Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ
kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa. Từ xưa nhẫn nay,
khắp chốn tòng lâm, những hàng long tượng trong giới truy lưu đều
xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một trong những bộ kinh then chốt trong nền
giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà
Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật Đế và Di Già Thích Ca dịch từ
Phạn văn ra Hán văn.
Mãi đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng Thủ Lăng
Nghiêm, được các giới truy lưu, những hàng long tượng để tâm
nghiên cứu rầm rộ một thì. Các tiền bối ra sức phát huy diệu lý
của kinh. Mỗi Ngài chú giải, sở thích, sáng tác theo sở kiến, sở
ngộ của mình. Có những vị phát huy cái thâm cái diệu tàng ẩn
trong kinh làm cho sáng tỏ rõ ràng đem lại cho Phật Tử hậu lai nhiều
lợi lạc. Cũng có những vị sớ giải mơ màng, gieo vào lòng
người con Phật những tư tưởng huyễn hoặc hoang đường, vô phương
lý giải. Do vậy, những bậc thạc đức chân tu cùng thời, Ngài
Thích Truyền Đăng phải viết ra hai quyển, nhan đề: Lăng Nghiêm
viên thông sớ tiền mao. Nội dung để báo động trong giới truy
lưu về sự sai lầm của những nhà sớ giải vô tình đã gieo vào
lòng nguời con Phật tư tưởng mê tín dị đoan, con đường giải
thoát giác ngộ mơ hồ không hy vọng có ngày hiện thực. Trong lời
tựa của bộ "Thủ Lăng Nghiêm chính mạch" thì Ngài Chơn Giám
cũng than phiền tương tợ !
Ở Việt Nam ta, từ những thập niên 30 về sau, phong
trào chấn hưng Phật giáo, các trường cao cấp Phật học đều dùng
bộ Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ của Ngài Hàm Thị mà giảng
dạy trong giáo trình.
Qua quá trình tu học và nghiên cứu, bỉ nhân tôi,
thấy phần "Trực Chỉ" của bộ kinh này, đại cương mà
nhận xét, có nhiều ý thú thâm sâu, cũng có thể làm kim chỉ nam
cho giới truy lưu giồi mài, tư duy và tu dưỡng có đem lại được
những điều bổ ích. Dù vậy, sự bổ ích đó chỉ nghiêng nặng cho
giới truy lưu, cho những người dồi dào đức tin đối với Tôn
giáo của mình, đức tin đó được khép kín trong chốn tòng lâm
"thanh tịnh" cổ kính "u nhàn".
Cái tâm nhận thức của Tăng tín đồ Phật tử trong
xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa ngày nay đòi hỏi nền giáo lý Phật
giáo phải khế cơ, khế lý; nghĩa là phải được cụ thể hóa rõ
ràng hơn. Phải biến nền giáo lý đó thành một thứ chất dinh
dưỡng đem lại cho con người sự bồi bổ, sự ích lợi cho bản
thân, cho gia đình, cho xã hội và đáp ứng yêu cầu tri thức của
người đệ tử Phật ngang bằng tầm cỡ của thời đại. Bởi vì,
xã hội loài người, vật chất cũng như tinh thần luôn luôn trong
tiến trình vận động và chuyển hóa, mà cái gì không tiến tức
đã lùi.
Sau 11 năm, ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, cuộc
diện đất nước Việt Nam hoàn toàn đổi mới. Mới về chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, tất nhiên phải mới cả tư tưởng. Nói
đến sự kiện này, tôi thành thật không giấu giếm rằng: Tôi rất
may mắn, có phúc duyên, tôi được kịp thời và đúng lúc, hòa
mình vào xã hội mới để học tập. Tôi tìm học những cái hay cái
mới để bồi dưỡng cho kiến thức của mình. Và sự thật, thời
gian qua đem lại cho tôi một kết quả rất bằng lòng, và bằng lòng
thật sự, bằng lòng trọn vẹn. Tôi vận dụng những kiến thức của
thời đại, dung hòa vào cái vốn liếng Phật học sẵn có của mình.
Tôi thấy vô cùng sáng tỏ. Rồi vì đàn em hậu tiến trong giới truy
lưu vận dụng vào kinh điển trong giáo trình mà mình đã có, tôi
viết thành những giáo án Phật học. Việc làm này tôi chưa dám
nói là hoàn bị mọi mặt yêu cầu, nhưng sự thật trước mắt là
người học có cái nhìn chính xác hơn đối với lời kinh, ý Phật.
