
mà những người phàm phu mê lầm phân biệt tịnh-tâm thì cũng như người
ngây mở to con mắt mà tìm con mắt mình, rồi lại bảo các thứ tướng mạo
là con mắt của mình, rốt cuộc không biết con mắt của mình ở đâu.
Vậy nên biết rằng có ra năng-duyên
sở-duyên chỉ do tự-tâm bị những vọng-tưởng huân-tập nên không tự
biết tính mình, vọng sinh ra phân biệt và ở ngoài tâm mình, lập ra cái tướng
của tịnh-tâm, rồi dùng vọng-tưởng mà nhận đó là tịnh-tâm; xét thật
mà nói thì cái tướng nhận được đó chính là cái tướng của thức phân
biệt, thật không phải là tịnh-tâm vậy.
Điều 2: Khai-Thị
Phương Tiện Tùy-Thuận, Nhập Vào Tâm-Tính
Hỏi: Thể của tịnh-tâm đã không
thể phân biệt thì chúng sinh làm thể nào tùy-thuận mà nhập vào được?
Đáp : Nếu biết tất cả vọng-niệm
phân biệt, thể là tịnh-tâm; chỉ do phân biệt không dừng nghỉ mà gọi
là trái lý; biết như thế rồi, nên quán tất cả các pháp, tất cả
duyên-niệm có ra đó, tức là không phải có, thì gọi là tùy-thuận, tu tập
lâu ngày, nếu rời được phân biệt thì gọi là được nhập vào tịnh-tâm,
tức là rời tướng mà thể-chứng chân-như vậy. Đó là chỉ tỏ xong nghĩa
thứ nhất là lấy ly-tướng để nhận định thể-trạng.
Đoạn 3: Nêu Ra Nghĩa
Bất-Nhất Bất-Dị Để Luận Về Pháp Tính
Thứ nữa chỉ tỏ nghĩa bất-nhất
bất-dị để nhận thể-trạng.
Trên đây tuy chỉ tỏ tịnh-tâm, rời
tất cả các tướng của cảnh-giới và của tâm phân biệt, song các tướng
đó lại không khác tịnh-tâm; vì cớ sao? Tâm-thể tuy bình đẳng mà lại
vốn đủ hai cái dụng nhiễm và tịnh. Do sức huân-tập của vô-minh vọng-tưởng
vô-thủy, nên cái dụng-nhiễm của tâm-thể nương theo huân-tập mà tỏ
bày ra; song những thứ hư-tướng của dụng-nhiễm đó không có tự thể,
chỉ là tịnh-tâm nên gọi là không khác. Nhưng lại cũng không phải một,
vì cớ sao? Vì cái thể của tịnh-tâm tuy đủ hai cái dụng nhiễm tịnh
mà không có cái tướng khác nhau của hai tính nhiễm tịnh nên một vị
bình đẳng; chỉ nương theo sức huân tập mà những hư-tướng hiện ra sai
khác không đông; song những hư-tướng đó có sinh, có diệt, còn thể của
tịnh-tâm thường không sinh diệt, thường không biến đổi nên gọi là
không phải một. Đây chỉ tỏ xong nghĩa bất-nhất bất-dị thứ hai để
nhận định thể-trạng.
Khoản 1: Chỉ Thẳng
Nghĩa Không
Thứ nữa chỉ tỏ nghĩa thứ ba về
hai thứ Như-lai-tạng để nhận định thể-trạng. Phần đầu chỉ tỏ về
Không-Như-lai-tạng.
Thế nào gọi là không? Vì
tâm-tính ấy tuy duyên khởi thành lập các pháp sinh-tử, niết-bàn, vi, thuận,
vân vân ..., nhưng tâm-thể bình đẳng nhiệm mầu, tuyệt không có các tướng
nhiễm tịnh; không những tự-tính tâm-thể là bình-đẳng mà các pháp nhiễm
tịnh khởi ra, tính nó cũng tự không phải là có.
Như lấy cái khăn trông về con thỏ,
thì cái thế của con thỏ là không, chỉ nhờ sức huyễn-thuật nên hình
như con thỏ hiện ra và con thỏ hiện ra đó tức là không phải có. Tâm cũng
như vậy, chỉ do sức huyễn của hai nghiệp nhiễm tịnh huân-tập nên
hình như có hai pháp nhiễm tịnh hiện ra; nếu lấy cái tâm trông về hai
pháp kia, thì các pháp đó tức là không phải có.
Vậy nên trong kinh nói rằng:"Lưu-chuyển
là sinh-tử, không lưu-chuyển là niết-bàn, sinh-tử và niết-bàn, thẩy đều
không thể được". Kinh lại nói rằng: "Ngũ-ấm như-huyễn cho đến
đại-bát-niết-bàn cũng là như-huyễn; nếu có một pháp nào hơn niết-bàn
nữa thì tôi cũng nói là như-huyễn". Kinh lại nói rằng: "Tất cả
không niết-bàn, không có đức Phật niết-bàn, không có niết-bàn của Phật,
xa rời năng-giác sở-giác, dầu có dầu không có, cả hai đều rời tất".
Những văn kinh như thế đều căn cứ nơi tâm-thể bình-đẳng để làm bặt
mất hai dụng nhiễm tịnh. Tâm-tính đã vẳng lặng nên tâm thể rỗng
không thanh tịnh; do nhân duyên đó nên gọi tâm-thể ấy là không-Như-lai-tạng,
chứ không phải bảo là rỗng không, không có tâm-thể vậy.
Chi 1: Trừ Cái Nghi
Chúng Sinh Hiện Có
Hỏi: Chư Phật thể chứng tịnh-tâm
thì tâm-thể có thể bình-đẳng, cho nên Phật thường khởi dụng mà thường
vẳng lặng, gọi là không phải có. Chúng sinh chưa chứng được lý, hiện
có sáu đường khác nhau, làm sao lại thành không được?
Đáp: Chân-chiếu của chân-trí còn
khởi dụng mà thường vẳng lặng, gọi đó là không; huống nữa những vọng-kiến
mê lầm, sao lại không có cái nghĩa: có tức là không phải có.
Chi 2: Trừ Cái Nghi
Vì Nhân Gì Mà Mê Vọng
Hỏi: Đã gọi là không phải có
thì làm sao có được cái mê-vọng ấy?
Đáp: Đã nhận rằng vốn không phải
có mà vọng thấy là có, sao lại không nhận được rằng vốn không có
mê mà lầm khởi ra mê, cái ví dụ hoa đốm hư không có thể trình bày ở
đây.
Chi 3: Trừ Cái Nghi
Vô-Minh Có Tự-Thể
Hỏi: Các pháp-nhiễm khác có thể
gọi là không phải có, còn vô-minh đã là cái nhân-nhiễm thì làm sao lại
không có được?
Đáp: Hai thứ tử-thời, quả-thời
vô-minh vốn không tự-thể, chỉ lấy tịnh-tâm làm thể, do nhân duyên
huân-tập nên có cái dụng mê như thế; lấy cái tâm mà nhiếp thu thì cái
dụng đó tức là không phải có, chỉ là nhất-tâm. Ví như hạt thóc, hạt
mạch vốn không tự-thể, chỉ lấy vi-trần làm thể, song do nhân duyên chủng-tử
nên có cái dụng hạt thóc hạt mạch; nếu lấy vi-trần nhiếp thu thì cái
dụng đó tức là không phải có, chỉ là vi-trần ; vô-minh cũng vậy, cái
có của nó tức là không phải có.
Chi 4: Trừ Cái Nghi
Năng-Huân Làm Thể
Hỏi: Đã nói do nhân duyên huân-tập
nên có cái dụng mê thì nên lấy pháp năng-huân làm cái thể của vô-minh,
sao lại lấy tịnh-tâm làm thể?
Đáp: Pháp năng-huân tuy huân-tập
được khiến cho khởi lên, nhưng lại niệm niệm tự diệt, làm sao thành
cái thể khởi lên được. Như hạt mạch giống chỉ có thể sinh ra quả,
nhưng tự nó thì mục nát trở về vi-trần, đâu phải hạt mạch giống
mùa xuân, tức là hạt mạch kết-quả ở mùa thu sau; lại nếu như thế thì
hạt mạch lúc kiếp-sơ nay vẫn tồn tại. Vô-minh quá-khứ thì cũng như vậy,
chỉ có thể huân-tập khởi lên vô-minh niệm sau, chứ tự nó không thể
không diệt mà tạo thành được vô-minh niệm sau vậy.
Chứ nếu như thế thì vô-minh tức
là pháp thường chứ không phải từng niệm từng niệm diệt mất; vô-minh
đã không phải thường, thì cũng như ngọn đèn, lớp trước lớp sau nhân
nhau khởi lên, nên cái thể của nó chỉ là tịnh-tâm vậy. Vì thế, lấy
tâm mà nhiếp thu thì cái có của vô-minh kia tức là không phải có; do đó
nên gọi tịnh-tâm là Không-như-lai-tạng.
Chi 5: Trừ Cái Nghi
Nhân Với Quả Là Một Hay Là Khác
Hỏi: Quả-thời-vô-minh cùng với vọng-tưởng
là một hay là khác, Tử-thời-vô-minh cùng với nghiệp-thức là một hay
là khác?
Đáp: Không một không khác; vì cớ
sao? Do tịnh-tâm bất giác nên động, không bất-giác thì không động; lại
nếu không vô minh thì không nghiệp-thức; lại động cùng bất-giác hòa hợp
cùng khởi lên một lần, không thể phân biệt, nên tử-thời-vô-minh cùng
với nghiệp-thức không khác vậy. Lại bất-giác tự có nghĩa là mê mờ,
do quả-thời-vô-minh quá-khứ huân-tập khởi lên, nên lấy quả-thời-vô-minh
kia làm nhân; còn động tự có nghĩa là biến khác, do vọng-tưởng huân-tập
khởi lên nên lấy vọng-tưởng kia làm nhân; vì thế tử-thời-vô-minh
cùng với nghiệp-thức không phải một; đó là cái nghĩa tử-thời-vô-minh
cùng với nghiệp-thức không phải một, không phải khác vậy.
Quả-thời-vô-minh cùng với vọng-tưởng
không phải một không phải khác là vì vô-minh tự có nghĩa là không rõ biết,
do tử-thời-vô-minh sinh ra nên lấy tử-thời-vô-minh kia làm nhân; còn vọng-tưởng
tự có nghĩa là phát sinh các thứ phân biệt, do nghiệp-thức khởi lên
nên lấy cái nghiệp-thức kia làm nhân; vì thế quả-thời-vô-minh và vọng-tưởng
không phải là một. Lại do ý-thức không rõ cảnh là hư-giả nên vọng
sinh ra phân biệt; nếu rõ biết là hư-giả thì không sinh ra vọng-chấp
phân biệt; lại nếu không vô-minh thì không vọng-tưởng, nếu không vọng-tưởng
thì cũng không vô-minh; lại hai pháp đó hòa hợp cùng khởi lên một lần,
không thể phân biệt nên không phải khác; đó là cái nghĩa quả-thời-vô-minh
cùng với vọng-tưởng không phải một, không phải khác vậy. Theo những
nghĩa trên, hai thứ vô-minh là thể, nghiệp-thức vọng-tưởng là dụng;
hai thứ vô-minh làm nhân làm quả cho nhau, nghiệp-thức cùng vọng-tưởng
cũng tự làm nhân làm quả cho nhau. Nếu tử-thời và quả-thời-vô-minh
làm nhân cho nhau thì tức là nhân duyên; vọng-tưởng và nghiệp-thức làm
nhân cho nhau thì cũng là nhân duyên; còn nếu tử-thời-vô-minh khởi ra nghiệp
thức thì tức là tăng-thượng-duyên; quả-thời-vô-minh khởi ra vọng-tưởng
thì cũng là tăng-thượng-duyên vậy.
Trên đây chỉ tỏ không-Như-lại-tạng
xong.
