- Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ
Đề Cương
- Pháp Sư Thích Từ Thông
CHƯƠNG
THỨ NĂM
HIỂU BIẾT CHỒNG THÊM
HIỂU BIẾT LÀ GỐC RỄ CỦA VÔ MINH. HIỂU BIẾT VẠN PHÁP ĐÚNG NHƯ
THẬT LÀ NHÂN TỐ CỦA NIẾT BÀN HIỆN TẠI
ÔNG A NAN LẠI HỎI VẤN ĐỀ MỞ GÚT
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Dù Phật đã dạy nghĩa
quyết định thứ hai về công việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng
những người mở gút nếu không biết đầu mối của gút ở đâu
thì ắt hẳn không thể nào mở được.
Bạch Thế Tôn ! Tôi và hàng Thanh Văn hữu học trong
hội này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sanh cùng
diệt với các thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật, Pháp, mang
tiếng xuất gia mà như người sốt rét cách nhật (ý nói chợt giác
chợt mê). Xin đức đại từ thương xót kẻ đắm chìm, chỉ cho tôi
ở nơi thân tâm này cái gì là gút ? Và muốn mở phải khởi sự
như thế nào ?
KHAI THỊ CHƠN LÝ VỐN KHÔNG HAI. PHẬT PHẬT ĐẠO ĐỒNG
Đức Thế Tôn rũ lòng thương xót lấy tay xoa đảnh
ông A Nan. Đồng thời tất cả thế giới chư Phật trong mười phương
cùng phóng ánh sáng báu đến rừng Kỳ Đà soi lên đảnh đầu của
Đức Phật. Tất cả đại chúng ở đây đều được sự khinh an
chưa từng có.
Bấy giờ đại chúng đều nghe chư Phật trong mười
phương khác miệng đồng lời bảo ông A Nan rằng:
Hay thay A Nan ! Ông muốn biết cái gì là gút thắt
khiến cho ông luân hồi sanh tử khổ đau !
A Nan ! Cái gút thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử,
chính là sáu căn của ông, chớ chẳng phải cái gì khác !
Ông lại cũng muốn biết, phải làm sao mau đến chỗ an
lạc, giải thoát, tịch tĩnh vô thượng Bồ đề !
Này ! A Nan ! Thì cũng chính là sáu căn của ông đó,
chớ chẳng phải cái gì khác.
CĂN TRẦN CÙNG MỘT GỐC CỘT MỞ KHÔNG HAI NGUỒN
Ông A Nan tâm còn lưỡng lự ôm mối hoài nghi, cúi
đầu thưa Phật: Bạch Thế Tôn ! Vì sao cái nguyên nhân khiến cho tôi
luân hồi sanh tử và khiến cho tôi được Bồ đề, Niết bàn lại
cũng là do sáu căn chớ không phải cái gì khác ?
Phật dạy: A Nan ! Căn và trần đồng một bản thể;
cột hay mở chẳng phải đợi hai. Cái thức phân biệt của ông chỉ
là hư vọng như hoa đốm trong hư không. Nhân nơi trần mà phát ra cái
nhận biết của căn. Nhân nơi căn mà có cái sắc tướng của trần.
Chủ thể năng kiến và đối tượng sở kiến chỉ là sự phản ánh
tác dụng qua lại mà có ra. Tự tánh của chúng thật sự là không
có tự tánh gì. Sự hiện khởi duyên sanh của chúng như những cái
hình của những đám lau sậy gác chéo vào nhau
Vậy nên: Hiểu biết mà chồng lên hiểu biết là
gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thất
Niết bàn ! Cần chi trong đó phải có cái gì khác, A Nan nhỉ !
*
* *
TRỰC CHỈ
Tâm lý của ông A Nan cũng chính là tâm lý chung
của những người đệ tử Phật. Có ai biết trong ta cái gì là gút,
để phải vướng mắc mãi trong sanh tử luân hồi ? Có mấy ai biết
phải làm sao mở gút để khỏi ràng buộc trói trăn ? Người ta
thường có quan niệm: Thành Phật phải là cái gì vĩ đại, xa xăm
và ghê gớm lắm. Chính ông A Nan học Pháp đến đây mà vẫn còn
tư tưởng tịt mù xa xăm đó, thì trách chi những hàng bạc địa
phàm phu !
Thì ra sự thật lại quá giản đơn. Chẳng những riêng
Phật Thích Ca cho sự mở gút là giản đơn mà mười phương chư
Phật đông như số vi trần cũng đồng tình rằng: Vấn đề tìm gút
và mở gút là vấn đề trước mắt. Nó chẳng ở đâu xa, cũng
chẳng phải do ai đem đến. Gút hay mở chính là sáu căn của ông A
Nan đó. Sáu căn của ông A Nan cũng chính là sáu căn của tất cả
mọi người đệ tử Phật chúng ta ai ai cũng có. Thương, ghét, thân,
sơ, hỉ, nộ
là gút là thắt đó. Từ bi, hỉ xả, thiền định,
trí tuệ
là mở, gút sẽ được tháo tung.
Yếu lý ở đoạn kinh này, đức Phật đúc kết trong
triết lý:
"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn".
Chảo lảy điêu ngoa đồng nghĩa với cột gút, thắt
thêm nhiều lớp. Thực thà, chất phác là công dụng của sự tháo
gút mở dây.
*
* *
TÓM LƯỢC Ý THÚ CỦA NHỮNG ĐOẠN KINH TRÊN QUA BÀI
TRÙNG TỤNG
Chơn tánh của pháp hữu vi là không
Vì duyên sanh, sanh như huyễn hóa
Vô vi thì không có khởi diệt
Vì chẳng thật, như hoa đốm trong hư không
Phủ định vọng, nhằm khẳng định có chơn
Nếu chấp chơn, thì vọng chơn đều vọng
Chơn và phi chơn còn không có
Thì năng kiến sở kiến có thực gì !
Thức ở trung gian, không thực tánh
Như lau sậy gác chéo lên nhau
Cột hay mở đồng một bản nhân
Thánh và phàm không hai ngả tẻ
Hãy trông hình những cây lau gác
Pháp không, pháp có, cả hai không
Mê mờ chơn lý đó là vô minh
Phát minh được chơn lý tức là giải thoát
Mở gút phải theo thứ lớp
Sáu gút mở hết, cái một không còn
Dựa nơi căn mà chọn tánh viên thông
Quả nhập lưu được xem là thành Phật
Thức A Đà Na vi tế quá
Tập khí như nước thác tuôn theo
Vì sợ chấp chơn, phi chơn
Như Lai không thường nói đến
Tự tâm chấp tự tâm
Pháp phi huyễn trở thành pháp huyễn
Không chấp, pháp chơn còn không có
Pháp chơn vốn đã chẳng có sanh
Thì pháp huyễn do đâu thành lập ?
Như huyễn tam ma đề là vậy
Đó là bảo giác, chắc như kim cương vương
Không nhiễm như Diệu Liên Hoa
Khảy móng tay vượt hàng vô học
Đây là pháp của Phật mười phương
Là đại lộ vào thành đô Niết bàn Phật.
TRỰC CHỈ
Pháp hữu vi không có tự thể, thực chất của nó
là không. Vì nhân duyên sanh cho nên có. Có mà không thật có nên
gọi là như huyễn.
Nhằm phủ định huyễn hữu mà phải đề cập cái vô.
Kỳ thực, chẳng có cái gọi là "Vô vi" nào cả.
