- KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
- Dịch từ Hán sang Việt và lược giải
- Từ Ân
Thiền
Đường, Santa Ana Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
(QUYỂN MƯỜI)
IV - MA HÀNH ẤM
- A Nan! Người tu thiền
định, khi dứt được Tưởng Ấm, những mộng tưởng bình thường tiêu sạch,
thức, ngủ thường như một, chẳng còn đuổi theo cảnh trần, cái giác
minh vắng lặng như hư không, thấy các núi sông, đất đai của thế gian
như bóng hiện trong gương, tùy duyên chiếu soi, ở đi đều chẳng dính mắc,
biết hết các tập khí xưa, cái nguồn gốc của sanh diệt từ đây được
hiển lộ, thấy khắp 12 loại chúng sanh trong mười phương, dù chưa thông
suốt manh mối của từng loại, nhưng đều từ một nguồn gốc phát sanh
ra, giống như bụi trần lăng xăng, ấy là chỗ căn cứ địa của ngũ
căn, đây gọi là phạm vi của Hành Ấm. Nhưng tánh của Hành Ấm vốn chẳng
lăng xăng, sở dĩ lưu chuyển chẳng ngừng là do tập khí của nhiều kiếp,
nếu tánh ấy trở về vắng lặng, tập khí dứt sạch, tướng lưu chuyển
hết, như làn sóng lặng trở về nước yên, gọi là Hành Ấm hết, thì
lúc ấy được siêu việt Chúng Sanh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là
do bởi U-Ẩn Vọng Tưởng (l) làm gốc (Hành Ấm lưu chuyển vi tế, động
mà chẳng động nên gọi là U-ẩn).
l. A Nan
nên biết! Trong lúc thiền định, khi được chánh tri, chánh tâm sáng suốt,
mười loại thiên ma chẳng còn được dịp quấy phá, mới được truy cứu
cùng tột cội gốc sanh diệt của các loài.
Quán xét cái cội gốc đó mà khởi tâm so đo, thì người ấy
bị đọa vào hai loại Vô Nhân Luận:
a. Thấy sự
bắt đầu vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã dứt được tưởng sanh
diệt, nhờ 800 công đức của Nhãn căn, thấy được tất cả chúng sanh từ
8 vạn kiếp, theo nghiệp xoay vòng, chết đây sống đó, luân chuyển không
ngừng, còn ngoài 8 vạn kiếp thì mịt mù chẳng thể thấy được, bèn cho
là từ 8 vạn kiếp đến nay, mười phương chúng sanh trên thế giới vô
nhân mà tự có. Do so đo này, tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại
đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
b. Thấy sự
cuối cùng vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã biết được căn bản của
sự sanh, như người sanh người, chim sanh chim, xưa nay con quạ vẫn đen, con
cò vẫn trắng, trời người vẫn đứng thẳng, thú vật vẫn đứng ngang,
trắng chẳng do tẩy mà thành, đen chẳng do nhuộm mà nên, từ 8 vạn kiếp
nay vẫn không dời đổi, nay đến tận hết hình thể này cũng vẫn như thế.
Bổn lai của ta chẳng thấy Bồ Đề thì làm sao lại có sự tu thành Bồ
Đề! Vì mê lầm cho tất cả sự vật đều vốn vô nhân, do so đo này, tự
làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
- Ấy gọi là ngoại
đạo thứ nhất lập Vô Nhân Luận.
2. Trong
lúc thiền định, chánh tâm sáng suốt, ma chẳng được dịp quấy phá,
quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, thấy luôn luôn như vậy chẳng
biến đổi, ngay nơi đó khởi tâm so đo, chấp đó là thường, thì người
ấy bị đọa vào bốn thứ Chấp Thường Luận:
a. Người
ấy xét thấy cùng tột bản tánh của tâm và cảnh, hai nơi đều không có
nhân, do tu tập biết được tất cả sự sanh diệt của mười phương chúng
sanh, từ hai vạn kiếp đến nay vẫn lưu chuyển không hề tan mất, bèn chấp
cho là thường.
b. Người
ấy xét cùng tột cội gốc của tứ đại, bốn thứ tánh ấy thường trụ,
do tu tập biết được tất cả. Sự sanh diệt của mười phương chúng
sanh, từ bốn vạn kiếp đến nay cái thể vẫn thường còn, không hề tan
mất, bèn chấp cho là thường.
c. Người
ấy xét cùng tột cội gốc của lục căn, theo tánh chấp thụ của thức
thứ bẩy, trong tâm-ý-thức, chỗ nguồn gốc căn bản, tánh thường như vậy.
Do tu tập biết được tất cả chúng sanh từ tám vạn kiếp này, dù có
luân hồi, vốn là thường trụ, cuối cùng chẳng mất bản tánh, nên chấp
cho là thường.
d. Người
ấy đã dứt được tưởng ấm chẳng còn cái tưởng sanh diệt cho là tâm
sanh diệt, nay đã vĩnh diệt, tự nhiên thành chẳng sanh diệt, vì tâm so
đo nên chấp cho là thường.
- Do so đo này, tự
làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy
gọi là ngoại đạo thứ hai lập Viên Thường Luận.
3. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, khởi tâm so đo giữa ta và người,
người ấy bị đọa vào bốn thứ kiến chấp điên đảo, một phần vô
thường, một phần chấp thường luận:
a. Người
ấy quán tâm diệu minh khắp cõi mười phương cho là thần ngã chơn thật,
từ đó sanh chấp, cho ta cùng khắp mười phương, trạm nhiên sáng suốt chẳng
động, tất cả chúng sanh ở nơi tâm ta tự sanh tự diệt, vậy thì tâm
tánh ta là thường, còn sự sanh diệt ấy là chơn vô thường.
b. Người
ấy chẳng quán tự tâm mà quán khắp mười phương hằng sa quốc độ, thấy
chỗ kiếp hoại (từ cõi tam thiền trở xuống) thì gọi là chủng tánh chơn
vô thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại được (từ cõi tứ thiền trở
lên, kiếp hoại chẳng đến được) thì gọi là chơn thường.
c. Người
ấy chỉ quán riêng tâm mình, thấy tinh mật vi tế như vi trần, lưu chuyển
mười phương, khiến thân này liền sanh liền diệt mà tâm tánh chẳng dời
đổi, ngã tánh chẳng hoại, gọi ta là tánh thường, sanh tử của tất cả
chúng sanh từ ta mà ra thì gọi là tánh vô thường.
d. Người
ấy đã dứt được Tưởng Ấm, thấy hành ấm lưu chuyển thường xuyên,
gọi là tánh thường: sắc, thọ, tưởng ba ấm nay đã diệt hết thì gọi
là vô thường.
- Do so đo này, một
phần vô thường, một phần là thường, nên bị lạc vào ngoại đạo, mê
lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ ba lập Một Phần Thường
Luận.
4. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong phân vị (2) khởi tâm so đo,
người ấy bị đọa vào bốn thứ Hữu Biên Luận:
a. Người
ấy trong tâm so đo cái gốc sanh lưu chuyển chẳng ngừng, chấp quá khứ vị
lai gọi là hữu biên, chấp tâm tương tục gọi là vô biên.
b. Người
ấy quán từ tám vạn kiếp đến nay thì thấy có chúng sanh, từ tám vạn
kiếp trở về trước thì chẳng thấy chẳng nghe, bèn cho chỗ chẳng thể
thấy nghe ấy gọi là vô biên, chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.
c. Người
ấy chấp rằng ta biết cùng khắp, được tánh vô biên; tất cả mọi người
đang trong cái hay biết của ta, mà ta chẳng từng biết cái tánh biết của
họ, ấy gọi là họ chẳng được cái tâm vô biên, chỉ được tánh hữu
biên thôi.
d. Người
ấy quán đến cùng tột Hành Ấm rỗng không, so đo trong tâm cái sở thấy
của mình, cho là ở trong một thân của tất cả chúng sanh đều là phân nửa
sanh phân nửa diệt, cho đến tất cả hiện hữu trong thế giới này cũng
đều phân nửa hữu biên, phân nửa vô biên.
- Do so đo này, hữu
biên vô biên, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại
đạo thứ tư lập Hữu Biên Luận.
5. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi tri kiến khởi tâm so đo,
người ấy bị đọa vào bốn thứ: điên đảo, bất tử, càn loạn, biến
kế hư luận:
a. Người
ấy quán xét cội gốc của sự biến hóa thấy chỗ lưu chuyển thì gọi
là biến, thấy chỗ nối nhau thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được
thì gọi là sanh, thấy chỗ chẳng thấy được thì gọi là diệt, cái
nhân nối nhau chẳng gián đoạn thì gọi là thêm, khi đang nối nhau, ở giữa
có chỗ gián đoạn thì gọi là bớt, chỗ sanh của mọi vật thì gọi là
hữu, chỗ diệt của mọi vật thì gọi là vô; dùng lý quán xét thì thấy
đồng, dùng tâm thì thấy khác. Có người đến cầu pháp hỏi nghĩa thì
đáp: ”ta nay cũng sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng thêm cũng bớt”,
bất cứ lúc nào đều nói đảo loạn như thế, khiến người nghe rồi
cũng như không nghe.
b. Người
ấy quán xét tâm họ đến chỗ Vô, vì vậy nên chẳng có chứng đắc, hễ
có người đến hỏi chỉ đáp một chữ ”Vô”, ngoài ra không nói gì cả.
c. Người
ấy quán xét tâm họ đến chỗ Hữu, vì vậy mà có sự chứng đắc, hễ
có người đến hỏi thì chỉ đáp một chữ ”Hữu”, ngoài ra không nói
gì cả.
d. Người
ấy hữu vô cùng thấy, do cảnh rời rạc nên tâm cũng bị rối loạn, hễ
có người đến hỏi thì đáp: “Cũng có tức là cũng không, ở trong cũng
không, chẳng phải cũng có”. Tất cả càn loạn, chẳng thể hỏi ra kết
quả.
- Do so đo này, hư vô
càn loạn, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, đây gọi là ngoại
đạo thứ năm chấp bốn thứ Điên Đảo, Bất Tử, Càn Loạn, Biến Kế Hư
Luận.
6. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong dòng sanh diệt vô tận khởi
tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết
có tướng: hoặc tự giữ cái sắc thân, cho sắc thân là ta; hoặc thấy ta
bao trùm khắp các cõi nước, thì cho ta có sắc; hoặc thấy duyên cảnh xưa
theo ta luân hồi thì cho sắc thuộc về ta; hoặc thấy cái ta nương theo hành
ấm mà tương tục, thì cho ta ở nơi sắc, xoay chuyển như vậy thành mười
sáu tướng, từ đó sanh ra cái chấp ”có phiền não thật”, và “Bồ Đề
thật”, hai tánh ấy đi song song mà chẳng đụng chạm nhau, do so đo này,
chấp sau khi chết có tướng, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề,
ấy gọi là ngoại đạo thứ sáu trong ngũ ấm chấp sau khi chết có tướng,
lập Tâm Điên Đảo Luận.
7. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong những chỗ sắc, thọ, tưởng,
đã diệt từ trước, khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng
điên đảo, chấp sau khi chết chẳng tướng. Thấy Sắc Diệt rồi thì
hình thể chẳng có nhân, thấy tưởng diệt rồi thì tâm chẳng bó buộc,
thấy thọ diệt rồi thì chẳng còn chỗ nối liền, tánh ấm tiêu tan, dẫu
có sự sanh mà chẳng có thọ, tưởng, đồng như cây cỏ, cái thể chất
hiện hữu này còn bất khả đắc, huống chi chết rồi thì đâu còn hình
tướng nào! Theo đó suy lường, xoay chuyển thành tám thứ vô tướng, cho rằng
nhân quả, Niết Bàn, tất cả đều không, chỉ có danh tự, cuối cùng đoạn
diệt. Do so đo này, lạc vào ngoại đạo,
mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy trong ngũ ấm chấp
sau khi chết chẳng tướng,lập Tâm Điên Đảo Luận.
8. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong chỗ hành ấm còn mà thọ tưởng
đã diệt, cho “Có, Không” đồng thời cùng hiện nên tự thể phá nhau,
người ấy bị đọa vào điên đảo luận, chấp sau khi chết chẳng phải
”Có” cũng chẳng phải “Không”, trong sắc, thọ, tưởng, thấy có chẳng
phải là có, nơi hành ấm lưu chuyển, thấy không chẳng phải là không,
xoay chuyển như vậy cùng tận ấm giới, thành tám thứ tướng ”chẳng phải
có chẳng phải không”, dù gặp một duyên nào đều nói sau khi chết cũng
có tướng cũng không tướng. Lại chấp hành ấm tánh hay thay đổi, tâm
phát thông ngộ, thấy “Có, Không” đều chẳng phải, hư và thật đều
không chỗ căn cứ, do so đo này, làm cho mịt mù chẳng thể nói được, lạc
vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ tám
trong ngũ ấm chấp sau khi chết chẳng có cũng chẳng không, lập Tâm Điên
Đảo Luận.
9. Trong
lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu-Hậu-Vô (3) khởi tâm
so đo, người ấy bị đọa vào bảy thứ Đoạn Diệt Luận: hoặc chấp cái
thân diệt, hoặc dục tận diệt, hoặc khổ tận diệt, hoặc cực lạc diệt,
hoặc cực xả diệt, xoay chuyển như thế tận cùng bảy nơi, cái thân hiện
tiền khi tiêu diệt rồi chẳng còn sanh nữa, do so đo này, lạc vào ngoại
đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ chín trong ngũ
ấm chấp sau khi chết đoạn diệt, lập Tâm Điên Đảo Luận.
10. Trong lúc thiền định,
chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán xét cùng tột cội
gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu Hậu Hữu (4) khởi tâm so đo, người ấy
bị đọa vào năm thứ Niết Bàn Luận: hoặc nhận dục giới là nơi Chánh
Chuyển Y, vì thấy cảnh viên minh nên tâm sanh ái mộ, hoặc nhận sơ thiền
vì tánh không còn lo, hoặc nhận nhị thiền, vì tâm không còn khổ, hoặc
nhận tam thiền, vì rất vui đẹp, hoặc nhận tứ thiền vì khổ vui đều
mất, chẳng bị luân hồi sanh diệt vậy. Mê lầm cõi trời hữu lậu cho
là quả vô vi, năm nơi an ổn ấy là nơi Thắng Tịnh Y, xoay chuyển ở năm
chỗ này, cho là cứu cánh, do so đo này, lạc vào ngoại đạo, mê lầm
tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ mười trong ngũ ấm chấp năm
thứ Niết Bàn, lập Tâm Điên Đảo Luận.
- A Nan! Mười thứ
thiền định cuồng giải trên đều do Hành Ấm và dụng tâm giao tranh lẫn
nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này,
mà chẳng tự biết, nhận sự mê lầm cho là giải thoát, tự nói chứng
thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A-Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập
diệt, nơi thời mạt pháp, các ngươi phải theo lời dạy bảo như trên
khai thị khắp tất cả chúng sanh, khiến đều tỏ ngộ nghĩa này, chớ cho
tâm ma tự khởi nghiệp chướng, hộ trì cho họ dứt bỏ tà kiến, khiến
thân tâm được mở mang, giác ngộ nghĩa chơn thật, thành Vô Thượng Đạo,
chẳng bị lạc đường, chẳng được ít cho là đủ, làm bia chỉ đường
giải thoát của Phật.