Khoản 1: Tóm Nêu
Thứ nữa chỉ tỏ bất-không Như-lai-tạng,
trong đó có hai nghĩa khác nhau: một là chỉ tỏ Như-lai-tạng đủ hai pháp
nhiễm tịnh để tỏ nghĩa bất-không; hai là chỉ tỏ thể Như-lai-tạng là
một hay là khác để giải thích nghĩa thật có. Trong phần thứ nhất chỉ
tỏ đủ hai pháp nhiễm tịnh thì ban đầu chỉ tỏ đủ pháp-tịnh, thứ nữa
chỉ tỏ đủ pháp-nhiễm. Trong phần ban đầu chỉ tỏ đủ pháp-tịnh, lại
có hai phần khác nhau, một là chỉ tỏ đủ hết các pháp tính-công-đức
vô-lậu, hai là chỉ tỏ đủ hết những pháp-tịnh ra khỏi các chướng.
Tiết 1: Chỉ Tỏ
Đủ Hết Các Pháp Tính-Công-Đức Vô-Lậu
Phần thứ nhất chỉ tỏ đủ hết
các pháp tính-công-đức vô-lậu thì tức tịnh-tâm đó, tuy một vị bình
đẳng, thể không sai khác, mà lại có đủ các pháp tính-công-đức vô-lậu
quá số cát sông Hằng, nghĩa là tự-tính có nghĩa đại-trí-tuệ
quang-minh, có nghĩa nhận biết chân-thật, có nghĩa thường, lạc ngã, tịnh,
và những tính pháp-tịnh vô-lượng vô-biên như thế chỉ là nhất-tâm có
đủ, như trong luận Khởi-tín đã chỉ rộng ra vậy. Tịnh-tâm có đủ những
tính pháp-tịnh ấy nên gọi là bất-không.
Tiết 2: Chỉ Tỏ
Đủ Hết Những Pháp-Tịnh Ra Khỏi Các Chướng
Phần thứ hai, về đủ hết đức-tịnh
ra khỏi các chướng, thì tức cái tịnh-tâm đó, thể đã đủ hết những
công-đức tính-tịnh, nên nắm giữ được sức huân-tập của nghiệp-tịnh
và do sức huân-tập đó, tỏ ra cái dụng của đức-tịnh. Nghĩa đó thế
nào? Do trong nhân-địa gia công tu hành nghiệp trí-bát-nhã, huân-tập cái
tính của ba trí, khiến cho khởi ra dụng và tỏ bày, tức là ba thứ đại-trí-tuệ
của quả-đức Như-lai vậy. Lại do trong nhân địa, tất cả các sự tu
hành về năm phép ba-la-mật, vân vân ... huân-tập cái tính của tướng tốt,
khiến cho khởi ra dụng và tỏ bày, đó tức là cái báo tướng-tốt của
Như-lai vậy. Song những pháp đó của quả-đức, tướng tuy có khác mà thể
là nhất-tâm; do tâm-thể đủ các đức đó nên gọi là bất-không, chứ
không phải chính nơi cái nghĩa của tâm-thể mà chỉ là bất-không. Vì cớ
sao? Vì tâm-thể bình-đẳng, không phải không, không phải bất-không vậy.
Hỏi: Những nghiệp-tịnh năng-huân
là do tâm khởi ra hay là ngoài tâm riêng có những pháp-tịnh làm cái năng-huân?
Đáp: Các pháp năng-huân thẩy đều
do nhất-tâm làm ra; nghĩa đó thế nào? Nghĩa là những giáo-pháp được
nghe được thấy đều do tâm chư Phật Bồ-tát làm ra; tâm chư Phật, tâm
Bồ-tát, tâm chúng sinh là một, nên giáo-pháp không ở ngoài tâm vậy. Lại
giáo-pháp đó huân-tập tính nhận hiểu nơi tâm, tính đó nương theo sự
huân-tập của giáo-pháp mà khởi ra cái dụng nhận-hiểu, nên nhận-hiểu
cũng do tâm làm ra vậy. Do nhận-hiểu huân-tập tính thật-hành nơi tâm,
tính đó nương sự huân-tập của nhận-hiểu mà khởi ra cái dụng thật-hành,
nên thật-hành cũng lại do tâm làm ra vậy. Do thật-hành huân-tập tính-quả
nơi tâm; tính đó, nương sự huân-tập của thật-hành, khởi ra quả-đức
nên quả đức cũng lại do nhất-tâm làm ra vậy. Theo đó mà nói, thì nhất-tâm
làm ra giáo-pháp cho đến nhất-tâm làm ra quả-đức, chứ không có pháp
nào khác.
Do những nghĩa như thế nên tâm-thể
lúc còn phàm phu vốn đủ các tính của nhận-hiểu, của thật-hành, của
quả-đức, chỉ vì chưa được pháp-chân-như-dụng của chư Phật huân-tập
nên những tính nhận-hiểu đó chưa bày tỏ ra cái dụng; chứ nếu tâm-thể
vốn không có các tính nhận-hiểu, vân vân ..., thì dầu được huân-tập
đức-dụng cũng không tỏ bày ra được.
Như chất vàng ròng thế-gian vốn
có cái tính của nguyên chất và đồ dùng, cho đến có đủ cái tính
thành những đồ dùng tinh xảo, chỉ vì chưa được gia công rèn luyện
nên cái dụng của nguyên chất và đồ dùng, vân vân ... không hiện ra; về
sau đươc gia công rèn luyện thì nguyên chất và đồ dùng theo thứ lớp
mà hiện ra. Nếu vàng vốn không có cái tính của nguyên chất và đồ dùng
thì dầu có gia công gia sức cái dụng nguyên chất và đồ dùng cũng khó tỏ
hiện ra được. Ví như ép cát để tìm dầu, dùi nước cho ra lửa, rèn
giá cho thành đồ dùng, nung cây để làm cái bình thì hẳn không thể
thành được, vì vốn không có cái tính đó vậy.
Vậy nên trong luận nói rằng:
"Nếu chúng sinh không có tính Phật thì dầu cho tu đạo cũng không
thành Phật". Do những nghĩa đó nên cái thể của tịnh-tâm vốn đủ
hết cái tính của nhân-hành và của quả-đức vậy. Nương theo tính đó,
khởi ra các đức của nhân của quả, vậy nên những đức đó chỉ lấy
nhất-tâm làm thể. Nhất-tâm đủ những đức-tịnh như thế nên gọi là
Bất-không Như-lai-tạng.
Tiết 1: Chỉ Tỏ
Đủ Tính-Nhiễm
Thứ nữa chỉ tỏ đầy đủ pháp-nhiễm,
trong đó lại có hai phần khác nhau; một là chỉ tỏ đầy đủ tính-nhiễm,
hai là chỉ tỏ đầy đủ sự-nhiễm.
Trong phần đầu chỉ tỏ đầy đủ
tính-nhiễm thì cái tâm ấy tuy bình-đẳng ly-tướng mà lại đầy đủ cái
tính của tất cả pháp-nhiễm, sinh được sinh tử, làm được sinh tử; vậy
nên trong kinh nói rằng: "Tâm-tính là một, làm sao sinh được các thứ
quả-báo", tức là sinh được sinh tử; kinh lại nói rằng: "Tức
cái pháp-thân đó trôi lăn trong năm đường thì gọi là chúng sinh"; đó
là làm được sinh tử vậy.
Tiết 2: Giải
Thích Cái Nghi Đã Là Tính Thì Không Thể Chuyển Được
Hỏi: Nếu tâm-thể vốn đủ tính-nhiễm
thì không thể chuyển phàm thành thánh.
Đáp: Nếu tâm thể chỉ đủ tính-nhiễm
thì không thể chuyển phàm thành thánh; nhưng nó đã đầy đủ cả hai tính
nhiễm tịnh thì sao lại không thể chuyển phàm thành thánh.
Tiết 3: Giải
Thích Cái Nghi Hai Tính Trái Nhau
Hỏi: Cái dụng của phàm thánh,
không cùng khởi lên một lần được; vậy hai tính nhiễm tịnh làm sao lại
cùng có được?
Đáp: Tâm-thể mỗi mỗi chúng sinh,
tâm-thể mỗi mỗi chư Phật vốn đủ hai tính nhiễm tịnh mà không có tướng
khác nhau, một vị bình-đẳng, xưa nay không hề hư mất; chỉ do nghiệp-nhiễm
huân-tập tính-nhiễm, thì cái tướng sinh tử hiện ra; nghiệp-tịnh huân tập
tính-tịnh thì cái dụng niết-bàn hiện ra. Song tâm-thể đó của mỗi mỗi
chúng sinh khi nương theo huân-tập mà làm ra sinh tử, cũng không ngại gì
cái thể vẫn có công-năng tính-tịnh; tâm thể mỗi mỗi chư Phật, khi
nương theo huân-tập làm ra niết-bàn, cũng không ngại gì cái thể vẫn có
cái dụng tính-nhiễm. Do nghĩa đó, mỗi mỗi chúng sinh, mỗi mỗi chư Phật
đều đủ hết hai tính nhiễm tịnh, pháp-giới bản-nhiên như thế, chưa hề
lúc nào không có; chỉ nương sức huân-tập khởi ra dụng thì trước sau
không cùng có một lần.
Vậy nên khi sự huân-tập của nghiệp-nhiễm
dừng nghỉ thì gọi là chuyển phàm, khi nghiệp-tịnh khởi dụng thì gọi
là thành thánh ; song hai cái tính nhiễm tịnh nơi tâm-thể thật không có
thành có hoại. Vì thế, nói về tính thì nhiễm tịnh đều đủ cả, luận
về nương theo huân-tập thì phàm và thánh không cùng có một lần; vậy
nên trong kinh nói rằng: "Trong pháp thanh tịnh không thấy một pháp
thêm", tức là vốn đủ tính-tịnh, không phải bắt đầu có vậy;
"Trong pháp phiền não, không có một pháp giảm", tức là vốn đủ
tính-nhiễm, không thể diệt vậy. Song nương theo nhân duyên đối trị, khi
trí bát-nhã thanh-tịnh thù-thắng hiện tiền, tức là nghiệp-tịnh huân-tập
nên thành thánh, lúc ấy phiền não vọng-tưởng đều hết sạch, tức là
nghiệp-nhiễm dừng nghỉ nên chuyển phàm vậy.
Tiết 4: Giải
Thích Cái Nghi Hai Nghiệp Do Đâu Có Khởi Có Diệt
Hỏi: Vô-thủy nghiệp-nhiễm vốn
có, do đâu mà diệt được, nghiệp-tịnh vốn không, do đâu mà khởi lên?
Đáp: Được cái nghĩa chân-như-dụng
của chư Phật huân-tập tâm-thể nên nghiệp-tịnh khởi lên, tịnh có khả-năng
trừ nhiễm nên nghiệp-nhiễm diệt mất.
Tiết 5: Giải
Thích Cái Nghi Tính Không Trừ Nhau
Hỏi: Hai nghiệp nhiễm tịnh đều
nương tâm-tính khởi lên, rồi trở lại huân-tập cái tâm; đã đều
nương tâm-tính mà khởi lên, sao lại trừ nhau được?
Đáp: Nghiệp-nhiễm tuy nương tâm-tính
khởi lên, nhưng thường trái với tâm-tính; nghiệp-tịnh cũng nương tâm-tính
khởi lên, lại thường thuận với tâm-tính; trái thì có nghĩa diệt được,
ly được, nên bị nghiệp-tịnh diệt trừ; thuận thì có công-năng giúp
nhau nên có thể trừ được nhiễm; pháp-giới bản-nhiên có cái dụng trừ
nhau như thế, không nên nghi hoặc.