Cái không có sanh khởi, không có diệt tận gọi đó là "Vô
vi". Vậy thì "Vô vi" đồng nghĩa với "Không
có gì". Người đệ tử Phật không bao giờ hy vọng ở
cái gọi là "Vô vi", dù được người ta quảng cáo "Vô
vi" là cảnh giới an vui hạnh phúc ! Giả vọng biểu chơn là
một thuật ngữ thường dùng trong Phật học. Phủ định vọng nhằm
để khẳng định cái chơn. Nhưng phải hiểu: Hết vọng là chơn
mà không cầu chơn trong khi hết vọng. Hết vọng cầu chơn
là tìm thêm một cái đầu để chồng lên cái đầu mình đã có.
Đó chẳng phải là tâm trạng của kẻ điên loạn là gì ?
Phân biệt, đánh giá sự vật qua: mừng, giận,
thương, sợ, yêu, ghét
là do thức trung gian đó. Mà thức thì
đã phải chủ đâu ! Duyên sanh, duyên diệt, thức thay đổi luôn
luôn, như những hình thoi, hình thang, hình tam giác, hình vuông
trong
những đám lau sậy gác lên nhau trong những cơn gió giật !
Căn trần đồng là vật biểu hiện từ Như Lai tàng,
phát xuất từ Như Lai tàng không tội lỗi. Buộc hay mở do căn;
thánh phàm do tự chủ hay không tự chủ đối với sáu căn của
mình.
Pháp không, không đã đành; pháp có, cũng là không
!
"Chúng nhơn duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không"
Mê mờ chơn lý không, coù là
vô minh. Tỏ ngộ chơn lý có và không thì giải
thoát. Mở gút nên theo thứ lớp; một được mở, sáu gút sẽ
giải tỏa theo. Sáu gút mở thì cái một không còn. Hãy lựa căn
có ưu thế để phát huy công dụng; lựa một căn mà chọn tánh viên
thông. Được quả nhập lưu, xem như đã thành Phật. Bởi vì
Như Lai há chẳng nói: "Tất cả chúng sanh đã thành Phật"
đó sao ?
Thức A Đà Na sâu sắc lắm, tập khí chúng sanh lại
quá sâu dày. Như Lai thường không đề cập đến, ngại chúng sanh
mê chấp: Này chơn nọ chẳng phải chơn. Ở Kinh Thủ Lăng
Nghiêm này, Như lai chỉ dạy trong phạm vi: sáu căn, sáu trần và sáu
thức. Sáu thức vọng chấp là vọng đã đành, móng ý chấp chơn,
làm cho chơn hóa ra vọng. Tự tâm chấp tự
tâm: Tâm mình Phật, lại van xin mong cầu Phật, há không phải pháp
"phi huyễn" trở thành "huyễn pháp" đó sao ?
Không chấp thì vọng chơn đều vắng lặng
trạm nhiên: chơn còn không có, vọng vin vào
đâu sanh được ?
Nhận thức như vậy thường xuyên. Đó là cách tu thiền,
là tư duy tu đó. Tu như vậy Phật gọi: Như huyễn tam
ma đề. Đó là phương pháp thiền nhìn vạn pháp như
huyễn. Có như huyễn tam ma đề là có bảo giác chắc
như kim cương vương. Thanh tịnh như Diệu Liên Hoa, khảy móng tay vượt
hàng vô học (Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa). Mười phương chư Phật
đồng như số vi trần, đồng đi con đường đó mà vào thành đô
Niết bàn Phật !
CHỈ MỘT CÁI KHĂN MÀ
SÁU LẦN CỘT THÌ THÀNH SÁU GÚT MỞ HẾT SÁU GÚT MỘT CŨNG KHÔNG
CÒN
NGUYÊN DO CỦA MỘT SÁU DỊ ĐỒNG
Ông A Nan chấp tay đảnh lễ
thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi nghe Phật dạy ý thú thẩm sâu mầu
nhiệm, nhưng tôi còn chưa rõ cách thức mở gút thế nào và vì sao
mở hết gút thì một cũng không còn ? Xin Phật rũ lòng thương đại
chúng trong hội này và chúng sanh tương lai bố thí pháp âm để
chúng tôi có thể trừ sạch cấu nhiễm sâu dày trầm trọng !
Bấy giờ đức Thế Tôn trên tòa sư tử sửa nội y
vén áo tăng già lê (đại y) đưa nhẹ tay lấy cái khăn hoa trên
ghế thất bảo. Trước đại chúng Đức Phật cột thành một gút,
đưa cho ông A Nan xem và hỏi:
Cái này gọi là cái gì ?
- Đấy là cái gút, bạch Thế Tôn. Ôn A Nan và đại
chúng thưa.
Đức Phật lại cột khăn hoa thêm một gút nữa rồi
cũng hỏi ông A Nan:
Cái này gọi là cái gì ?
- Cũng gọi là cái gút. Bạch Thế Tôn !
Rồi cũng cái khăn lụa hoa ấy tuần tự đức Phật
cột thành sáu gút và mỗi khi cột xong một gút Phật đều đưa khăn
lên và hỏi như vậy.
Ông A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp như vậy
sáu lần.
Phật bảo ông A Nan: Khi tôi mới cột khăn thì ông
nói là một gút. Thật sự chiếc khăn lụa hoa này trước sau chỉ
là một cái. Cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba
các ông cũng
gọi là gút ?
Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa. Cái khăn lụa hoa quý báu
này, vốn là một thể, song Như Lai cột một lần thì gọi là một
gút, nếu cột trăm lần thì cũng phải gọi là một trăm gút, huống
chi ở đây có sáu gút, không đến bảy, cũng chẳng dừng ở năm.
Cớ chi Như Lai quở trách chỉ cho gút thứ nhất là gút, còn cái
thứ hai, thứ ba
không cho gọi là gút ?
Phật bảo: Như ông biết cái khăn hoa này nó vốn là
một, vậy mà tôi cột sáu lần thì ông gọi là sáu gút. Này A Nan !
Ông chín chắn xem xét nghĩ suy: Tự thể của cái khăn vốn là đồng
chỉ vì gút mà hóa ra thành dị, ông nghĩ thế nào ?
Khi mới cột gút ban đầu thì gọi là gút thứ nhất. Như vậy cho
đến cột lần thứ sáu thì gọi là gút thứ sáu. Nay tôi muốn gọi
gút thứ sáu là gút thứ nhất có được không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Nếu còn sáu gút thì cái
gọi là thứ sáu, không sao gọi là cái thứ nhất được. Dù tôi
có biện bạch suốt đời cũng không thể làm cho sáu gút đổi tên
!
Phật dạy: Đúng vậy ! Đúng vậy ! Sáu gút không
đồng nhưng xét tìm bản nhân lại vẫn là do một cái khăn mà có.
Thế mà không ai có thể làm cho nó lộn xộn được với nhau.
A Nan ! Sáu căn của ông cũng như vậy. Từ cái thể
hoàn toàn đồng mà sanh cái dụng hoàn toàn dị.
Chẳng khác chút nào cái khăn lụa hoa kiếp ba la của Như Lai !
A Nan ! Giả sử ông không muốn thành sáu gút trong
một cái khăn. Giả sử ông muốn cái khăn chỉ còn thể duy nhất,
thì ông phải làm thế nào ?
- Bạch Thế Tôn ! Nếu các gút mà còn thì thị phi tranh
cãi khó mà ngăn. Vì gút này không phải gút kia và gút kia không
phải là gút nọ được ! Nếu Như Lai mở tháo tung cả, không còn
gút thì không còn có này, có nọ, có kia, thế là một còn không
có, làm chi có sáu !
Phật dạy: Cái ý nghĩa mở sáu, một không còn cũng
như vậy đó. Các ông chỉ vì vọng tâm vô thỉ, khiến cho tri
kiến sanh bệnh làm lòa cái tánh tịnh minh trạm tịch của các
ông, cho nên sơn hà đại địa, sanh tử, niết bàn trở thành cái
tướng hoa đốm của đôi mắt mệt hóa lòa của các ông đó !