V. MA THỨC ẤM
- A Nan! Người tu thiền
định, khi dứt được Hành Ấm, các tính sanh diệt lăng xăng chuyển động
của thế gian bỗng được tan rã, các nghiệp báo luân hồi, sự cảm ứng
vi tế như chỉ tơ gần được đoạn dứt, sắp được minh ngộ nơi cõi
Niết Bàn, như gà gáy lần chót, trời bắt đầu rạng đông. Lục căn hư
tịnh, chẳng còn giong ruổi cảnh trần, trong ngoài trạm nhiên sáng suốt,
cho đến nhập vô sở nhập: thấu suốt cội gốc thọ mạng của 12 loại
chúng sanh trong mười phương, chấp vào cái cội gốc đó, các loài chẳng
đến với nhau, mà ở nơi mười phương đều đồng một cội gốc, sự phát
hiện chỗ ẩn bí đó, như trời gần sáng mà chưa sáng, rạng đông kéo
dài, đây gọi là phạm vi của Thức Ấm. Nếu ở chỗ đồng ấy, nhờ sức
thiền định mài giũa lục căn, đến thấy nghe thông nhau, sự dụng của lục
căn muốn hợp hay tách ra đều được tự do thành tựu, trong ngoài sáng suốt
như lưu ly, gọi là thức ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Mệnh Trược.
Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi Võng Tượng (mường tượng) Hư Vô,
Điên Đảo Vọng Tưởng (5) làm gốc.
l. A Nan! Người
tu thiền định, khi dứt được hành ấm, trở về chỗ cội gốc của Thức
Ấm, sanh diệt đã diệt mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên
thông, có thể khiến lục căn thông dụng lẫn nhau, cũng thông với cái
giác tri của các loài trong mười phương, do sự thông dụng ấy mới được
đi vào chỗ cội gốc của Thức Ấm. Nếu ở chỗ trở về mà lập cái
nhân Chơn Thường, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp “Năng
nhân, sở nhân”, làm bạn với bọn ngoại đạo tóc vàng, nhận chỗ ”căn
bản của vô minh” làm nơi sở quy, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến
Phật, ấy gọi là lập cái tâm sở đắc, thành cái quả sở quy, trái xa
viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống ngoại đạo thứ nhất.
2. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở chỗ cội gốc của
thức Ấm, ôm làm tự thể của mình, cho tất cả 12 loại chúng sanh khắp
hư không đều phát xuất từ thân ta, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào
cái chấp ”Năng phi năng” (6), làm bạn với bọn ma dân hay hiện thân vô
biên ở cõi Sắc giới, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật,
ấy gọi là lập cái tâm năng vi, thành cái quả năng sự, trái xa viên
thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh Đại Mạn Thiên, thành giống chấp ngã
thiên viên thứ hai (thiên viên chưa được viên thông, chỉ có một nửa).
3. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi cội gốc của
thức ấm khởi tâm nương tựa, tự nghi thân tâm mình từ đó mà ra, mười
phương hư không đều từ đó sanh khởi, bèn nhận chỗ đó là cái thể chơn
thường, là nơi chẳng sanh diệt. Ở chỗ sanh diệt chấp là thường trụ,
chẳng những chẳng thấy tánh chơn bất sanh diệt, mà còn nhận lầm tánh
sanh diệt hiện tại, an trụ tại chỗ mê lầm này, sanh tâm thù thắng,
thì bị đọa vào cái chấp ”thường phi thường”, làm bạn với bọn
ở cõi trời Tự Tại Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề lạc mất tri kiến Phật.
Ấy gọi là lập cái tâm nhân y (cái nhân nương tựa) thành cái quả vọng
kế (vọng chấp thường trụ), trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn
thành giống điên đảo viên thông thứ ba (nói viên thông mà chưa được
viên thông).
4. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến lập
tri giải, cho các loài cây cỏ mười phương đều gọi là hữu tình, với
người chẳng khác; cây cỏ làm người, người chết rồi lại thành cây cỏ,
cho đến loài vô tình đều có sự giác tri, hữu tình vô tình chẳng có
phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp ”Tri vô tri”,
làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và Tiện Ni, chấp tất cả đều
có sự giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi
là lập cái tâm viên tri, thành cái quả hư vọng, trái xa viên thông, ngược
đạo Niết Bàn, thành giống Điên Đảo Tri thứ tư.
5. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi lục căn dung thông
lẫn nhau đã được tùy thuận vô ngại, rồi nương theo viên dung này, cho
là tứ đại hay biến hóa tất cả, nên từ nơi tứ đại ham cầu tánh
sáng suốt của hỏa; thích tánh trong sạch của thủy; ưa tánh chu lưu của
phong, quán tánh thành tựu của trần, mỗi mỗi đều tôn sùng, lấy các trần
ấy nhận làm bản nhân, chấp cho là thường trụ, thì bị đọa vào cái
chấp “Sanh vô Sanh”, làm bạn với bọn ngoại đạo Ca Diếp Ba và Bà La
Môn, siêng tâm ép xác, thờ lửa thờ nước để cầu được ra khỏi sanh
tử, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước,
thờ phụng, mê tâm theo vật, lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng
mong, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống của tạo hóa
điên đảo thứ năm.
6. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở trong viên minh chấp
là hư vô, bác bỏ các sự tạo hóa, lấy cái vĩnh diệt làm chỗ quy y,
sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp “Quy vô quy” (cho vô quy
là Quy), làm bạn với bọn Thuấn Nhã Đa (thần hư không) ở cõi Vô Tưởng
Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp
cái tâm hư vô thành quả Không Vong, trái xa viên thông, ngược đạo Niết
Bàn, thành giống đoạn diệt thứ sáu.
7. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi viên thường
sanh lòng củng cố cái thân này, cho là thường trụ đồng với tánh ấy,
mãi không tiêu diệt, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp “Tham
phi tham” (7), làm bạn với bọn A Tư Đà (chẳng ai bằng), tham cầu trường
thọ, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước
mạng căn, lập cái nhân cố vọng (kiên cố cái vọng thân), cầu quả thường
trụ, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống vọng diên thứ
bảy (vọng diên: vọng muốn kéo dài).
8. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, xét thức ấm là mạng căn của
các loài dung thông lẫn nhau, bỗng sợ tiêu diệt, muốn giữ lại trần
lao, bèn ở chỗ đó ngồi cung liên hoa, hóa ra rất nhiều châu báu và mỹ
nữ, buông lung tâm mình, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp
“chơn vô chơn” (cho vô chơn là chơn), làm bạn với cõi Tha Hóa Thiên,
mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là phát cái nhân
tà tưởng, lập quả trần lao hưng thịnh, trái xa viên thông, ngược đạo
Niết Bàn, thành giống thiên ma thứ tám.
9. Người
tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông. Ở trong nguồn gốc của thức
ấm, khởi tâm phân biệt tinh, thô, chơn, ngụy, nhân quả trả nhau, chỉ cầu
sự cảm ứng, trái ngược đạo thanh tịnh, chấp cái khổ, tập, diệt, đạo
của Tứ Thánh Đế, cho là đến chỗ diệt rồi là xong, chẳng cầu tiến
thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào định tánh Thanh Văn, làm bạn
với kẻ tăng thượng mạn như Tỳ Kheo Vô Văn, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc
mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm cảm ứng tinh vi, thành quả
tịch diệt, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Triền
Không thứ chín (Triền Không: bị ràng buộc ở chỗ Không).
10. Người tu thiền
định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của
tịch diệt chưa được viên thông, ở nơi tánh giác minh, viên dung thanh tịnh,
truy cứu sự thâm diệu, bèn chấp đó là Niết Bàn, chẳng cầu tiến
thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào định tánh Bích Chi, làm bạn
với những người Duyên Giác và Độc Giác, chẳng biết hồi tâm hướng về
Đại Thừa, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập
cái tâm âm thầm hợp với viên giác (8), thành cái quả trạm minh, trái xa
viên-thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh cái giác viên minh, thành giống Bất
Hóa Viên thứ mười (Bất Hóa Viên: chấp vào nơi viên mà chẳng thế hóa
giải được).
- A Nan! Mười thứ cảnh
giới thiền định trên, giữa chừng thành điên, là do nương theo mê hoặc,
ở nơi chưa cứu cánh chấp cho là đủ, ấy đều do thức ấm với dụng tâm
giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp
nhân duyên này hiện tiền, mỗi mỗi đều dùng tâm mê chấp những tập
quán ưa thích cũ của mình, cho là cứu cánh mà ngừng nghỉ tại đó, tự
nói đã đầy đủ đạo Vô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ, lạc
vào tà ma ngoại đạo, khi hết nghiệp báo chiêu cảm, bị đọa ngục A Tỳ,
còn hàng Thanh Văn Duyên Giác thì chẳng cầu tiến thêm. Các ngươi đã
phát tâm theo đạo Như Lai, sau khi ta nhập diệt, nơi thời mạt pháp, phải
đem pháp môn này truyền dạy cho đời sau, khiến tất cả chúng sanh đều
rõ biết nghĩa này, chớ để cho kiến ma (tự chấp tri kiến của mình
thành ma), tạo nghiệp chìm đắm, hộ trì cho họ dứt bỏ tà duyên, khiến
thân tâm họ nhập tri kiến Phật, từ bắt đầu đến khi thành tựu chẳng
bị lạc đường.
- Chư Phật trong quá
khứ hằng sa kiếp đều nhờ pháp môn này mà khai ngộ, thành đạo Vô Thượng.
Nếu dứt được thức ấm rồi thì lục căn của các ngươi hỗ dụng lẫn
nhau, do hỗ dụng này được vào cấp bậc Kim Cang Càn Huệ Bồ Tát, ở
trong đó phát khởi chơn trí, trong suốt như mặt trăng ở trong ngọc lưu
ly, từ đó cho đến siêu việt thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi
hướng, tứ gia hạnh và Kim Cang thập địa, Đẳng Giác viên minh vào trong
biển Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, Bồ Đề viên mãn, quy về Vô Sở Đắc.
- Đây là những ma
vi tế trong lúc tu tập thiền định mà chư Phật đã giác ngộ từ đời
quá khứ, cảnh ma hiện tiền, các ngươi nhận biết được liền tẩy trừ
tâm cấu nhiễm của mình, chẳng lọt vào tà kiến, thì ấm ma tiêu diệt,
thiên ma vỡ nát, đại lực quỷ thần hoảng sợ chạy trốn. Các loại
yêu tinh ly mỵ chẳng còn sanh ra, những căn hạ liệt cũng được tinh tấn,
tâm chẳng mê lầm nơi Đại Niết Bàn, thẳng đến Bồ Đề, chẳng gì thiếu
sót.
- Nếu các chúng sanh
ngu độn trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng biết Phật pháp
mà ưa tu tam muội, e họ mắc phải tà kiến, nên một lòng khuyên họ trì
chú Phật Đảnh Đà La Ni của ta; nếu chưa thể tụng trì, thì viết nơi
thiền đường, hoặc đeo trong thân, như thế, tất cả tà ma đều chẳng
động đến được. Ngươi nên kính
vâng lời dạy sau cùng về đường tu rốt ráo của mười phương Như Lai.
A Nan nghe Phật dạy
bảo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ chẳng
sót, lại bạch Phật rằng:
- Như lời Phật dạy,
trong tướng ngũ ấm, năm thứ hư vọng vốn là bản tâm, chúng con bình thường
chưa được Như Lai khai thị tỷ mỷ như thế. Lại ngũ ấm này là tiêu trừ
một lượt hay theo thứ lớp mà diệt trừ? Năm lớp này đến đâu là bờ
bến? Xin Như Lai phát lòng đại từ, khiến tâm và mắt của đại chúng
được trong sáng, và làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong
đời mạt pháp.
Phật bảo A Nan:
- Diệu tâm sáng tỏ,
bổn giác trong sạch, vốn chẳng có sanh tử và những trần cấu, tất cả
chúng sanh, cho đến hư không, đều do vọng tưởng mà sanh khởi. Cái bổn
giác vốn sáng tỏ trong sạch này, vọng sanh các tướng thế gian, như Diễn
Nhã Đạt Đa mê đầu nhận bóng. Vọng vốn chẳng nhân, lại nơi vọng tưởng
lập tánh nhân duyên, kẻ mê nhân duyên cho là tự nhiên, thật ra, tánh hư
không còn là huyễn hóa, nhân duyên và tự nhiên đều do vọng tâm của
chúng sanh tạo thành. - A Nan, biết chỗ vọng khởi, thì nói vọng duyên, nếu
vọng vốn không, thì các vọng nhân duyên vốn chẳng thể có, huống là chẳng
biết lại cho là tự nhiên. Vì thế, Như Lai phát minh: Bản nhân của ngũ
ấm đều là vọng tưởng.
- Thân ngươi trước
tiên, do niệm tưởng của cha mẹ sanh ra, tâm ngươi nếu chẳng có niệm tưởng
thì chẳng thể đến hợp với tưởng của cha mẹ mà thọ sanh. Như trước
ta đã nói, tưởng tượng vị chua thì tiết ra nước miếng, tưởng tượng
leo dốc thì lòng bàn chân ghê rợn, dốc cao chẳng có, vật chua chưa đến,
thân ngươi nếu chẳng cùng loại với hư vọng thì làm sao nghe nói chua lại
tiết ra nước miếng? Nên biết sắc thân hiện tiền của ngươi, gọi là
Kiên Cố Vọng Tưởng thứ nhất.
Như trên đã nói, tưởng
tượng leo dốc thì khiến thân thật chịu ghê rợn; vì cái nhân niệm tưởng
cảm thọ, lay động sắc thân, nay trước mắt ngươi ham thuận chán nghịch,
hai hiện tượng này giao tranh với nhau, gọi là Hư Minh Vọng Tưởng thứ
hai.
- Bởi do niệm tưởng
sai khiến sắc thân; nếu sắc thân với niệm tưởng chẳng cùng loại,
thì tại sao thân ngươi lại theo niệm tưởng sai khiến? Đủ thứ hiện
tượng tương ưng với niệm tưởng, hễ tâm sanh thì thân nhận, lúc thức
là niệm tưởng, lúc ngủ thành chiêm bao. Vậy thì niệm tưởng của
ngươi lay động vọng tình, gọi là Dung Thông Vọng Tưởng thứ ba.
- Lý tạo hóa chẳng
ngừng, âm thầm dời đổi, móng dài, tóc mọc, sức mòn, hình nhăn, ngày
đêm thay đổi mà không hề hay biết.
- A Nan, ấy nếu chẳng
phải là ngươi, thì tại sao thân ngươi lại dời đổi? Nếu ắt phải là
ngươi, thì sao ngươi lại chẳng hay biết? Vậy thì, hành ấm của ngươi
niệm niệm chẳng ngừng, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng thứ tư.
- Lại, chỗ tánh thức
trong lặng chẳng lay động của ngươi, cho là thường còn ấy, ở nơi thân
ngươi chẳng ra ngoài Kiến, Văn, Giác, Tri, nếu cho là chơn thật, thì chẳng
thể huân tập sự vọng, tại sao các ngươi đã từng xem một vật lạ từ
năm xưa, trải qua nhiều năm, nhớ quên chẳng còn; về sau bỗng thấy vật
lạ đó, thì nhớ lại rõ ràng, chưa từng lạc mất?
- Vậy nơi tánh thức
trong lặng chẳng lay động này, đâu có suy tính, mà niệm niệm chịu sự
huân tập! A Nan nên biết, tánh trong lặng này chẳng thật, như dòng nước
chảy gấp, trông như tịch lặng, ấy là vì chảy gấp mà chẳng thấy, chứ
chẳng phải không chảy; nếu chẳng phải là cội gốc của niệm tưởng,
thì đâu thể huân tập sự vọng? Nếu lục căn chưa được hỗ dụng tự
tại, thì vọng tưởng này chẳng bao giờ diệt trừ được.
- Vậy nên hiện nay
cái Kiến, Văn, Giác, Tri của ngươi, hòa hợp với tập khí vi tế, thành mường
tượng hư vô nơi tánh Trạm Liễu, gọi là tướng vi tế của Điên Đảo
Vọng Tưởng thứ năm.
- A Nan! Ngũ ấm này
do năm thứ vọng tưởng kể trên mà thành.
- Nay ngươi muốn biết
bờ bến sâu cạn, thì Sắc với Không là bờ bến của Sắc Ấm; Xúc với
Lìa là bờ bến của Thọ Ấm; Nhớ với Quên là bờ bến của Tưởng Ấm,
Diệt với Sanh là bờ bến của Hành Ấm; Trạm nhập hợp Trạm, là bờ bến
của Thức Ấm.
LƯỢC GIẢI
Trước kia, A Nan hỏi
về ngũ ấm đến đâu là bờ bến, ở đây Phật giải thích kỹ càng, có
nguyên nhân có bờ bến, từ cạn vào sâu.
Sắc chẳng tự Sắc,
vì Không hiển Sắc, nên sắc với Không là bờ bến của Sắc Ấm. Thọ chẳng
tự Thọ, vì Xúc có Thọ, nên Xúc với Lìa là bờ bến của Thọ Ấm; Tưởng
chẳng phải Tưởng, vì ghi nhớ gọi là Tưởng, nên Nhớ và Quên là bờ bến
của Tưởng Ấm; Hành chẳng phải Hành, vì sanh diệt chẳng ngừng, gọi
là Hành, nên Sanh với Diệt là bờ bến của Hành Ấm; Thức gọi là Trạm
Liễu (trong lặng sáng suốt), là đã diệt sanh diệt, tánh Thức nhập vào
chỗ cội gốc trong lặng, mà hợp với trạm nhiên, có nhập có hợp, tức
là bờ bến của Thức Ấm.
Vì Trạm Nhập là Thức
Ấm, Trạm Xuất là Hành Ấm. Chơn Tánh chẳng gọi là Trạm Nhập, là vì
cùng khắp pháp giới, nên chẳng có xuất nhập, nay Trạm Nhập dần dần
đi vào, cho đến nhập vô sở nhập, tức đến chỗ chẳng sanh diệt vậy.
*****
- Cội gốc của ngũ
ấm từng lớp sanh khởi; sanh do thức mà có, diệt theo sắc mà trừ; Lý
thì Đốn Ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự chẳng thể bỗng diệt, phải dần
dần mới được dứt sạch.
- Ta đã khai thị cho
ngươi về thắt kết của khăn bông, tại sao còn chẳng rõ mà lại hỏi nữa!
Ngươi đối với cội gốc vọng tưởng này, nơi tâm được khai ngộ, rồi
mới có thể truyền dạy cho người tu hành trong đời mạt pháp, khiến họ
biết sự hư vọng, tự sanh nhàm chán, biết có Niết Bàn, chẳng lưu luyến
tam giới.
- A Nan! Nếu có người
đem thất bảo chất đầy mười phương hư không để cúng dường vô số
Phật, tâm chẳng buông lung, ý ngươi thế nào, người ấy do nhân duyên
cúng dường Phật này, có được phước nhiều chăng?
A Nan đáp rằng:
- Hư không vô tận,
thất bảo vô biên. Xưa kia có người cúng Phật bảy xu, còn được phước
báo làm Chuyển Luân Vương, huống là dùng thất bảo đầy khắp hư không
để cúng dường; thất bảo ấy suốt kiếp đếm mãi còn chẳng thể hết,
làm sao phước ấy lại có bờ bến!
Phật bảo A Nan:
- Lời nói của chư
Phật chẳng có hư vọng, nếu có người gây các tội Tứ Trọng (Sát, đạo,
dâm, vọng), Thập Ba La Di, phải trải qua địa ngục A-Tỳ phương này phương
kia, cho đến cùng tột các ngục A Tỳ mười phương trong sát na, chẳng nơi
nào không trải qua, nếu người ấy dùng một niệm đem pháp môn này khai
thị cho người sơ học trong đời mạt pháp, liền được tội chướng tiêu
diệt, biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi an lạc được phước siêu
việt hơn người cúng dường trước kia gấp trăm ngàn lần, ngàn vạn ức
lần như thế cho đến toán số thí dụ đều chẳng thể so bằng.
LƯỢC GIẢI
Theo đoạn trên nói,
Phạm tội Tứ Trọng, Thập Ba La Di là cái tội cực ác, phải chịu cái quả
báo cực khổ cho đến cùng tột tất cả địa ngục A-tỳ. Kẻ phạm tội
như vậy tại sao chỉ cần dùng “một niệm đem pháp môn này khai thị cho
người sơ học trong đời mạt pháp liền được tội chướng tiêu diệt,
biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi an lạc”. Vậy nếu thật như thế
thành không có nhân quả sao? Nếu người hiểu lầm việc này thì cho là
làm cái nhân cực ác cũng không sao! Vì chỉ cần biết thuyết pháp thì tội
lớn đến mức nào cũng tiêu ngay lại còn được phước báo vô cùng tận.
Chứng Đạo Ca nói:
“Liễu thì
nghiệp chướng vốn là không,
chưa liễu vẫn
phải trả nợ xưa”.
Liễu là liễu ngộ
tức là ở trong chiêm bao thức tỉnh, thì nghiệp chướng ở trong chiêm bao
tự tiêu diệt, còn chưa liễu thì còn ở trong chiêm bao phải chịu nghiệp
báo trong chiêm bao không thể tiêu liền được. Kinh nói dùng “Một niệm
đem pháp môn này khai thị cho người sơ học trong đời mạt pháp liền
được tội chướng tiêu diệt, biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi
an lạc”, ấy là ám chỉ người liễu ngộ mới có thể liền tiêu nghiệp
chướng.
“Y văn giải nghĩa,
tam thế Phật oan”, độc giả hãy tự xem xét cho kỹ.
*****
- A Nan! Nếu có
chúng sanh hay tụng trì kinh này và chú này như ta đã nói, thì phước báo
cùng tột số kiếp cũng chẳng thể hết; nếu nương theo lời dạy của ta
mà tu hành, thì thẳng đến Bồ Đề chẳng còn nghiệp ma.
Phật thuyết kinh
này xong, các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả cõi
trời, người, A Tu La trong thế gian, với các vị Bồ Tát, Nhị Thừa, Thần
tiên, đồng tử ở cõi khác, và đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều
rất vui mừng, đảnh lễ ra về.
GHI CHÚ
(l) U-Ẩn Vọng Tưởng
và Chúng Sanh Trược:
Hành Ấm tại sao gọi
là U Ẩn Vọng Tưởng? Vì cái vọng tưởng của Hành Ấm u nhàn ẩn mật,
khó mà tự phát giác được, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng. Chúng Sanh Trược
là sanh diệt chẳng ngừng, nghiệp báo thường lưu chuyển, luân hồi thành
đủ thứ chúng sanh, dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi
là Chúng Sanh Trược.
(2) Phân Vị:
Luận về thường, vô
thường, nói về tánh thì thuộc kiến phần; biên vô biên. Nói về phân vị
thì thuộc tướng phần. Bốn thứ Hữu Biên Luận nói về phân vị: Một
là phân vị tam tế, quá khứ, hiện tại, vị lai, hai là phân vị kiến văn,
ba là phân vị nhân ngã, bốn là phân vị sanh diệt, đều bị kẹt trong phân
vị của Hành Ấm mà sanh ra vọng tâm so đo.
(3) Hậu Hậu Vô:
Vì trước kia thấy
có hành ấm mà chẳng có thọ tưởng, sau này hành ấm cũng chẳng có; trước
kia thấy sau khi chết chẳng tướng là chỉ nói về một chỗ thân diệt
mà thôi, nay truy cứu hết bảy chỗ tận diệt chẳng sanh nữa: thân diệt
thuộc dục giới, gồm cõi trời và cõi người, sắc dục diệt thuộc Sơ
thiền, khổ diệt thuộc Nhị thiền, cực lạc diệt thuộc Tam Thiền, cực
xả diệt thuộc Tứ Thiền, dù chỉ nói 5 chỗ diệt, kỳ thật gồm hai
cõi Vô Sắc (Không Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ) là bảy chỗ diệt. Đây
là lọt vào Vô Tưởng Thiên ngoại đạo, giống như Tỳ Kheo Vô Văn, đồng
một đoạn kiến, tự nói chứng quả, chẳng thọ sanh nữa, nên lập sau
khi chết đoạn-diệt-luận.
(4) Hậu Hậu Hữu:
Trước đã nói là Hậu
Hậu Vô, rồi nay tại sao lại nói Hậu Hậu Hữu? Bởi vì cái cội gốc sanh diệt lăng xăng
này là chẳng thể diệt được vì chưa đến chỗ chơn tịch diệt, mà vọng
thấy chỗ diệt có sự chứng đắc, nên nói Hậu Hậu Hữu. Vì Hành Ấm
được tạm ngưng sát na tánh viên minh hơi hiện, bèn cho là chẳng sanh diệt,
tức là Niết Bàn, do so đo thành có năm chỗ Niết Bàn vậy.
(5) Điên Đảo Vọng
Tưởng và Mệnh Trược:
Thức Ấm tại sao gọi
là Điên Đảo Vọng Tưởng? Vì chấp võng tượng hư vô, “Võng” thì giống
như là không. “Tượng” thì giống như là có, như có như không, trở
thành hư vô. Hư vô là thể của Chơn Như, chẳng sanh chẳng diệt, nay có
võng tượng là bóng sanh diệt của thức thứ tám. Nếu nương theo Chơn
Như thì gọi là Chánh Giác, nếu nương theo thức thứ tám thì gọi là vọng
giác, vì chấp cái võng tượng hư vô này, nên thành điên đảo vọng tưởng.
Sinh mệnh là do sự hô hấp, sức ấm của cơ thể và ý thức ba thứ hòa
hợp mà thành, dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Mệnh
Trược.
(6) Năng Phi Năng:
Chấp ta năng sanh tất
cả chúng sanh (tâm năng vi), nhưng sự thật thì chẳng có cái năng lực ấy
(quả năng sự).
(7) Tham Phi Tham:
Thân vốn vô thường,
chẳng thể tham được, nay khởi tâm chấp thật, tham cầu trường thọ,
tham cái không thể tham gọi là tham phi tham.
(8) Lập tâm viên
giác thành cái quả trạm minh.
Lấy cái giác làm
viên minh: cho là “viên” thì bị kẹt ở nơi viên, cho là ”minh”, thì bị
kẹt nơi minh. Là “minh” thì chẳng mê ở nơi nhân quả cảm ứng; là “viên”
nên chẳng mê vào chỗ “diệt rồi là xong”, từ đó truy cứu sự thâm
diệu, thâm lại càng thâm, chẳng đọa nơi hữu, diệu lại thêm diệu, chẳng
đọa nơi Vô, thì ở chỗ “Phi hữu phi vô” này lập cái Niết Bàn chẳng
sanh chẳng diệt, cố chấp không thể hóa giải được, nên chẳng cầu tiến
thêm, thành quả định tánh Bích Chi.
- ~~oOo~~