Tiết 6: Giải
Thích Cái Nghi Tương Đối Trái Nhau
Hỏi: Tính-tịnh tâm-thể khởi được
nghiệp-tịnh, trở lại huân-tập tính tịnh của tâm-thể; tính-nhiễm
tâm-thể khởi được nghiệp-nhiễm, trở lại huân-tập tính-nhiễm của
tâm-thể, nên có thể vì nghiệp-nhiễm cùng với tính-tịnh không sinh nhau,
không huân-tập nhau mà nói là trái nhau; song nghiệp-nhiễm cùng với
tính-nhiễm sinh nhau, huân-tập nhau thì phải nói là thuận nhau và nếu đã
là thuận nhau thì không thể diệt được Nếu nghiệp-nhiễm tuy thuận nhau
với tính-nhiễm, nhưng vì trái nhau với tính-tịnh mà có thể diệt được
thì lẽ ra nghiệp-tịnh tuy thuận nhau với tính-tịnh, nhưng vì trái nhau với
tính-nhiễm, cũng có thể trừ được. Nếu cả hai đều có nghĩa trái nhau
và đều có nghĩa diệt được, ly được, mà vẫn tịnh còn nhiễm mất,
thì lẽ ra do cả hai đều có nghĩa thuận nhau và có công-năng giúp nhau
thì cũng có thể nhiễm còn tịnh mất.
Đáp: Cái nghĩa tôi lập ra không phải
như vậy, sao lại hỏi thế ấy? Tôi nói nghiệp-tịnh thuận với tâm nên
tính-tịnh của tâm-thể tức là gốc-thuận, nghiệp-nhiễm trái với tâm
nên tính-nhiễm của tâm-thể tức là gốc-trái; nếu riêng luận về
tâm-thể thì trái và thuận đều bình-đẳng, chỉ do gốc-thuận khởi ra
nghiệp-tịnh là thuận với thể bất-nhị của tịnh-tâm nên có công-năng
giúp nhau; gốc-trái khởi ra nghiệp-nhiễm là trái với lý chân-như bình-đẳng,
nên có cái nghĩa diệt được, ly được vậy.
Tiết 7: Giải
Thích Cái Nghi Gốc Ngọn Cùng Diệt
Hỏi: Gốc-trái khởi ra ngọn-trái
là trái với thể bất-nhị, lẽ ra đều có nghĩa diệt được ly được,
cớ sao trên đây lại nói pháp-giới bản-nhiên đầy đủ hai tính, không
thể phá hoại? Đáp: Gốc-trái tuy khởi ra ngọn-trái, nhưng chỉ có lý-dụng
nên cùng với gốc-thuận đều một vị, không thể trừ được; ngọn-trái
tuy nương theo gốc-trái, nhưng là sự-dụng nên có nghĩa riêng biệt và có
thể diệt được, vì cái nghĩa ấy nên thành lập được cái nghĩa hai tính
không hư mất.
Hỏi: Tôi vẫn không hiểu cái nghĩa
dụng-nhiễm trái với tâm, xin dạy thêm cho. Đáp: Pháp-nhiễm vô-minh thật
do tính-nhiễm của tâm-thể khởi lên, chỉ vì nó tối tăm không biết tự-mình
và các cảnh-giới đều do tâm khởi lên, cũng không biết tịnh-tâm đầy
đủ hai tính nhiễm tịnh mà không có tướng khác nhau, một vị bình-đẳng;
do không biết đạo-lý như thế nên gọi là trái. Pháp-tịnh trí-tuệ thật
do tâm-thể khởi lên, vì nó sáng suốt nên biết được tự-mình và các
pháp đều đo tâm làm ra, lại biết tâm-thể đầy đủ hai tính nhiễm tịnh
mà không có tướng khác nhau, một vị bình-đẳng; do biết được đúng
lý như thế nên gọi là thuận.
Ví như người tợ-cùng-tử thật
do cha sinh và cha thật thương nhớ, chỉ vì ngu mê, không biết mình do cha
sinh ra, lại không biết ý cha, tuy ở trong nhà cha mà không nhận được cha
nên gọi là trái; về sau nhờ cha khuyên bảo, trải qua nhiều năm, mới biết
mình do cha sinh ra, lại biết được ý cha, rồi nhận được gia-nghiệp, vâng
lời cha dạy bảo thì gọi là thuận. Chúng sinh cũng vậy; do vô-minh nên
không biết thân mình và các pháp thẩy đều do tâm sinh ra, sau gặp được
chư Phật phương tiện giáo hóa nên thuận theo tịnh-tâm và chứng được
chân-như vậy.
Tiết 8: Giải
Thích Cái Nghi Trái Nhau Vì Không Huân Tập Được
Hỏi: Đã nói pháp-nhiễm vô-minh
trái với tâm thì làm sao lại huân-tập cái tâm được? Đáp: Pháp-nhiễm
vô-minh không có tự-thể riêng biệt nên không rời tịnh-tâm; do không rời
tịnh-tâm nên tuy trái nhau mà vẫn huân-tập nhau được. Như cây phát ra ngọn
lửa, ngọn lửa trái với cái cây mà bốc lên, nhưng do vì không có tự-thể
riêng biệt, không rời cái cây, cho nên trở lại đốt được cái cây. Nhưng
lại không nên nghe ví-dụ nầy, mà khởi ra cái chấp về cái đèn cái lư
vậy.
Trên đây đã chỉ tỏ tâm-thể đầy
đủ tính nhiễm nên gọi là bất-không vậy.
Tiết 9: Chỉ Tỏ
Đầy Đủ Sự-Nhiễm
Thứ nữa chỉ tỏ tâm-thể đầy
đủ sự-nhiễm tức là cái tính-nhiễm của tâm-thể kia được nghiệp-nhiễm
huân-tập thì tạo thành vô-minh-trụ-địa và chủng-tử của tất cả
pháp-nhiễm, rồi nương các chủng-tử đó mà hiện ra các thứ quả-báo;
vô-minh và nghiệp quả đó, tức là sự-nhiễm vậy, song vô-minh-trụ-địa
cùng các chủng-tử và quả-báo đó, tuy hiện ra có tướng khác nhau mà gọi
là sự, nhưng đều lấy nhất-tâm làm thể, không ở ngoài tâm, vì cái nghĩa
đó, nên gọi tâm ấy là bất-không vậy. Ví như gương sáng hiện ra các
bóng; các bóng không có thể riêng, chỉ là một cái gương mà không ngại
gì có muôn vẻ sai khác không đồng; những tướng trạng không đồng đó
đều tỏ hiện ra trong gương nên gọi cái gương là bất không vậy. Vậy
nên luận Khởi-tín nói rằng: "Gương nhân-huân-tập tức là như-thật-bất-không,
tất cả cảnh-giới thế-gian thẩy đều hiện ra trong ấy, không ra không
vào, không lầm không hư, chỉ là nhất-tâm thường-trụ, do tất cả các
pháp tức là tính chân thật vậy". Lấy nghĩa đó mà nghiệm xét thì
do cũng đầy đủ pháp nhiễm thế-gian nên gọi là bất-không Như-lai-tạng
vậy. Trên đây chỉ về đủ hết hai pháp nhiễm tịnh để tỏ nghĩa bất-không
xong.
Chi 1: Chia Khoa
Thứ nữa chỉ tỏ thế-tính Như-lai-tạng
là một hay là khác để giải thích nghĩa thật có, trong đó lại có sáu
phần khác nhau: một là chỉ tỏ pháp-môn pháp-giới viên-dung vô-ngại; hai
là chỉ tỏ ý nghĩa tên gọi khác nhau của pháp-thân trong nhân và trong quả;
ba là chỉ tỏ cái lý chân-thể còn ở trong chướng hay ra khỏi các chướng;
bốn là chỉ tỏ cái tướng thu-nhiếp lẫn nhau của sự-dụng; năm là chỉ
tỏ cái nghĩa đối trị mê lầm, chịu báo không đồng, sáu là chỉ tỏ cộng-tướng-thức
và bất-cộng-tướng-thức.
Tiết 1: Chỉ Tỏ Pháp
Giới Chỉ Một Thể
Phần thứ nhất chỉ tỏ pháp-môn
pháp-giới viên-dung-vô-ngại.
Hỏi: Bất-không Như-lai-tạng là mỗi
mỗi chúng sinh riêng có một Như-lai-tạng hay là tất cả chúng sinh, tất cả
chư Phật đều chung cùng một Như-lai-tạng?
Đáp: Tất cả chúng sinh, tất cả
chư Phật, chỉ chung cùng một Như-lai-tạng.
Tiết 2: Chỉ Tỏ
Đủ Hết Hai Tính Và Hai Sự Nhiễm Tịnh
Hỏi: Nói tạng-thể đủ hết nhiễm
tịnh là cùng một thời đủ hết hay là trước sau mới đủ hết?
Đáp: Nói Như-lai-tạng đủ hết
nhiễm tịnh thì có hai nghĩa: một là tính-nhiễm tính-tịnh, hai là sự-nhiễm
sự-tịnh, như trên đã chỉ tỏ. Nếu căn cứ về tính-nhiễm tính-tịnh
thì từ không-thời-gian cho đến nay, đồng thời có đủ hết; nếu căn cứ
về sự-nhiễm sự-tịnh thì lại có hai nghĩa khác nhau: một là trong mỗi
thời đều đủ hết hai sự nhiễm tịnh, hai là trước sau mới đủ hết
hai sự nhiễm tịnh.
Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là thể
Như-lai-tạng đầy đủ cái tính của tất cả chúng sinh, mỗi mỗi sai
khác không đồng, đó tức là cái khác nhau của cái không-khác-nhau vậy.
Song trong tính mỗi mỗi chúng sinh đó, bản lai lại đủ hết những tính
vô-lượng vô-biên, nghĩa là những tính của tất cả những pháp-nhiễm thế-gian
như lục-đạo, tứ-sinh, khổ vui, xấu tốt, thọ-mạng, hình lượng, ngu
si, trí tuệ, vân vân ... và những tính của tất cả pháp-tịnh xuất-thế-gian
như nhân quả tam-thừa, vân vân ..., những tính vô-lượng pháp khác nhau như
thế, trong tính của mỗi mỗi chúng sinh đều đủ hết không thiếu; do
cái nghĩa đó nên Như-lai-tạng bản-lai đồng thời có đủ hết hai tính
nhiễm tịnh. Do đủ hết tính-nhiễm, hiện được tất cả sự-nhiễm của
chúng sinh, vân vân ... nên gọi Như-lai-tạng là "Tại chướng bản-trụ
pháp-thân", cũng gọi là Phật-tính. Lại do đủ hết tính tịnh, hiện
được tất cả đức tịnh của chư Phật, vân vân... nên gọi Như-lai-tạng
là "Xuất-chướng pháp-thân", cũng gọi là "Tính-tịnh
pháp-thân", cũng gọi là "Tính-tịnh niết-bàn" vậy.
Song tuy mỗi mỗi chúng sinh từ
vô-thủy đến nay đều đủ hết hai tính nhiễm tịnh, nhưng do gây nghiệp
không đồng, nên việc huân-tập tính chủng-tử thành ra cái dụng chủng-tử
cũng phải có khác. Cái dụng chủng-tử đã khác nên trong một thời chịu
báo không đồng, nghĩa là có người thành Phật, có người thành quả Nhị-thừa,
có người vào tam-đồ, có người sinh trong cõi trời, cõi người, lại
trong mỗi mỗi đường, còn có vô-lượng những điều sai khác không đồng.
Luận theo nghĩa đó, trong tâm Như-lai-tạng, đồng một thời đủ hết được
hai sự nhiễm tịnh; như trong một thời, trong tất cả thời cũng đều
như vậy.