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Cái bệnh mê lầm giống
như gút kia làm sao mà cởi mở được !
Bấy giờ đức Phật lấy cái khăn đã cột gút, kéo
một mối lệch qua trái rồi hỏi ông A Nan: Tôi làm thế này có mở
gút được chăng ?
- Không được, bạch Thế Tôn !
Rồi đức Phật nắm kéo mối khăn lệch qua bên phải,
cũng hỏi ông A Nan như vậy. Ông A Nan cũng đáp là không thể mở
được.
Phật hỏi: Tôi kéo mối khăn qua phải qua trái đều
không mở gút được. Vậy theo ông nghĩ, phải làm thế nào mới
mở được gút ?
- Bạch Thế Tôn ! Phải mở trung tâm cái gút thì tháo
ra ngay.
Phật bảo: Đúng vậy. Muốn mở gút thì phải mở ngay
trung tâm của gút.
A Nan ! Như tôi đã nói: Phật pháp từ nhân duyên
sanh. Nhưng các ông không được chấp ở tướng hòa hợp thô sơ
trên hiện tượng của thế gian mà thỏa mãn tri kiến của mình. Như
Lai phát minh tuệ giác vô thượng cho nên biết tất cả bản nhân
của pháp thế và xuất thế gian; đến như một hạt mưa ngoài hằng sa
thế giới cũng biết số mục; cây tùng thẳng, cây gai cong, chim câu
trắng, chim quạ đen Như Lai đều biết nguyên do tất cả.
A Nan ! Tùy tâm ông lựa chọn nơi 6 căn, nếu tháo
mở được cái gút căn ấy thì các trần tương tự tiêu vong, đối
với ông, vọng cảnh không còn, bấy giờ ông chẳng phải sống trong
chơn tâm thì còn gọi là gì nữa !
CỘT GÚT ĐÃ CÓ THỨ LỚP THÌ MỞ PHẢI CÓ TRƯỚC
CÓ SAU
Phật bảo A Nan ! Cái khăn hoa này có sáu gút, ông
có thể mở bung cùng một lúc được không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Những cái gút khi cột đã
có thứ lớp, nay mở cũng phải theo trước sau. Sáu gút tuy đồng
thể, nhưng lúc cột lại chẳng đồng thời. Thế nên, nếu
mở gút phải bắt đầu từng cái một.
Phật dạy: Trừ khử những gút sáu căn cũng giống
như vậy. Bắt đầu mở, trước hết tháo mở nhân không.
Nhân không hóa giải hoàn toàn sáng suốt thì bước thêm
mở lần pháp chấp. Pháp chấp xả hết bấy giờ gọi là hạng
người ngã pháp câu không. Đấy gọi là Bồ tát
từ tam ma địa mà được vô sanh pháp nhẫn.
TRỰC CHỈ
Đọc đoạn kinh này, người đệ tử Phật phải chín
chắn soát lại vấn đề tri kiến của mình. Cái trí
thể là một, tự nó chẳng có hỉ, nộ, ai, cụ
chẳng có
tham, sân, si, mạn
Do sự tác động bất giác vô minh khiến cho
cái trí dụng trở thành nhiễm ô. Những cái gút mà
Đức Phật cụ thể hóa qua cái khăn kiếp ba la chính là những gút
tham, sân, si, mạn
và hỉ, nộ
ấy. Cái khăn lụa hoa của
Phật tự thể nó chẳng có gút nào. Cột gút là do bàn
tay Phật, nghĩa là phải do động tác của ai đó làm ra. Khi đã cột
gút rồi thì gút nào tên nấy. Do vậy, làm mất đi cái tự
thể láng mịn của cái khăn hoa đẹp. Cái tri kiến vô
kiến hay nói cách khác là "thể tánh tịnh minh" của ta
vốn thanh tịnh bản nhiên trong sáng đẹp đẽ như cái khăn hoa láng
mịn ấy. Chấp mắc là do ta, khiến cho tri kiến của ta trở
thành tri kiến lập tri, phân biệt ghét thương lấy bỏ
thân sơ làm cho sáu căn trần vẩn đục bởi sáu trần: Sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp.
Muốn khăn không còn gút thì phải mở hết gút bỏ
đi. Muốn căn trong sáng an lành thì phải diệt đi tính chấp: phải,
quấy, ghét, thương
tham, sân, si, mạn
Không mở đúng trung tâm gút thì không thể tháo gút
ra. Không chế phục sáu căn thì đam mê lầm lạc lâu đời không
xóa sạch được.
Cột đã có gút một, gút hai
thì mở cũng phải
theo thứ lớp.
Tai hại của gút là làm cho cái khăn hoa mịn đẹp của
Như Lai thành "một" rồi "hai"
, rồi thành sáu gút,
mà tên gút không thể đổi dời.
Tai họa gây đau khổ cho con người là tri kiến
vốn tịnh, vốn thanh, vốn minh, vốn diệu lại trở thành ngã
chấp, pháp chấp thị phi hỉ nộ
Mở gút, mở sáu gút hết thì cái một cũng không
còn, vì sáu căn mà thanh tịnh thì sáu không còn sáu mà chỉ còn: Tri
kiến vô kiến, thể tánh tịnh minh. Bấy giờ sáu căn dùng thay
lẫn nhau không có gì trở ngại (lục căn hỗ dụng).
Mở gút phải bắt đầu từ cái gút khởi đầu. Chế
phục vô minh phải triệt tiêu ngã chấp trước. Tiến thêm một
bước, diệt trừ ý thức pháp chấp tiếp theo.
Ngày nào ngã pháp đều không, hỏi ai là
người sẽ thành Phật ? Nên chỉ những con người ngã pháp
câu không ấy !
*
QUẢ VỊ CÓ THẤP CAO GIẢI THOÁT
GIỐNG NHAU KHÔNG KHÁC MẤY. CĂN TRẦN THỨC GIỚI THẤT ĐẠI ĐỀU LÀ
DỮ KIỆN CHỨNG VIÊN THÔNG
Ông A Nan và đại chúng
nhờ Phật khai thị tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt;
đối với chân lý xẻ bỏ được màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất
cả đồng chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Ngày nay chúng tôi thâm tâm sáng
suốt vén bức rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối
với diệu nghĩa "sáu mở một không còn", Như Lai dạy chúng
tôi đã lãnh hội. Nhưng nay còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì
để tâm tánh được viên thông, khi rời pháp âm
hướng dẫn của Phật ? Xin Phật rũ lòng thương ban cho chúng tôi
những bí pháp thậm thâm được xem như lời dạy cuối cùng của
Phật ?
PHẬT HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ NHÂN DUYÊN NGỘ ĐẠO VÀ DỮ
KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ Tát
và hàng lậu tận A La Hớn rằng: Các ông là Bồ Tát và A La Hớn
sanh trong Phật Pháp đã chứng quả vô học. Nay tôi hỏi các ông:
Lúc mới phát tâm, trong thập bát giới, các ông tâm đắc ở
giới nào ? Do nhân duyên gì ? Từ phương tiện nào mà các ông
được tam ma đề viên thông tâm tánh ?
1. DO THANH TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Nhóm ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ chỗ ngồi
đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Sau khi Như Lai thành đạo ở Lộc
Uyển, chúng tôi gặp Phật trước tiên. Chúng tôi được Phật khai
thị cho về pháp tứ diệu đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà tôi
tỏ ngộ. Lúc đó Phật hỏi các Tỳ kheo: Có hiểu không, tôi thưa
là đã hiểu. Nhơn đó Như Lai đặt cho tôi cái tên là A
Nhã Đa, ấn chứng chúng tôi là những người A La Hớn. Nay Phật
hỏi viên thông, đối với tôi thanh trần là
mầu nhiệm nhất.