Và tự mình gỡ bỏ cho mình những cặp kính ảm đạm mơ hồ, nhìn
đâu cũng thấy toàn bộ một màu buồn tẻ hoang đường, huyễn hoặc,
siêu hình vô phương lý luận. Tai họa của sự nhận thức sai lầm
chơn lý, có nuôi dưỡng trong con người một tâm hồn yếu đuối,
làm cho con người mất hết sức tự tin; con người không tin khả
năng thành Phật của mình, không tin nổi rằng: mình vốn có Phật
tánh. Con người đã mất khả năng tự tin thì suốt cuộc đời mệnh
danh là đệ tử Phật nhưng "linh hồn" thì đã gởi gấm cho
"đấng siêu nhiên" nào đó ở một thế giới xa xăm ngoài
tầm lý luận của trí thức con người. Đó là cái buồn chung cho
trong hàng đệ tử Phật lạc lối ngày nay.
Học kinh Thủ Lăng Nghiêm, con người sẽ xác định
được vị trí của mình đối với quả vị Bồ Đề Niết Bàn vô
thượng. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta sống bằng
"Chơn tâm thường trú" sinh hoạt trong "Thể tánh tịnh
minh". Mà tất cả mọi người đệ tử Phật trong chúng ta đều
có "Chơn tâm thường trú" và "Thể tánh tịnh minh"
ấy. Chỉ khác nhau ở chỗ:
Còn phiền não khách trần hay phủi hết phiền
não khách trần vậy thôi.
Cái từ Trực Chỉ trong giáo án "Thủ Lăng
Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương" nầy không lệ thuộc, không tương
quan gì với ý tứ của Ngài Hàm Thị ở thời Minh xa xưa bên Trung
Quốc. Mà phần trực chỉ nầy, thể hiện từ quá trình học tập trong
thời đại mới với những tư tưởng mà tôi rất bằng lòng như
đã nói ở trên.
Để trắc nghiệm sự bằng lòng của mình xem có chủ
quan không, tôi đem cái nhận thức mới, vận dụng qua nền giáo lý
thậm thâm của Phật, tôi giảng dạy cho Tăng Ni trường Phật học Cao
cấp cơ sở I ở Thủ đô Hà Nội, từ năm 1981 đến 1985. Lắng nghe
dư luận: Kết quả tốt. Tôi đang thí nghiệm tư tưởng đó ở
Trường Phật học Cao cấp cơ sở II ở Thành phố Hồ Chí Minh từ
năm 1985 đến nay. Lắng nghe, có kết quả tốt. Tôi giảng cho Tăng Ni
và tín đồ Phật tử ở nhiều giảng đường khá đông đảo ở
thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm liên tục. Lắng nghe, đều kết
quả tốt.
Nay tôi viết giáo án "Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ
Đề Cương" nầy nhằm phục vụ cho đối tượng Tăng Ni sinh Phật
học cao cấp. Hiện nay thì tôi đang giảng cho Tăng Ni sinh năm thứ 3
trường Phật học cao cấp cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh. Dù
vậy, trình độ của người Phật tử trí thức ngày nay, có rất
nhiều người hâm mộ nghiên cứu học tập tư tưởng liễu nghĩa
thượng thừa thâm diệu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy.
Đã là giáo án, tất nhiên còn phải triển khai
hướng dẫn rộng thêm nhiều mặt.
Đã là đề cương thì không thể đòi hỏi ở đây
những chi tiết quá rộng rãi ở kinh văn nguyên chất.
Tuy nhiên, Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương tương
đối đủ sức giúp cho người đọc nắm lấy cái bâu của áo, xách
lên cái giềng của lưới, nghĩa là có thể tiếp thụ được cái
ý thú thâm diệu, tư tưởng cốt tủy của lời kinh. Dù vậy, sự
nhận thức và tiếp thụ đến mức độ nào việc đó còn tùy
thuộc một phần ở con người nữa; cũng như trông một viên ngọc
kim cương, chắc chắn ai cũng thấy biết được sắc màu của viên
ngọc, nhưng đánh giá đúng trọn vẹn màu sắc hay không còn tùy ở
sự có biết thay đổi hướng đứng hay không để nhìn viên ngọc
của chính mình.
Việc phê phán khen chê, tôi đã có dự trù và sẵn
sàng hoan hỉ tiếp thu. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật kể câu chuyện
năm chàng mù sờ voi
Rồi họ ấu đả với nhau, vì trong đó,
không có anh nào cho rằng mình không biết rõ con voi thật. Con voi như
cây cột, con voi như cái quạt mo, vẫn chưa phải vô lý, kia mà !
Này ! Các bạn ơi ! Tôi đã thấy được con voi thật !
Nó thường phe phẩy hai tai, nó dẫm tới dẫm lui và tỏ vẻ thèm
thuồng, muốn xin những lóng mía của khách nhàn du trong "vườn
bách thú" ấy.
- Viết tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
- Mùa thu năm Bính Dần
- Ngày 23 tháng 09 năm 1986
- Pháp Sư: THÍCH TỪ THÔNG
-
- Chân thành cảm ơn Hải Hạnh đã
đánh máy vi tính. ĐPNN, 1-5-2001