Song mỗi mỗi các vị phàm thánh
kia, tuy ở trong một thời chịu báo khác nhau, nhưng vì pháp nhân duyên
không cố định nên mỗi mỗi phàm thánh từ vô-thủy đến nay đều đã
trải qua đủ hết các loài và quanh lộn vô-số lần; về sau gặp được
thiện-hữu dạy tu pháp xuất-ly, mới học tập đạo-hạnh tam-thừa và
được đạo-quả. Luận theo nghĩa ấy, mỗi mỗi chúng sinh trước sau mới
đủ hết hai sự nhiễm tịnh. Vì cớ sao? Do một chúng sinh, khi chịu thân
địa-ngục thì không có quả-báo loài khác; khi chịu quả-báo trời, cũng
không có quả-báo loài khác; khi chịu mỗi mỗi thân cũng không có quả-báo
thân khác; lại khi chịu quả-báo thế-gian thì không có được quả-báo xuất-thế-gian;
khi chịu quả-báo xuất-thế-gian thì không có quả-báo thế-gian; do cái nghĩa
đó, một chúng sinh đồng thời không đủ hết được hai sự nhiễm tịnh,
trước sau mới đủ hết hai sự vậy. Tất cả chúng sinh cũng đều như thế,
nên Như-lai-tạng có cái nghĩa trước sau mới đủ hết hai sự nhiễm tịnh.
Tiết 3: Chỉ Tỏ
Nghĩa Viên Dụng Vô Ngại
Hỏi: Như-lai-tạng, khi đủ hết cái
tính của các pháp vô-lượng như thế, là có sai khác hay không sai khác?
Đáp: Tạng-thể bình-đẳng thật
không sai khác, tức là "Không-Như-lai-tạng"; song tạng-thể lại có
cái dụng không thể nghĩ bàn được nên đủ hết cái tính của tất cả
các pháp khác nhau, tức là "Bất-không Như-lai-tạng", đó là cái
khác nhau của cái không-khác-nhau vậy. Nghĩa đó thế nào? Nó không phải
như cục đất gồm có nhiều vi-trần; vì cớ sao? Cục đất là giả, vi-trần
là thật, cho nên mỗi mỗi vi-trần đều có chất riêng, chỉ do hòa hợp
mà thành cục đất; cục đất đó là gồm đủ những cái riêng của nhiều
vi-trần. Như-lai-tạng thì không như thế, vì cớ sao? Vì Như-lai-tạng là
pháp chân thật, viên-dung không hai vậy.
Thế nên toàn thể Như-lai-tạng là
cái tính của một lỗ chân lông một chúng sinh, toàn thể ấy cũng là cái
tính của tất cả lỗ chân lông một chúng sinh; như tính lỗ chân lông,
tính của mỗi mỗi pháp trong tất cả các pháp thế-gian khác cũng đều
như vậy. Như cái tính của pháp thế-gian một chúng sinh, cái tính của mỗi
mỗi pháp thế-gian của tất cả chúng sinh, của mỗi mỗi pháp xuất-thế-gian
của tất cả chư Phật thì cũng như thể và thẩy đều là toàn thể Như-lai-tạng.
Vậy nên cử ra cái tính của một
lỗ chân lông một chúng sinh thì liền nhiếp thu được cái tính các pháp
thế-gian của tất cả chúng sinh và cái tính các pháp xuất-thế-gian của
tất cả chư Phật. Như cử ra cái tính của một lỗ chân lông liền nhiếp
thu được cái tính của tất cả các pháp; cử ra cái tính của mỗi mỗi
pháp trong tất cả các pháp thế-gian khác thì cũng như thế, liền nhiếp
thu được cái tính của tất cả các pháp. Như cử ra cái tính của mỗi mỗi
pháp thế-gian liền nhiếp thu được cái tính của tất cả các pháp, cử
ra cái tính của mỗi mỗi pháp trong tất cả các pháp xuất-thế-gian thì cũng
như thể, liền nhiếp thu được cái tính của tất cả các pháp.
Lại như cử ra cái sự của một lỗ
chân lông thì liền nhiếp thu được tất cả các sự thế-gian và xuất-thế-gian.
Như cử ra sự của một lỗ chân lông, liền nhiếp thu được tất cả các
sự, cử ra bất cứ sự gì khác trong tất cả thế-gian và xuất-thế-gian
thì cũng như thế, liền nhiếp thu được tất cả các sự thế-gian và xuất-thế-gian.
Vì cớ sao? Vì tất cả các sự thế-gian và xuất thế-gian lấy cái tính
thế-gian và xuất-thế-gian kia mà làm thể vậy. Thế nên các tính thế-gian
và xuất-thế-gian, thể đã viên-dung nhiếp thu lẫn nhau thì các sự thế-gian
và xuất-thế-gian cũng viên-dụng thu nhiếp lẫn nhau, không có ngăn ngại.
Vậy nên trong kinh nói rằng: "Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không
khác nhau".
Ví như bản-thể gương sáng, đầy
đủ tính của tất cả các bóng, mỗi mỗi sai khác không đồng; đó tức
là cái khác nhau của cái không-khác-nhau vậy. Nếu cái thể của gương đó,
vốn không có cái nghĩa tính bóng khác nhau thì dù cho có các sắc-tướng
đến đối với gương thì các bóng cũng không hiện ra được. Ví như ngọn
lửa, tuy cũng trong sáng, nhưng không hiện ra được bóng, vì nó vốn không
có tính bóng vậy. Đã thấy cái gương có thể hiện ra bóng thì nhận định
biết cái gương vốn đầy đủ tính bóng. Do cái nghĩa đó nên một cái gương
sáng, ở trong một thời, cùng một lúc có thể hiện ra tất cả các bóng
sạch và bẩn, mà bóng sạch cũng không ngại gì bóng bẩn, bóng bẩn cũng
không ngại gì bóng sạch; dụng bẩn, dụng sạch khác nhau, nhưng không ngăn
không ngại. Tuy cái gương có cái khác nhau đó của tính-bóng và tướng-bóng
mà vẫn viên-dung không khác, chỉ là một cái gương.
Vì cớ sao? Vì toàn thể cái gương
đó là tính của bóng một lỗ chân lông, và toàn thể đó cũng là tính của
bóng tất cả lỗ chân lông vậy. Như tính bóng lỗ chân lông, mỗi mỗi
tính bóng bé nhỏ khác, mỗi mỗi tính bóng to lớn, mỗi tính bóng sạch, mỗi
tính bóng bẩn khác, đều cũng là toàn thể cái gương như thế cả.
Vậy nên nếu cử ra cái tính của
bóng một lỗ chân lông thì liền nhiếp thu được cái tính của tất cả
các bóng khác. Như cử ra cái tính của bóng một lô chân lông, nhiếp thu
được cái tính tất cả các bóng; cử ra cái tính của mỗi mỗi bóng
khác thì cũng như thế, liền nhiếp thu được cái tính tất cả các bóng
vậy.
Lại nếu cử ra cái tướng của cái
bóng một lỗ chân lông, liền nhiếp thu được cái tướng tất cả các
bóng. Như cử ra cái tướng của bóng một lỗ chân lông, nhiếp thu được
cái tướng tất cả các bóng; cử ra cái tướng của mỗi mỗi bóng khác
thì cũng như thế, liền nhiếp thu được cái tướng tất cả các bóng;
vì cớ sao? Do cái tướng tất cả các bóng lấy cái tính của các bóng kia
mà làm thể vậy. Thế nên cái thể-tính của tất cả các bóng đã
dung-hòa thu nhiếp lẫn nhau thì cái sự-tướng của tất cả các bóng cũng
dung-hòa thu nhiếp lẫn nhau.
Do cái ví dụ đó thì liền có thể
tin được tất cả chư Phật, tất cả chúng sinh đồng một tịnh-tâm Như-lai-tạng,
không trở ngại lẫn nhau.
Vậy nên trong kinh nói rằng:
"Ví như cái gương trong sáng, theo sự đối với mặt người mà hiện
ra bóng, nhưng mỗi mỗi đều không biết nhau thì nghiệp và tính cũng như
thế". Nghĩa đó thế nào? "Gương trong sáng" ví dụ với cái
thể của tịnh-tâm; "theo sự đối" ví dụ với cái thể của tịnh-tâm
đầy đủ tính của tất cả các pháp nên chịu được tất cả sự huân-tập
và theo huân-tập khác nhau, hiện ra quả-báo không đồng; "cái mặt"
ví dụ với hai nghiệp nhiễm tịnh; "hiện ra bóng" ví dụ với hai
tính nhiễn tịnh của tâm-thể theo sức huân-tập hiện ra hai quả-báo nhiễm
tịnh, mỗi mỗi đều không biết nhau, ví dụ với tịnh-tâm cùng nghiệp
và quả-báo đều không biết nhau; "nghiệp" là hai nghiệp nhiễm tịnh,
ví dụ với cái mặt trên kia; "tính", tức là hai tính nhiễm tịnh
của chân-tâm, ví dụ với cái tính của tất cả các bóng mà gương sáng
sẵn đủ; "cũng như thể" là tổng kết thành cái nghĩa đó vậy.
Lại như trong trường-hàng hỏi rằng:
"Tâm tính là một" đó là căn cứ theo bản-thể pháp-tính
viên-dung mà nói là một vậy; "làm sao sinh được các thứ quả-báo?",
đó vì không hiểu là cái khác nhau của cái không-khác-nhau nên mới hỏi
làm sao sinh được các thứ quả-báo vậy.
Ý nghĩa ví dụ đó trong kinh là để
chỉ riêng về tâm-tính sinh được quả-báo thế-gian, nhưng nay dùng để
chỉ luôn rằng nó sinh được các quả-báo thế-gian và xuất-thế-gian, cũng
không ngại gì. Vậy nên luận Khởi-tín nói rằng:"Ba là dụng-đại,
sinh được nhân quả thiện ác thế-gian và xuất-thế-gian". Do cái nghĩa
đó nên tất cả phàm thánh đều lấy nhất-tâm làm thể, là quyết định
không nghi vậy.
Trong kinh lại nói rằng:
"Pháp-thân của tất cả chư Phật chỉ là một pháp-thân", do đó
chứng biết tất cả chư Phật đồng lấy một chân-tâm làm thể. Do
pháp-thân tất cả chư Phật là một nên tất cả chúng sinh và chư Phật
đều đồng một pháp-thân. Vì cớ sao? Có kinh làm chứng vậy. Chỗ chứng
thế nào? Kinh đã nói: "Tức cái pháp-thân đó trôi lăn trong năm đường
thì gọi là chúng sinh, ngược dòng tột nguồn thì gọi là Phật". Do
cái nghĩa đó, tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật chỉ chung một bình-đẳng
pháp-thân là tâm thanh-tịnh Như-lai-tạng vậy.
Trên đây chỉ tỏ xong phần thứ
nhất về pháp-môn pháp-giới viên-dung vô-ngại.
Tiết 1: Chỉ Tỏ
Nghĩa
Thứ nữa chỉ tỏ phần thứ hai về
cái nghĩa tên gọi khác nhau của pháp-thân trong nhân trong quả.
Hỏi: Đã nói pháp-thân chỉ là một,
vì cớ sao trên kia lại nói bản-trụ pháp-thân của chúng sinh và
pháp-thân của chư Phật?
Đáp: Nói như thế có hai nghĩa: một
là lấy cái sự, luận về thể mà mói hai tên ấy, hai là luận về sự để
nhận cái tính, rồi lấy cái tính, luận về thể mà nói hai cái tên ấy.
Lấy sự luận về thể mà nói hai
cái tên của pháp-thân thì pháp-thân tuy là một, song những tướng phàm
thánh hiện ra không đồng, cho nên lấy sự luận về thể thì gọi là
pháp-thân chư Phật và pháp-thân chúng sinh khác nhau, nhưng cái tâm-thể đó
bình-đẳng, thật không hai không khác. Nếu lấy cái thể không hai đó mà
nhiếp thu các sự hiện ra thì những sự kia cũng bình-đẳng, phàm thánh một
vị vậy.
Ví như một cái gương sáng hiện
được tất cả các bóng; nếu lấy cái bóng luận về gương thì bảo rằng
gương thể bóng người, gương thể bóng ngựa, và liền có nhiều cái tên
gương; nếu bỏ cái bóng luận về gương thì chỉ là một vậy. Lại nếu
lấy cái thể gương không hai đó nhiếp thu những bóng người bóng ngựa
khác nhau thì bóng người bóng ngựa cũng là đồng-thể không hai.