2. DO SẮC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà đứng dậy chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Tôi cũng được gặp Phật sau những
ngày Như Lai thành đạo không lâu. Trông vào tướng hảo quang minh
của Phật tôi quán sâu vào tướng bất tịnh của sắc thân ô
trược. Từ cái tử thi bắt đầu bành trướng
đến tướng
bạch cốt
vi trần
tôi sanh lòng nhàm chán tột bậc, chợt
tỏ ngộ tánh: Sắc, không, không sắc đều chẳng ra gì. Như Lai ấn
chứng cho tôi cái tên là Ni Sa Đà, tôi được A La Hớn quả. Nay
Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối
với tôi sắc trần là ưu việt nhất.
3. DO HƯƠNG TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung kính chấp
tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Trước đây Như Lai dạy tôi quán
sát kỹ về các pháp tướng hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong
giảng đường các tỳ kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang
thoảng trong tĩnh mịch u nhàn, tác dụng đến mũi tôi. Tôi tư duy quán
xét: Hương này không phải do gỗ, không phải do hư không, không phải
do khói, không phải do lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến đâu
không chỗ dùng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của
tôi tự khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sanh, Như Lai ấn chứng cho
tôi danh hiệu là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm mùi hương mà
chứng được A La Hớn quả. Nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Với tôi, hương trần là tối thắng
nhất.
4. DO VỊ TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Hai vị Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng, cùng năm
trăm phạm thiên trong hội đồng đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Bạch Thế Tôn ! Từ vô lượng kiếp, chúng tôi là lương y
cứu tế thế nhân. Miệng chúng tôi thường nếm những lá hoa cây
cỏ kim thạch trong cõi Ta bà này. Tất cả những vị: Mặn, lạt, chua,
cay, ngọt, đắng
vị biến đổi sanh, vị hòa hợp có; vị nào lạnh
vị nào nóng thứ có độc, thứ không tôi đều biết cả. Được
phục vụ chư Phật và tất cả chúng sanh, rõ biết tánh chất của vị
trần: Không phải không, không phải có, không phải tức thân tâm,
không phải ly thân tâm. Nhờ tôi phân biệt Vị trần mà
được khai ngộ. Phật ấn chứng cho chúng tôi danh hiệu là Dược
Vương và Dược Thượng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nhân duyên và phương
tiện được viên thông, xin thưa: Đối với chúng tôi vị
trần là ưu việt nhất.
5. DO XÚC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị tăng sĩ
đồng là đạo bạn cùng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Bọn tôi trước kia ở thời Phật
Oai Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ
lớp vào nhà tắm để tắm. Bỗng nhiên tôi tư duy và nhận thức
rằng: Nước vốn không rửa bụi và cũng chẳng rửa chân, trung gian
an nhiên lặng lẽ. Tôi tâm đắc tột độ cái chân lý: "Chẳng
có gì". Tập quán trước không quên, đến nay tôi theo Phật xuất
gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy gọi tôi với cái
tên: Bạt Đà La (thiên thủ). Do tôi phát hiện tánh mầu nhiệm của
xúc trần mà thành Phật tử. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên
thông, xin thưa: Đối với tôi xúc trần là hơn tất
cả.
6. DO PHÁP TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang tỳ khưu ni v.v
đồng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Kiếp xa xưa trong cõi này có Phật ra
đời hiệu Nhật Nguyệt Đăng. Sau khi Phật diệt độ chúng tôi thắp
sáng ngọn đèn chánh pháp để cúng dường; đem tâm trong sáng vàng
thắm thếp tô Phật tượng. Do đó đời đời kiếp kiếp thân
thường viên mãn, rực rỡ như vàng ròng. Bọn Tử Kim Quang tỳ khưu
ni đây cũng đồng phát tâm như tôi vậy. Chúng tôi quán sát sáu
trần luôn luôn biến hoại. Tôi trụ tâm trong vắng lặng, nhập định
diệt tận, thân tâm rỗng rang, thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như
trong cái khảy móng tay. Do thành tựu pháp không quán mà
tôi được quả A La Hớn. Thế Tôn ấn chứng tôi là: Đầu đà
đệ nhất; pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn tôi được khai minh,
lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ viên thông,
với sở ngộ chứng của tôi thì pháp trần là tối
thượng.
*
* *
TRỰC CHỈ
Khi con người diệt hết hoặc Kiến tư ra
ngoài ba cõi thì gọi là người được giải thoát, giác ngộ. Giải
thoát nói cách khác là người đó có Niết bàn. Vậy, chữ Niết
bàn trong đạo Phật là chỉ sự giải thoát phiền não buộc ràng. Do
vô minh tác động hoành hành trong cuộc sống. Bồ đề Niết bàn là
hai mặt thực thể thanh tịnh của con người: Thấy chân lý trọn vẹn,
vô minh phiền não hoàn toàn. Tuy nhiên, Bồ đề Niết bàn có đẳng
cấp, không nhất thiết cùng lúc ai cũng được y nhau. Gọi là đẳng
cấp, nhưng không phải như "ngạch", "trật" do cấp trên
nào phong tặng theo cảm tình thương ghét hay do đánh giá chủng tộc
màu da, sang hèn cao thấp
Đẳng cấp ở đây dựa trên tiêu
chuẩn đoạn vô minh trừ phiền não ở chính con người. Do vậy, Bồ
đề Niết bàn có những đẳng cấp sau đây:
Thanh văn Bồ đề
Duyên giác Bồ đề
Bồ Tát Bồ đề
Phật Bồ đề
Đẳng cấp đó nói lên quả vị có thấp cao. Dù
vậy đã là người có Bồ đề vượt ra ba cõi thì sự giải thoát
gần giống nhau không khác mấy. Không khác mấy vì cả bốn đẳng cấp
đều không còn quan niệm khổ đau vì phần đoạn sanh tử chi phối dầy
vò. Không khác mấy, nhưng cũng không phải hoàn toàn đồng, vì trình
độ nhận thức chân lý toàn vẹn và chưa toàn vẹn có chênh lệch
khác nhau.
Viên thông có nghĩa viên mãn thông suốt.
Nói viên thông là nói trình độ đạt đạo, nhận thức
chân lý của những người đệ tử Phật. Người có trình độ
nhận thức viên mãn thông suốt vượt qua tri kiến chấp mắc hẹp
hòi u ám của phàm phu gọi đó là chứng được viên thông.
Ở đây chủ ý Phật gạn hỏi những người có trình độ viên
thông cỡ đó. Ở đây không được hiểu viên thông
với nghĩa hoàn toàn trọn vẹn, như cái từ viên mãn Vô
thượng Bồ đề. Vì ở đây Phật hỏi duyên cớ được viên
thông của Thanh Văn Duyên Giác Bồ Tát mà người đọc đã
nhận thức rõ ràng.
Một sự kiện đáng vui mừng phấn khởi cho những
người con Phật có ý chí ham học ham tu mong giải thoát: Đọc qua hai
mươi lăm vị Thanh Văn lẫn Bồ Tát, các Ngài nói lên nhân duyên
đạt đạo, chứng nhập viên thông của các Ngài mà ta
thấy vô cùng sung sướng. Thì ra cái sự kiện làm ra thành quả viên
thông ấy, trong Phật tử chúng ta ai cũng có và ai cũng có
thể biết được rõ ràng. Do đó trong mọi chúng ta ai cũng có khả
năng hy vọng có ngày hiện thực viên thông. Thế mà còn
chưa bằng lòng, không cảm thấy sung sướng thì gọi là tu hành,
người ta còn muốn cái gì nữa nhỉ ?
