- KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
- Dịch từ Hán sang Việt và lược giải
- Từ Ân
Thiền
Đường, Santa Ana Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
(QUYỂN
SÁU)
Lúc bấy
giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- Con nhớ
khi xưa, từ vô số hằng sa kiếp trước có Phật Quán Thế Âm ra đời,
con phát tâm Bồ Đề nơi Phật ấy, Phật dạy con từ Văn, Tư, Tu nhập Tam
Ma Địa (Văn, Tư, Tu là Văn nơi tai, Tư nơi Tâm, Tu nơi Hạnh).
- Bước
đầu ở trong sự nghe được nhập lưu (chẳng chạy theo lục trần) mà
quên cái sở nghe (vong, sở: vong nghĩa là quên). Sở nhập đã tịch, thì
hai tướng động và tịnh chẳng sanh, như thế dần dần tiến thêm, thì năng
nghe và sở nghe đều hết; sự hết năng sở của nghe cũng chẳng trụ. Còn
biết chẳng trụ thì còn năng giác và sở giác, nên phải Không cái năng
giác sở giác, thì sự Không giác ấy mới cực viên tròn; năng giác sở
giác được Không đến cùng tột, là nhập vào chỗ Không, nhập vào chỗ
Không thì còn trụ nơi Không, nên năng không sở không cũng phải diệt.
Năng sở của Không diệt rồi thì tất cả sự sanh và diệt đều hết,
sanh diệt đã diệt, thì tịch diệt hiện tiền, thình lình siêu việt thế
gian và xuất thế gian. Đến đây, khắp mười phương pháp giới đều sáng
tỏ, được hai thứ thù thắng tròn đầy sáng tỏ:
l. Trên khế
hợp với giác tâm vốn huyền diệu của mười phương chư Phật, với Như
Lai đồng một Từ Lực (Phật độ chúng sanh cho vui, nhưng không có năng độ,
gọi là Vô Duyên Từ).
2. Dưới khế hợp
với tất cả mười phương chúng sanh lục đạo, với tất cả chúng sanh
đồng một Bi Ngưỡng (chúng sanh cầu Phật độ lìa khổ, nhưng không có sở
độ, gọi là Đồng Thể Bi).
Thế Tôn!
Do con cúng dường Quán Âm Như Lai, Phật dạy con y tánh Văn như huyễn, huân
tu Kim Cang Tam Muội. Vì với chư Phật đồng một Từ Lực, nên khiến con
được thành tựu 32 ứng thân vào các quốc độ.
1. Thế
Tôn! Nếu chư Bồ Tát vào Tam Ma Địa tu pháp vô lậu, thắng giải đầy đủ,
thì con hiện thân Phật, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
2. Nếu có
hàng hữu học được tịch tịnh diệu minh, thắng giải đầy đủ, thì
con hiện thân Độc Giác, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
3. Nếu có
hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên được thắng tánh hiện tiền,
thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Duyên Giác, thuyết pháp cho họ,
khiến được giải thoát.
4. Nếu có
hàng hữu học tu Đạo nhập diệt, được pháp Không của Tứ Thánh Đế,
thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Thanh Văn, thuyết pháp cho họ,
khiến được giải thoát.
5. Nếu có
chúng sanh, muốn tâm minh ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch,
thì con hiện thân Phạn Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
6. Nếu có
chúng sanh, muốn làm thiên chủ, lãnh đạo chư thiên, thì con hiện thân Đế
Thích, thuyết pháp cho họ khiến được thành tựu.
7. Nếu có
chúng sanh, muốn thân được tự tại, đi khắp mười phương, thì con hiện
thân Tự Tại Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
8. Nếu có
chúng sanh, muốn thân được tự tại, bay khắp hư không, thì con hiện
thân Đại Tự Tại Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
9. Nếu có
chúng sanh, muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp quốc độ, thì con hiện
thân Thiên Đại Tướng Quân, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
10. Nếu có chúng
sanh, thích thống lãnh thế giới, bảo vệ chúng sanh, thì con hiện thân Tứ
Thiên Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
11. Nếu có chúng
sanh, muốn sanh nơi thiên cung, sai khiến quỷ thần, thì con hiện thân Thái
Tử của Tứ Thiên Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
12. Nếu có chúng
sanh, muốn làm vua cõi người, thì con hiện thân vua, thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.
13. Nếu có chúng
sanh, thích làm chủ các dòng quý tộc, mọi người cung kính, thì con hiện
thân trưởng giả, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
14. Nếu có chúng
sanh, thích đàm luận những lời hay giữ mình trong sạch, thì con hiện
thân Cư Sĩ, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
15. Nếu có chúng
sanh, thích cai trị việc nước, trông coi các ban ấp, thì con hiện thân Tể
quan, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
16. Nếu có chúng
sanh, thích các số thuật, tự nhiếp tâm giữ thân, thì con hiện thân Bà
La Môn, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
17. Nếu có thiện nam
tử, ham học pháp xuất gia, giữ gìn giới luật, thì con hiện thân Tỳ
Kheo, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
18. Nếu có thiện nữ
nhân, ham học pháp xuất gia, trì các giới cấm, thì con hiện thân Tỳ Kheo
Ni, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
19. Nếu có thiện nam
tử, thích giữ ngũ giới, thì con hiện thân Ưu Bà Tắc, thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.
20. Nếu có thiện nữ
nhân, tự giữ ngũ giới, thì con hiện thân Ưu Bà Di, thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.
21. Nếu có thiện nữ
nhân, lập thân trong cung vua, chủ việc nội chính, giúp việc nước nhà,
thì con hiện thân nữ chủ (hoàng hậu), hay phu nhân, mệnh phụ, đại gia
(nữ giáo sư của hoàng hậu và các cung phi), thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.
22. Nếu có con trai,
chẳng hoại trinh nam, thì con hiện thân đồng nam, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.
23. Nếu có con gái,
muốn giữ trinh nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, thì con hiện thân đồng nữ,
thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
24. Nếu có chư Thiên,
muốn ra khỏi loài trời, thì con hiện thân chư Thiên, thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.
25. Nếu có con Rồng,
muốn ra khỏi loài rồng, thì con hiện thân rồng, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.
26. Nếu có Dược Xoa
(l) muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Dược Xoa, thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.
27. Nếu có Càn thát
Bà (2) muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Càn Thát Bà, thuyết pháp
cho họ, khiến được thành tựu.
28. Nếu có A Tu La, muốn
thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân A Tu La, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.
29. Nếu có Khẩn Na
La (3), muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân Khẩn Na La, thuyết
pháp cho họ, khiến được thành tựu.
30. Nếu có Ma Hầu La
Già (4) muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân Ma Hầu La Già, thuyết
pháp cho họ, khiến được thành tựu.
31. Nếu có chúng sanh
thích làm người, tu nghiệp người, thì con hiện thân người, thuyết pháp
cho họ, khiến được thành tựu.
32. Nếu có loài phi
nhân, hoặc có hình, hoặc vô hình, hoặc có tưởng, hoặc vô tưởng, muốn
thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân như họ, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.
- Ấy gọi
là 32 ứng thân nhiệm mầu vào các quốc độ, những thân ấy đều do vô
tác diệu lực của sự huân tu tam muội tự tại thành tựu.
- Thế
Tôn! Con lại dùng vô tác diệu lực của sự huân tu Kim Cang Tam Muội này,
cùng với tất cả chúng sanh lục đạo trong mười phương tam thế đồng một
Bi Ngưỡng, nên khiến các chúng sanh nơi thân tâm con được 14 thứ công đức
vô úy:
l. Do con chẳng
quán âm thanh, tự quán kẻ quán, khiến chúng sanh khổ não mười phương tự
quán âm thanh, liền được giải thoát.
2. Xoay tri
kiến về bản tri, khiến chúng sanh dù vào đống lửa, lửa chẳng thể cháy.
3. Xoay cái
nghe về bản văn, khiến chúng sanh bị nước cuốn trôi mà chẳng chìm đắm.
4. Vọng tưởng
dứt sạch, tâm chẳng sát hại, khiến chúng sanh vào xứ quỷ, quỷ chẳng
thể hại.
5. Huân tập
cái nghe thành Bản Văn, tiêu cả lục căn thành một tánh Văn, khiến chúng
sanh đang lúc bị giết hại, dao gãy từng đoạn, các binh khí chạm vào
thân người, như cắt dòng nước, như thổi ánh sáng, mà bản tánh chẳng
lay động.
6. Huân tập
tánh Văn thuần nhất sáng tỏ, chiếu khắp pháp giới, dẹp tan tối tăm,
khiến chúng sanh dù gặp các loài Dược Xoa, La Sát, yêu mị, quỷ thần ở
gần bên cạnh mắt họ chẳng thể nhìn thấy.
7. Âm thanh
tiêu sạch, tánh nghe trở vào, thoát khỏi trần vọng, khiến chúng sanh gặp
những thứ gông, cùm, xiềng, xích đều chẳng thể trói buộc.
8. Âm thanh
tiêu diệt, tánh Văn viên mãn, Từ Lực khắp nơi, khiến chúng sanh đi qua
chỗ nguy hiểm, chẳng bị giặc cướp.
9. Huân tu
tánh Văn, xa lìa cảnh trần, sắc dục chẳng thể lôi kéo, khiến tất cả
chúng sanh đa dâm xa lìa tham dục.
10. Thuần âm vô trần,
căn trần viên dung, chẳng năng sở đối đãi, khiến tất cả chúng sanh
hay giận dữ lìa bỏ sân hận.
11. Xoay minh tiêu trần,
trở về bản tánh, cả pháp giới, thân tâm đều như lưu ly, thấu triệt
vô ngại, khiến những kẻ ngu muội chẳng tin Phật pháp, xa lìa hẳn sự
si mê ám muội.
12. Tiêu dung hình thể,
trở về bản Văn, ngồi bất động đạo tràng, vào thế gian mà chẳng hoại
pháp thế gian, đi khắp mười phương, cúng dường vô số Như Lai, nơi mỗi
Như Lai làm Pháp Vương Tử, khi pháp giới chúng sanh cầu sanh con trai, được
con trai có phước đức trí huệ.
13. Lục căn viên
thông, sáng và soi không hai, khắp mười phương thế giới, lập Đại Viên
Cảnh, Không Như Lai Tạng, thừa nhận pháp môn bí mật của vô số Như
Lai, chẳng có thiếu sót, khiến pháp giới chúng sanh cầu sanh con gái, được
con gái có tướng tốt, đoan chính, phước đức, dịu dàng, được mọi
người yêu mến.
14. Trăm ức nhựt
nguyệt chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới này, trong đó có 62 hằng
sa pháp vương tử đang trụ trì nơi thế gian, tu chánh pháp, làm mô phạm,
mỗi mỗi dùng phương tiện và trí huệ chẳng đồng, tùy thuận căn tánh
mọi người để giáo hóa chúng sanh.
- Do con
được Nhĩ Căn viên thông, phát ra diệu dụng, nên thân tâm vi diệu, cùng
khắp pháp giới, khiến chúng sanh người trì danh hiệu con so với người
trì danh hiệu của 62 hằng sa Pháp Vương Tử, hai người được phước đức
bằng nhau.
- Thế
Tôn! Sở dĩ một danh hiệu của con cân xứng với nhiều danh hiệu kia, là
do con tu tập đắc chơn viên thông, ấy gọi là mười bốn thứ sức vô
úy, thí cho chúng sanh phước đức đầy đủ.
Thế Tôn!
Do con tu chứng Vô Thượng Đạo, được căn viên thông này, nên khéo được
bốn thứ diệu đức vô tác bất khả tư nghì:
l. Do con
được Bản Văn huyền diệu, tâm diệu lìa văn: Kiến, Văn, Giác, Tri thành
một bửu giác viên dung trong sạch, chẳng thể chia cách, nên hay hiện nhiều
dung mạo vi diệu, thuyết vô biên bí mật thần chú, trong đó từ một đến
tám vạn bốn ngàn con mắt và cánh tay, tùy nghi thị hiện, hoặc từ hoặc
oai, hoặc định hoặc huệ, cứu giúp chúng sanh được tự tại.
2. Do sự Văn
Tư của con thoát khỏi lục trần, như âm thanh vượt qua bức tường, chẳng
bị ngăn ngại, nên con khéo hiện mỗi mỗi hình, mỗi mỗi chú, những
hình những chú, đều hay thí cho chúng sanh được sức vô úy. Vì thế, mười
phương vô số quốc độ đều gọi con là người Thí Vô Úy.
3. Do con tu
tập Nhĩ Căn trong sạch, được diệu tâm viên thông, nên đi khắp thế giới,
đều có thể khiến chúng sanh xả bỏ thân mạng và châu báu cầu con thương
xót.
4. Con được
ngộ tâm Phật, chứng nơi cứu cánh, hay dùng các thứ châu báu cúng dường
mười phương Như Lai, cho đến chúng sanh lục đạo trong pháp giới, cầu vợ
được vợ, cầu con được con, cầu sống lâu được sống lâu, cầu
chánh định được chánh định, như thế cho đến cầu Đại Niết Bàn
được Đại Niết Bàn.
- Phật
hỏi về viên thông, con từ Nhĩ Căn vào Viên Chiếu Tam Muội, Tùy Tâm tự
Tại, Từ Sự Nghe Nhập Lưu, cho đến Đắc Tam Ma Địa, Thành Tựu Bồ Đề
là hơn cả.
- Thế
Tôn! Như Lai khen con khéo được pháp môn viên thông, ở trong hội thọ ký
cho con hiệu là Quán Thế Âm, do con quán âm sáng tỏ mười phương, nên
danh hiệu QUÁN ÂM khắp mười phương thế giới.
Bấy giờ,
Thế Tôn nơi tòa Sư Tử, từ ngũ thể cùng phóng hào quang, chiếu soi đỉnh
đầu của mười phương vô số Như Lai, với các Pháp Vương Tử và chư Bồ
Tát; các Như Lai ấy cũng trong ngũ thể cùng phóng hào quang, từ mọi nơi
chiếu đến đỉnh đầu của Phật, với chư Đại Bồ Tát và A La Hán
trong hội. Rừng cây, ao hồ đều diễn pháp âm, hào quang giao xen như lưới
báu, đại chúng được pháp chưa từng có, tất cả đều được Kim Cang
Tam Muội. Tức thời, trời mưa bách bửu liên hoa, xanh, vàng, đỏ, trắng,
xen lộn lẫn nhau; mười phương hư không hóa thành màu sắc thất bửu,
núi sông, đất đai nơi cõi Ta Bà này đều ẩn mất, chỉ thấy mười
phương vô số quốc độ hợp thành một cõi, ca nhạc vang lừng, tự nhiên
hòa tấu.
Lúc đó,
Như Lai bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:
-
Ngươi hãy xem 25 vị vô học Đại Bồ Tát và A La Hán này, mỗi mỗi trình
bày phương tiện thành đạo lúc ban đầu, đều nói tu tập viên thông chơn
thật, lối tu của họ thật chẳng hơn kém và chẳng trước sau sai biệt.
Nay ta muốn khiến A Nan khai ngộ, trong 25 lối tu, lối nào thích hợp, và
sau khi ta diệt độ, chúng sanh trong cõi này muốn vào Bồ Tát thừa, cầu
đạo Vô Thượng, từ cửa phương tiện nào để được thành tựu?
Văn Thù
Sư Lợi Pháp Vương Tử vâng theo ý chỉ của Phật, liền đứng dậy đảnh
lễ chân Phật, thừa oai thần của Phật, nói kệ đáp rằng:
CHÁNH VĂN
DỊCH
NGHĨA
- - Giác
hải tánh trừng viên,
-
Biển giác tánh trong lặng,
- Viên trừng
giác nguyên diệu,
Vốn
đầy đủ vi diệu,
- Nguyên
minh chiếu sanh sơ,û
Chấp
sáng sanh sở chiếu,
- Sở lập
chiếu tánh vong.
Sở
lập tánh chiếu mất.
- - Mê vọng
hữu hư không,
-
Mê vọng có hư không.
- Y Không
lập thế giới,
Do
Không lập thế giới,
- Tưởng
trừng thành quốc độ,
Tưởng
lặng thành Quốc Độ,
- Tri giác
nải chúng sanh.
Tri
giác là chúng sanh.
- - Không
sanh Đại Giác trung,
-
“Không” sanh nơi Đại Giác
- Như hải
nhất âu phát.
Như
biển nổi một bọt.
- Hữu lậu
vi trần quốc,
Vô
số nước hữu lậu,
- Giai y
Không sở sanh
Đều
từ Không sanh khởi,
- Âu diệt
Không bổn vô,
Bọt
bể Không đã diệt
- Huống
phục chư tam hữu.
Đâu
thể còn tam giới.
- - Qui
nguyên tánh vô nhị,
-
Về cội tánh chẳng hai,
- Phương
tiện hữu đa môn,
Phương
tiện có nhiều lối,
- Thánh
tánh vô bất thông,
Bậc
Thánh chẳng ngăn ngại,
- Thuận
nghịch giai phương tiện.
Thuận
nghịch đều tùy nghi.
- Sơ tâm
nhập tam muội,
Sơ
cơ vào chánh định,
- Trì tốc
bất đồng luân.
Nhanh
chậm chẳng đồng nhau.
- - Sắc
tưởng kết thành trần,
-
Quán Sắc thành nội trần,
- Tinh liễu
bất năng triệt.
Tinh
vi chẳng thấu triệt.
- Như hà
bất minh triệt,
Nếu
đã chẳng thấu triệt,
- Ư thị
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Âm
thanh tập ngữ ngôn,
-
Âm thanh lộn ngữ ngôn,
- Đản y
danh cú vị.
Chỉ
nương tựa lời Phật.
- Nhất
phi hàn nhất thiết,
Một
chẳng gồm tất cả,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Hương
dĩ hiệp trung tri,
-
Hương do hợp mới biết,
- Ly tắc
nguyên vô hữu.
Ly
thì chẳng có mùi.
- Bất hằng
kỳ sở giác,
Hợp
ly tánh chẳng thường,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Vị
tánh phi bổn nhiên,
-
Mùi vị chẳng tự sanh,
- Yếu dĩ
vị thời hữu,
Đợi
khi nếm mới có,
- Kỳ
giác bất hằng nhất,
Vị
giác chẳng thường còn,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Xúc dĩ
sở xúc minh,
-
Xúc phải có sở xúc,
- Vô sở
bất minh xúc,
Chẳng
sở thì chẳng xúc,
- Hợp ly
tánh phi định,
Hợp
ly tánh chẳng định.
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Pháp
xưng vi nội trần,
-
Pháp gọi là nội trần,
- Bằng
trần tất hữu sở.
Nương
trần ắt có sở.
- Năng sở
phi biến thiệp,
Năng
sở chẳng cùng khắp,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Kiến
tánh tuy động nhiên,
-
Tánh kiến dù rõ ràng,
- Minh tiền
bất minh hậu,
Thấy
trước chẳng thấy sau,
- Tứ duy
khuy nhất bán,
Bốn
phía thiếu một nửa,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Tỷ tức
xuất nhập thông,
-
Hơi Thở thông ra vào,
- Hiện
tiền vô giao khí,
Quán
đến chẳng giao khí, (Giống như nín thở)
- Chi ly
phi thiệp nhập,
Lìa
thở chẳng ngộ nhập,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Thiệt
phi nhập vô đoạn,
-
Thiệt nhập chẳng vô cớ,
- Nhân vị
sanh giác liễu,
Do
vị sanh giác tri,
- Vị
vong liễu vô hữu,
Vị
mất giác cũng mất,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Thân
dữ sở xúc đồng,
-
Thân với xúc đồng nhau, (5)
- Các phi
viên giác quán,
Chẳng
phải Viên Giác Quán,
- Nhai lượng
bất minh hội,
Chẳng
hội không ngằn mé,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Tri căn
tạp loạn tư,
-
Ý căn lộn vọng tưởng,
- Trạm
liễu chung vô kiến,
Chẳng
thấy tánh trong lặng,
- Tưởng
niệm bất khả thoát,
Tưởng
niệm chẳng giải thoát,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Thức
kiến tạp tam hòa,
-
Kiến, Tướng, Thức hòa hợp,
- Cật bổn
xưng phi tướng,
Cả
ba vốn chẳng tướng,
- Tự thể
tiên vô định,
Tự
thể đã chẳng định,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Tâm Văn
động thập phương,
-
Tâm Văn khắp mười phương,
- Sanh ư
đại nhân lực,
Sanh nơi đại
nguyện lực,
- Sơ tâm
bất năng nhập,
Sơ
cơ, chẳng thể vào,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Tỷ Tưởng
bổn quyền cơ,
-
Quán Mũi là phương tiện,
- Chỉ
linh nhiếp tâm trụ,
Chỉ
khiến nhiếp tâm trụ,
- Trụ
thành tâm sở trụ,
Trụ
thành tâm sở tru,ï (6)
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Thuyết
pháp lộng âm văn,
-
Thuyết Pháp dùng âm thanh,
- Khai ngộ
tiên thành giả,
Khai
ngộ người đã thành,
- Danh cú
phi vô lậu,
Lời
nói chẳng vô lậu,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Trì
Phạm đản thúc thân,
-
Trì Phạm chỉ trói thân,
- Phi
thân vô sở thúc,
Phi
thân chẳng thể trói,
- Nguyên
phi biến nhất thiết,
Vốn
chẳng khắp tất cả,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Thần
Thông bổn túc nhân,
-
Thần Thông vốn sẵn đủ,
- Hà quan
pháp phân biệt,
Chẳng
do luyện mới có,
- Niệm
duyên phi ly vật,
Tác
ý không lìa vật,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ Địa tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh Địa,
- Kiên ngại
phi thông đạt,
Ngăn
ngại chẳng thông suốt,
- Hũu vi
phi thánh tánh,
Hữu
vi chẳng phải thánh,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ Thủy tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh Thủy,
- Tưởng
niệm phi chơn thật,
Niệm
tưởng chẳng chơn thật,
- Như
như phi giác quán,
Giác
quán chẳng như như,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ hoả tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh hỏa,
- Yếm hữu
phi chơn ly,
Có
chán chẳng phải chơn, (chơn giải thoát)
- Phi sơ
tâm phương tiện,
Chẳng
thích hợp sơ cơ,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ Phong tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh Phong,
- Động
tịch phi vô đối,
Động
tịch là đối đãi,
- Đối
phi vô thượng giác,
Chẳng
phải vô thượng giác,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ Không tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh Không,
- Hỗn độn
tiên phi giác,
Ngoan
không chẳng phải giác,
- Vô
giác dị Bồ Đề,
Chẳng
giác nghịch Bồ Đề,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Nhược
dĩ Thức tánh quán,
-
Nếu quán theo tánh Thức,
- Quán thức
phi thường trụ,
Sanh
diệt chẳng thường trụ,
- Tồn tâm
mãi hư vọng,
Trạm
nhiên vẫn hư vọng,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Chư hạnh
thị vô thường,
-
Các hạnh là vô thường,
- Niệm tánh
nguyên sanh diệt,
Tánh
niệm vốn sanh diệt,
- Nhân quả
kim thù cảm,
Nhân
với quả khác nhau,
- Vân hà
hoạch viên thông?
Làm
sao được viên thông?
- - Ngã
kim bạch Thế Tôn,
-
Nay con bạch Thế Tôn,
- Phật
xuất Ta Bà giới,
Phật
hiện cõi Ta Bà,
- Thử phương
chơn giáo thể,
Giáo
thể ở cõi này,
- Thanh tịnh
tại âm văn,
Âm
văn trong sạch nhất,
- Dục thủ
Tam Ma Đề,
Muốn
đắc Tam Ma địa,
- Thiệt
dĩ Văn trung nhập,
Nên
từ Văn mà vào,
- Ly khổ
đắc giải thoát,
Lành
thay Quán Thế Âm,
- Lương
tai Quán Thế Âm,
Lìa
khổ được giải thoát,
- Ư hằng
sa kiếp trung,
Trải
qua hằng sa kiếp,
- Nhập
vi trần Phật quốc,
Vào
vô số cõi Phật,
- Đắc
đại tự tại lực,
Dùng
sức đại tự tại,
- Vô úy
thí chúng sanh,
Thí
chúng sanh vô úy,
- Diệu
âm Quán Thế Âm,
Diệu
âm Quán Thế Âm,
- Phạn
âm hải triều âm,
Phạn
âm hải triều âm,
- Cứu thế
tất an ninh,
Cứu
thế đều an lành,
- Xuất
thế hoạch thường trụ.
Xuất
thế được thường trụ.
- - Ngã
kim khải Như Lai,
-
Nay xin bạch Như Lai,
- Như Quán
Âm sở thuyết,
Theo
lời Quán Âm nói,
- Thí như
nhân định cư,
Như
người đang yên tịnh,
- Thập
phương cụ kích cổ,
Mười
phương đồng đánh trống,
- Thập xứ
nhất thời văn,
Mười
chỗ nghe một lượt,
- Thử tắc
viên chơn thật.
Là viên thông
chơn thật.
- - Mục
phi quán chướng ngại,
-
Mắt chẳng thấu chướng ngại,
- Khẩu tỷ
diệc phục nhiên,
Miệng
mũi cũng như thế,
- Thân dĩ
hiệp phương tri,
Thân
xúc hợp mới biết,
- Tâm niệm
phân vô tự.
Tâm
niệm thì lăng xăng.
- Cách
viên thính âm hưởng,
Cách
tường nghe âm vang,
- Hà nhĩ
câu khả văn,
Xa
gần đều nghe được,
- Ngũ
căn sở bất tề,
Ngũ
căn chẳng thể bằng,
- Thị tắc
thông chơn thật.
Là
viên thông chơn thật.
- - Âm
thanh tánh động tịnh,
-
Âm thanh có động tịnh,
- Văn
trung vi hữu vô,
Nơi
nghe thành có không,
- Vô
thanh hiệu vô văn,
Tiếng
dứt gọi chẳng nghe,
- Phi thật
văn vô tánh.
Đâu
phải dứt tánh nghe.
- Thanh
vô ký vô diệt,
Chẳng
tiếng, nghe chẳng diệt,
- Thanh hữu
diệc phi sanh.
Có
tiếng, nghe chẳng sanh.
- Sanh diệt
nhị viên ly,
Sanh
diệt thảy đều lìa,
- Thị tắc
thường chơn thật,
Ấy
là thường chơn thật,
- Túng
linh tại mộng tưởng,
Dẫu
lúc đang nằm mơ,
- Bất vi
bất tư vô,
Không
tưởng nghe vẫn còn,
- Giác
quán xuất tư duy,
Giác
quán vượt suy tư,
- Thân
tâm bất năng cập.
Thân
tâm chẳng thể đến.
- Kim thử
Ta Bà Quốc,
Nay
cõi Ta Bà này,
- Thanh luận
đắc tuyên minh.
Thanh
giáo được giảng rõ.
- Chúng
sanh mê bổn văn,
Chúng
sanh mê Bản Văn,
- Tuần
thanh cố lưu chuyển,
Đuổi
theo tiếng lưu chuyển,
- A Nan túng
cường ký,
A
Nan dù nhớ hay,
- Bất miễn
lạc tà tư.
Chẳng
khỏi kẹt tà tưởng.
- Khởi
phi tùy sở luân,
Theo
vật bị chìm đắm,
- Triền
lưu hoạch vô vọng,
Phản
văn được lìa vọng,
- A Nan ngữ
đế thính,
A
Nan hãy lắng nghe,
- Ngã thừa
Phật oai lực,
Ta
thừa oai thần Phật,
- Tuyên
thuyết Kim Cang Vương,
Khai
giảng pháp Kim Cang,
- Như huyễn
bất tư nghì,
Chánh
định sanh chư Phật,
- Phật mẫu
chơn tam muội.
Như
huyễn bất tư nghì.
- - Ngữ
văn vi trần Phật,
-
Ngươi nghe vô số Phật,
- Nhất
thiết bí mật môn.
Tất
cả pháp bí mật.
- Dục lậu
bất tiên trừ,
Nếu
chẳng trừ dục lậu,
- Súc văn
thành quá ngộ,
Chấp
nghe thành lỗi lầm,
- Tương
văn trì Phật Phật,
Dùng
nghe, chấp lời Phật,
- Hà bất
tự văn văn?
Đâu
bằng nghe bản văn?
- - Văn
phi tự nhiên sanh,
-
Nghe chẳng tự nhiên sanh,
- Nhân
thanh hữu danh tự,
Do
tiếng có tên “nghe”,
- Triền
văn dữ thanh thoát,
Xoay
nghe thoát khỏi tiếng,
- Năng
thoát dục thùy danh?
Đặt
tên “nghe” cho ai?
- - Nhất
căn ký phản nguyên,
-
Nhất căn trở về cội,
- Lục
căn thành giải thoát,
Lục
căn thành giải thoát,
- Kiến văn
như huyễn ế,
Kiến
văn như bệnh nhặm,
- Tam giới
nhược không hoa.
Tam
giới như hoa đốm.
- Văn phục
ế căn trừ,
Phản
văn bệnh nhặm trừ,
- Trần
tiêu giác viên tịnh,
Trần
tiêu, giác trong sạch,
- Tịnh cực
quang thông đạt,
Cực
trong sáng thông suốt,
- Tịch
chiếu hàm hư không.
Chiếu
soi khắp hư không.
- Khước
lai quán thế gian,
Trở
lại xem thế gian,
- Do như
mộng trung sự.
Đều
như việc trong mộng.
- Ma
Đăng Già tại mộng,
Ma
Đăng Già trong mộng,
- Thùy năng
lưu nhữ hình!
Sao
nhiếp được thân ngươi!
- - Như
thế xảo huyễn sư,
-
Như người khéo huyễn thuật,
- Huyễn
tác chư nam nữ,
Làm
ra hình nam nữ,
- Tuy kiến
chư căn động,
Dù
thấy lục căn động,
- Yếu
dĩ nhất cơ trừu.
Do
sợi dây điều khiển
- Tức
cơ quy tịch nhiên,
Vì
huyễn vốn chẳng tánh,
- Chư huyễn
thành vô tánh.
Dây
ngưng thành vắng lặng.
- Lục căn
diệc như thị,
Lục
căn cũng như vậy,
- Nguyên
y nhất tinh minh,
Dựa
nhất tâm sáng tỏ,
- Phân
thành lục hòa hiệp,
Chia
thành lục hòa hợp,
- Nhất xứ
thành hưu phục.
Nhất
căn đã về cội.
- Lục dụng
giai bất thành.
Lục
dụng đều chẳng thành.
- Trần cấu
ứng niệm tiêu,
Trần
cấu ngay đó tiêu,
- Thành
viên minh tịnh diệu.
Thành
sáng tỏ trong sạch.
- Dư trần
thượng chư học,
Ngôi
học còn dính bụi, (7)
- Minh cực
tức Như Lai.
Cực
sáng tức Như Lai.
- - Đại
chúng cập A Nan,
-
Đại chúng và A Nan,
- Triền
nhữ đảo văn cơ.
Xoay
cái văn điên đảo.
- Phản
văn văn tự tánh,
Phản
văn bản tánh văn, (8)
- Tánh
thành vô thượng đạo,
Mới
thành vô thượng đạo,
- Viên
thông thật như thị.
Viên
thông thật như thế.
- - Thử
thị vi trần Phật,
-
Đây là vô số Phật,
- Nhất lộ
Niết Bàn môn.
Một
cửa vào Niết Bàn.
- Quá khứ
chư Như Lai,
Quá
khứ chư Như Lai,
- Tư môn
dĩ thành tựu,
Do
cửa này thành tựu,
- Hiện tại
chư Bồ Tát.
Hiện
tại chư Bồ Tát.
- Kim các
nhập viên minh,
Mỗi
mỗi vào diệu minh,
- Vị lai
tu học nhân,
Người
tu học vị lai,
- Đương
y như thị pháp.
Nên
y theo pháp này.
- Ngã diệc
tùng trung chứng,
Chẳng
những Quán Thế Âm,
- Phi duy
Quán Thế Âm,
Ta
chứng cũng cửa này,
- - Thành
như Phật Thế Tôn,
-
Đúng như lời Thế Tôn,
- Tuân
ngã chư phương tiện,
Hỏi
về các phương tiện,
- Dĩ cứu
chư mạt kiếp,
Để
cứu độ mạt kiếp,
- Cầu xuất
thế gian nhân,
Người
cầu pháp xuất thế,
- Thành tựu
Niết Bàn tâm,
Thành
tựu tâm Niết Bàn,
- Quán Thế
Âm vi tối.
Quán
Thế Âm hơn cả.
- - Tự
dư chư phương tiện,
-
Ngoài ra phương tiện khác,
- Giai thị
Phật oai thần,
Đều
là oai thần Phật,
- Tức sự
xả trần lao,
Sâu
cạn tùy cơ thuyết,
- Phi thị
thường tu học,
Khiến
xả bỏ trần lao.
- Thiển
thâm đồng thuyết pháp.
Chẳng
phải lối tu chánh.
- - Đảnh
lễ Như Lai tạng.
-
Đảnh lễ Như Lai tạng,
- Vô lậu
bất tư nghì,
Vô
lậu bất tư nghì,
- Nguyện
gia bị vị lai,
Nguyện
giúp đỡ đời sau,
- Ư thử
môn vô hoặc,
Chẳng
lầm nơi cửa này,
- Phương
tiện dị thành tựu,
Phương
tiện dễ thành tựu,
- Khâm dĩ
giáo A Nan,
Để
dạy cho A Nan,
- Cặp mạt
kiếp trầm luân,
Và
chúng sanh mạt kiếp,
- Đản
dĩ thử căn tu,
Cứ
theo căn này tu,
- Viên
thông siêu dư giả,
Viên
thông hơn pháp khác,
- Chơn thật
tâm như thị.
Thế
là tâm chơn thật.
GHI CHÚ
(l): Dược
xoa (nhẹ nhàng, nhanh chóng), có ba loại:
Địa
Dược Xoa: Dùng tài thí nên chẳng thể bay.
Không Dược
Xoa: Thiên Dược Xoa: Dùng xe cộ bố thí nên bay được.
Khi Phật
chuyển pháp luân. Địa Dược Xoa ca ngợi, Không Dược Xoa nghe. Thiên Dược
Xoa ca ngợi. Tứ Thiên Vương cho đến Phạm Thiên nghe.
(2) Càn Thát Bà (tìm
mùi hương): Nhạc thần của Đế Thích.
(3) Khẩn Na La: Phi
nhân, giống người mà đầu có sừng.
(4) Ma Hầu La Già: Đại
mãnh xà, bụng lớn.
(5) Thân với xúc đồng
nhau, chẳng phải viên giác quán:
Sự
xúc giác rõ ràng, chỉ có thân mới biết, quên thân thuần giác, cũng chẳng
phải viên giác, phải như Viên Giác Quán, thân tâm đều siêu việt, chẳng
có ngằn mé, mới có thể chẳng nhờ thân biết mà thầm hội (ngộ) vạn
pháp. Nay có thân có xúc, thì sự biết có ngằn mé, chẳng phải viên
thông vậy.
(6) Trụ thành chấp sở
trụ, làm sao được viên thông.
Sự nhiếp
tâm thật là khó, trước kia tán loạn chỉ e chẳng trụ, sau được tịch
tịnh, lại thành sở trụ của tâm. Trụ và chẳng trụ đều chẳng phải
bản thể của vô trụ, nên chẳng được viên thông.
(7) Ngôi học còn
dính bụi, cực sáng tức Như Lai:
Theo Hoa
Nghiêm Hợp Luận: Sơ tâm Bồ Tát vì lòng tin Chơn Như vững chắc, được
thấy biết ít phần của thân Như Lai chẳng đoạn diệt, chẳng khứ lai,
nhưng Bồ Tát này còn chưa thể lìa sự phân biệt vi tế, nên chỉ thấy
thô dụng, chưa được vào ngôi pháp thân.
Tịnh
tâm Bồ Tát còn thấy vi tế dụng, như thế dần dần tiến lên, cho đến
bậc Bồ Tát cứu cánh, mới hết thấy vi tế dụng, gọi là thân thọ dụng.
Vì có
nghiệp thức, mới có tâm thấy thọ dụng, nếu lìa nghiệp thức thì chẳng
thể thấy. Tại sao? Vì tất cả Như Lai đều là pháp thân; pháp thân chẳng
có sắc tướng sai biệt để thấy nhau, nên chẳng thể thấy.
Tại
sao hết thấy vi tế dụng, gọi là thân thọ dụng? Vì còn có thân thọ dụng
để biết sự “hết thấy”, vẫn là tướng vi tế của nghiệp thức. Các
bậc hữu học và vô học còn dính mắc tướng vi tế này, như gương dính
bụi, nên nói “Ngôi học còn dính bụi”. Nếu nghiệp thức vi tế đã sạch,
chẳng thấy có sự thọ dụng, gọi là pháp thân Như Lai. Vậy bụi sạch
gương sáng tỏ, nên nói “Cực sáng tức Như Lai”.
(8) Phản văn bản tánh
văn:
Nếu chấp
cái nghe là thật, thì không nghe ngoài phải nghe trong, không nghe động phải
nghe tịnh. Nghe trong, ngoài, động, tịnh, đều là bỏ gốc theo ngọn, nên
gọi là cái nghe điên đảo. Xoay cái nghe điên đảo này về chánh, chánh
thì chẳng có năng văn, sở văn, vậy mới gọi là Phản văn, cũng là Bản
tánh văn; nghịch cảnh trần, hợp giác tánh, nên gọi là chánh. Đã trở về
bản văn, tức thấy bản lai diện mục, cũng là tánh Văn này, liền thành
vô thượng Bồ Đề.
*****
A Nan
cùng đại chúng được khai thị lớn, thân tâm sáng suốt, rõ biết đạo
Bồ Đề và Đại Niết Bàn, cũng như có người đi xa, dù chưa được trở
về, nhưng đã biết rõ con đường về nhà. Đại chúng trong hội với
Thiên Long Bát Bộ, hàng nhị thừa hữu học và tất cả Bồ Tát mới phát
tâm, gấp mười lần hằng sa, đều nhận được bản tâm, xa lìa trần cấu,
được pháp nhãn trong sạch. Tỳ Kheo ni Tánh nghe bài kệ xong, liền đắc
quả A La Hán, vô số chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
A Nan
ở trong chúng sửa áo chỉnh tề, chắp tay đảnh lễ, nơi tâm sáng tỏ,
lòng bi hoan hỷ. Vì muốn lợi ích cho chúng sanh vị lai, cúi đầu bạch Phật:
- Bạch
Thế Tôn! Nay con đã ngộ pháp môn thành Phật, theo đó tu hành, chẳng còn
nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai nói: tự mình chưa ngộ mà độ người
khác trước, ấy là chỗ phát tâm của Bồ Tát; Tự Giác đã trọn, hay
giác ngộ người khác, ấy là sự độ thế của Như Lai. Con dù chưa được
ngộ, nhưng nguyện độ tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp. Thế Tôn,
những chúng sanh này cách Phật ngày càng xa, bọn tà sư thuyết pháp như hằng
sa, muốn nhiếp tâm họ nhập Tam Ma Địa, thì nên khiến họ dựng lập đạo
tràng như thế nào để xa lìa các ma sự, được chẳng lui sụt nơi tâm Bồ
Đề.
Bấy giờ,
Thế Tôn ở trong chúng khen ngợi A Nan:
- Lành
thay! Lành thay! Như ngươi hỏi về sự an lập đạo tràng, cứu giúp chúng
sanh chìm đắm trong đời mạt pháp, ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi
mà nói.
A Nan
và đại chúng kính vâng lời dạy của Phật.
Phật bảo
A nan:
- Ngươi
thường nghe ta khai giảng ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Luật
Tạng, ấy là: Nhiếp tâm thành giới, từ giới sanh định, từ định phát
huệ, gọi là ba vô lậu học.
- A Nan!
Làm sao nhiếp tâm gọi là Giới?
- Nếu
chúng sanh lục đạo trong thế giới, tâm chẳng dâm dục, thì chẳng theo
dòng sanh tử tương tục.
- Người
tu chánh định, cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục chẳng trừ
thì chẳng thể ra khỏi, dẫu cho có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu
chẳng đoạn dâm, ắt phải lạc vào ma đạo, hạng trên thành ma vương, hạng
giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ.
Bọn ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng đã thành đạo
vô thượng, sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, bọn ma dân này sôi
nổi trên thế gian, thịnh hành tham dâm, tự xưng là Thiện tri thức, khiến
chúng sanh sa vào hầm ái kiến, lạc mất đạo Bồ Đề.
-
Ngươi dạy người đời tu Tam Ma Địa, trước nhất phải dứt dâm dục,
ấy là lời dạy bảo rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ
nhất của chư Phật.
- A Nan!
Nếu chẳng dứt dâm dục mà tu thiền định, cũng như nấu cát mà muốn
thành cơm, dù trải qua trăm ngàn kiếp, cũng chỉ là cát nóng. Tại sao? Vì
cát vốn chẳng phải là cơm vậy. Nếu lấy thân dâm mà cầu diệu quả của
Phật, dẫu được khai ngộ cũng chỉ là gốc dâm; cội gốc đã thành dâm
thì phải trôi lăn trong tam ác đạo, chẳng thể thoát khỏi, vậy làm sao
có thể tu chứng đạo Niết Bàn! Ắt
phải khiến thân tâm đều dứt hết sự dâm, cả cái dứt cũng chẳng có,
thì mới có thể hy vọng chứng quả Bồ Đề.
- Như lời
ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế là tà ma thuyết.
- A Nan!
Lại chúng sanh lục đạo trong thế giới, nếu tâm chẳng sát hại thì chẳng
theo dòng sanh tử tương tục.
- Người
tu chánh định, cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm sát hại chẳng trừ,
thì chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà chẳng
dứt sát hại, ắt phải lạc vào đạo quỷ thần. Hạng trên thành đại lực quỷ, hạng giữa
thành phi hành dạ xoa và các loại quỷ soái, hạng dưới thành địa hành
la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng đã
thành đạo vô thượng, sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, loại quỷ
thần này sôi nổi trên thế gian, tự nói ăn thịt cũng được đạo Bồ
Đề.
- A Nan!
Sở dĩ ta tạm cho hàng Tỳ Kheo ăn Ngũ Tịnh Nhục, việc này đều do thần
lực của ta hóa thành, vốn chẳng có sinh mạng. Vì xứ Bà La Môn đất
đai phần nhiều ẩm ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ chẳng sanh, nên ta
dùng sức đại bi tạm thời hóa ra, giả danh là thịt, cho các ngươi được
ăn. Nhưng tiếc thay, sau khi Như Lai diệt độ, người mang tên Phật tử lại
ăn thịt chúng sanh!
- Các
ngươi nên biết, những người ăn thịt, dù được khai ngộ tựa như Tam
Ma Địa, nhưng đều là giống La Sát, khi hết phước báu, ắt phải chìm
đắm trong biển khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như thế,
giết nhau nuốt nhau, ăn nhau không thôi, làm sao được ra khỏi luân hồi!
- Ngươi
dạy người đời tu Tam Ma Địa, phải dứt trừ sát sanh, ấy là lời dạy
rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ hai của chư Phật!
- A Nan!
Nếu chẳng dứt sát hại mà tu thiền định, cũng như có người tự bịt
lỗ tai, lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe, bọn này gọi là
muốn giấu mà càng lộ. Hàng Tỳ Kheo trong sạch và chư Bồ Tát, đi trong
đường tẻ còn chẳng dẫm trên cỏ, huống là nhổ cỏ. Làm sao người có
lòng đại bi lại ăn thịt chúng sanh?
- Nếu
Tỳ Kheo chẳng mặc tơ lụa, chẳng mang giày dép da cừu, chẳng ăn những tô
lạc đề hồ... thuộc bộ phận thân thể của chúng sanh, thì Tỳ Kheo này
nơi thế gian gọi là chơn giải thoát, khi nợ xưa trả sạch thì chẳng
sanh vào tam giới. Tại sao? Vì dùng những bộ phận thân thể của chúng
sanh để ăn mặc, thì phải trả nợ chúng sanh. Như người ăn lúa thóc từ
đất mọc thì chân chẳng lìa đất. Cũng vậy, người mà đối với thân
thể của chúng sanh đều chẳng ăn chẳng mặc, ta nói người này là chơn
giải thoát.
- Như lời
ta thuyết, gọi là Phật thuyết chẳng thuyết như thế tức là ma thuyết.
- A Nan!
Lại như chúng sanh lục đạo trong thế giới, tâm chẳng trộm cắp thì chẳng
theo dòng sanh tử tương tục.
- Người
tu chánh định, cốt ra khỏi trần lao, nếu tâm trộm cắp chẳng trừ thì
chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà chẳng
dứt tâm trộm cắp, ắt phải lạc vào tà đạo. Hạng trên thành tinh linh,
hạng giữa thành yêu mị, hạng dưới thành kẻ tà. Bọn tà đạo kia cũng
có đồ chúng mỗi mỗi tự xưng đã thành đạo vô thượng. Sau khi ta diệt
độ, trong đời mạt pháp, bọn tà ma kia sôi nổi trong thế gian, che giấu
sự gian dối, tự xưng là thiện tri thức, đã được pháp Thượng Nhân, lừa
gạt kẻ không biết, khiến lạc mất bản tâm. Hễ họ đến chỗ nào thì
người chỗ đó gia tài bị tiêu tan.
- Ta dạy
các Tỳ Kheo tùy nghi khất thực, xả bỏ lòng tham, mới thành đạo Bồ Đề.
Các Tỳ Kheo chẳng tự nấu ăn, huyễn thân tạm gởi nơi tam giới, thị hiện
một đời sanh tử, đi rồi chẳng về (giải thoát sanh tử thì ra khỏi
luân hồi, chẳng về tam giới). Tại sao bọn giặc mặc áo đạo Phật, giả
mạo Tỳ Kheo buôn bán Như Lai, tạo đủ thứ nghiệp đều nói là Phật
pháp! Kỳ thật, họ chẳng phải người chánh thức xuất gia, có thọ giới
Tỳ Kheo của đạo Tiểu Thừa. Do vậy, khiến vô số chúng sanh mắc phải
nghi lầm, đọa địa ngục A Tỳ. Sau
khi ta diệt độ, nếu có Tỳ Kheo phát tâm quyết định tu Tam Ma Địa, ở
trước hình tượng Phật đốt một lóng tay hay đốt một liều trên thân,
ta nói người ấy, những nợ xưa từ vô thỉ đều sẽ được dần dần
trả hết, từ giã thế gian, thoát hẳn phiền não, dù chưa được ngộ đạo
vô thượng, nhưng đối với Phật pháp đã có lòng tin quyết định. Nếu
chẳng làm cái nhân xả thân nhỏ mọn này, thì dẫu thành vô vi, ắt phải
còn sanh cõi người, trả các nợ xưa, như quả báo Mã Mạch của ta chẳng
có sai khác (Mã Mạch: lúa mì để cho ngựa ăn).
LƯỢC
GIẢI
Kinh
Hưng Khởi Hành nói:
Vua nước
Tùy La Nhiên thỉnh Phật và 500 vị Tỳ Kheo về nước kiết hạ, vua đích
thân cúng dường vừa được sáu ngày thì bị thiên ma mê hoặc, khiến trở
về cung vua chìm đắm ngũ dục, quên sự cúng dường. Các Tỳ Kheo phải
đi khất thực, mà liên tiếp ba ngày đều chẳng khất được món ăn nào
cả.
Lúc đó,
có người nuôi ngựa nói với các Tỳ Kheo rằng: “Nay con có mã mạch,
quí Thầy ăn được chăng? Nếu ăn được thì con sẽ cúng dường”. Từ
đó ăn mã mạch cho đến mãn hạ.
Phật bảo:
“Trong quá khứ đời Phật Tỳ Bà Diếp, ta làm Bà La Môn, thông đạt Tứ
Vệ Đà Kinh, có dạy 500 đồng tử trên núi Phạn Chí. Khi ấy, vua thiết hội cúng dường Phật
Tỳ Bà Diếp, có một Tỳ Kheo mắc bệnh chẳng đi được. Phật và đại
chúng ăn xong, rồi thỉnh thực cho Tỳ Kheo mắc bệnh. Khi đi ngang núi Phạn
Chí, Bà La Môn ấy ngửi được mùi cơm rất thơm, nói rằng: “Bọn Sa
Môn trọc đầu nên ăn mã mạch, chẳng nên ăn cơm này”.
Các đồng
tử cũng nói: “Bọn thầy trò này phải ăn mã mạch mới đúng”!
Bà La
Môn thuở đó tức là ta, 500 đồng tử tức 500 Tỳ Kheo theo ta kiết hạ đây;
Tỳ Kheo mắc bệnh tức là Di Lặc. Do nhân duyên này, vào địa ngục trải
qua vô số kiếp, nay dù đã đắc đạo, vẫn còn phải chịu quả báo, ăn
mã mạch ba tháng.
Theo
nhân quả kể trên, Phật đã từng xả máu thịt cho diều hâu ăn, xả thân
mạng cho cọp ăn, mà còn phải chịu quả báo mã mạch. Vậy đâu thể do
đốt tay và đốt liều trên thân mà trả hết nợ xưa từ vô thỉ được!
Sự đốt
tay, đốt liều là để tăng cường lòng chánh tín, quên thân vì đạo. Cần
phải quên thân hành đạo, cuối cùng mới tự nhiên trả hết nợ xưa, trọn
thành Phật đạo.
*****
- Ngươi
dạy người đời tu Tam Ma Địa, phải dứt tâm trộm cắp, ấy là lời dạy
rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ ba của chư Phật.
- A Nan!
Nếu chẳng dứt tâm trộm cắp, mà tu Thiền định, cũng như người lấy
nước rót vào bình chảy, mong cho đầy bình, dù trải qua vô số kiếp, cũng
không thể đầy.
- Nếu
hàng Tỳ Kheo ngoài y bát ra, mảy may không tích trữ, xin ăn có dư, bố thí
cho kẻ đói, giữa nơi nhóm họp, chắp tay đảnh lễ chúng, có người đánh
mắng, đồng như khen ngợi, quyết định xả bỏ thân tâm, với tất cả
chúng sanh cộng chung một da thịt xương máu.
Chẳng lấy thuyết bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu
của mình, rồi dạy lầm mà hại cho kẻ sơ học, thì Phật ấn chứng người
ấy được chơn tam muội.
- Như lời
ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế tức tà ma thuyết.
- A Nan!
Chúng sanh lục đạo trên thế giới, dù nơi thân tâm chẳng còn Sát, Đạo,
Dâm, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì với Tam Ma Địa chẳng được
trong sạch, thành giống ma ái kiến, lạc mất giống Phật. Chưa đắc quả
nói đã đắc, chưa chứng ngộ nói đã chứng; như bảo người khác rằng:
“Nay tôi đã được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, A La
Hán, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát Thập Địa; hoặc vì cầu sự thù thắng
bậc nhất nơi thế gian, hoặc vì tham sự cúng dường, bảo họ lễ sám. Bọn
Nhất Xiển Đề này tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây
Đa La (cây này hễ gãy thì chẳng sống được nữa), Phật thọ ký người
ấy mất hẳn thiện căn, chẳng có Chánh kiến, chìm đắm trong tam ác đạo,
chẳng thể thành tựu chánh định.
- Ta phó
chúc các Bồ Tát và A La Hán, sau khi ta diệt độ, nên ứng thân trong thời
mạt pháp, hiện đủ thứ hình tướng, cứu độ chúng sanh bị luân chuyển.
Hoặc làm Sa Môn, Bạch Y Cư Sĩ, vua, chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ,
như thế cho đến người dâm nữ, quả phụ, kẻ gian dối, trộm cắp, đồ
tể v.v... cộng sự với họ, khen ngợi Phật thừa, khiến thân tâm họ
được vào Tam Ma Địa. Trọn chẳng tự nói ta là Chơn Bồ Tát, chơn A La Hán,
tiết lộ mật nhân của Phật để khinh kẻ hậu học, chỉ trừ đến khi
lâm chung càng có sự phó chúc cho người nối pháp làm sao người ấy lại
mê hoặc chúng sanh, tự tạo tội, thành đại vọng ngữ, để vào ngục A
Tỳ!
- Ngươi
dạy người đời tu Tam Ma Địa, sau cùng phải dứt trừ đại vọng ngữ,
ấy là lời dạy rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ tư của
chư Phật.
- A Nan!
Nếu chẳng dứt đại vọng ngữ, cũng như lấy phẩn người khắc hình
cây Chiên Đàn, muốn được mùi thơm thì chẳng có chỗ đúng.
- Ta dạy
Tỳ Kheo Trực Tâm là đạo tràng, tất cả hạnh nơi tứ oai nghi còn chẳng
giả dối, làm sao lại tự xưng đã được pháp Thượng Nhân, ví như người
nghèo vọng xưng là vua chỉ tự cầu tội chém, huống là trộm cắp danh hiệu
của Pháp Vương!
- Cần
phải biết, nhân địa chẳng chơn thì chiêu quả quanh co, nếu như thế mà
cầu đạo Bồ Đề, cũng như người muốn tự cắn rốn mình, đâu thể
thành tựu!
- Nếu
các Tỳ Kheo, tâm ngay thẳng như dây đàn, tất cả chơn thật, vào Tam Ma Địa,
hẳn không kẹt ma sự, ta ấn chứng người ấy thành tựu Bồ Tát vô thượng
tri giác.
- Như lời
ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế tức tà ma thuyết.
- ~~oOo~~