Tịnh-tâm như gương, phàm thánh như
bóng, so sánh thì có thể biết được; do cái nghĩa đó nên pháp-môn
pháp-giới là thường đồng và thường khác; vì thường đồng nên trong
luận nói rằng: "Chân-pháp-giới bình-đẳng, Phật không độ chúng
sinh", vì thường khác nên trong kinh nói rằng: "Mà thường tu tịnh-độ,
giáo hóa các chúng sinh". Trên đây đã lấy sự mà luận về thể xong.
Về phần luận về sự để nhận
cái tính, rồi lấy cái tính luận về thể mà nói có những tên khác nhau
của pháp-thân phàm thánh thì do chân-tâm hiện được những đức-tịnh nên
biết chân-tâm vốn đủ tính-tịnh, lại vì chân-tâm hiện được sự-nhiễm
nên biết chân-tâm vốn đủ tính-nhiễm. Do vốn đủ tính-nhiễm nên gọi
là pháp-thân chúng sinh, do vốn đủ tính-tịnh nên gọi là pháp-thân chư
Phật; vì cái nghĩa đó nên có tên khác của pháp-thân phàm thánh.
Nếu bỏ công-năng hai tính kia, chỉ
luận về tâm-thể thì tâm-thể đó không phải nhiễm, không phải tịnh,
không phải thánh, không phải phàm, không phải một, không phải khác,
không phải tĩnh, không phải loạn, viên-dung bình-đẳng, không thể gọi
tên được; chỉ do không có tướng khác nên gọi là nhất, lại là thật-thể
các pháp nên gọi là tâm; lại là chỗ nương đứng của tất cả các
pháp nên gọi là bình-đẳng pháp-thân.
Nương theo nghĩa bình đẳng pháp-thân
có các tính nhiễm tịnh, nên nói được sự khác nhau của pháp-thân phàm
thánh, song thật không có thể gì riêng khác làm hai thứ pháp-thân phàm
thánh cả. Vậy nên nói tất cả phàm thánh đồng một pháp-thân cũng không
ngại gì, vì cớ sao? Vì nương theo nghĩa bình đẳng vậy; nói mỗi mỗi
phàm, mỗi mỗi thánh đều có pháp-thân riêng cũng không lỗi gì, vì cớ
sao? Vì nương theo cái nghĩa có tính khác nhau vậy.
Tiết 2: Giải
Thích Điều Nghi
Hỏi: Thể Như-lai-tạng đầy đủ
hai tính nhiễm tịnh, lại là tập mà thành ra tính, hay là tính sẵn có,
không thay đổi?
Đáp : Đó là tính không thay đổi
của thể-dụng lý-tính, không phải do tập mà thành. Vậy nên nói rằng:
"Phật-tính đại-vương, không phải là pháp tạo tác", như thế đâu
phải tập mà thành vậy. Phật-tính, tức là tính-tịnh, đã không thể tạo
tác, thì tính-nhiễm, đồng một thể với tính-tịnh kia, cũng là pháp-giới
bản-nhiên sẵn có, không thể tập mà thành được.
Hỏi: Nếu Như-lai-tạng, bản-thể
đầy đủ tính-nhiễm sinh được sinh tử, thì nên nói trong Phật-tính có
chúng sinh, chứ không nên nói trong thân chúng sinh có Phật-tính.
Đáp: Nếu nói bản-thể Như-lai-tạng
đầy đủ tính-nhiễm sinh được sinh tử là để chỉ tỏ cái nghĩa:
"Pháp-tính sinh được các pháp", nếu nói trong thân chúng sinh có
Phật-tính là để chỉ tỏ cái nghĩa "Bản-thể bị các tướng che lấp".
Cũng như nói tất cả sắc-pháp nương hư không mà khởi lên, thẩy đều
ở trong hư-không, lại nói trong tất cả các sắc, thẩy đều có hư-không.
Hư-không ví dụ với chân-tâm, sắc-pháp ví dụ với chúng sinh, so sánh
thì có thể biết được. Do cái nghĩa đó, Như-lai-tạng tính sinh được
sinh tử, trong thân chúng sinh đều có Phật-tính, nghĩa không ngại nhau.
Hỏi: Chân-như khỏi chướng đã gọi
là tính-tịnh niết-bàn thì chân-như trong chướng cũng nên gọi là
tính-nhiễm sinh tử, sao lại được xưng là Phật-tính?
Đáp: Thật-tính trong triền phược,
tuy bản-thể đầy đủ tính-nhiễm tạo ra được cái dụng sinh tử, nhưng
bản-thể đó cũng đầy đủ tính-tịnh nên rốt cuộc vẫn có công-năng
ra khỏi các chướng; vì thế nên gọi là Phật-tính. Nếu căn cứ cái nghĩa
chân thể đầy đủ hai tính nhiễm tịnh thì bất luận trong chướng hoặc
khỏi chướng, đều được gọi là tính-tịnh niết-bàn và cũng được gọi
là tính-nhiễm sinh tử, chỉ cái tên sau nầy dính vào sự-nhiễm, không lợi
cho nguyên tắc giáo hóa nên dù trong chướng hay là khỏi chướng, đều giấu
cái nghĩa tính-nhiễm vậy.
Lại nữa, sự-nhiễm sinh tử chỉ
nhiều nhiệt-não, sự-tịnh niết-bàn đầy đủ thanh lương; vậy nên
riêng nêu tính-tịnh niết-bàn vì muốn phát khởi sự-tịnh của niết-bàn
và giấu cái tính-nhiễm luân hồi vì mong bỏ được sự-nhiễm sinh tử. Nếu
riêng nêu lên tính-nhiễm thì kẻ mê lầm bèn không khen ngợi gì
chân-nguyên, nên riêng chỉ chỗ thanh cao để người ngu si biết ưa thích
thật-tế. Vì thế trong chướng, khỏi chướng, đều giấu cái tên
tính-nhiễm của pháp-thân ; có cấu, không cấu, đều nêu ra cái tên
tính-tịnh của chân-như.
Trên đây chỉ tỏ xong phần thứ
hai về ý nghĩa những tên khác nhau của pháp-thân trong nhân, trong quả.
Tiết 1: Chỉ Tỏ
Lý Ấy
Thứ nữa chỉ tỏ phần thứ ba về
trong chướng và khỏi chướng.
Hỏi: Đã nói chân-như pháp-thân
bình-đẳng không hai, sao còn luận được về trong chướng, khỏi chướng,
có cấu, không cấu khác nhau.
Đáp: Nếu luận về tâm-thể bình-đẳng,
thật không có gì là chướng và không chướng, cấu và không cấu; nếu
chính nơi hai tính nhiễm tịnh mà nói thì bản-thể cũng dung-hòa một vị,
không ngăn ngại nhau. Chỉ có tính nhiễm nương huân-tập khởi ra nên mới
có cái tên chướng cấu. Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là do nghiệp-nhiễm
huân-tập tính-trái của chân-tâm, tính đó nương theo sức huân-tập, khởi
ra các thứ dụng-nhiễm; do dụng-nhiễm đó trái ngược và che giấu tính
sáng suốt của dụng thuận chân-như, nên gọi cái tối tăm của dụng-nhiễm
là chướng, hay là cấu. Do dụng-nhiễm đó không rời chân-thể nên lại gọi
tâm chân-như là pháp-thân trong chướng, hay là hữu-cấu chân-như. Nếu dùng
nghiệp-tịnh huân-tập tính-thuận của chân-tâm, tính đó nương theo sức
huân-tập khởi ra các thứ dụng-tịnh có thể trừ được cái cấu của dụng-nhiễm,
do dụng-tịnh đó thuận theo và bày tỏ tính sáng suốt của chân-tâm tịch
chiếu, nên gọi tính chiếu của dụng-thuận đó là viên-giác-đại-trí,
là đại-tịnh ba-la-mật. Song dụng-tịnh đó không rời chân-thể nên gọi
chân-tâm là pháp-thân khỏi chướng hay là vô-cấu chân-như. Do những
nghĩa đó, nên nếu căn cứ chung tất cả phàm thánh để luận về cái nghĩa
khỏi chướng trong chướng thì chân-như pháp-thân ở trong một thời đầy
đủ hết hai cái dụng trong chướng và khỏi chướng. Nếu căn cứ riêng mỗi
mỗi phàm thánh mà luận về cái nghĩa trong chướng khỏi chướng thì
chân-như pháp-thân trước sau mới đầy đủ hai sự trong chướng khỏi
chướng vậy. Song những sự sai khác như trong chướng, khỏi chướng, có cấu,
không cấu, chỉ luận theo dụng nhiễm tịnh mà nói, chứ không phải bản-thể
chân-tâm lại có những cái cấu và không cấu, chướng và không-chướng
ấy.
Tiết 2: Giải Thích
Điều Nghi
Hỏi: Dụng-trái đã gọi là cấu,
là chướng, thì tính-trái cũng nên gọi là ngại, là nhiễm.
Đáp: Đã là cái tính của chướng,
của cấu, thì cũng được gọi là tính-chướng, tính-cấu, nhưng đó là
cái sai khác của bình-đẳng, là cái năng sở của viên-dung, nên chỉ là một
chân-tâm, chớ nên nghĩ là ngăn ngại lẫn nhau, không dung-hòa vậy.
Hỏi: Đã nói có cái sai khác năng
sở của bình-đẳng, thì lẽ ra cũng có cái tự-thể trong chướng, khỏi
chướng?
Đáp: Cũng có được nghĩa đó. Nếu
căn cứ về tính-nhiễm mà nói thì không một tính-tịnh nào mà không phải
nhiễm, tức cái tự-thể là năng-chướng, cái tự-thể là sở-chướng, cái
tự-thể là trong chướng. Còn nếu căn cứ nơi tính-tịnh mà nói thì
không một tính-nhiễm nào mà không phải tịnh, tức cái tự-thể là năng-trừ,
cái tự-thể là sở-trừ, cái tự-thể là khỏi chướng. Vậy nên nhiễm lấy
tịnh làm thể, tịnh lấy nhiễm làm thể, nhiễm là tịnh, tịnh là nhiễm,
một vị bình-đẳng, không có tướng khác nhau: đó là cái nghĩa thường
đồng thường khác của pháp-môn pháp-giới; không được nghe nói bình-đẳng
bèn bảo rằng không có khác nhau, không được nghe nói khác nhau bèn bảo rằng
trái với bình-đẳng vậy. Trên đây chỉ tỏ xong phần thứ ba về trong chướng
khỏi chướng.
Tiết 1: Dùng Lý Phương
Tiện Chỉ Tỏ
Thứ nữa chỉ tỏ phần thứ tư về
cái tướng thu nhiếp lẫn nhau của sự-dụng.
Hỏi: Cái thể nhiễm tịnh được
viên-dung như thế thì có thể hiểu một ít, nhưng trên lại nói sự-dụng
nhiễm tịnh cũng thu nhiếp lẫn nhau, không có ngăn ngại, thì nghĩa đó thế
nào?
Đáp: Nếu riêng chính nơi những sự-nhiễm
vọng-chấp phân biệt mà nói thì nói hẳn không dung hòa được; nhưng nếu
căn cứ về tâm-tính, nương sức huân-tập, duyên khởi ra các dụng thì
có thể nhiếp thu lẫn nhau, nghĩa là tất cả chúng sinh thẩy đều ở
trong thân một đức Phật mà gây nghiệp chịu báo, tất cả chư Phật lại
đều ở trong một lỗ chân lông chúng sinh mà tu hành thành đạo, đó tức
là cái nghĩa phàm thánh, nhiều ít nhiếp thu lẫn nhau. Nếu thập phương thế-giới
cho vào một vi-trần mà không chật, thời tiết ba đời cho vào một niệm
ngắn ngủi mà dung nạp được, đó tức là dài ngắn lớn nhỏ nhiếp thu
lẫn nhau. Vậy nên trong kinh nói rằng: "Trong mỗi mỗi hạt bụi, hiện
rõ tất cả cõi Phật mười Phương", lại nói rằng: "Tất cả kiếp
ba đời, hiểu được tức là một niệm", tức là nói về sự đó vậy.