Ta đã thấy biết rõ dữ kiện để tạo ra thành quả viên
thông của sáu vị A La Hớn: Kiều Trần Như, Ưu Ba Ly Sa Đà,
chẳng có xa xôi gì làm người ta khó tìm kiếm cả. Các Ngài chỉ
dựa trên lục trần. Dựa trên sáu trần làm đối tượng để tu
sửa thân tâm. Vậy mà mỗi Ngài trình lên với Phật một món "Đệ
nhất" khác nhau. Điều đó nói với mọi người rằng: Gọi
là thuốc hay, không có thuốc nào hay với tất cả mọi con bệnh.
Pháp môn có "vi diệu" cũng không phải "vi diệu" cho
mọi căn cơ. Cái biết của người bệnh là khéo biết chọn thuốc
hạp bệnh mà dùng. Cái trí của người con Phật, phải khéo chọn
pháp môn thích ứng căn cơ mà tu tập.
Vềâ sáu trần, trần nào cũng là dữ kiện cho các
thánh chứng "viên thông". Định nghĩa theo văn tự:
"trần" có nghĩa là nhiễm ô, nhưng nó chỉ nhiễm
ô khi nó tác động vào lục căn của con người chưa tự chủ. Cho
nên định nghĩa "trần" qua nghĩa nhiễm ô là định
nghĩa đứng bên "tục đế", duyên sanh hiện tượng. Với
nhãn quan của những bậc giác ngộ có khả năng tự chủ mà nhìn
thì trần vẫn là một hiện tượng biểu hiện phát xuất
từ Như Lai tàng thanh tịnh, có tội lỗi gì đâu !
Bằng nhận thức khách quan, ai cũng có thể thấy biết:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đã làm gì nên tội ? Nên tội là
do con người. Con người đam mê trần với tâm động hắc ám với
khát vọng điên cuồng đánh mất đi lý trí. Lý trí mà còn đánh
mất thì "chân tâm thường trú" đối với hạng
người này, có tìm đi nữa cũng là kẻ: đáy nước mò trăng.
Sự thành công của các A La Hớn là khéo vận dụng
các tri kiến: Như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh
pháp tướng để làm cơ sở giác ngộ giải thoát cho mình.
Có câu rằng:
"Trần chẳng tương quan, biển cả nương dâu mặc thay
đổi.
Tâm không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui
nhàn".
7. DO NHÃN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông A Nan Luật Đà đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Lúc tôi mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ
li bì. Như Lai quở tôi là loại súc sanh. Nghe lời quở của Phật,
tôi thầm khóc, tủi hổ và tự trách mình. Tôi cương quyết thề
không ngủ và tôi thức suốt bảy ngày đêm. Hai con mắt tôi bệnh
và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi pháp: Lạc kiến chiếu
minh kim cang tam muội. Sau khi được tam muội, tôi thấy suốt hiện
tượng trong mười phương như trái chanh trái quít để trên bàn tay.
Như Lai ấn chứng cho tôi quả A La Hớn. Nay Phật hỏi nguyên nhơn nào
được viên thông, xin thưa: Theo chỗ tâm đắc của tôi
là Xoay tánh thấy của nhãn căn trở về bản thể thanh
tịnh bản nhiên là ưu việt nhất.
8. DO TỶ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Châu Lợi Bàn Đặc đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật: rằng tôi vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ
đa văn. Khi mới gặp Phật, tôi xin xuất gia nghe học pháp Phật tôi
cố nhớ một bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Tôi gắng
học suốt cả một trăm ngày, nhớ đoạn trước thì quên câu sau;
nhớ đoạn sau lại quên câu trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy
tôi ở một nơi yên tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra
vào. Bấy giờ tôi vận dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ
thô đến vi tế, từng sát na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở
thành bốn thời kỳ: Hít vô gọi là sanh. Đầy hơi gọi
là trụ. Thở ra gọi là dị. Mãn hơi gọi là diệt.
Thực hiện một thời gian, tâm tôi bừng sáng rỗng rang được đại
vô ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A La Hớn. Trước pháp tòa,
Phật ấn chứng cho tôi thành quả vô học. Nay Phật hỏi viên
thông, theo chỗ sở hành của tôi: Tập trung tư tưởng xoay vào
quán hơi thở ra vào minh bạch, là pháp hành hiệu quả nhất.
9. DO THIỆT CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật: Rằng tôi mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều
đời phải tật nhơi mãi như trâu. Như Lai thương, dạy cho tôi pháp: Nhất
vị thanh tịnh tâm địa. Nhờ đó tôi diệt phân biệt, được
tam ma đề. Tôi quán chiếu rằng: Tánh biết vị không phải do thân
thể, cũng không phải do ở ngoại vật. Do đó, trong thì thân tâm
giải thoát; ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi như chim
sổ lồng; cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp
nhãn thanh tịnh, được quả A La Hớn. Như Lai ấn chứng cho tôi lên
hàng vô học. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông,
xin thưa: Theo tôi thì: trả vị về cho phân biệt của thiệt
căn là ưu việt nhất.
10. DO THÂN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật rằng: Lúc tôi mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường
nghe Phật dạy: "Cuộc đời chẳng có gì vui". Đang khi đi khất
thực, vừa đi vừa tư duy lời Phật, bỗng dưng tôi đạp phải cái
gai độc. Cả mình đều đau đớn. Trong lúc đau đớn, tôi quán chiếu
tư duy: Giác tâm thanh tịnh vốn không có cái đau và cái biết đau !
Một thân thể lẽ đâu lại có hai tánh biết ! Nhiếp niệm không bao
lâu thân tâm bỗng nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau,
các lậu hoặc được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên hàng
vô học chứng A La Hớn quả. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên
thông, xin thưa, đối với tôi: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân
căn là thành công dễ nhất.
11. DO Ý CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật
rằng: Từ nhiều kiếp đến nay, tôi vẫn được tâm vô ngại
thường trú nơi không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương
đối với tôi trở thành "chân không hóa" chẳng chút vương
víu buộc ràng. Như Lai phát minh tánh giác là chân không; tôi tư duy
thể nhập: Bảo minh không hải tam muội, tri kiến đồng như
Phật. Tôi được Phật ấn chứng lên hàng vô học A La Hớn. Nay
Phật hỏi nhơn duyên được viên thông, theo chỗ chứng
ngộ của tôi: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng
đối tượng cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng
như thật của nó: "Có mà thật chẳng có gì",
đối với tôi, đó là phương tiện chinh phục ý căn
hữu hiệu nhất.
*
* *
TRỰC CHỈ
Căn sở dĩ là căn vì sáu cơ quan này
ví như gốc rễ để rồi từ đó sanh ra nhánh nhóc chồi tược vô
minh lậu hoặc, gây ra khổ đau cho cuộc sống con người. Đó là cách
định nghĩa trên mặt tục đế trên hiện tượng tùy duyên của vạn
pháp. Nếu nhìn bên góc cạnh khác, người ta thấy căn
chỉ là một dạng vật chất, phát xuất từ tứ đại duyên sanh như
vô vàn hiện tượng duyên sanh khác. Điều mà ai cũng biết: Vật
chất biểu hiện vô vàn hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng không
có cái thứ vật chất nào làm cho con người nên tội. Cũng như
thế, trần là hiện tượng thu gọn, tổng kết vật chất qua sáu dạng:
sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp trong cái từ lục trần,
thì đã có thứ nào làm nên tội lỗi cho ai ? Cho nên ta kết luận
rõ ràng rằng căn cũng như trần đều không
phải là nguyên nhân gây nên tội lỗi. Chẳng những thế mà còn
ngược lại: Căn trần đều là những dữ kiện để đạt
đạo thành tựu viên thông. Thể nhập sâu sắc tự đáy
nguồn chơn lý đó. Lục Tổ Huệ Năng thốt ra bài kệ bất hủ trong
các chốn tòng lâm kim cổ:
"Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Kháp như cầu thố giác"
Với người giỏi làm kinh tế, họ nhìn ao, hồ,
sông, bãi đất hoang họ cũng thấy tiền là tiền, và trong những
chỗ đó họ làm ra tiền được. Một lương y thượng hạng với
đám cỏ dại mà họ dẫm qua, lá hoa lùm bụi mà họ luồn lách đi
vào, trong đó, dưới mắt họ vô vàn diệu dược có thể cải tử
hoàn sanh cho những con bệnh đang nằm bên đó mà khổ, mà đau rên
siết.
