- Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ
Đề Cương
- Pháp Sư Thích Từ Thông
CHƯƠNG THỨ NHẤT
TỔNG KHỞI
ĐỀ KINH
Thủ Lăng Nghiêm, Trung Hoa dịch: Nhất
Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố. Đó là tên một đại Thiền định.
Hành giả thành tựu được thứ Đại Thiền định này sẽ có sức
trí tuệ giác ngộ Cứu Cánh, một nghị lực Kiên Cố đối với hiện
tượng vạn hữu, với Nhất Thiết Sự trên cõi đời này.
Đề kinh nầy nói đầy đủ thì có 19
chử: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhơn, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ
Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm.
Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt qua
cái từ trọng tâm 19 chữ của đề kinh.
Đề kinh này gồm cả Nhơn, Pháp và
Dụ. Đại Phật Đảnh là dụ. Như Lai Mật Nhân là nhơn, Thủ Lăng
Nghiêm là Pháp vậy.
Định Thủ Lăng Nghiêm rất sâu
nhiệm, dùng tâm phan duyên thường tình mà nhận thức, thì khó mà
thể nhận được định nầy. Ví như đem nhục nhãn nhìn Phật đảnh
không sao thấy được trọn vẹn.
Tất cả Như Lai trong mười phương có
Bồ Đề Niết Bàn đều do thành tựu đại định Thủ Lăng Nghiêm.
Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân kín nhiệm của tất cả Như Lai, cho
nên gọi là Như Lai mật nhân. Nói một cách khác: Thành tựu định
nầy đồng nghĩa với thể nhập Phật tri kiến, Như Lai Viên Giác Diệu
Tâm.
Tu chứng định Thủ Lăng Nghiêm là tu
chứng liễu nghĩa khác với kinh điển dạy tu chứng bất liễu nghĩa
của Nhị thừa. Tu chứng ở đây là tu chứng đến Bảo sở, không
như sự tu chứng tạm nghỉ ở Hóa thành.
Thành tựu định Thủ Lăng Nghiêm
cũng tức là thành tựu vạn hạnh của chư Bồ Tát. Nói ngược
lại: Bồ Tát thể hiện lục độ vạn hạnh được viên mãn là khi
Bồ Tát đã có định Thủ Lăng Nghiêm.
Đối tượng cứu cánh của Kinh Thủ
Lăng Nghiêm là: Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh.
Công dụng của Thủ Lăng Nghiêm là
hàng phục phiền não trần lao để trở về Chơn Tâm Thường Trú,
Thể Tánh Tịnh Minh ấy.
Mục đích cứu cánh của Thủ Lăng
Nghiêm là giải thoát giác ngộ đưa con người từ phàm phu đến
địa vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hiểu rõ ý nghĩa của 19 chữ đề
kinh là đã nắm được cái tôn chỉ then chốt của toàn bộ kinh rồi
vậy.
NHƠN DUYÊN VÀ THỜI ĐIỂM PHẬT NÓI
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Tạng kinh và công trình kiết tập
tạng kinh là do ông A-Nan thực hiện. A-Nan là một thị giả tận tụy
luôn luôn thân cận tùy tùng Phật, cho nên được nghe tất cả kinh
Phật nói trong mọi thời gian. Ông có thiên tư xuất chúng, được
Phật khen là đệ nhất đa văn, ông cũng có một ký ức vượt
người thường, ghi nhớ trọn vẹn lời Phật không quên sót. Bốn
chữ: Tôi Nghe Như Vầy ở đầu mỗi bộ kinh là lời của ông
A-Nan ghi theo di chúc của Phật, nhằm xác minh sự trần thuật của mình,
rằng kinh nầy là chính ông nghe Phật nói, chớ không phải ông tự
ý đặt ra.
Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm tại
tịnh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt. Chúng tỳ kheo thường
tùy tùng Phật có 1.250 người đều là bậc vô lậu đại A-La-Hớn.
Đứng đầu trong chúng có các ông Đại Trí Xá Lợi Phật, Đại
Mục Kiền Liên, Đại Câu Si La, Phú Lâu Na, Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề
và ông Ưu Ba Ly. Ngoài ra còn có hàng Bích Chi Phật, Vô Học và
những hàng sơ tâm đồng đến chỗ Phật rất đông.
Bấy giờ vào những ngày mãn hạ
và tự tứ của chúng tăng, vì vậy Bồ Tát trong mười phương cũng
đến cầu Phật giải quyết những mối tâm nghi trên đường tu tập.
Đứng đầu số chúng Bồ Tát là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
Pháp Vương Tử.
Nhằm kết duyên với chúng sanh, làm
phước điền cho tín thí, trong những ngày nầy Phật và đại chúng
phải chia từng nhóm đi chứng trai ở các nhà thí chủ thỉnh mời.
Duy có ông A-Nan đã được mời riêng, đi xa chưa về nên không kịp
dự vào hàng tăng chúng.
Trên đường về một mình không có
thượng tọa cùng đi, ông A-Nan thứ lớp khất thực đúng phép hóa
trai, lòng những mong được một đàn việt cúng dường, không luận
giàu nghèo hèn, địa vị giai cấp mà chỉ nhằm làm ruộng phước cho
họ gieo hạt Bồ Đề, trồng cây Chánh giác ở tương lai. Ông không
muốn rơi vào ý niệm cực đoan mà ông Đại Ca Diếp và ông Tu Bồ
Đề từng bị Phật quở: Là Sa môn mà tâm không bình đẳng, còn
phân biệt
Xả phú thủ bần
Một bất trắc xảy đến không ngờ,
khi ông A-Nan đi qua nhà nàng Ma-Đăng-Già, một cô gái làng chơi.
Ma-Đăng-Già dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Satìcala bắt
ông vào phòng riêng dụng ý lẳng lơ, diễn trò má dựa vai kề,
nâng niu âu yếm, làm cho ông A-Nan gần mất giới thể.
Phật biết ông A-Nan đang mắc nạn
Ma-Đăng-Già đến hồi nguy cấp. Khác với mọi lần thọ trai xong ở
Hoàng Cung của vua Ba Tư Nặc, Phật liền trở về tịnh xá Kỳ Hoàn.
Sự kiện lạ thường nầy làm cho vua, quan, trưởng giả và cư sĩ
rất đông cùng theo Phật về tịnh xá, hy vọng được Phật dạy cho
những pháp yếu mới lạ nào chăng !
Bấy giờ tướng vô kiến đảnh của
Phật, phát ra một vầng sáng rực rỡ không gian trong ánh sáng báu
có đức Hóa Phật ngự tòa sen báu nghìn cánh, tuyên nói thần chú
Thủ Lăng Nghiêm.
"Án A Na Lệ. Tỳ Xá Đề. Bệ Ra
Bạt Xà Ra Đà Rị. Bàn Đà Bàn Đà Nễ. Bạt Xà Ra, Bàn Ni Phấn,
Hổ Hồng Độ Rô Ung Phấn, Tóa Bà Ha".
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù đem chú
đó diệt trừ tà chú của Ma-Đăng-Già. Đồng thời Bồ Tát Văn
Thù cũng đưa ông A-Nan và nàng Ma-Đăng-Già cùng về tịnh xá chỗ
Phật ở.
Ông A-Nan khóc lóc, trách mình:
Từ vô thỉ đến nay, chỉ khuyên lo học rộng nhớ nhiều, mà đạo
lực không tự cứu được mình, trong cơn vô minh bất giác
Ông
tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông pháp Chỉ, Quán và Thiền Na là
những phương tiện đầu tiên mà các Như Lai tu hành thành tựu Bồ
Đề, Niết Bàn của mười phương chư Phật.