Trong kinh lại nói rằng: "Quá-khứ là vị-lai, vị-lai là hiện-tại",
đó là ba đời thu nhiếp lẫn nhau. Còn lại tất cả các pháp đối đãi
như sạch bẩn, tốt xấu, cao thấp, kia đây, sáng tối, một khác, lặng
ồn, có không v.v... và các pháp không đối đãi, thẩy đều nhiếp thu lẫn
nhau được. Do các tướng không thật thể, phải nương với tâm mà khởi
lên, tâm-thể đã viên-đung thì tướng cũng không ngăn ngại vậy.
Hỏi: Nay một niệm tôi tức là bằng
với ba đời sao? Tôi thấy một hạt bụi tức là bằng với cả mười
phương sao?
Đáp: Không những một niệm bình-đẳng
với ba đời mà cũng có thể một niệm tức là thời tiết ba đời, không
những một hạt bụi bằng với thập phương mà cũng có thể một hạt bụi
tức là thập phương thế-giới; vì cớ sao? Vì tất cả các pháp chỉ là
nhất-tâm vậy; thế nên khác không tự khác, khác là nhất-tâm, tâm đủ các
dụng, nhất-tâm là khác; pháp-giới bản-nhiên có nghĩa thường đồng thường
khác.
Hỏi: Cái nhiếp thu lẫn nhau đó đã
là lý-thật không hư-vọng, nên vị thánh-nhân có thể lấy tự mà nhiếp
tha, lấy lớn mà làm nhỏ, rút ngắn kéo dài, hợp nhiều ly một; vậy vì
cớ sao phàm phu lại không được như thế.
Đáp: Lý-thật phàm thánh viên-dung
như nhau, chỉ vì thánh-nhân cân với lý mà thi thố nên tất cả đều, làm
được, còn phàm phu thì vọng-chấp trái với lý nên làm không được.
Hỏi: Thánh-nhân chứng lý lẽ ra
không thấy tướng khác nhau, làm sao lại dùng cái nhỏ kia mà dung nạp cái
lớn được.
Đáp: Nếu căn cứ đệ-nhất-nghĩa-đế
thì chân-như bình-đẳng thật không khác nhau, nhưng không ngại gì tức nơi
tính vẳng lặng mà duyên khởi, không bỏ thế-đế mà có những tướng khác
nhau.
Hỏi: Nếu luận về chân-đế, vốn
không các tướng, thì không cần nói đến việc nhiếp thu hay không nhiếp
thu; nếu căn cứ về thế-đế, cái nầy cái kia khác nhau, thì lớn nhỏ
không thể nhiếp thu nhau được?
Đáp: Nếu bản-thể của hai đế một
mực khác nhau thì có thể nạn hỏi như thế, nhưng đã do thể khởi ra dụng
gọi là thế-đế, dụng toàn là thể gọi là chân-đế, thì sao lại không
nhiếp thu lẫn nhau được.
Hỏi: Thể và dụng không hai thì chỉ
có thể hai đế nhiếp thu lẫn nhau, sao trong thế-đế, những sự tướng
thế-gian lại nhiếp thu nhau được?
Đáp: Nói thể và dụng không hai,
không phải như tóm thu những cái dụng riêng khác của các vi-trần mà
thành một thể cục đất; nhưng vì trong thế-đế, mỗi mỗi sự tướng tức
là toàn thể chân-đế, nên nói rằng thể và dụng không hai. Do cái nghĩa
đó, nếu chân-đế nhiếp thu được hết tất cả sự tướng trong thế-đế
thì mỗi mỗi sự tướng trong thế-đế cũng nhiếp thu được hết tất cả
sự tướng trong thế-đế. Ở trên cũng đã chỉ rõ đạo-lý ấy rồi
không cần phải hỏi thêm nữa.
Hỏi : Nếu nói trong thế-đế mỗi
mỗi sự tướng tức là toàn thể chân-đế, vậy cái chân-tâm cùng khắp
mọi nơi đối với cái thần-ngã cùng khắp mọi nơi của bọn ngoại-đạo
kia vọng-chấp, nghĩa có khác nhau chăng?
Đáp : Ngoại-đạo thì chấp ngoài
tâm có pháp, lớn nhỏ xa gần, tam thế, lục đạo, thẩy đều là thật,
chỉ do thần-ngã nhiệm mầu rộng lớn nên khắp tất cả mọi nơi, y như
hư-không; đó tức là thấy có những tướng thật-sự khác với thần-ngã,
có cái tướng thần-ngã khác với thật-sự vậy. Dầu cho tức nơi sự mà
chấp là ngã, hoặc nhận cái ngã cùng với sự là một, nhưng bọn kia đã
chấp sự là thật thì hai bên vẫn không dung hòa. Trong Phật-pháp thì
không phải như thế; Phập-pháp biết tất cả các pháp thẩy do tâm làm
ra, chỉ do tâm-tính duyên khởi nên không phải không có những tướng khác
nhau; tuy tướng khác nhau nhưng chỉ lấy nhất-tâm làm thể. Do lấy nghĩa
"thể làm ra dụng" nên nói thật-tế không chỗ nào không đến, chứ
không phải bảo rằng ngoài tâm có những thật-sự và tâm thì khắp ở
trong đó mà gọi là đến vậy.
Tiết 2: Dùng Sự
Để Phương Tiện Chỉ Dạy
Cái nghĩa sự-dụng thu nhiếp lẫn
nhau khó hiểu, tôi nay dùng phương tiện nói cho ông hiểu, ông có muốn
nghe không?
Người ngoài đáp: May lắm, xin lĩnh
giáo.
Vị Sa-môn dạy: Ông hãy nhắm mắt,
nhớ tưởng một lỗ chân lông nhỏ trên thân, xem có thấy được không?
Người ngoài nhớ tưởng một lỗ
chân lông nhỏ xong, rồi đáp rằng: Tôi đã thấy tỏ rõ.
Vị Sa-môn dạy: Ông hãy nhắm mắt,
nhớ tưởng làm một cái thành lớn, rộng vài mươi dặm, xem có thấy được
không?
Người ngoài tưởng làm thành xong,
liền đáp: Trong tâm tôi, đã thấy tỏ rõ rồi.
Vị Sa-môn dạy: Lỗ chân lông và
thành lớn nhỏ có khác nhau chăng?
Người ngoài đáp: Khác.
Vị Sa-môn dạy: Lỗ chân lông và
thành, vừa rồi, chỉ do tâm làm ra chăng?
Người ngoài đáp: Do tâm làm ra.
Vị Sa-môn dạy: Tâm ông có nhỏ
có lớn chăng?
Người ngoài đáp: Tâm không hình tướng,
lẽ nào có nhỏ có lớn được
Vị Sa-môn dạy: Khi ông tưởng làm
một cái lỗ chân lông thì ông giảm chút ít tâm mà làm hay là toàn dùng một
tâm mà làm ra? Người ngoài đáp: Tâm không hình tướng, đâu có thể giảm
chút ít mà dùng, vậy nên tôi toàn dùng một niệm, tưởng làm ra lỗ chân
lông vậy.
Vị Sa-môn dạy: Khi ông tưởng làm
ra thành lớn, là chỉ dùng một tâm của ông làm ra hay là lại phải thêm
tâm người khác chung sức mà làm ra?
Người ngoài đáp: Chỉ dùng tự-tâm
làm ra thành, chứ không dùng tâm người khác.
Vị Sa-môn dạy: Vậy thì toàn-thể
nhất-tâm chỉ làm ra một lỗ chân lông nhỏ, rồi toàn thể ấy làm ra
được cả một thành lớn. Tâm đã là một, không có lớn nhỏ nên lỗ
chân lông và thành đều toàn dùng nhất-tâm làm thể; vậy thì biết lỗ
chân lông và thành, bản-thể là viên-dung bình đẳng vậy.
Do cái nghĩa đó, cử ra một cái nhỏ
để thu nạp cái lớn thì không cái lớn nào không phải nhỏ; cử ra một
cái lớn để bao gồm cái nhỏ thì không cái nhỏ nào không phải lớn;
không cái nhỏ nào không phải lớn nên lớn vào trong nhỏ mà lớn không giảm,
không cái lớn nào không phải nhỏ nên dung nạp lớn mà nhỏ không thêm.
Vì thế nên cái nhỏ không thêm gì và chất cũ của hạt cải không đổi;
cái lớn không giảm gì và tướng lớn của Tu-di như xưa; đó tức căn cứ
vào nghĩa duyên khởi vậy. Nếu lấy nghĩa tâm-thể bình-đẳng trông về
các tướng kia thì những tướng lớn nhỏ bản-lai không phải có, chẳng
sinh chẳng diệt, chỉ một chân-tâm vậy.
Tôi nay lại hỏi ông: Ông có hay
chiêm bao không?
Người ngoài đáp: Tôi thường có
chiêm-bao.
Vị Sa-môn hỏi: Ông đã từng
chiêm bao thấy trải qua sự việc trong thời tiết năm năm mười năm
chăng?
Người ngoài đáp: Thật tôi đã từng
chiêm bao thấy trải qua thời tiết nhiều năm, hoặc hàng tuần hàng tháng,
cũng có ngày có đêm như khi thức không khác.
Vị Sa-môn hỏi: Khi ông tỉnh dậy
rồi thì ông tự biết đã ngủ được bao lâu?
Người ngoài đáp: Khi tôi tỉnh dậy
rồi, hỏi lại người khác thì mới biết tôi mới ngủ trong khoảng một
bữa ăn.
Vị Sa-môn nói: Kỳ nhỉ, trong khoảng
một bữa ăn mà thấy sự việc nhiều năm, do cái nghĩa đó nên căn cứ lúc
tỉnh mà luận về chiêm bao thì thời gian dài trong chiêm bao không phải
chân thật, căn cứ lúc chiêm bao mà luận về khi tỉnh thì khoảng bữa ăn
lúc tỉnh cũng là hư-vọng. Nếu tỉnh và chiêm bao đều căn cứ tình-chấp
mà luận thì bên nói ngắn, bên nói dài, mỗi bên đều tự cho là thật, một
mực không dung-hòa được. Nếu tỉnh và chiêm bao đều căn cứ về lý mà
luận thì thời gian dài ngắn nhiếp thu lẫn nhau, thời dài là ngắn, thời
ngắn là dài, mà cũng không ngại gì dài ngắn khác nhau.
Nếu lấy nhất-tâm mà trông về những
tướng kia thì dài ngắn đều không, bản-lai là bình-đẳng nhất-tâm vậy.
Chính do tâm-thể bình-đẳng không phải dài, không phải ngắn, nên những
tướng dài ngắn do tâm-tính khởi lên không có sự thật dài ngắn và nhiếp
thu được lẫn nhau. Nếu cái thời gian dài đó tự có cái thể dài, thời
gian ngắn đó tự có cái thể ngắn, không phải là nhất-tâm duyên-khởi
thì dài ngắn không thể nhiếp thu nhau được. Lại nếu tuy đồng lấy nhất-tâm
làm thể, nhưng thời gian dài thì toàn dùng nhất-tâm mà làm, thời gian ngắn
thì giảm chút ít tâm mà làm ra, như thế các tướng dài ngắn cũng không
thể nhiếp thu nhau được. Chính do toàn thể nhất-tâm làm ra thời gian ngắn,
toàn thể nhất-tâm làm ra thời gian dài, cho nên mới nhiếp thu được
nhau.
Vì thế, thánh-nhân nương theo
nghĩa bình-đẳng thì không thấy có các tướng ba đời, thời tiết dài ngắn;
nương theo nghĩa duyên khởi thì liền biết thời gian dài ngắn, bản-thể
dung-hòa nhiếp thu lẫn nhau. Lại thánh nhân khéo biết pháp duyên-khởi chỉ
hư-giả không thật, thẩy đều do tâm làm ra; vì do tâm làm ra nên khi dùng
tâm tưởng bẩy ngày kia làm thành một kiếp thì vì tất cả các pháp bản-lai
đều do tâm làm ra mà cái tướng một kiếp theo tâm liền thành, cái tướng
bẩy ngày theo tâm liền mất. Kéo dài thời ngắn đã vậy thì rút lại thời
dài cũng thế. Nếu là hàng phàm phu, nơi các pháp duyên-khởi, còn chấp
là thật, không biết dài ngắn thu nhiếp lẫn nhau thì cũng không thể rút
ngắn kéo dài được.