Người học Phật không được quên vấn đề đơn
giản mà ý nghĩa báu mầu vô giá này: "Hàng độc giác nhị
thừa tư duy quán xét cảnh hoa rơi, trái rụng, lá úa cành khô mà
đạt đạo" đấy !
Phản quán sáu căn nội tại, thành A La Hớn quả,
chứng được viên thông rõ ràng không phải là việc
khó hiểu xa vời. Người có tư duy, muốn đi và khởi sự đi trên
con đường giải thoát, nhất định sẽ đến đích Niết bàn Bồ đề
vô thượng.
12. DO NHÃN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của tôi
thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát
sông Hằng. Do vậy mà các pháp biến hóa thế gian, xuất thế gian một
khi thấy là tôi nhận thức không xa chân lý, được vô chướng
ngại. Trong lần gặp gỡ giữa đường, anh em ông Ca Diếp dụng ý theo
tôi để thuyết pháp. Các ông nói cho tôi nghe về giáo lý nhân
duyên sâu xa của Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, tôi được tỏ
ngộ; nhận thức được rằng: "Tâm không ngằn mé".
Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí tuệ sáng suốt ngày càng viên mãn,
được đại vô úy, thành A La Hớn quả, trưởng tử Phật. Nay Phật
hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông, xin thưa: Theo chỗ
chứng đắc của tôi thì sự nhận thấy rõ ràng, nhận thức đánh
giá chính xác đúng như thực của sự vật hiện tượng là thành
công ưu việt nhất.
13. DO NHĨ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Bồ tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Rằng tôi đã từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều
như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ
Tát tu hạnh Phổ Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn của tôi
mà đặt ra cái tên Phổ Hiền Hạnh.
Bạch Thế Tôn ! Tôi sử dụng tánh nghe của tâm mà
nhận biết nguyện vọng của chúng sanh, nếu có chúng sanh phát hạnh
Phổ Hiền. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa
thế giới, có chúng sanh phát hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy,
tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ người ấy.
Phỏng sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy được tôi,
tôi cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện thành
tựu. Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, tôi
xin thưa: Sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại,
đối với tôi là pháp môn ưu việt nhất.
14. DO TỶ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính chấp tay
thưa với Phật: Lúc tôi mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu
tam ma đề, tâm thường tán loạn. Đức Thế Tôn dạy tôi quán
điểm trắng ở chót mũi. Tôi bắt đầu thực hành, trải qua thời
gian hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói; thân
tâm trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không còn, tâm
tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A La Hớn. Thế
Tôn thụ ký cho tôi thành quả Bồ đề. Nay Phật hỏi sở nhân
được viên thông, xin thưa: Đối với tôi tập trung ý
niệm, quán hơi thở và điểm trắng ở tỷ căn là thành
tựu hữu hiệu nhất.
15. DO THIỆT THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Tôi từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại,
tuyên thuyết các pháp: khổ, không, hiểu sâu thật tướng: cho đến
những pháp môn bí mật như hằng sa của Như Lai, tôi có thể diễn
giảng trước đại chúng không hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế
Tôn biết tôi có đại biện tài, dạy tôi tuyên dương chánh pháp,
giúp Phật chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói chánh pháp mà
được quả A La Hớn. Thế Tôn ấn chứng cho tôi là: "thuyết
pháp đệ nhất". Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên thông,
xin thưa: Tôi dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại, tiêu trừ hoặc
lậu là ưu việt nhất.
16. DO THÂN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ưu Ba Ly đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật:
Rằng chính tôi theo Phật vượt thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai sáu
năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo,
giải thoát các lậu thế gian. Phật dạy tôi trì giới, giữ gìn tánh
nghiệp, giá nghiệp của thân miệng, ý, giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám
vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm tịch tịnh thành quả A La Hớn. Nay
làm kỷ cương trong đại chúng, Như Lai ấn chứng tôi là "trì
luật đệ nhất". Hôm nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Đối với tôi do giữ gìn thân
được thanh tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh theo. Đó
là phương pháp uốn dẹp tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất.
17. DO Ý THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật: Rằng lúc nọ tôi đi khất thực giữa đường được ba
anh em ông Ca Diếp: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia và Na Đề giảng nói
lý nhân duyên thậm thâm của Phật, tâm tôi bừng ngộ thông suốt
rỗng rang. Như Lai ban cho ca sa mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Tôi
có khả năng du hí khắp mười phương không trở ngại. Đại chúng
suy tôn tôi là "thần thông đệ nhất", trong hàng vô học A La
Hớn. Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức
trở về tánh sáng suốt trạm nhiên. Giống như lóng nước đục,
lóng nước lâu trở về tự thể trong sạch. Đó là phương tiện tu
sửa đối với tôi hữu hiệu nhất.
*
* *
TRỰC CHỈ
Thức là dụng của căn, là chủ thể
nhận thức phân biệt trần. Đó là tánh thấy của mắt,
tánh nghe của tai, tánh ngửi của mũi, tánh nếm của lưỡi, tánh
xúc của thân, tánh tư duy của ý. Gọi chung qua cái từ lục
thức, tức là sáu công dụng của sáu giác quan.
Năm thức trước tiếp xúc với năm trần sự
lượng định để nhận thức, chúng chỉ có hiện lượng.
Cho nên chúng chẳng lượng định phân biệt gì. Do đó công dụng của
năm thức trước không có ý niệm: mừng, giận, thương, sợ, yêu,
ghét
phải, quấy, tốt, xấu, lấy, bỏ, hơn, thua
cho nên năm
thức trước không thể tạo nên nghiệp thiện hay ác.
Chỉ có ý thức ngoài hiện lượng ra, còn có thêm hai
lượng: tỷ và phi lượng.
Năm thức trước, nếu chung khởi với phi
lượng của ý thức, sẽ gây ra sự sai quấy hoàn toàn đối
với chơn lý.
Năm thức trước nếu chung khởi với tỷ
lượng của ý thức thì sự nhận thức của con người có
thể đúng mà cũng có thể sai. Nhận thức đúng chơn lý, trường
hợp này được gọi là thiện. Nhận thức sai chân lý
thì gọi là bất thiện, là ác.
Từ nhận thức đó, ta thấy thức cũng
không phải là nguyên nhân để sanh ra thiện ác tội phước.
Tội là do bất giác vô minh, do mê.
Phước thì chỉ cần cảnh giác, cần sáng
suốt không mê là trở nên người giác. Cho nên gọi là
"tu" không cần phải dựa trên hình thức này, nghi lễ nọ,
cúng bái cầu đảo rườm rà. Chỉ cần cảnh giác phiền não: tham,
sân, si, mạn
Chỉ cần tâm trí sáng suốt để nhận biết: ta - bạn
- giặc. Đừng để kẻ giặc cướp vô minh phiền não vào nhà chơn
tâm thường trú, thể tánh tịnh minh cướp phá sự nghiệp trí
tuệ giác ngộ giải thoát của ta. Chỉ cần không mê thì ta là giác.
Chỉ cần không vọng, ta tự sẵn có chơn.
Tu mà chú trọng nhập thất, đóng cửa tự giam mình
lễ bái "trú dạ lục thời", nguyện tụng bộ kinh này, thệ
trì danh Phật nọ, hy vọng khấn vái chư Phật mười phương: "thùy
từ gia hộ": "gia hộ cho con hiện tiền tội diệt phước sanh,
thiện căn tăng trưởng", và "tha nhật đắc A Di Đà thọ
ký"
Đó là lối tu theo cái đạo cầu bên ngoài. Lục Tổ
Huệ Năng gọi hạng người đó là "ngoại đạo". Ngoại
đạo có nghĩa là cái đạo hy vọng ở tha nhân, cái đạo
"ngồi chờ sung rụng" vào mồm.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta, từ kim
khẩu đã từng thọ ký rằng:
"Tất cả chúng sanh đã thành Phật"
(kinh Pháp Hoa)
"Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật"
(kinh Hoa Nghiêm)
Thọ ký như vậy mà chưa vừa lòng, chưa thỏa mãn hay
sao ? Mà còn cầu:
"Tha nhật đắc A Di Đà thọ ký !
" Phật
tử chúng ta hãy soát lại lòng mình. Một con người tham lam vô độ,
có xứng đáng là đệ tử Phật chưa ? Hàng cư sĩ không có thời
giờ học hỏi giáo lý, tham lam cầu: "Tha nhật đắc A Di Đà thọ
ký" còn có lý do để tha thứ. Chớ Tăng Ni, người trưởng
tử Phật Thích Ca mà không tin lời thọ ký của đức
Bổn Sư mình, thì xin ai đó, hãy để lòng tự xét
Hay là người ta viện lẽ
"Phật nhà không thiêng
"
18. DO HỎA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Tôi nhớ những kiếp xa xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy
giờ nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Không Vương
Như Lai bảo rằng: "Người đa dâm như đống lửa hồng". Rồi
Phật dạy tôi quán hơi nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán
như vậy tinh thần sáng suốt, nội tâm đứng lặng, tâm háo dâm
trở thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật gọi tôi với cái tên
Hỏa Đầu. Tôi dùng sức hỏa quang tam muội mà chứng quả A La Hớn.
Tôi phát đại nguyện, nếu có chư Phật thành đạo thì tôi làm
lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn tà ma khuấy phá. Nay Phật
hỏi nhân duyên được viên thông, xin thưa rằng: Do tôi
quán hơi ấm trong thân, lưu thông không ngăn ngại; từ đó các lậu
tiêu trừ, sanh lửa trí tuệ. Đối với tôi, đó là pháp tu hữu
hiệu nhất.
19. DO ĐỊA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Trì Địa Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật: Rằng tôi nhớ lại trong những kiếp xa xưa, tôi từng
được gặp Phật và cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng
từng phục vụ vô lượng chúng sanh đem đến chúng sanh nhiều lợi
lạc. Trong một kiếp nọ, ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế, tôi
là một tỳ kheo phát tâm sửa chữa những đoạn đường gồ ghề
sụp lở, những bến xe, bến đò bất tiện cho sự đi lại của nhiều
người. Ngoài những công trình gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa
chữa như vậy, tôi còn mang gánh giúp đỡ những người gánh gồng
nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy tiền công.
Vào thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân gian nhiều
đói kém, tôi phải cỏng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ
lấy một đồng tiền
có lúc tôi ra sức kéo phụ xe trâu qua
những nơi quá lầy lội. Có lúc vì Phật tôi sửa đường bằng
phẳng đợi Phật đi hóa trai.
Một hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua đoạn đường
tôi vừa sửa chữa. Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng: "Nên bình
cái tâm địa thì đất đai trên thế giới đều bình". Tôi nghe,
tâm liền sáng bừng tỏ ngộ. Tôi quán thấy vi trần trong cơ thể
cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới bên ngoài không sai khác
gì nhau. Tự tánh vi trần không chạm sát với nhau, cho đến đao binh
các thứ tự nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy,
tôi tỏ ngộ vô sanh nhẫn, thành A La Hớn hồi tâm. Nay ở trong hàng
Bồ Tát nghe Phật dạy: Tri kiến Phật như diệu liên hoa,
tôi lãnh hội trước tiên, đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay
Phật hỏi nguyên do đạt đến viên thông, xin thưa: Do tôi
quán trần ở nội thân và trần cấu của thế giới bên ngoài bình
đẳng không sai khác. Tất cả từ Như Lai tàng tùy duyên biến hiện.
Vọng tâm chấp mắc trần tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn
thành đạo Bồ Đề. Đó là đối tượng sở quán, đối với tôi
đem lại thành công ưu việt nhất.
20. DO THỦY ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ hằng sa kiếp trước có đức Phật ra
đời hiệu Thủy Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ Tát nên quán
về nước để nhập tam ma đề. Phật dạy quán tánh nước
không gì lấn cướp làm cho mất hẳn được. Từ nước mắt, nước
mũi, nước miếng, nước tiểu, nước tân dịch trong châu thân
đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh nước trong tự thân
cùng tánh nước các bể hương thủy phù trần vương sát của thế
giới bên ngoài, đồng nhau không sai khác. Lúc tôi thành tựu pháp
thủy quán này, tôi chỉ thấy được tánh đồng của nước mà chưa
thấy được "thân không". Hồi bấy giờ, tôi là một tỳ
kheo tọa thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa
sổ nhìn vào, thấy toàn là nước. Vì nhỏ dại nó liền lấy một
miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất định tôi thấy tim đau
một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, tôi bảo người đệ
tử: Khi tôi nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào
nhặt miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định,
tôi không còn đau đớn nữa.
Qua vô lượng kiếp sau tôi được gặp vô lượng
Phật, nhưng chưa chứng ngộ. Mãi đến thời Sơn hải Huệ Tự Tại
Thông Vương Như Lai thì tôi mới chứng được "không thân".
Bây giờ tôi thấy rõ nước trong tự thân cùng với nước bể
Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng một tánh chân không,
không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại, tôi được
hiện là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nguyên
nhân được viên thông, xin thưa: Do tôi quán tánh nước
dung thông mà được vô sanh nhẫn. Đối với tôi, pháp Thủy
quán là ưu việt nhất.
21. DO PHONG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra
đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Phật khai thị cho các Bồ Tát về: Bản
giác diệu minh. Dạy các Bồ Tát quán: Thế giới và chúng sanh
đều do sự vận động của sức gió vọng duyên chuyển
biến mà hình thành. Riêng tôi, lúc bấy giờ, tôi quán không gian an
lập; quán thời gian trôi đi mãi; quán thân, khi động khi dừng;
quán tâm, niệm trước diệt, niệm sau sanh
Tất cả những chuyển
động biến diệt, tôi thấy không hai không khác. Tôi nhận thức rõ
rằng tánh của các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ
tới. Tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới có trong
pháp giới mười phương do sức gió vọng duyên mà hình
thành, mà sanh hoạt với nhau trong tánh bản giác diệu minh, chân
tâm minh diệu. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ
đựng, kêu vo vo rầm rỉ, ào ào rối rít với nhau.
Tôi quán sát tư duy như vậy, không bao lâu, tôi
được vô sanh pháp nhẫn làm vị Pháp Vương tử. Nay Phật hỏi viên
thông, xin thưa: Do tôi quán tánh phong đại "đi
không chỗ từ, đến không chỗ tới" mà tỏ ngộ tâm Bồ Đề.
Đối với tôi thì quán phong đại là đệ nhất.
22. DO KHÔNG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Tôi nhớ lại tôi cùng Như Lai đồng chứng được
"vô biên thân" hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay tôi
cầm bốn đại bảo châu chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi
trần đều hóa thành hư không. Bấy giờ tâm tôi sáng suốt thành
trí Đại Viên Cảnh. Tôi quán sát khắp phù trần hương sát cùng
tột hư không, nhập vào thân tôi. Thân tôi và hư không không ngăn
ngại gì nhau. Do vậy, tôi khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như
vi trần làm Phật sự được thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn
đó do tôi quán sát tứ đại không có chỗ sở y. Do vọng tưởng
mà thấy có diệt có sanh. Hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do
tôi phát minh được tánh đồng mà chứng được vô sanh pháp
nhẫn. Nay Phật hỏi duyên nhơn nào được viên thông, xin
thưa: Do tôi quán chiếu hư không vô biên mà thể nhập tam
ma đề là phương tiện ưu việt nhất.
23. DO THỨC ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Di Lặc Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Tôi nhớ lại vi trần kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật
Nguyệt Đăng Minh. Tôi được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng
hư danh thế gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật Nguyệt
Đăng Minh dạy tôi tu tập định: Duy tâm thức và tôi
được nhập tam ma đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, tôi sử dụng
tam muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh, được diệt
hết. Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới chứng được
tam muội thức tâm diệu viên vô thượng. Bấy giờ tôi
quán thấy cõi nước của chư Như Lai, tột bờ mé hư không, tịnh
uế, có không đều do thức tâm biến hiện.
Bạch Thế Tôn ! Do tôi tỏ ngộ Duy tâm thức,
thức tánh của tôi xuất hiện vô lượng Như Lai, và hiện nay
được Phật thọ ký, tôi sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta
Bà sau này. Nay Phật hỏi nguyên nhân viên thông, xin thưa:
Tôi quán mười phương đều Duy thức. Thức tâm tròn sáng thì xa
lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể của tánh y tha khởi
thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô sanh nhẫn. Đối
với tôi đó là pháp quán ưu việt nhất.
24. DO KIẾN ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ
Tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô
Lượng Quang. Thời đó có 12 đức Phật ra đời trong một kiếp.
Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho tôi phép
niệm Phật tam muội: Rằng Thập phương Như Lai thương nhớ chúng sanh
như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì
đời đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sanh nhớ tưởng Phật
thì tâm ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện
nào khác. Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành
thơm, ấy gọi là hương quang trang nghhiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật
mà được vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta Bà, tôi nguyện hướng dẫn
người niệm Phật để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên
nào được viên thông, xin thưa: Tôi thu nhiếp tất cả
sáu căn không vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà được tam ma
đề đối với tôi đấy là pháp môn thù thắng nhất.
*
* *
TRỰC CHỈ
Đại có nghĩa là bao trùm phổ biến khắp không gian
và thời gian. Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Phật học
gọi đó là thất đại, vì bảy thứ này phổ biến không chỗ nào
không có. Không gian, thời gian, hàm tàng thất đại không dư không
thiếu; nói cách khác tự thể không gian, thời gian là thất đại
ấy. Nếu tách bỏ thất đại ra, không thể có khái niệm không gian
và thời gian. Do thất đại mà khái niệm không gian và thời gian
được cụ thể hóa, được hình thành. Thất đại là nguyên nhân
trực tiếp của hiện tượng vạn hữu, duyên khởi sanh ra hiện
tượng vạn hữu. Tuy nhiên nó chưa phải là một đơn vị thực thể
cố định bất di bất dịch, một yếu tố đầu tiên của hiện tượng
vạn hữu nào. Theo Phật học, không có một sự vật nào có một
thực thể cố định bất di bất dịch của tự nó. Không có một sự
vật nào sanh ra mà không kết hợp tương quan với những yếu tố
khác. Chỉ len đan thành chiếc áo len, nhưng chỉ len không phải là yếu
tố đầu tiên của chiếc áo len ấy. Địa, thủy, hỏa, phong, không,
kiến, thức là những hình thái của chủng tử được biểu hiện
rõ nét hơn trong Như Lai tàng bản thể mà thôi.
Nếu hòa hợp bởi năm đại: Địa, thủy, hỏa, phong
và không là đủ yếu tố duyên khởi ra núi sông, đất liền, cây
cỏ
trong vũ trụ.
Nếu hòa hợp đủ bảy đại thì sẽ duyên khởi sanh ra
những loại chúng sanh có tri giác trong vũ trụ.
Trong các loại hữu tình có giác tri, con người là ưu
việt nhất.
Núi sông đất liền cỏ cây hoa lá gọi là khí thế
gian hoặc cũng gọi là vô tình chúng sanh.
Những loài có tri giác gọi là chánh báo thế gian
cũng gọi là hữu tình chúng sanh.
Nhìn bên khí thế gian để tìm hiểu nguyên ủy của
hiện tượng vạn hữu, người ta gọi đó là vũ trụ quan.
Nhìn bên hữu tình thế gian để tìm hiểu nguồn gốc
nguyên thỉ của con người, người ta gọi đó là nhân sanh quan.
Qua giáo lý đoạn kinh Thủ Lăng Nghiêm này, ta thấy
vũ trụ nhân sanh đồng một bản thể. Như Lai tàng bản thể duyên sanh
hiện tượng vạn hữu như nước duyên khởi sóng mòi bọt bong bóng
vậy. Với cái nhìn của người đạt đạo, nhận thức rõ chân lý
của hiện tượng vạn pháp qua quy luật: tùy duyên bất biến, bất
biến tùy duyên; người ta tự tại an nhiên thoải mái cả trong vấn
đề sống chết:
"Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu".
Tuệ Trung thượng sĩ, một thiền sư Việt Nam đời
Trần, quan niệm sự sống chết dễ dàng, không chút sợ sệt, lo âu
như vậy. Tạm dịch hai câu thơ đó như sau:
"Cổ xe ảo ảnh trong không
Có ai tham đắm nặng lòng ước ao ?
Mặt hồ sóng bọt lao xao
Có ai đau khổ bọt tan sóng bình" ?
Do con người nhận thức sai lầm vạn hữu, đánh giá
quá thấp hoặc quá cao. Sự sai lầm đó, phủ lên hiện tượng vạn
hữu lớp sương mù "biến kế chấp" làm cho con người không
nhận được thực chất "y tha duyên" của hiện tượng vạn
hữu. Do đó càng không thể biết được nguồn gốc thanh tịnh bản
nhiên của "viên thành thật" trong bản thể Như Lai tàng. Do
đó vọng sanh quan niệm: Sanh, diệt, hữu, vô, đoạn, thường,
khứ, lai
loạn khởi.
Các Bồ Tát ngược dòng quán chiếu, thấy rõ sự
thật "y tha" dùng đuốc trí tuệ rọi tan sương mù "biến
kế", nhận chân cái thật tánh "viên thành" của thất
đại. Thì ra: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức vốn là chân
không thanh tịnh bản nhiên, châu biến pháp giới. Không có một pháp
nào mang theo, đem đến cho ai một mảy may vương víu một tí tị phiền
não khổ đau nào !
Do vậy, 25 vị thánh đệ tử, dựa trên căn trần,
thức và thất đại đều chứng được quả
giải thoát viên thông.
Tựa
tập I | Mục lục I | I. 1-2 | I. 3a | I. 3b | Tựa tập II | Mục lục II | II. 4 | II. 5 | II. 6