Bấy giờ cùng có hằng hà sa Bồ
Tát, Bích Chi, Vô Học và Đại A La Hớn, những người hữu học,
đều ngồi chỗ của mình cùng yên lặng nghe lời Phật dạy.
- *
- * *
- TRỰC CHỈ
Phát tâm tu hành tìm đường giải
thoát giác ngộ, văn tư tu là điều rất cần, nhưng chỉ nếu có đa
văn, là một học giả thì không đủ đảm bảo an toàn khi vô minh
phiền não xâm phạm.
Tà pháp tuy có nguy hiểm, nhưng rồi
sẽ bị diệt vong. Chánh sẽ thắng tà. Ánh sáng sẽ quét sạch bóng
tối.
Tiên Phạm Thiện là tà chú của
đạo Satìcala, diệt trừ tà huyễn, Như Lai dùng Hóa
Phật của Vô thượng Chánh Biến Tri Giác nói chú Thủ Lăng
Nghiêm để diệt trừ. Đây là ý nghĩa: "Dĩ huyễn Tu huyễn"
"Tri huyễn tức ly" ở kinh Viên Giác, Phật dạy đồng với ý
ở đoạn kinh nầy.
Ma Đăng Già biểu trưng nhiều dục
vọng, nặng luyến ái đam mê. Đại Trí Văn Thù biểu trưng vô phân
biệt trí, thứ trí nhìn hiện tượng vạn pháp bằng cái tướng Như
Thị của chính nó. Đại Trí Văn Thù đem chú Thủ Lăng Nghiêm
hóa giải chú Tiên Phạm Thiên của Ma Đăng Già, có nghĩa là: Tình
cảm đen tối thì hãy đem lý trí rực sáng mà rọi vào. Sáng đến
thì tối phải đi.
Ông A-Nan gần mất giới thể,
nói lên hiện tượng bất giác vô minh chợt đến bất ngờ rất là
nguy hiểm. Đại Trí Văn Thù đem chú đến hóa giải được an toàn
cho ông A-Nan, điều đó có nghĩa là: Trí huệ sáng đến thì vô minh
tan đi. Giác sanh thì mê diệt.
Phật Thích Ca bất động, ngồi nơi
tịnh xá Kỳ Hoàn cùng đại chúng, chờ sự chiến thắng ma quân mà
không sử dụng sức lực và một thứ khí giới nào. Qua sự kiện
đó, người Phật tử phải học: Muốn phá yêu thuật, đánh đuổi ma
quân diệt giặc vô minh, phải sử dụng trí lực mà không dùng thể
lực, phải vận dụng tâm thanh tịnh mà không thể dùng sức lực
của bắp thịt chân tay để đối phó trong trường hợp này.
Do lẽ đó, nội dung kinh Thủ Lăng
Nghiêm rất quan trọng ở sự nhận thức:
Chơn Tâm Thường Trú, Thể
Tánh Tịnh Minh sẵn có trong tất cả mọi người.
Đọc học kinh Thủ Lăng Nghiêm mà
không lý giải, không nhận thức được vấn đề Chơn Tâm
Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh, cũng tức là không biết
được đại định Thủ Lăng Nghiêm là gì !
Tụng kinh giả minh Phật chi lý: Học
kinh cốt tìm hiểu trong đó Phật dạy những gì. Phật tử chúng ta
hãy ý thức mà lưu tâm.
CHƯƠNG THỨ HAI
GẠN HỎI CÁI TÂM
TÂM LÀ CĂN BẢN CỦA BỒ
ĐỀ NIẾT BÀN VÀ CŨNG LÀ CĂN BẢN CỦA LUÂN CHUYỂN SANH TỬ
Khi gạn hỏi cái tâm, lần đầu
tiên ông A-Nan thưa với Phật: Rằng tâm là sự hiểu biết của ông,
là cái sanh ra sự ưa thích và ham muốn ở trong ông. Như khi mắt ông
nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật và từ đó ông phát tâm xuất
gia theo Phật tu hành mong được xuất ly sanh tử
Nhằm để mở mang cho sự nghị luận,
khai thị thâm nghĩa Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật bảo:
- A-Nan ! Ông nên biết, hết thảy
chúng sanh vô thỉ đến nay sống chết tương tục đều do không biết
CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ, THỂ TÁNH TỊNH MINH, hàng ngày chỉ dùng các
vọng tưởng; mà vọng tưởng thì không chơn, vì vậy nên mới có
luân hồi.
- A-Nan ! Như lời ông nói: Do tâm và
con mắt mà có sự ưa muốn, nhưng nếu không biết tâm và con mắt
ở đâu thì không thể hàng phục trần lao, ví như ông vua một nước
bị giặc xâm lăng phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần phải biết
giặc ở chỗ nào mới mong dẹp được. Hiện nay ông còn mắc phải
luân hồi là lỗi tại tâm và con mắt của ông. Vậy ông hãy chín
chắn tìm xem tâm và con mắt của ông hiện ở chỗ nào ?
- *
- * *
- TRỰC CHỈ
Trước khi chỉ dạy phương pháp tu
CHỈ, QUÁN và THIỀN NA, theo lời thưa thỉnh của ông A-Nan, đức Phật
gạn hỏi về cái tâm. Gạn hỏi ông A-Nan, được xem như gạn hỏi
tất cả những ai có lòng sùng tín đức Phật, học tu theo nền giáo
lý Phật. Bởi vì mọi người sùng tín đạo Phật đều tôn trọng
cái tâm, mặc dù chưa được hiểu kỹ về nó. Người ta ngưỡng
vọng đặt trọn niềm tin ở tâm: Rằng "tội phúc do tâm; vui khổ
do tâm" Niết Bàn địa ngục do tâm
Đến như những người
chưa biết đạo Phật là gì, người ta vẫn quan niệm: Lương tâm,
lương tri là căn bản đạo đức của con người, nó không thể
không có trong cuộc sống của xã hội loài người.
Đối với nền giáo lý Phật, tâm
là vấn đề then chốt.
- Kinh tâm địa quán nói:
- "Trong tam giới, tâm là chủ
- Người hay quán tâm sẽ có giải thoát
- Người không quán tâm chắc chắn trầm luân
- Tâm chúng sanh cũng như đại địa
- Ngũ cốc ngũ quả từ đại địa sanh
- Tứ Thánh lục phàm đều do tâm sanh
- Cho nên gọi tâm là "tâm địa"."
-
-
- Kinh Hoa Nghiêm nói:
- "Nếu ai muốn rõ biết
- Ba đời mười phương Phật
- Nên quán tánh pháp giới
- Tất cả do tâm tạo
- Tâm như chàng họa sĩ
- Vẽ hết thảy ngũ ấm
- Tất cả pháp thế gian
- Không pháp nào không tạo
- Tâm và Phật cũng thế
- Phật, chúng sanh cũng vậy
- Tâm, Phật và chúng sanh
- Tên thì ba mà thể thì một."
Thực vậy, tâm là một vấn đề
không đơn giản. Không như cái hiểu thông thường của nhiều người
quan niệm. Nếu không phải đệ tử Phật dùi mài trong giáo lý,
thiền quán để tư duy thì người ta khó có thể hiểu được thế
nào là:
- Chân tâm
- Vọng tâm
- Tích tập tâm
- Tập khởi tâm
- Duyên lự tâm
- Tích tụ tinh yếu tâm
- Nhục đoàn tâm
- Tâm Vương
- Tâm Sở
Cho nên muốn hiểu đượcv tâm, cần
có quá trình học Phật và dụng công tu tập tư duy. Tâm là căn bản
của Bồ Đề, Niết Bàn nếu khéo vận dụng sống theo con đường
chánh pháp; trái lại tâm là nguồn gốc của luân hồi sanh tử; nếu
"đánh mất" hoặc không phát hiện được cái chơn tâm
thường trú sẵn có của mình.
Đạo Phật, cũng như nền giáo lý
Phật, xem trọng, rất trọng giá trị của tâm trong nghĩa tâm tánh của
con người. Muốn sử dụng tốt cái tâm đó cần phải dụng công tu
tập giới, định, tuệ để thân chứng. Nói đến sự tu tập phải
đúng chánh pháp, không khéo ý những mong vẻ cọp, nhưng kết quả
lại là con chó vện khẳng khiu ! Bởi vì người ta rất dễ lầm
tâm
Sự thấy nghe hiểu biết, sự ưa muốn, sự ghét thương
Những tác dụng tâm lý đó, nó không rời tâm, nhưng nó không
phải chơn tâm, nó là vọng tưởng, là cái bóng dáng còn sót lại
của tiền trần, của "ngũ câu ý thức" (là pháp trần vậy).
Người khéo biết tu tập sẽ có
được chân tâm thường trú hiện ở cõi đời nầy. Phật chỉ là
một người, nhưng có khác với nhiều người ở chỗ: Phật sống
bằng chơn tâm thường trú ấy. Thế cho nên biết rằng: Chân tâm
thường trú không phải là cái gì xa rời thực tế. Nó là cái
dữ kiện căn bản đem lại sự giải thoát giác ngộ cho con người
khi người có biết sử dụng đến, phát hiện ra Chơn Tâm
Thường Trú Của Mình.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở
TRONG THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Không
riêng gì tôi mà tất cả mọi người trên thế gian đều cho cái tâm
hiểu biết ở trong thân, còn con mắt thì ở trên mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói rằng tâm
hiểu biết ở trong thân là không có lý. A-Nan ! Nay tôi hỏi ông:
Phỏng có chúng sanh nào ngồi trong giảng đường nầy mà không thấy
không biết Như Lai và đại chúng mà lại thấy biết mọi vật bên
ngoài giảng đường không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không thể có sự
việc như thế được. Nếu ngồi trong giảng đường, trước hết phải
thấy biết trong giảng đường, rồi sau nhìn ra cửa mới thấy biết
cảnh vật bên ngoài.
- Thật vậy, A-Nan ! Ở trong giảng
đường, trước hết phải thấy bên trong, nhìn ra cửa mới thấy
biết hoa lá vườn rừng, sự vật bên ngoài. Nhưng theo lời ông
nói: Cái tâm hiểu biết ở trong thân thì lẽ ra khi người bị bệnh
thổ huyết, cái tâm phải biết gốc bệnh xuất huyết do tỳ, phế hay
viêm loét dạ dày. Nầy, A-Nan ! Mọi người trên thế gian không một
ai biết được gốc bệnh của mình như vậy.
A-Nan ! Người ngồi trong giảng
đường mà không thấy biết Như Lai và đại chúng, lại thấy biết
mọi việc bên ngoài đã là vô lý thì cái tâm hiểu biết ở trong
thân mà không hiểu biết thương tật của tâm cang tỳ phế thận, lại
biết rõ hết trần cảnh bên ngoài, hai sự kiện này đều vô lý
như nhau !
Thế cho nên ông nói Tâm Ở Trong
Thân là không đúng lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở NGOÀI THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Vừa
nghe lời Phật dạy, tôi nghĩ ra rằng: Tâm tôi thiệt ở ngoài thân.
Bởi vì tất cả mọi người không ai thấy biết bên trong thân, ví
như ngọn đèn để ở ngoài phòng thì chỉ sáng bên ngoài mà không
thể sáng bên trong phòng được. Bạch Thế Tôn ! Nghĩa nầy thật quá
rõ ràng chắc không còn lầm nữa !
Phật bảo: A-Nan ! Vừa rồi tôi và
đại chúng cùng đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về
rừng Kỳ Đà. Vậy ông hãy xem trong các hàng tỳ kheo, khi một
người ăn, các người khác có no không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Dù các tỳ
kheo là A La Hớn, nhưng thân thể khác nhau, không thể người nầy ăn
mà người khác no được.
- Cũng vậy, A-Nan ! Nếu cái tâm hiểu
biết của ông ở ngoài thân thì thân và tâm riêng cách, tất
không dính líu gì nhau. Vậy cái gì tâm biết thì thân không thể
biết, cái gì thân biết thì tâm không thể biết. Thế mà, này A-Nan !
Khi tôi đưa tay tôi lên cho ông xem, mắt ông vừa thấy thì tâm ông
liền biết. Thân tâm biết cùng một lúc với nhau, thì sao lại bảo
là tâm ở ngoài thân cho được.
Vậy nên biết rằng: Ông nói tâm
hiểu biết ở ngoài thân, hẳn là không phải vậy.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM NÚP
SAU CON MẮT
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Như
lời Phật dạy: Vì không biết trong, cho nên tâm không phải ở trong
thân. Vì thân tâm cùng biết nên không phải tâm ở ngoài thân. Nay
tôi suy nghĩ: Cái tâm hiểu biết đã không biết bên trong mà lại
nhận biết rõ sự vật bên ngoài, vậy là nó núp sau con mắt, ví
như người lấy chén thủy tinh úp vào hai con mắt, con mắt dù có
vật úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự thấy. Và vì tâm núp
sau con mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền phân biệt. Sở dĩ tâm
không biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở trong thân; nhưng tâm
lại nhận biết cảnh vật bên ngoài, vì nó ở trên cái mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nên nhớ rằng:
Con mắt núp sau chén thủy tinh như lời ông nói, thì khi ông trông
thấy núi sông cảnh vật, đồng thời cũng trông thấy chén thủy
tinh. Nếu tâm núp sau con mắt, thì khi nhận thấy núi sông cảnh vật
lúc đó cũng phải nhận thấy con mắt. Nầy, A-Nan ! Thực tế không
phải vậy, khi ông nhận biết núi sông cảnh vật, tâm ông không
nhận biết được con mắt của ông.
Do đó, biết rằng: Ông nói cái tâm
núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh là không hợp lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG NHẮM MẮT THẤY TỐI
LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Giờ
đây tôi suy nghĩ thế nầy: Thân thể con người trong có ngũ tạng
lục phủ, ngoài có thất khiếu cửu huyệt. Tạng phủ có tánh che
ngăn nên tối, khiếu huyệt có tánh rỗng không nên sáng. Nay tôi xin
thưa với Phật rằng: Nhắm mắt thấy tối, tôi gọi là tâm thấy
biết bên trong thân; mở mắt thấy sáng, gọi là tâm thấy biết bên
ngoài.
Phật bảo: A-Nan ! Đã gọi là thấy
thì cái bị thấy phải "đối" ở trước mắt. Không
"đối" trước mắt thì cái nghĩa thấy không còn.
Nếu cái tối đã đối trước mắt
mà cứ cho là thấy biết trong thân, vậy khi ở trong một phòng tối,
không có ánh sáng, bấy giờ cái gì có ở trong phòng tối ấy
đều là tạng phủ của ông cả hay sao ?
Vả lại khi nhắm mắt thấy tối, ông
cho là thấy bên trong thân, vậy khi mở mắt thấy sáng, sao ông không
thấy cái mặt ?
Đã không thấy mặt thì không thể
nói con mắt đối vào trong mà thấy. Còn như thấy được mặt thì
cái tâm và con mắt ắt đã lơ lững giữa hư không rồi, còn tương
quan gì đến ông nữa ?
Vậy nên biết rằng: Nhắm mắt thấy
tối là thấy trong thân, chỉ là một ngụy thuyết không thành lập
được.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG SỰ SUY NGHĨ HỢP
VỚI CHỖ NÀO THÌ TÂM LIỀN CÓ Ở CHỖ ĐÓ
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi
thường nghe Phật dạy tứ chúng: Rằng tâm sanh nên các pháp sanh,
các pháp sanh nên tâm sanh. Nay tôi suy nghĩ thì sự suy nghĩ đó là
tâm của tôi. Nó hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó,
nó không ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông cho sự suy nghĩ
là tâm, sự suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm liền ở chỗ đó. Nay tôi
hỏi ông: Cái tâm có suy nghĩ hòa hợp sanh ra, vậy nó có tự thể
hay không ? Nếu nó không tự thể thì không thể hợp được với
cái gì. Cũng như giới thứ 19 và trần thứ 7 thì làm gì có chuyện
hợp nhau ? Bảo rằng nó có tự thể, vậy ông thử thí nghiệm: Lấy
tay gãi vai, rồi để ý xem cái tâm "biết đã ngứa", nó
từ trong thân ông ra hay từ bên ngoài chạy vào ? Nếu từ trong
thân ra thì nó phải biết ngũ tạng lục phủ trong thân ông, nếu từ
ngoài vào thì trước hết nó phải thấy biết cái mặt.
Vả lại, tự thể ấy là một hay là
nhiều ? Nó khắp thân hay chẳng khắp thân ?
Nếu tự thể có một, khi lấy tay
gãi một chỗ, lẽ ra khắp mình đều đã ngứa. Nếu biết đã ngứa
khắp mình thì lại không còn biết gãi chỗ nào ! Còn như nhiều tự
thể thì hóa ra của nhiều người, còn biết tự thể nào là thể
của ông ?
Bảo rằng tự thể khắp mình thì
không còn biết được chỗ gãi
Bảo rằng không khắp mình, tại sao khi
đầu chạm xà nhà, dưới chân đạp đinh lại cùng một lúc biết
đau ?
Do vậy, bảo rằng: Sự suy nghĩ hợp
chỗ nào, tâm ở chỗ đó là không có lý,
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở
CHẶNG GIỮA
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi
nhớ lại có lần nghe Phật dạy Bồ Tát Văn Thù về nghĩa thật
tướng: Rằng tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Nay tôi suy
nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không biết bên trong, tâm nếu
ở ngoài thân sao thân tâm đồng biết. Tâm không biết bên trong
nên không thể nói trong thân. Thân và tâm đồng biết nên không
thể nói tâm ở ngoài thân. Do lẽ đó, tôi phát minh rằng: Tâm ở
chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói chặng
giữa, thật khó mà nêu một chặng giữa nhất định. Giữa thân hay
giữa cảnh ? Nếu giữa thân thì đồng như tâm ở trong thân. Bảo
rằng: giữa cảnh thì làm sao nêu cái giữa ra được ? Ví như có
người lấy một cành cây cắm nêu làm một chỗ giữa, nhưng giữa
thế nào được ? Nếu người đứng ở phương Đông thì thấy cây
nêu ở phía Tây; đứng ở phương Nam lại thấy cây nêu thuộc về
hướng Bắc. Cái giữa đã lẫn lộn như thế, thì cái tâm ở chặng
giữa rắc rối bời rời thì làm thế nào nhận biết được sự
vật cho chính xác ?
Ông A-Nan thưa: Tôi nói chặng giữa
là giữa nhãn căn và sắc trần, nhãn thức sanh ra ở chặng giữa
ấy.
Phật bảo: Nếu tâm ông ở giữa
nhãn căn và sắc trần, vậy cái tâm giữa ấy có gồm cả hai hay
không gồm cả hai ? Nếu gồm cả hai thì vật và tâm xen lộn lẫn nhau,
còn biết cái gì là tâm cái gì là vật ? Và đã lộn lạo với
nhau thì không có cái giữa. Còn như không gồm cả hai bên thì là
một. Đã là một bên thì cái chặng giữa ông định đặt nó vào
đâu ?
Vì vậy, biết rằng: Ông nói tâm ở
chặng giữa là một điều không hợp lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM LÀ CÁI KHÔNG
DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi
nhớ trước đây có lần Phật chuyển pháp luân cùng bốn đại đệ
tử: Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất, khi
đó Phật dạy: Cái tâm tánh hiểu biết nó không ở trong, không ở
ngoài, không có chặng giữa và không chỗ trụ, tất cả không dính
dáng.
Bạch Thế Tôn ! Nay tôi lấy cái
không dính dáng ấy gọi là tâm có được không ?
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói cái tâm
hiểu biết của ông không dính dáng, vậy tôi hỏi ông: Biển cả,
đất liền, núi rừng, hoa, cỏ
nói chung mọi sự vật hiện
tượng trên thế gian mà ông cho là không dính dáng, chúng có hay
là không có ? Nếu chúng là không, thì ông khỏi đề cập: Rằng
dính dáng hay không dính dáng. Bởi vì có ai dính với chuyện lông
rùa sừng thỏ bao giờ ! Nếu đã có cái "không dính dáng"
thì không thể nói sự vật hiện tượng là không. Đã không phải
không thì có tướng. Đã có tướng thì có dính dáng, làm sao
không dính dáng được ?
Vậy nên biết rằng: Ông nói cái
không dính dáng là tâm, lại càng không hợp lý.
- *
- * *
- TRỰC CHỈ
Cho rằng tâm ở trong thân, đó là
sự hiểu biết thông thường mọi người cùng hiểu giản đơn như
vậy. Cho rằng tâm ở ngoài thân là một ý nghĩ táo bạo lạ
thường chẳng mất ai đồng tình, còn có thể bị cho là ngờ nghệch !
Cho rằng tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh
Rằng tâm bị tạng phủ che thì tối, khiếu huyệt mở thì sáng
thực chất là chủ trương tâm ở trong thân bằng hình thức lý
luận khác. Bảo rằng cái suy nghĩ là tâm, thực chất là trở lại
chấp: Tâm ở ngoài thân vậy. Rằng tâm ở chặng giữa điều này
nói lên sự bí lối, chạy càng !
Bảo rằng: Tâm là cái không
dính dáng, càng chứng tỏ lý cùng trí kiệt, chỉ hy vọng chút ánh
sáng mơ màng ở cuối đường hầm lý giải.
Ông A Nan được Phật khen là đa văn
đệ nhất, vậy mà qua bảy chỗ gạn hỏi cái tâm, lý đã cùng, trí
đã kiệt, vẫn chưa xác định được tâm là cái gì và hiện ở
đâu. Là đệ tử Phật, ai nghe mà chẳng băn khoăn soát lại tâm
mình, ai mà chẳng quạt tim mọc óc.
Thật vậy, thuyền đi thì thấy bờ
chạy, mây bay người ta thấy trăng xê dịch, mắt giật nhìn mặt
nước thấy rung rinh. Thuyền chưa đậu, mây chưa tan, mắt chưa hết
giật mà muốn cho bờ đừng chạy, trăng đừng xê dịch, mặt nước
đừng rung rinh, hãy còn không thể được, huống hồ đem cái ý
thức sanh diệt vọng tưởng, bóng dáng tiền trần mà suy lường
thường trú chơn tâm, thì làm sao hội nhập được ư ?
Ông A Nan luận tâm sai lầm là phải,
vì ông chưa tu học Xa ma tha
cho nên nông nổi, vướng vào tà
thuật của Ma Đăng Già. Còn Phật tử chúng ta, không chuyên cần
học hỏi giáo lý, chẳng dụng ý tinh tấn tư duy mà thích luận đàm,
nầy tâm, kia vật, đây vọng, đó chơn của vấn đề vật tâm, thì
phỏng có nói
bậy đi nữa, tưởng cũng nên tha thứ, không có
gì đáng trách !
Cái kho tàng bí mật ! Thường trú
chơn tâm, đức Phật chưa vội mở cửa ở đây, cho nên ông A Nan
chưa sao hiểu được, mà phải nhiều lần tha thiết cầu xin Phật
chỉ dạy sau nầy. Bởi lẽ, một kiến thức về kỹ thuật khoa học,
trong môi trường sinh hoạt vật chất thế gian, muốn hiểu nó phải có
quá trình học hỏi, tư duy chuyên môn nghiên cứu. Ở đây ngoài
điều kiện văn tư ra, còn đòi hỏi nhiều ở vấn đề thể nghiệm,
tu tập, thực hành, trong lãnh vực tu chứng của đạo Phật nữa.
Cái tâm mà ông A Nan thưa trình lên
Phật qua bảy chỗ; đó mới chỉ thuộc phạm vi ý thức mà thôi.
Đối với bát thức tâm vương, với thường trú chân tâm, còn
phải tiến lên những bước khá dài mới có cơ may gặp gỡ !
LUÂN HỒI SANH TỬ KHÔNG PHẢI LÀ
HIỆN TƯỢNG HỌA GỞI TAI BAY. BỒ ĐỀ NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI CẢNH
GIỚI SIÊU NHIÊN DO ĐẤNG SIÊU NHÂN NÀO BAN TẶNG
Phật bảo: A Nan ! Rằng tất cả chúng
sanh vô thỉ đến nay, điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên
gắn bó với nhau như chùm nho chen chúc trái. Những người tu hành
không thành vô thượng Bồ Đề mà lại thành ngoại đạo, chư
thiên, ma vương hoặc Thanh Văn, Duyên Giác đều do không biết hai thứ
căn bản cho nên tu tập sai lầm, chẳng khác nào nấu cát mong được
thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không
kết quả.
Những gì là hai thứ căn bản ?
Một, là căn bản sanh tử vô thỉ.
Như ông hiện nay và tất cả chúng sanh cũng thế, hằng ngày sử
dụng cái tâm phan duyên mà lầm cho là tự tánh của chính mình.
Hai, là căn bản Bồ Đề, Niết Bản
vô thỉ. Như ông hiện nay, cái tánh thanh tịnh bản minh vốn có, nó
nhậm vận tùy duyên, nhưng ông và tất cả chúng sanh lại bỏ sót
mất đi, cho nên tuy cả ngày sống ở trong tánh thanh tịnh bản minh mà
không hay không biết. Đành oan uổng lặn lội trong lục đạo chuyển
luân !
LẠI GẠN HỎI CÁI TÂM
Phật bảo: A Nan ! Ông muốn biết
đường tu Xa ma tha để ra khỏi sống chết, ông hãy trả lời tôi.
Phật liền đưa cánh tay co năm ngón
bảo A Nan rằng: Ông có thấy gì không?
Ông A Nan thưa: Tôi thấy Như Lai đưa
cánh tay và co ngón tay lại thành cái nắm tay, nó phản ánh tác
động vào tâm và con mắt của tôi. Tôi và đại chúng đều do con
mắt mà thấy.
Phật bảo: A Nan ! Ông trả lời với
tôi: Rằng: Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay, phản ánh tác động
vào tâm và con mắt của ông. Con mắt của ông thì thấy việc đó
tất nhiên. Còn ông lấy cái gì làm tâm để nhận biết cái nắm tay
tôi ?
- Bạch Thế Tôn: Như Lai gạn hỏi tâm
tôi, tôi dùng tâm suy nghĩ để trả lời Phật, thì rõ là cái suy
nghĩ ấy là tâm tôi vậy.
TÂM THÌ PHẢI CÓ THỂ TÁNH, KHÔNG
THỂ TÁNH KHÔNG PHẢI LÀ TÂM
Phật bảo: Sai rồi ! A Nan ! Cái suy
nghĩ ấy không phải là tâm của ông.
Trong dáng vẻ kinh ngạc, ông A Nan
đứng dậy chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Cái suy nghĩ ấy
không phải tâm tôi thì gọi nó là cái gì ?
Phật bảo: Đó là cái tưởng
tượng tướng hư vọng của tiền trần. Chính cái đó làm mê lầm
chân tánh của ông. Từ vô thỉ đến nay, ông nhận tên giặc ấy
làm con, bỏ mất tâm tánh bản lai thường trú, nên phải chịu luân
hồi.
Ông A Nan thưa: Tôi là em của Phật,
vì tâm yêu thương Phật nên mới xuất gia. Tôi cúng dường chư
Phật mười phương, phụng sự thiện tri thức, phát tâm đại dũng
mãnh, làm tất cả pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm ấy. Giả
sử có hủy báng Phật pháp, đoạn diệt thiện căn, bất tin tam bảo
cũng đều dùng đến cái tâm ấy. Nay Phật phát minh cái suy nghĩ đó
không phải là tâm, thì tôi thành ra không có tâm, như gỗ, như
đất. Bởi vì, ngoài cái suy nghĩ nhận biết ấy ra, tôi không còn
có gì nữa ! Sao Như Lai lại bảo cái đó không phải là tâm ? Tôi
kinh sợ quá ! Và cả đại chúng nầy không ai là không hoang mang dao
động ! Xin Phật rủ lòng từ chỉ dạy cho chúng tôi những điều chưa
liễu ngộ ?
Bấy giờ Thế Tôn rời sư tử tòa,
xoa đầu ông A Nan và bảo:
- Nầy A Nan ! Như Lai thường nói: Các
pháp sanh ra duy tâm biến hiện. Tâm là cái thể của tất cả thế
giới vi trần, của mọi nguyên nhân và kết quả
A Nan ! Tất cả hiện tượng có trong
thế giới, lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như lá cây ngọn cỏ
gạn xét căn nguyên đều có thể tánh. Cả đến hư không cũng còn
có tên và dáng mạo; huống chi cái tâm sáng suốt nhiệm mầu thanh
tịnh, thể tánh của sự vật mà tự mình không có thể tánh sao ?
Nếu ông quả quyết cho cái tính hay
biết, cái suy nghĩ phân biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy rời
sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó phải còn tính độc lập riêng của
nó tồn tại. Hiện giờ ông đang nghe tôi nói pháp, đó là nhân
tiếng mà có phân biệt. Nếu không tiếng thì sự phân biệt của
ông không còn. Giả sử diệt hết cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc,
biết, chỉ nắm giữ cái u nhàn lặng lẽ bên trong, thì đó cũng là
sự phân biệt bóng dáng pháp trần mà thôi.
A Nan ! Chẳng phải tôi bảo ông phủ
nhận cái tính tư duy phân biệt ấy không phải là tâm, nhưng ông
phải chín chắn suy nghĩ: Rời tiền trần mà vẫn có cái biết, thì
đó mới thật là tâm của ông. Còn nếu tính biết rời tiền trần
không còn tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền
trần. Tiền trần không phải thường còn, khi thay đổi diệt mất đi
rồi, thì cái tâm nương tiền trần ấy cũng đồng như lông rùa
sừng thỏ. Thế thì pháp thân của ông cũng thành đoạn diệt, còn
gì mà tu chứng vô sanh pháp nhẫn !
- *
- * *
- TRỰC CHỈ
Chúng sanh mà gọi là chúng sanh, sự
thật họ không phải là chúng sanh, Như Lai gọi chúng sanh vậy thôi.
Khi mê thì gọi chúng sanh, hết mê thì mọi người đều là Phật. Mê
thì vô minhh hiển, Phật chất ẩn. Giác thì Phật chất hiển vô minh
ẩn và tự hóa giải diệt vong.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn từ vô
thỉ chúng sanh nào cũng sẵn có. Thế mà chúng sanh mãi luân hồi
trong sanh tử khổ đau. Sự thật, luân hồi sanh tử không phải là
hiện tượng họa gởi tai bay mà là do sự vô minh bất giác của con
người chiêu cảm lấy, thông qua những bất thiện nghiệp của thân
khẩu ý của con người. Bồ Đề, Niết Bàn không phải cảnh giới
siêu nhiên do đấng siêu nhân nào ban tặng, mà nó sẽ hiện hữu khi
con người phải giũ sạch hành động bất giác vô minh sai trái ấy.
Con người hoàn toàn có khả năng cải tạo những tư tưởng hành
động của mình. Muốn được vậy phải tu học Thủ Lăng Nghiêm tam
muội để tạo điều kiện cho chân tâm thường trú sẵn có hiện ra.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn cũng như
căn bản luân hồi sanh tử, vốn không phải là cảnh giới khổ vui
cố định do ai đó tạo ra, để khi sử dụng uy quyền, tùy hứng
thưởng cho chúng sanh nào trông thấy dễ thương và phạt những
chúng sanh nào nhìn qua mà lòng mình không hạp nhãn.
Nền giáo lý trác tuyệt thượng
thừa đã phát hiện:
-
"Thật tánh vô minh là Phật tánh
- Ảo hóa thân nầy tức pháp thân
- Pháp thân nhận rõ không vương chấp
- Phật tánh chơn thường lộ bản nguyên
- Ngũ uẩn mây thưa chi để dạ
- Bọt bèo tam độc bận lòng chi
"
- (Vô minh thật tánh tức Phật tánh
- Ảo hóa không thân tức pháp thân
- Pháp thân giác liễu vô nhất vật
- Bản nguyên tự tánh thiên chơn Phật
- Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
- Tam độc Thủy bào hư xuất một
)
HUYỀN GIÁC THIỀN SƯ.
Thông thường người ta quan niệm:
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm cơ quan vật chất ấy hợp lại thành
một con người. Con người vật chất ấy được gọi là thân. Còn
cái tác dụng tư duy phân biệt, không rờ mó nắm bắt được,
người ta gọi nó là tâm, cũng có trường hợp gọi là ý thức.
Ông A Nan đại diện cho Phật tử chúng ta, đóng vai trò một người
có quan niệm nhận thức thông thường đó, để cùng Phật luận bàn
tìm hiểu cái tâm. Nhưng sự tranh luận giữa Phật và ông A Nan ở
đây, không phải nhằm để xác định các dạng nhận thức tư duy ấy
là tâm hay là ý thức. Bởi vì tâm hay ý thức, với giáo lý
đạo Phật, không có gì cần phải tranh luận. Mỗi khi thuyết pháp
Phật đề cập vấn đề tâm, ý, bàn bạc ở các kinh là một việc
thông thường. Đức Phật há chẳng răn dạy đệ tử mình hãy đề
cao cảnh giác, Tâm viên ý mã, đó sao ?
Vấn đề Phật muốn dạy ông A Nan và
Phật tử chúng ta là: Hãy phát hiện chơn tâm thường trú sẵn có
của mình. Nó là căn bản Bồ Đề Niết Bàn đó. Không phát hiện
được chân tâm thường trú, dù có lý luận: Rằng nó là cái
nầy, nó là cái kia, nó ở trong thân, nó ở ngoài thân hoặc ở
chặng giữa
đều không đem lại lợi ích gì. Giả sử có nói
đúng thực đi nữa, cái đó cũng vẫn là căn nguyên của tai họa,
là động cơ của mọi phiền não: Tham, sân, si, mạn
cái hiện
tượng tư duy mà ta gọi là tâm hay ý ấy vốn là vọng tưởng. Mà
vọng tưởng thì không chơn. Nó là vang bóng của tiền trần: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Rời tiền trần, cái gọi là tâm hay ý
thức ấy sẽ tan biến mất theo. Cho nên trọng tâm tranh luận giữa
Phật và ông A Nan không phải ở chỗ tìm kiếm cái tâm qua hình
dáng: lớn, nhỏ, rộng, hẹp, dài, ngắn, vuông, tròn
cũng không
phải cần thấy cái tâm qua màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng,
lục hay sô-cô-la
mà tranh luận để phát hiện cái trong sáng,
cái thanh tịnh, cái giải thoát an lành, cái giác ngộ bất động, cái
tự tại như như vốn có ở trong mọi con người. Những cái đó,
dù con người đang bị phiền não vô minh che phủ, mà bản chất tiềm
tàng cố hữu của nó ở trong tâm thể mọi người thì vô thỉ vô
chung không lúc nào gián đoạn.
Do vậy, Phật nói rõ với ông A Nan
rằng: Không phải tôi bảo ông phủ nhận cái tánh thấy nghe nhận
thức không phải là tâm; nhưng ông hãy chín chắn nghĩ suy, làm thế
nào rời cái vọng tưởng đến đi, ông phải còn một cái: cái
không vọng tưởng đến đi. Cái đó nó ở luôn với ông, nó ở
trong ông, nó thật là của ông đấy. Còn muốn gọi nó là tâm hay
là ý thức, không quan trọng, việc đó tùy người và hồi sau sẽ
còn phân giải
CÁI TÁNH THẤY CỦA MẮT CHỈ LÀ HIỆN
TƯỢNG
Ông A Nan và đại chúng chưa nhận
rõ thế nào là chơn tâm thường trú, lòng còn bối rối ngẩn ngơ.
Phật bảo: A Nan ! Trong thế gian những
người tu học tuy đã được chín thứ thiền định, nhưng không diệt
hết được mê lầm chỉ thành A La Hớn đều do lầm chấp cái vọng
tưởng tử sanh là chơn thật. Thế nên, ông nay tuy học rộng nghe
nhiều mà không thành chánh quả.
Ông A Nan khóc lóc bạch Phật: Từ
khi tôi phát tâm theo Phật xuất gia, thường ỷ lại lòng thương của
Phật, tự nghĩ rằng rồi đây Như Lai sẽ ban cho tam muội, chia sớt
đạo quả cho. Giờ đây mới biết: Thân tâm không ai có thể thay
thế cho ai. Từ lâu tôi đã bỏ mất bản tâm của tôi rồi. Thân tuy
xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như đứa con hoang cùng khổ, bỏ cha
bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều mà
không tu hành, thì chẳng khác gì người không nghe, như nói ăn mà
không ăn rốt cuộc không thể nào no được.
Kính Bạch Thế Tôn ! Chúng tôi hiện
nay còn bị hai chướng buộc ràng, do vì không biết tâm tánh vắng
lặng thường nhiên, xin Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng rách
rưới, phát minh cho cái tâm nhiệm mầu, sáng suốt và khai mở con
mắt đạo cho chúng tôi !
Bấy giờ đức Như Lai từ tướng
cát tường hải vân trước ngực phóng ra ánh sáng rực rỡ soi
khắp thế giới chư Phật mười phương và chiếu khắp đảnh các Như
Lai trong hằng sa cõi nước, rồi xoay về chiếu đến đảnh ông A Nan
và đại chúng.
Phật bảo: A Nan ! Trước ông trả
lời: rằng ông thấy cái nắm tay của tôi, vậy cái nắm tay do đâu
mà có ? Và ông lấy cái gì để thấy ?
Bạch Thế Tôn ! Cái nắm tay có là
do bàn tay Phật co các ngón tay lại. Tôi thấy nắm tay của Phật là do
con mắt của tôi.
Phật bảo: Nếu không có bàn tay thì
không có nắm tay. Nếu không có con mắt (mắt bị đui) thì không có
cái thấy. Hai sự việc đó có giống nhau chăng ?
Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy. Nếu
không có bàn tay thì không có nắm tay; nếu không có con mắt thì
không có cái thấy.
Phật bảo A Nan ! Ông nói như vậy là
không đúng. Không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay,
chứ không có con mắt (đui) không phải hoàn toàn không thấy. Ông
thử hỏi những người đui xem họ có thấy gì không ? Chắc hẳn họ
sẽ trả lời với ông: Rằng họ thấy tối đen trước mắt. Lấy
nghĩa đó mà suy nghĩ tiền trần tự tối, chứ cái tánh thấy nào
có hao kém gì ?
Bạch Thế Tôn ! Những người đui
trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi rằng thấy ?
Phật bảo: Dù thấy tối đen cũng
vẫn là thấy còn thấy sáng hay thấy tối là do tiền trần sáng tối,
tánh thấy vẫn y nhiên. Nếu vì tối mà cho là không thấy, vậy thì
khi người ta ngồi trong nhà tối không thấy gì hết, chỉ thấy trước
mắt tối đen, bỗng nhiên được đèn sáng thấy rõ các vật, chẳng
lẽ ông bảo đó là cái đèn thấy hay sao ? Vậy nên suy biết: đèn
làm tỏ rõ các vật, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải
đèn. Mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy là tâm, chứ không phải là
mắt.
-
- *
- * *
- TRỰC CHỈ
Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì
sự tu hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được.
Có giúp đỡ chăng chỉ làm tăng thượng duyên, mà nhân duyên
phải là tự lực của chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên,
người trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là chân lý. Chân lý
đó, nói lên cái chân lý Nhân quả của thế gian và xuất
thế gian. Nó bao trùm xuyên suốt hết nền giáo lý Phật. Ông A Nan
nói lên lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông thoát nạn trở về:
Rằng sự tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là Như
Lai Thế Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự ân sủng, ban cho hay
tặng thưởng trong tiến trình tiến lên đạo quả giải thoát giác
ngộ. Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng, ban cho là tự trái
với chân lý, mâu thuẫn với quy luật nhân quả khách quan của vũ
trụ vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.
Học Phật cốt ở thực hành. Học
không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no
được.
Ánh sáng là biểu trưng cho trí tuệ.
Ánh sáng soi khắp hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư
Như Lai trong cõi nước mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên
đảnh ông A Nan và đại chúng. Sự kiện nầy, nói lên ý nghĩa:
Dùng trí huệ giác mà nhìn vũ trụ vạn hữu, thì vũ trụ vạn hữu
trở thành thế giới đại đồng, thành nhất chân pháp giới. Trí
tuệ giác xóa bỏ hết ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách
bởi ý thức hệ vô minh: Tham, sân, si, mạn
Phật và hằng hà sa
chư Phật trong mười phương, cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu
rực rỡ, lung linh màu sắc, trong đó có ông A Nan và đại chúng
cũng có phần thụ hưởng của phần mình, trong bầu thế giới đại
đồng, nhất chân huy hoàng ấy. Qua bài học thậm thâm đó, Phật tử
chúng ta hãy tự cảnh tỉnh lòng mình:
Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm
sơn
Ánh sáng mặt trời lúc nào cũng
có, chỉ vì mù trong bụng mẹ nên không thưởng thức được cảnh
trúc biếc, mai vàng, thông xanh, mây bạc, thường xuyên phô diễn
dưới ánh sáng của gầm trời.
Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái
thấy là mắt hay là tâm, làm cho người đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm,
không thể không phân vân, kiểm tra lập trường nhận tức của mình.
Ông A Nan mệnh danh là con người đa văn đệ nhất, thế mà còn lúng
túng chưa ngã ngũ được bằng nhận thức của mình huống hồ Phật
tử chúng ta chẳng mấy tí đa văn, giải quyết sự kiện ấy còn khó
khăn vạn bội. Phật tử đừng xem thường vấn đề thấy, nghe,
ngửi, nếm
và vấn đề tâm vật trong đời sống hằng ngày.
Bảo rằng con mắt thấy thì sai lầm,
vì thiển cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn
ngô nghê. Bảo rằng tâm thấy, thì đó là phương tiện của Như Lai
chứ chưa hẳn vậy. Bởi vì: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện
tại tâm bất khẳ đắc, vị lai tâm bất khả đắc". Vậy thì tâm
thấy là cái tâm nào ?
Nói rằng tâm thấy, là ý Phật
muốn dạy cho ông A Nan biết về "ngũ câu ý thức" về hiện
tượng, tỷ lượng và phi lượng của bát thức tâm vương, nói theo
thuật ngữ của duy thức học. Tiền ngũ thức, nhãn thức là một,
tiếp xúc với ngũ trần, chỉ thông qua hiện lượng. Hiện lượng là
sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na nghĩa là chưa qua tư duy
phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức, giống như
sự tiếp thu hình ảnh và âm thanh của chiếc máy quay phim màu. Hình
ảnh, màu sắc và âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì
bình đẳng tiếp thu không mảy may phân biệt. Vậy mà ông A Nan cho
rằng mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ tiếp
thu làm tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có ý thức
tâm vương cộng vào.
Nghĩa là: Nhãn thức cộng với ý
thức tâm vương thành nhãn câu ý thức. Đử ngần ấy điều kiện
mới thành cái thấy biết của mắt. Vì vậy Như lai nói: Mắt không
phải thấy mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho tâm vương ý
thức vậy.
Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của
mắt, chỉ là hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ yếu tố để
gọi là mắt thấy. Vì vậy:
Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là Như Lai phương
tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ
là hiện lượng !
- *
- * *
GẠN HỎI NGHĨA KHÁCH TRẦN NHẰM CHỈ
RÕ HIỆN TƯỢNG VỌNG TƯỞNG DIỆT SANH.
VÍ DỤ CHỦ VÀ HƯ KHÔNG ĐỂ KHAI THỊ
BẢN THỂ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ
Bấy giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay
mềm mại lên, bảo ông A Nan và đại chúng: Sau khi thành đạo, lần
đầu tiên ở Lộc Giả Uyển, tôi có dạy cho nhóm ông A Nhã Kiều
Trần Như rằng tất cả chúng sanh không thành Vô thượng Bồ Đề và
A La Hớn, do vì phiền não khách trần làm mê hoặc. Thuở đó, bọn
ông do đâu mà tỏ ngộ, hiện nay được thành chánh quả ?
Ông Kiều Trần Như đứng dậy thưa:
Bạch Thế Tôn ! Nay tôi đã già ở trong đại chúng, tôi được
cái tên Giải, là do thuở đó tôi tỏ ngộ được ý nghĩa hai chữ
khách trần. Khách là người đi đường, khi cần, họ vào quán trọ
thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ xong xếp hành lý
lên đường, không ở luôn được, còn người chủ thì ở vĩnh
viễn không phải đi đâu nữa. Từ suy nghĩ đó, tôi hiểu ra rằng:
Khách có đến, đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết.
Về nghĩa chữ trần, thì vào lúc
mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào các kẽ hở, lỗ thủng
của mái nhà, nhìn theo làn ánh sáng trong khoảng hư không yên lặng
ấy, tôi thấy vô số bụi trần li ti loạn động, cuồn cuộn tuôn bay.
Do đó tôi nhận ra được nghĩa chữ trần: Trần thì lay động, còn
hư không thì yên lặng tuyệt nhiên !
Phật bảo: Đúng vậy.
Đoạn, Phật đưa tay lên, co năm ngón
tay lại rồi mở ra và hỏi:
- A Nan ! Ông thấy gì ?
- Tôi thấy bàn tay Phật, nắm lại
rồi mở ra. A Nan đáp.
- Ông thấy tay tôi có nắm có mở
hay cái thấy của ông có nắm có mở ?
- Thưa ! Tay Phật có nắm có mở,
chứ cái thấy của tôi làm sao có nắm mở được !
- Cái gì động ? Cái gì tĩnh ? Phật
hỏi.
- Thưa ! Bàn tay của Phật không yên,
chứ cái thấy của tôi còn không có tĩnh thì làm chi có động !
Phật bảo: đúng vậy.
Bấy giờ Phật dùng tay phát ra một
luồng ánh sáng, chiếu qua phía bên phải của ông A Nan. Ông A Nan quay
nhìn qua bên phải. Phật lại phát qua phía trái, ông A Nan quay đầu
nhìn qua phía trái.
Phật bảo: A Nan ! Hôm nay vì sao đầu
ông động lay qua lại như thế ?
- Bạch Thế Tôn ! Tôi vì thấy hào
quang của Phật phóng ra bên phải và bên trái của tôi. Đầu tôi lay
động bởi ngó theo hào quang của Phật.
- Đầu ông lay động quay bên phải
bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có động
chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Đầu tôi tự lay
động, chứ cái thấy còn không biết nó ở chỗ nào, thì lấy gì
mà lay động !
Phật bảo: Đúng vậy.
Bấy giờ, Phật bảo ông A Nan và
đại chúng: Rằng mọi người ai cũng có thể nhận biết: Không ở
luôn là khách, chủ thì vĩnh viễn không đi đâu. Bụi trần thì lay
động còn hư không yên lặng tuyệt nhiên. Có nắm có mở là tay,
cái thấy thì không có nắm mở. Quay qua quay lại là đầu, tánh thấy
thì không hề xoay chuyển.
Vậy mà, các ông hiện nay lấy cái
động làm thân, cái động làm tâm, lấy cái động làm cảnh, bỏ
mất đi tâm tánh chơn thường, bất động, yên lặng nó thường ở
luôn với mình. Hằng ngày làm những việc trái ngược, nhận vật
làm thân, nhận vọng tưởng làm tâm, xoay vần trong đó, tự nhận
lấy sự trôi lăn trong sáu nẻo !
TRỰC CHỈ
Đọc đến đoạn kinh nầy,
người đệ tử Phật có tư duy tu tập, thiền định ít nhiều, có thể
bừng tỉnh ngộ: Rằng thường trú chơn tâm không phải ở đâu xa
xôi cách trở, cần phải tìm kiếm hay cầu khẩn van xin mới có. Tìm
thường trú chơn tâm cũng không cần ở ngay chánh điện của ngôi
chùa đồ sộ nguy nga có tượng Phật to, có đại hồng chung lớn. Tìm
chơn tâm thường trú cũng không cần đóng cửa trong một vuông
phòng kín và ngồi thờ thẩn với đôi mắt lim dim. Thường trú chơn
tâm muốn tìm nó chỉ cần có chất liệu thiền tư. Thiền tư hay thiền
định với nghĩa tư duy quán chiếu. Người đệ tử nào muốn đi trên
đường Bồ Đề, Niết Bàn chỉ cần tu tập tư duy quán chiếu thân
tâm, cảnh giới quanh cuộc sống hằng ngày của bản thân mình. Đức
Phật đã dạy quá rõ ràng. Rằng cái thấy, cái nghe, cái ngửi,
cái nếm, cái xúc, cái biết, nói chung là những tác dụng nhận
thức của sáu giác quan, Phật bảo chúng không phải chơn tâm, nhưng
chúng cũng không rời ngoài chơn tâm mà có. Biết sử dụng, trong
vọng tâm ta tìm thấy chơn tâm thường trú. Không biết sử dụng chỉ
có toàn vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần; cũng như nước
thanh bình thạnh trị thì mọi người công dân trong nước là tôi
hiền con thảo. Khi thượng bất chánh thì
cũng những công dân
ấy trở thành tôi loàn con giặc. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc
có lúc không, thì sự hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần
cũng lúc sanh lúc diệt. Vì vậy, Phật gọi sự hồi tưởng bóng
dáng tiền trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng tâm, là
những phiền não khách trần. Vì là khách cho nên không ở được
luôn. Vì là trần nên không có phút giây yên lặng. Phật dạy cho
người đệ tử phương pháp tu học để sống với sự an lành, yên
lặng, như hư không và quay về với vai trò người chủ, không đi
đâu nữa. Vì ngoài người khách đến đi, còn có chủ không đi,
ở lại. Trong sự loạn động cuồn cuộn tuôn bay của trần, còn có
hư không yên lặng không hề lay chuyển. Trước sự nắm mở duỗi co
qua nắm tay của Phật, còn có cái không duỗi co nắm mở đó là
cái thấy của ông A Nan. Thế thì, sự nhận thức của sáu giác quan,
luôn luôn thay đổi từng sát na, từng phút từng giờ, nhưng ngoài
sự thay đổi luôn luôn ấy, con người còn một cái. Cái đó là
gì ?
Là chơn tâm thường trú.
Theo lời Phật dạy thì chân tâm
thường trú có thể biểu hiện ở mọi con người, khi trí tuệ con
người có khả năng nhận thức được vọng tâm. Nhận được vọng
tâm cũng nhận thức được gì là vô minh phiền não khách trần
để rồi hóa giải chúng đến độ hoàn toàn sạch bóng.
Sự bác bỏ của Phật đối với
ông A Nan về vấn đề tâm thấy hay mắt thấy, sự thật chẳng có gì
quan trọng giữa hai thầy trò. Nhằm mục đích giáo dục chúng sanh,
Phật bày ra cuộc vấn đáp cho lý cùng trí tận vậy thôi. Giải
quyết vấn đề đó, khó khăn gì đối với người đệ tử tinh
tấn, đa văn như ông A Nan ấy !
Cái gì thấy ? Mắt có thấy được
không ? Thấy cách nào ? Cần bao nhiêu điều kiện để thấy ? Sao gọi
là tâm thấy ? Tâm thấy cách sao ? Tâm ở đâu ?
Bao nhiêu câu
hỏi đó, ông A Nan đem pháp tướng học ra giải quyết, dễ như
người ta thò tay vô túi mà lấy
tiền tiêu, chẳng có gì khó
khăn cả.
(HÁN BỘ, HẾT QUYỂN MỘT)
Tựa
tập I | Mục lục I | I. 1-2 | I. 3a | I. 3b | Tựa tập II | Mục lục II | II. 4 | II. 5 | II. 6