Đây chỉ tỏ xong phần thứ tư về
những tướng sự-dụng nhiếp thu lẫn nhau.
Tiết 1: Chính Diện
Chỉ Tỏ
Thứ nữa, chỉ tỏ phần thứ 5 về
nguyên do đối trị mê lầm và chịu quả-báo không đồng.
Hỏi: Như-lai-tạng đã đủ hết tính
chủng-tử và tính quả-báo của tất cả các pháp thế-gian và xuất-thế-gian,
nếu chúng sinh tu đạo đối trị, khi huân-tập tính chủng-tử đối trị,
kia từng phần từng phần thành sự-dụng đối trị, thì vì cớ sao những
sự-dụng, hoặc chủng-tử nhiễm-ô đã có trước kia lại bị diệt từng
phần từng phần, các chủng-tử năng-trị và sở-trị đều nương tâm-tính
khởi lên, lẽ ra không thể một cái thành, một cái hoại?
Đáp: Pháp-giới bản-nhiên như thế,
các pháp sở-trị bị các pháp năng-trị diệt.
Hỏi: Những sự sở-trị đã bị
những sự năng-trị diệt thì những tính sở-trị lẽ ra cũng bị những tính
năng-trị diệt?
Đáp: Không phải thế. Như trên đã
nói, các sự có thành có hoại nên cái nầy sinh, cái kia diệt; còn các
tính thì vô-thủy đều đủ hết, lại bản-thể viên-dung không hai nên
không thể cái diệt cái còn được. Vì thế, trước chưa tu đạo đối-trị,
chúng sinh có cả hai tính năng-trị và sở-trị, chỉ tính-nhiễm sở-trị
thì nương huân-tập khởi ra dụng, còn tính-tịnh năng-trị thì chưa có sức
huân-tập nên không khởi ra dụng được. Sau khi tu đạo đối-trị, vẫn
đủ cả hai tính năng-trị sở-trị, chỉ cái tính năng-trị nương sức huân-tập
khởi ra từng phần từng phần dụng-tịnh, còn tính sở-trị không có sức
huân-tập và bị đối-trị nên dụng-nhiễm từng phần từng phần giảm bớt.
Vậy nên trong kinh nói rằng: "Chỉ trị cái bệnh mà không trừ
pháp". Pháp là pháp-giới bản-nhiên có hai tính năng-trị sở-trị, bệnh
tức là các sự sở-trị.
Hỏi : Năng-trị sở-trị có thể
như vậy, còn những người chưa tu phép đối-trị, từ vô-thủy đến nay,
có đủ hết tất cả chủng-tử nghiệp cũ, trong chủng-tử đó, lẽ ra phải
có đủ hết các nghiệp lục-đạo, lại mỗi mỗi chúng sinh cũng vốn đủ
hết tính quả-báo của lục-đạo; thế thì vì sao lại không nương theo chủng-tử
lục đạo từ vô-thủy kia mà làm cho một chúng sinh đồng thời thụ thân
trong cả sáu đường?
Đáp: Không thụ thân như thế được,
vì cớ sao ? Vì pháp-giới bản-nhiên là như vậy, chỉ có thể trong tâm đủ
hết chủng-tử lục-đạo vô-thủy, rồi theo chủng-tử đạo nào mạnh hơn
và thành thục hơn mà chịu quả-báo ở đạo đó; nhưng trong một quả-báo
đó, không ngại gì tự có xen lộn những sự khổ vui; cốt yếu là không
thể làm cho một chúng sinh đồng thời nhận đủ các thân trong lục-đạo.
Về sau, khi thành Bồ-tát, có dụng tự tại thì do sức bi-nguyện, dùng những
chủng-tử nghiệp cũ kia mà một thời, trong lục-đạo, nhận được vô-lượng
thân để giáo hóa chúng sinh.
Tiết 2: Giải
Thích Điều Nghi
Hỏi: Căn cứ vào việc một chúng
sinh đã lấy nhất-tâm làm thể và trong tâm-thể đó thật đủ hết các
tính của quả-báo lục-đạo, lại có chủng-tử lục-đạo vô-thủy, vẫn
không làm cho một chúng sinh trong một thời chịu cả các quả-báo trong lục-đạo;
thế thì tất cả chư Phật, tất cả chúng sinh cũng đồng lấy nhất-tâm
làm thế, tuy mỗi mỗi tự đủ tính của quả-báo lục-đạo và chủng-tử
lục-đạo, nhưng lẽ ra tất cả phàm thánh phải theo thứ lớp mà trước
sau thụ báo, chứ không được trong một thời lại có nhiều phàm thánh.
Đáp: Không vì lấy nhất-tâm làm
thể mà không chịu được nhiều thân, cũng không vì lấy nhất-tâm làm thể
mà phải một thời chịu nhiều thân. Chỉ pháp-giới bản-nhiên như thế ;
nếu căn cứ chung về tất cả phàm thánh, tuy đồng lấy nhất-tâm làm thể,
vẫn không ngại gì trong một thời có đủ tất cả phàm thánh; nếu căn cứ
riêng về một chúng sinh tuy cũng lấy nhất-tâm làm thể, nhưng lại không
được trong một thời chịu cả các quả-báo trong lục-đạo. Nếu không
Như-lai-tạng chỉ đầy đủ cái pháp trước sau thụ báo mà không đầy đủ
cái pháp một thời thụ báo thì sao lại gọi được rằng pháp-giới bản
nhiên đầy đủ tất cả các pháp.
Hỏi: Ở trên nói căn cứ về một
chúng sinh lấy nhất-tâm làm thể, tâm-thể tuy đầy đủ hai tính nhiễm tịnh,
nhưng khi sự-tịnh khởi lên thì trừ được sự-nhiễm, vậy tất cả chư
Phật, tất cả chúng sinh đã đồng lấy nhất-tâm làm thể thì lẽ ra do
Phật là sự-tịnh, Phật có thể trị được những sự-nhiễm của các
chúng sinh khác; mà nếu vậy thì tất cả chúng sinh tự nhiên thành Phật,
không cần tự mình phải tu tập nhân-hạnh?
Đáp: Không vì lấy nhất-tâm làm
thể mà hai sự nhiễm tịnh trừ được nhau, cũng không vì lấy nhất-tâm
làm thể mà hai pháp nhiễm tịnh không trừ được nhau, cũng không vì lấy
tâm riêng làm thể mà hai sự phàm thánh không trừ được nhau. Chỉ pháp-giới
bản-nhiên như thế; tất cả phàm thánh tuy đồng lấy nhất-tâm làm thể
mà không diệt nhau; nếu căn cứ riêng về một chúng sinh thì tuy cũng lấy
nhất-tâm làm thể, nhưng hai sự nhiễm tịnh lại trừ nhau được. Nếu
Như-lai-tạng chỉ có cái pháp nhiễm tịnh trừ nhau mà không có cái pháp
nhiễm tịnh không trừ nhau thì sao gọi được rằng pháp-giới bản nhiên
đầy đủ tất cả các pháp.
Tiết 3: Phá Chấp
Hỏi : Vừa rồi, hai lần Ngài đều
nói pháp-giới bản nhiên, thật là khó tin. Theo ý tôi hiểu thì mỗi mỗi
phàm thánh tự mình riêng có một tịnh-tâm làm thể, vì cớ sao? Do mỗi mỗi
đều lấy một tâm riêng làm thể nên trong một tâm, không được đồng
thời hiện ra nhiều thân, vì thế mỗi mỗi phàm thánh không đồng thời
nhận được vô-lượng thân; lại mỗi mỗi đều nương nơi tâm mà khởi
ra dụng nên không ngại gì, trong một thời, có nhiều phàm thánh; nghĩa đó
là tiện. Lại nữa, mỗi mỗi chúng sinh đều lấy tâm riêng làm thể và
trong mỗi mỗi tâm, không dung nạp được cả hai pháp nhiễm tịnh; vì thế
khi pháp năng-trị huân-tập cái tâm thì cái mê lầm của bản-thân được
diệt; do người khác có tâm riêng nên không ngại gì mê lầm của người
khác không diệt; nghĩa đó cũng tiện. Vì sao Ngài lại khó nhọc cố gắng
thành lập cái thuyết tất cả phàm thánh đều đồng một tâm?
Đáp: Ông si mê lắm, nếu tất cả
phàm thánh không đồng lấy một chân-tâm làm thể thì không có cộng-tướng
bình-đẳng pháp-thân. Vậy nên trong kinh nói rằng: "Do cộng-tướng-thân
nên tất cả chư Phật rốt ráo không thành Phật vậy".
Ông nói mỗi mỗi phàm thánh đều
lấy tâm riêng làm thể nên trong một tâm, đồng thời không hiện được
nhiều thân; vì thế một chúng sinh không đồng thời nhận được vô-lượng
thân. Nhưng như trong kinh Pháp-hoa đã chỉ rõ: vô-lượng phân-thân đức Phật
Thích-ca đồng thời hiện ở trên đời thì lẽ ra phân-thân ấy cũng không
được lấy một pháp-thân làm thể. Nếu tất cả phân-thân đức Phật Thích-ca
kia chỉ lấy một tâm làm pháp-thân thì sao ông lại nói một tâm đồng thời
không hiện được nhiều thân. Nếu một tâm đồng thời đã hiện được
nhiều thân thì vì sao ý ông lại muốn cho mỗi mỗi phàm thánh đều lấy
một tâm riêng làm thể mới được đồng thời có nhiều phàm thánh.
Trong kinh lại nói rằng: "Thân
tất cả chư Phật chỉ là một Pháp-thân". Nếu pháp-thân chúng sinh
không thể ngược dòng tột nguồn, thành pháp-thân Phật được thì có thể
nói tất cả chúng sinh, trong lúc còn là phàm phu, mỗi mỗi đều có
pháp-thân riêng. Nhưng pháp-thân chúng sinh đã tức là pháp-thân chư Phật,
pháp-thân chư Phật đã chỉ là một thì vì sao mỗi mỗi phàm thánh lại
phải có riêng một chân-tâm để làm pháp-thân.
Lại như ông Thiện-tài đồng-tử
tự thấy trước tất cả thập phương chư Phật, đều có thân mình; lúc
bây giờ ông đâu có lấy nhiều tâm làm thể. Lại một người trong chiêm
bao đồng thời thấy vô-số người, đâu phải cần có vô số tâm để làm
cái thể cho các người trong chiêm bao kia. Lại các vị Bồ-tát, do sức
bi-nguyện, khi dùng những nghiệp cũ để thụ sinh, một niệm đồng thời
thụ vô-lượng thân trong nhiều loài, đâu phải có nhiều tịnh-tâm làm thể.
Lại như ông nói: mỗi mỗi phàm
thánh đều lấy một tâm riêng làm thể, do trong tâm đó không dung nạp
được cả hai pháp nhiễm tịnh nên khi pháp năng-trị huân tập cái tâm
thì mê lầm của bản-thân được diệt và do người khác có tâm riêng
nên không ngại gì mê lầm người khác không diệt và cho nghĩa đó là tiện.
Vậy khi một người bắt đầu tu đạo đối-trị, các sự lầm lạc nhiễm
ô của người đó lẽ ra đều phải diệt hết ; vì cớ sao? Vì trong một
tâm không dung nạp cả hai pháp nhiễm tịnh vậy. Nếu khi người đó dùng
pháp-tịnh huân-tập cái tâm và trong tâm có pháp-tịnh, nhưng lại vẫn có
pháp-nhiễm thì lẽ ra người đó phải có hai tâm; vì cớ sao? Do người khác
và mình có tâm riêng nên khi mình tu tập, mê lầm của mình cũng vẫn chưa
diệt thì đoán biết được phải có hai tâm. Nếu như người đó chỉ có
một tâm mà đồng thời lại có được hai pháp nhiễm tịnh thì sao ông lại
nói rằng do trong một tâm không dung nạp cả hai pháp nhiễm tịnh nên tịnh
sinh thì nhiễm diệt.
Vì thế các vi đại-Bồ-tát để lại
những lầm-tùy-miên trong tâm, lại tu những pháp-tịnh phúc-đức trí-tuệ
huân-tập cái tâm mà không ngăn ngại nhau. Các lầm-tùy-miên và cái trí đối-trị,
tuy đồng một thời, mà không ngăn ngại lẫn nhau, thì sao lại bảo rằng
trong một tâm không thể dung nạp cả hai pháp nhiễm tịnh. Do những nghĩa
đó nên Như-lai-tạng đồng thời đầy đủ bao trùm tất cả phàm thánh,
không có ngăn ngại.
Hỏi : Đã dẫn đạo lý như thế nên
có thể lấy một tâm làm thể mà không ngại gì trong một thời có nhiều
phàm thánh; thế vì sao một chúng sinh lại không đồng thời chịu đủ các
qủa-báo lục-đạo; lại người tu hành trong một tâm có đủ chủng-tử
hiểu biết và mê lầm mà không ngăn ngại nhau thì vì đạo-lý gì trí lại
dứt được mê lầm.
Đáp: Ông mê muội quá. Như trên đã
nói: Pháp-giới bản-nhiên như thế, trong nhất-tâm có đủ tất cả phàm
thánh; pháp-giới bản-nhiên như thế, mỗi mỗi phàm thánh theo chủng-tử
nào của mình mạnh nhất mà trước sau thụ báo, chứ một người không đồng
thời thụ thân trong cả lục-đạo; pháp-giới bản-nhiên như thế, trong nhất-tâm
đồng thời đủ hết phàm thánh mà không trừ diệt lẫn nhau; pháp-giới bản-nhiên
như thế, tất cả phàm thánh tuy đồng một tâm mà không ngại gì mỗi mỗi
phàm thánh tự mình tu tập và tự đoạn trừ mê lầm của mình; pháp-giới
bản-nhiên như thế, trí tuệ từng phần khởi lên thì trừ được từng
phần mê lầm, trí tuệ đầy đủ thì trừ hết mê lầm, chứ không vì
trong một tâm không dung nạp được cả nhiễm và tịnh mà dứt được mê
lầm; pháp-giới bản-nhiên như thế, khi mê lầm chưa hết thì giác ngộ
và mê lầm cũng chung một tâm-thể, chứ không vì có tâm riêng mới có hai
thức giác-ngộ và mê lầm. Vậy nên biết rằng chân-tâm có khả-năng làm
thể cho tất cả phàm thánh; tâm-thể đầy đủ tính của tất cả các
pháp; như hiện nay các sự thế-gian và xuất-thế-gian được thành lập
là đều do tâm-tính có đạo-lý ấy; nếu không có đạo-lý ấy thì các sự
đều không thể thành lập được. Như lối tu ngoại-đạo không đến được
giải thoát là vì không thích hợp với đạo-lý giải thoát của tâm-tính.
Pháp-giới bản-nhiên như thế, tu hành thích hợp với tâm-tính thì việc
làm thành-tựu tu hành không thích hợp với tâm-tính thì việc làm không
thành.
Trên đây chỉ tỏ xong phần thứ năm
về nguyên do đối-trị mê lầm, chịu báo không đồng.
Tiết 1: Chỉ Tổng
Quát
Thứ nữa chỉ tỏ phần thứ 6 về
cộng-tướng-thức và bất-cộng-tướng-thức.
Hỏi : Đã nói tất cả phàm thánh
chỉ lấy nhất-tâm làm thể, vì sao có trường hợp thấy nhau, có trường
hợp không thấy nhau, có trường hợp cùng thụ dụng, có trường hợp không
cùng thụ dụng với nhau?
Đáp: Nói tất cả phàm thánh chỉ
lấy nhất-tâm làm thể thì cái tâm ấy, luận về thể và tướng, lại có
hai thứ: một là chân-như bình-đẳng-tâm tức là thể, tức là bình đẳng
cộng-tướng pháp-thân của tất cả phàm thánh; hai là a-lại-gia-thức, tức
là tướng; trong a-lại-gia-thức đó lại có hai thứ: một là phần
y-tha-tính thanh-tịnh, cũng gọi là thanh-tịnh-hòa-hợp-thức, tức là cái
thể của tất cả thánh nhân; hai là phần y-tha-tính nhiễm-trược, cũng gọi
là nhiễm-trược-hòa-hợp-thức, tức là cái thể của tất cả chúng sinh.
Hai thứ y-tha-tính nầy, tuy có cái dụng khác nhau, nhưng thể thì dung-hòa một
vị, chỉ là một chân-như-bình-đẳng-tâm.
Do hai thứ-y-tha-tính, thể đồng không
hai nên trong đó lại thành có hai sự khác nhau: một là cộng-tướng-thức,
hai là bất-cộng-tướng-thức. Vì sao? Vì trong thể chân-như đầy đủ tính
cộng-tướng-thức và tính bất-công-tướng-thức đó, nên tất cả phàm
thánh gây ra đồng-nghiệp huân-tập tính cộng-tướng thì liền thành cộng-tướng-thức.
Nếu mỗi mỗi phàm thánh riêng biệt gây ra những nghiệp riêng, huân-tập
cái tính bất-cộng-tướng thì liền thành bất-cộng-tướng-thức vậy.
Tiết 2: Giải Thích
Về Cộng Tướng Thức
Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là các
pháp ở ngoài thân, như thế giới, vật chất, năm trần, v.v... mà tất cả
phàm thánh đồng thu dụng, là cái tướng của cộng-tướng-thức vậy.
Như tất cả chúng sinh đồng tu cái nghiệp vô-lương-thọ, thẩy đều huân-tập
cái tính cộng-tướng nơi chân-tâm thì tính đó nương theo huân-tập khởi
lên, hiện ra cõi tịnh-độ mà tất cả phàm thánh đồng thụ dụng. Như cõi
tịnh-độ do nghiệp chung tạo thành, các cõi tạp uế khác v.v..., thì cũng
như thế. Song những cõi đồng thụ dụng đó chỉ là tâm-tướng nên gọi
là cộng-tướng-thức.
Lại cái cõi đồng thụ dụng đó
tuy do nghiệp chung của tất cả phàm thánh khởi lên, mà không ngại gì mỗi
mỗi chúng sinh, mỗi mỗi thánh nhân, một thân gây nghiệp thì riêng mình cảm
triệu được cõi đó; vậy nên vô-lượng chúng sinh gá sinh nơi khác không
thôi mà cõi nầy vẫn thường còn không thiếu. Lại tuy mỗi mỗi phàm
thánh đều có cái nghiệp riêng cảm triệu được cõi ấy mà cũng không
ngại gì chỉ là một cõi; vậy nên vô-lượng chúng sinh mới sinh mà cái tướng
cõi cũ vẫn không thêm không đổi. Chỉ trừ khi đồng-nghiệp tất cả chúng
sinh chuyển thành tốt hơn thì cõi nước mới biến ra khác, hoặc đồng
nghiệp chuyển thành xấu hơn thì cõi nước cũng biến ra khác; nếu không
phải thế, thì cõi nước vẫn thường nhất định vậy.
Tiết 3: Giải
Thích Về Bất Cộng Tướng Thức
Nói bất-cộng-tướng là nói quả-báo
riêng biệt về nội thân mỗi mỗi phàm thánh. Do mỗi mỗi phàm thánh gây
nghiệp không đồng, huân-tập chân-tâm; tính bất-cộng nơi chân-tâm, nương
theo huân-tập khởi lên; hiện ra quả-báo riêng biệt, mỗi mỗi không đồng,
mình và người khác nhau; song quả-báo không đồng đó chỉ là tâm-tướng
nên gọi là bất-cộng-tướng-thức.
Tiết 4: Giải
Thích Về Bất Cộng Trong Cộng
Chính trong cộng-tướng, lại có
cái nghĩa bất-cộng-tướng-thức. Như ngạ-quỷ v.v..., cùng loài người đồng
tạo cộng-nghiệp nên đồng được quả-báo thế-giới vật chất, xa thấy
sông Hằng, đó là cộng-tướng. Lại do bọn ngạ-quỷ kia nghiệp riêng nặng
hơn, gây ra chướng ngại nên khi đến bên sông kia, chỉ thấy nhiều sự
riêng khác, không có được nước mà uống, đó là bất-cộng trong cộng vậy.
Lại căn cứ trong đồng-loại ngạ-quỷ kia, đồng gây nghiệp ngạ-quỷ,
đồng ở bên sông Hằng, không có được nước mà uống, đó cũng là cái
nghĩa cộng-tướng; nhưng trong đó lại thầy không đồng nhau, hoặc thấy
dòng lửa, hoặc thấy cạn khô, hoặc thấy máu mủ, v.v..., có không lường
sự khác nhau; đó lại là bất-cộng ở trong cộng.
Nếu trong lúc tỏ hiện như thế, có
cái gì đồng thấy đồng dùng được thì gọi là cộng-tướng-thức; còn
những điều thấy nghe không đồng, thụ dụng không đồng thì tức là bất-cộng-tướng-thức;
theo nghĩa đó mà phần biệt thì biết tất cả chúng sinh thẩy đều như
thế.
Tiết 5: Giải
Thích Về Cộng Trong Bất Cộng
Chính trong bất-cộng-tướng lại có
nghĩa cộng. Như bà con quen biết, cho đến trong một thời gian dài hay ngắn,
đồng ở, đồng nói, đồng biết, đồng hiểu, hoặc tạm thời thấy
nhau, hoặc người thù, kẻ thân và người trung gian, hoặc biết nhau hay là
không biết nhau, cho đến súc sinh, loài trời thấy biết lẫn nhau, đều do
quá khứ gây cái nghiệp biết nhau thấy nhau, v.v... huân-tập tính cộng-tướng
nơi tâm và tâm duyên với sức huân-tập đó tỏ hiện ra những sự thấy
nhau biết nhau v.v... như thế; đó là cái nghĩa cộng-tướng trong bất-cộng-tướng
vậy. Hoặc có khi ta biết ta thấy người khác, người khác thì không biết
không thấy ta, thì đối với ta là cộng, đối với người khác là bất-cộng;
theo nghĩa như thế mà phân biệt thì có thể biết được. Lại như thân một
người tức là bất-cộng-tướng-thức; thân ấy lại làm chỗ nương cho tám
muôn hộ-trùng, thì cái thân ấy, đối với các hộ-trùng kia, là cộng-tướng-thức,
đó cũng là cái nghĩa cộng-tướng trong bất-cộng vậy.
Tiết 6: Tổng Kết
Do có đạo-lý cộng-tướng, bất-cộng-tướng
đó nên tất cả phàm thánh tuy đồng lấy nhất-tâm làm thể mà có trường
hợp thấy nhau, không thấy nhau, đồng thụ dụng, không đồng thụ dụng vậy.
Thế nên Linh-sơn thường chói ngời mà thấy rừng cây mất sáng; thân
vàng một trượng sáu lại thấy các sắc tro đất; cõi mầu hoa sen trở lại
bảo là gò đống; đất báu trang nghiêm, lại gọi ngược là cát gạch; nhưng
việc như thế đều do cộng-tướng, bất-cộng-tướng-thức tạo ra.
Đến đây chỉ tỏ xong trong Bất-không
Như-lai-tạng, sáu nghĩa sai khác về tạng-thể là một hay là khác. Từ
trên đến đây đã tóm chỉ tỏ xong "Nương tựa chỗ nào" trong phần
"chỉ tỏ sự nương tựa của Chỉ quán".
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |