- GIẢI
VỀ Ý NGHĨA CHỈ TỊNH
- THEO
THẮNG PHÁP YẾU HIỆP
- Hòa thượng Jotika
I. TỔNG
QUÁT
Bài kệ
dẫn nhập của Ngài Anuruddha.
Giải về
biến hình vận hành của Danh Sắc qua ý nghĩa Vô ngã, ngài Anuruddha dẫn
giải bằng hai lối: Duyên sinh (Paticcasamuppaada) và duyên hệ (Pa.t.thaana).
Với hai phương thức tu tập: Chỉ tịnh (Samatha) và Minh sát (Vipassanaa).
Ðoạn kệ
dẫn nhập, Ngài viết:
"
Samathavipassaana.m Bhaavanaanamito para.m Kamma.t.thaana.m pavakkhaami Duvidhampi
yathakkama.m".
Nói đến hợp
từ Kamma.t.thaanasa"ngaha tức là cách giải yếu lược tóm thâu
các án xứ (Chỉ tịnh và Minh sát).
Kamma.t.thaana.m
sa"ngaha = Kamma.t.thaanasa"ngaho.
Về ý nghĩa
đoạn kệ: từ "Bhaavanaa" có nghĩa là pháp cần phát triển,
cần làm hiển lộ.
Bhaavetabbaati
= Bhaavanaa.
Hay pháp
nào mà Bậc trí cần làm sanh khởi, hiển lộ ở bước đầu tiên cũng
như sau cùng trong một quá trình tiến hóa, thì gọi là Bhaavanaa.
Về mục đích
cũng như phương thức tu chứng, Bhaavanaa được phân loại có hai: Samathabhaavanaa
và Vipassanaabhaavanaa, hay Chỉ tịnh tiến đạt và Minh
sát tiến đạt.
1. CHỈ TỊNH TIẾN ÐẠT (Samathabhaavanaa)
"Samatha
hay Chỉ tịnh " có nghĩa là tĩnh lặng, an tịnh, không xao động. Nhưng
ở đây, nên hiểu theo ý nghĩa giới hạn hơn. Theo lời giải tự:
"Kilesasametiiti
= samatho".
Sự lắng
đọng phiền não gọi là Samatha. Như sự nhất tâm trong tâm Ðại thiện
và Sơ thiện sắc giới.
Một lối
giải thích khác:
"Citta.m
sametiiti = samatho": trạng thái làm cho các thiền chi tế nhị hơn, gọi
là Samatha. Như sự nhất tâm trong Nhị Thiền Thiện và Tố cho đến
Ngũ thiền Thiện và Tố.
Sở dĩ có
ba lời giải thích như vậy là vì muốn nói đến ba trường hợp sau:
- Hành giả,
nếu là phàm tam nhân, khi tu tập án xứ Chỉ tịnh, nhờ chuyên cần vị
này chứng đạt thiền tầng thứ nhất: Sơ thiền Sắc giới – tâm hành
giả bấy giờ được vắng lặng, chính nhờ đã ngăn trừ các triền cái
bởi các tâm Ðại thiện và Sơ Thiện Sắc Giới đã chứng đạt. Samatha
ở đây được chỉ cho sự lắng dịu phiền não.
- Ðối với
vi Alahán thiền khô, các Ngài muốn sử dụng thiền hiệp thế, khi ấy các
Ngài dùng tâm Ðại tố để triển khai án xứ chỉ tịnh cho đến khi chứng
đạt Thiền tố thứ nhất. Giai đoạn này khác hẳn với phàm nhân, nghĩa
là tâm Ðại tố và Sơ thiền sác giới không còn phải giữ vai trò ngăn
trừ phiền não nữa mà chỉ là sự nhất tâm trong một án xứ chỉ tịnh
nào đó. Ơû đây, samatha được chỉ cho tâm an tịnh.
- Hành giả
sau khi chứng đạt Sơ thiền, chuyên cần tu tập các án xứ chỉ tịnh và
chứng thiền tầng thứ hai: Nhị Thiền Sắc Giới. Thứ tự như thế cho đến
khi chứng đạt thiền tầng thứ năm. Ơû giai đoạn này những tâm Ðại
thiện và những tâm Thiền thiện sắc giới hay Tâm Ðại Tố và Thiền Tố
Sắc Giới, các tâm này không còn phải ngăn ngừa các triền cái nữa mà
chỉ giúp cho tâm định khắn khít với án xứ hơn và cũng ở các giai đoạn
này, hành giả loại bỏ các thiền chi thô thiển theo trình độ thiền chứng,
nghĩa là Nhị thiền bỏ Tầm, Tam thiền bỏ Tứ, Tứ thiền bỏ Hỷ và Ngũ
thiền bỏ Lạc. Trường hợp này, Samatha chỉ cho trạng thái làm cho
các thiền chi tế nhị hơn.
Samatha
được phân loại có hai:
1) Parittasamatha
(Hy thiểu chỉ tịnh), tức thiền chỉ tịnh của người chưa đạt đến
kiên cố định, nghĩa là các thiền chi hay Ðổng lực Thiện và Tố còn
quá yếu ớt.
2) Mahaggatasamatha
(Ðáo đại chỉ tịnh) tức thiền chỉ tịnh của người đạt đến kiên
cố định. Ơû trình độ này, các tâm Ðại thiện và đại tố vô cùng
mãnh liệt, khắn khít với cảnh án xứ. Các thiền chi có khả năng áp chế
triền cái.
2. MINH SÁT TIẾN ÐẠT (Vipassanaabhaavanaa)
Vipassanaa
được giải thích rằng:
"Ruupaaci-aaramma.nesi
pa~n~nattiiyaa ca nicca sukha attasubha sa~n~naaya ca visesena naamaruupabhaavena vaa
aniccaadi- aakaarena vaa passatiiti = Vipassanaa"
"Sự
quán xét các cảnh xuyên qua ý nghĩa Danh Sắc, để không còn ý thức giả
lập: Danh và Nghĩa chế định. Hay sự quán xét sáng suốt thực tướng các
cảnh qua các ý nghĩa Vô thường - Khổ não - Vô ngã và Bất tịnh, để không
còn định kiến Thường- Lạc - Ngã - Tịnh. Sự quán xét đó được gọi
là VIPASSANAA hay MINH SÁT."
Hay một lời
giải thích:
"Pa~ncakkhandhesu
viividhena aniccaadi - aakaarena passatiiti = Vipassanaa"
"Sự
quán xét thấy Ngũ uẩn là Vô thường, Khổ não, Vô ngã và Bất tịnh, gọi
là Vipassanaa".
Ơû lời giải
thứ nhất, hiểu theo văn tự, Vipassanaa được định nghĩa như sau:
Theo lối
chiết tự, Vii có nghĩa là "thù diệu, đặc thù". Passanaa
là: "sự thấy sáng suốt". Như vậy, Vipassanaa là sự
nhận thấy sáng suốt một cách đặc thù. Như lời định nghĩa sau:
"Visesena
passatiiti = Vipassanaa".
Về ý nghĩa
thứ nhất của Vipassanaa có hai khía cạnh:
- Quán xét
các cảnh theo phương diện Danh và Sắc.
- Quán xét các cảnh qua bốn ý nghĩa: Vô thường - Khổ - Vô ngã và Bất tịnh.
Các sự thẩm
quán này được gọi là thù thắng, đặc thù, vì rằng các cảnh do mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý nhận thức, bản chất của chúng chỉ là Danh
hoặc Sắc, nhưng thường chúng sanh chỉ nhận thức trong khuôn lối giả lập,
theo một định thức cố hữu: Mắt nhìn cảnh sắc nhận thức: đây là vật
này, ấy là vật kia. Các căn còn lại cũng nhận thức thế, đó là tiếng
hay, tiếng xấu; là hương thơm, mùi thối; là vị ngon, vị dở; là êm ái,
là bức xúc; là vừa lòng, nghịch ý... Sự ngộ nhận những giả lập như
vậy được gọi là sự nhận thức thông thường, gọi là "thông thường"
vì phần đông chúng sanh đều ngộ nhận.
Sự nhận
chân các cảnh, đó là sự quán xét vạn hữu theo phương diện Danh và Sắc.
Khía cạnh
thứ hai tức là quán xét các cảnh theo bốn tính chất: Vô thường, Khổ não,
Vô ngã và Bất tịnh.
Các cảnh
do các căn môn nhận thức luôn mang tính sanh diệt, tiếp nối đổi thay, mà
phần đông chúng sanh đều ngộ nhận: cảnh và thức đều trường tồn, là
vĩnh hằng, là bất biến dịch, có chăng là sự chuyển dời theo một quy
luật tuần hoàn mang tính ổn định, từ đó mà nảy sinh kiến chấp: vạn
hữu là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ðể so sánh điều này, cũng như người
ngắm bức tranh, họ nhìn thấy nhà cửa, phố xá, núi non, người vật... mà
họa sĩ đã vẽ vào đấy, nhưng họ không thấy được sự chuyển động
thay đổi, cử động của những cái mà họlà người, vật, phố xá, nhà
cửa,... trong bức tranh đang nhìn. Cũng vậy, các cảnh thức do các căn môn
nhận bi?t của chúng sanh cũng giống như cái nhìn của người xem tranh, không
biết rằng nó luôn luôn thay đổi, sanh diệt, chuyển tiếp và không bao giờ
ở trạng thái ổn định.
Như thế, tâm
ghi nhận, quán xét các cảnh có thể là bất thiện, thiện tương ưng, thiện
bất tương ưng. Nhưng chỉ sự quán xét nào bằng tâm thiện tương ưng trí
mới là sự quán xét theo Minh sát. Nghĩa là thấy rằng: các vạn hữu đều
mang những tính chất Vô thường - Khổ não - Vô ngã và Bất tịnh.
Nói về ý
nghĩa thứ hai của Minh Sát - Vipassanaa - "Pa~ncakkhandhesu viividhena
aniccaadi - aakaarena passatiiti = Vipassanaa" (Sự quán xét thấy Ngũ uẩn
là Vô thường, Khổ não, Vô ngã và Bất tịnh, gọi là Vipassanaa).
"Vi"
trong nghĩa Vipassanaa của lời giải tự trên, có nghĩa là " chi tiết,
khía cạnh". Passanaa là "sự thấy sáng suốt". Như vậy, Vipassanaa
có nghĩa là " Sự thấy sáng suốt ở mỗi khía cạnh: Vô thường -
Khổ não - Vô ngã và Bất tịnh".
Thông thường
chúng sanh đều mang kiến chấp: Thân và Tâm thức là thường hằng, là an
lạc, là bản ngã, là thiện mỹ. Những kiến chấp sai lầm này có thể
là những tâm bất thiện, thiện bất tương ưng và cả thiện tương ưng.
Chỉ khi Tâm Ðại thiện tương ưng Trí dùng trong quán xét bốn tính chất
của Ngũ uẩn như đã nói, mới gọi là Minh sát.
Vipassanaa
phân loại có 3:
1) Sa"nkhaaraparigga.nhanaka
Vipassanaa: Hành quán minh sát.
2) Phalasamaapatti Vipassanaa: Thiền quả minh sát.
3) Nirodhasamaapatti Vipassanaa: Thiền diệt minh sát.
Với ba minh
sát này, Hành quán minh sát (Sa"nkhaaraparigga.nhanakavipassana) không
nhất thiết phải là Lợi Quán (Tikkha) hay Trì Quán (Manda) [*], cả
hai đều có thể đạt đến tâm Ðạo, khác nhau chỉ là nhanh hay chậm. Nghĩa
là, nếu Minh sát trì quán sẽ chứng được Thánh Ðạo chậm hơn và Tầng
Thánh Ðạo này gọi là Pandaabhi~n~naamagga (Trì trí đạo). Ðối với
Minh sát lợi quán thì sẽ chứng đạt nhanh hơn và tầng Thánh này được
gọi là Khippaabhi~n~naamagga (Lợi trí đạo). Về Thiền quả minh sát,
cần phải là Lợi quán (TikkhaVipassanaa), vì sự minh sát này là nhân
giúp cho Tâm quả sanh khởi mà không cần sự trợ giúp của tâm đạo như
trong lộ đắc đạo. Tuy nhiên, đối với vị thuần thục, tự tại thì
trì quán minh sát (MandaVipassanaa) cũng có thể nhập thiền quả được.
[*] Tikkha
và Manda ở đây không nói cho thời điểm tái tục (mà thường dùng là lợi
căn và độn căn). Tikkha và Manda này là chỉ cho thời điểm Minh sát trước
khi nhập thiền – N.D.
Riêng về
Thiền Diệt Minh Sát thì cần ở mức quân bình, nghĩa là không Trì quán
mà cũng không Lợi quán. Vì đây là Minh sát mà khi hành giả tu tập, đồng
thời cũng triển khai Thiền chỉ tịnh. Do đó, Minh sát này còn gọi là
Song hành Minh sát (Yuganandha Vipassanaa).
Trong Tập Sớ
Giải Visuddhimagga- atthakathaa và Pa.tisambhidaamagga- atthakathaa, các
Vị A-xà-lê giải thích ba Minh sát này như sau:
"Vipassanaa
panesaa tividhaa hoti sa.nkhaarapariga.nhanakaVipassanaa, phalasamaapattiVipassanaa,
nirodhasamaapattiVipassanaati. Tattha sa.nkhaarapariga.nhanakaVipassanaa mandaa vaa hotu
tikkhaa vaa maggasapada.t.thaana.m hotiyeva. PhalasamaapattiVipassanaa tikkhaava va.t.tati
maggabhaavanaasadisaa. NirodhasamaapattiVipassanaa pana naatimanda, aatitikkhaa va.t.tati.
Tasmaa eso naatimandàya naatitikkhàya Vipassanàya te sa"nkhaare vipassati."
Ba Minh Sát
này: Hành Quán Minh Sát - sự suy xét các pháp hành Danh và Sắc để
chứng các tầng Thánh Ðạo, Thiền Quả Minh Sát - sự quán xét Danh
và Sắc để nhập Thiền quả, Thiền Diệt Minh Sát - sự thẩm sát
các thiền tầng Ðáo Ðại để nhập Thiền diệt.
Ðối với
Hành Quán Minh Sát, như đã nói Lợi Quán hay Trì Quán đều là nhân cận
giúp cho tâm Ðạo. Riêng Thiền Quả Minh Sát, thì cần là Lợi Quán. Minh
sát này thì cũng giống như sự phát triển các chi đạo trong tâm Ðạo
(vì Minh sát này tuy lấy cảnh là các Pháp hành, song chỉ lấy đó (pháp
hành) để nhàm chán, hướng viễn ly chứ không chấp giữ, vả lại, Thiền
Quả Minh Sát là nhân hỗ trợ cho tâm quả hiện khởi lấy cảnh là Nip
-bàn, cũng như tâm Ðạo giúp cho tâm Quả sanh khởi trong Lộ Ðắc đạo).
Về Thiền Diệt Minh Sát thì phải trung hòa Lợi quán và Trì Quán (vì rằng
nếu Trí minh sát chậm chạp, yếu ớt thì Hành giả sẽ nghiêng nặng về
Ðịnh, mà tâm định quá mạnh thì tâm và sở hữu không thể diệt, chỉ
ở trong trạng thái yên tịnh, và ngược lại, nếu Trí minh sát quá mạnh
mẽ, nhạy bén thì hành giả chỉ suy xét về thực tính pháp hành. Ðiều
này chỉ cần đến Thiền quả chứ không là Thiền diệt).
Sau đây là
một số lời giải tự tiếng Kamma.t.thaana trong câu kệ dẫn nhập,
trích từ Visuddhimaggamahaatikaa.
Theo bộ
sách này, Kamma.t.thaana có nghĩa là nền tảng để triển khai "Chỉ
tịnh và Minh sát".
Kamma.t.thaana
chiết tự có hai tiếng: kamma + .thaana. Kamma
có nghĩa là việc làm (Kamma = Kiriyaa). .Thaana là chỗ đứng
hay nền tảng (.ti.t.thati etthaati = .thaana.m). Cái mà nhờ đó hành giả
triển khai chỉ tịnh (Kasi.na, Anussati...) và Minh sát (Danh, sắc,...),
cái đó được gọi là .Thaana - Xứ.
Kamma.t.thaana
có hai: Aaramma.nakamma.t.thaana và Aaramma.nika-bhaavanaakamma.t.thaana.
- Aaramma.nakamma.t.thaana
tức lấy đề mục chỉ quán làm cảnh án xứ để triển khai Chỉ tịnh (Kasi.na
Anussati.) và Minh sát (Bhuumakasa"nkhaara dhamma: Danh, sắc)
- Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana
là cảnh án xứ lấy sự chuyên cần mà trước đó đã tu tập Chỉ tịnh
hay Minh sát làm động lực giúp cho sự chuyên cần hiện tại.
Aaramma.nakamma.t.thaana
hay Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana tuy là hai nhưng không phải hoàn
toàn khác nhau. Aaramma.nakamma.t.thaana cũng như cuộc phim và Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana
là người xem phim. Như lời giải tự sau đây:
"Kammassa
.thaana.m = Kamma.t.thaana.m"
Cảnh làm nền
tảng để triển khai Chỉ tịnh hay Minh sát, cảnh ấy gọi là Kamma.t.thaana.
Hay sự tinh cần nào hiện khởi nhờ động lực của sự tinh cần tu tập
chỉ quán trước đó. Sự tinh cần ấy gọi là Kamma.t.thaana.
Những lời
giải thích tiếng Kamma.t.thaano theo Nayamuula.tiikaa:
"Kamena
visesaadhigamassa .thaananti = Kamma.t.thaana.m" (và) "Kamme bhaavanaa ra
bho.thaananti = Kamma.t.thaana.m".
" Sự
tu tiến nào là nhân chứng đắc thiền hay Ðạo quả và Nip - bàn, đó được
gọi là Kamma.t.thaana, hay sự tinh cần trong việc làm nào dẫn đến các
thiền tầng, Ðạo, Quả và Níp-bàn, ấy gọi là Kamma.t.thaana".
Theo lời giải
thích trên thì Kamma.t.thaana chính là sự phát triển Chỉ tịnh và
Minh sát.
40 ÐỀ MỤC PHÂN THÀNH BẢY
LOẠI ÁN XỨ CHỈ TỊNH
1. Hoàn tịnh
(Kasi.na).
2. Bất mỹ(Asubha)
3. Tùy niệm (Anussati)
4. Vô lượng tâm (Appama~n~naa)
5. Vật thực uế tưởng (Aøharepa.tikuulasa~n~naa)
6. Tứ đại phân quán (Catdhaatuvavatthaana)
7. Vô sắc (Aruupa)
GIẢI VỀ
SÁU CARITA:
Tiếùng Carita
theo các Ngài Chú Giải trong Bộ Visuddhimaggatthakathaa, giải rằng:
"Cara.na.m
pavattana.m = Cariyaa" luôn hiện khởi, gọi là Cariyaa.
"Raagassacariyaa
= Raagacariyaa" sự thường hiện hữu của Ái, gọi là Raagacariyaa
- Cơ tánh ái hay bản tính ái.
[Từ Carita,
nguyên ngữ là " thường tánh" thì có lẽ chính xác hơn. Nhưng ở
đây, người dịch xin thoát đi là "Cơ tánh" , vì để thích hợp với
lối dùng phổ thông, và cũng để tránh "ý niệm thường".}
"Raagacariyaa
etassa atthiiti = Raagacarito". Người hằng bị ái chi phối, gọi là Raagacarita
(người có cơ tánh Ái)
Tương tự,
với các Carita Dosa, Moha, Saddhaa, Buddhi và Vitakka.
Nói hẹp
là vậy, nhưng nói rộng thì Carita tính đến 63. Trong đó có 14 Suddhacarita
và 49 Nissakacarita.
* 14 Suddhacarita
(thuần tính), đó là:
Raagacarita.
Dosacarita.
Mohacarita.
Raagadosacarita.
Raagamohacarita.
Raagadosamohacarita.
Dosamohacarita.
Saddhaacarita.
Buddhicarita.
Vitakkacarita.
Saddhaabuddhicarita.
Saddhaavitakkacarita.
Buddhivitakkacarita.
Saddhaabuddhivitakkacarita.
Trong 49 Missakacarita
(hỗn hợp tính) có 21 Ekamuula, 21 Dvimuula và 7 Timuula.
* 21 Ekamuula,
đó là:
- 7 Raagamuula
(cơ tánh ái):
Raagasaddhaacarita.
Raagabuddhicarita.
Raagavitakkacarita.
Raagabuddhaabuddhicarita.
Raagasaddhaavitakkacarita.
Raagabuddhivitakkacarita.
Raagasaddhaabuddhivitakkacarita.
- 7 Dosamuula
(cơ tánh sân):
Dosasaddhaacarita.
Dosabuddhicarita.
Dosavitakkacarita.
Dosabuddhaabuddhicarita.
Dosasaddhaavitakkacarita.
Dosabuddhivitakkacarita.
Dosasaddhaabuddhivitakkacarita.
- 7 Mohamuula
(cơ tánh si):
Mohasaddhaacarita.
Mohabuddhicarita.
Mohavitakkacarita.
Mohabuddhaabuddhicarita.
Mohasaddhaavitakkacarita.
Mohabuddhivitakkacarita.
Mohasaddhaabuddhivitakkacarita.
* 21 Dvimuula,
đó là:
- 7 Raagadosamuula
(cơ tánh ái lẫn sân):
Raagadosasaddhaacarita.
Raagadosabuddhicarita.
Raagadosavitakkacarita.
Raagadosabuddhaabuddhicarita.
Raagadosasaddhaavitakkacarita.
Raagadosabuddhivitakkacarita.
Raagadosasaddhaabuddhivitakkacarita.
- 7 Raagamohamuula
(cơ tánh ái lẫn si):
Raagamohasaddhaacarita.
Raagamohabuddhicarita.
Raagamohavitakkacarita.
Raagamohabuddhaabuddhicarita.
Raagamohasaddhaavitakkacarita.
Raagamohabuddhivitakkacarita.
Raagamohasaddhaabuddhivitakkacarita.
- 7 Dosamohamuula
(cơ tánh sân lẫn si):
Dosamohasaddhaacarita.
Dosamohabuddhicarita.
Dosamohavitakkacarita.
Dosamohabuddhaabuddhicarita.
Dosamohasaddhaavitakkacarita.
Dosamohabuddhivitakkacarita.
Dosamohasaddhaabuddhivitakkacarita.
* 7 Timuula,
đó là:
Raagadosamohasaddhaacarita.
Raagadosamohabuddhicarita.
Raagadosamohavitakkacarita.
Raagadosamohabuddhaabuddhicarita.
Raagadosamohasaddhaavitakkacarita.
Raagadosamohabuddhivitakkacarita.
Raagadosamohasaddhaabuddhivitakkacarita.
Bảy cơ tánh
bất thiện nhân với bảy cơ tánh thiện thành 49 cơ tánh hỗn hợp.
Nói rộng
như vậy tức cho thấy rằng có những chúng sanh có thể có nhiều căn tánh
hỗn hợp. Song đối với hành giả không thể chọn nhiều án xứ để thích
ứng với cơ tánh của mình - khi xét thấy là hỗn hợp - mà chỉ tu tập một
án xứ nào thích nghi với một cơ tánh nổi bật nhất của mình.
SỰ NHẬN BIẾT VỀ CARITA:
Ngoại trừ
những Vị đắc Tha tâm thông (Paricittavijaanamaa), thì không ai có thể
biết chính xác về tâm tính của người khác, có chăng cũng chỉ biết mơ
hồ qua tướng trạng, ngoại hình, đặc điểm, ... mà các khoa tướng số,
bói toán đã giải thích. Riêng về Phật Giáo có thể nhận xét những đặc
điểm sau đây mà xác định thuộc về cơ tánh nào.
Iriyaapathato
kiccaa
Bhojanaa dassanaadito
Dhammappavattito cava
Cariyaayo vibhaavayoti. (trích từ Visuddhimaggatthakathaa).
Ðối với
Bậc Trí, để nhận định cơ tánh về mình hay người khác, các Ngài nhận
xét qua 5 điểm:
Oai nghi (cách
đi, đứng, nằm, ngồi,...)
Việc làm
Vật thực.
Cách nhận thức (cách nhìn, nghe, ngửi,...)
Pháp tánh.
1. CƠ TÁNH ÁI.
Ðể xác định
một người có cơ tánh ái (Raagacarita) cần xét qua các đặc điểm
sau đây:
1.1 Các cử
chỉ oai nghi: (Iriyaapatha)
Trong cách bước
đi có vẻ nhẹ nhàng, mềm yếu, những bước chân đều đặn, khi dỡ chân
hoặc khi đạp xuống không có vẻ gì là vội vã. Sức nặng của cơ thể
sẽ để lại dấu chân in đậm ở phần trướcbàn chân. Những cử chỉ
đi đứng hoặc ngồi đều dễ nhìn, duyên dáng. Khi nằm nghỉ không bao giờ
vội vàng, khi nghỉ được sửa soạn chu đáo, kỹ lưỡng. Lúc ngủ trong tư
thế nằm nghiêng, các cử chỉ nhỏ nhặt, tế nhị trong lúc nằm được
dung hợp bởi những động tác hài hòa. Có những dáng vẻ, điệu bộ không
mấy hài lòng khi ai đánh thức, gọi dậy.
1.2. Sự
thọ dụng: (Bhojana)
Oû người
có cơ tánh này, họ thường ưa thích những vật thực mềm mại và mang những
vị béo ngọt. Tuy vậy, dùng vật thực họ chỉ dùng chừng mực, vừa phải
(đây chỉ là một thái độ bản năng) và không bao giờ có vẻ vội vàng.
Một thói
quen ở người cơ tánh này là vẫn thích nếm những vị lạ, và với họ
một ít vị ngon là đã vừa lòng.
1.3 Việc
làm: (Kicca):
Tất cả
các việc làm đều được thực hiện một cách chu đáo, kỹ lưỡng và chậm
rãi.
1.4 Tính
cảm quan: (Dassana)
Với người
cơ tánh này, một đối tượng ngũ quan khả ái dễ dàng gây sự chú ý,
thích thú cho họ, dù đối tượng ngũ quan đó chỉ là cái bình thường,
nhỏ nhặt. Song với họ là một sự thú vị của ngưòi lần đầu mới gặp.
Ðặc tính
khác, luôn rộng lượng và biết tha thứ, họ dễ dàng bỏ qua một lỗi lầm
hay sự xúc phạm của kẻ khác.
Cảm tính của
người cơ tánh này là vẫn thường lưu luyến, dính mắc những đồ vật,
hay chỗ ở mà với họ nó có những dáng nét quen thuộc, những ấn tượng
khó quên.
1.5 Pháp
tánh: (Dhammapavatti)
Người cơ
tánh ái, thường có những khuyết tánh sau: gian xảo (maayaa), tự cao
(saatheyye), so đo (maana), thiên hướng ác hạnh (papicchataa),
thích được tán tụng (mahicchataa), không biết đủ (asantu.t.thitaa),
mưu mô (siviga), thích đỏm dáng (caalapalya).
2. CƠ TÁNH TÍN
Người cơ
tánh tín chỉ khác cơ tánh ái những pháp tánh sau:
Dứt bỏ,
không chấp trước với tài sản (mattacaagataa), thích diện kiến Bậc
Thiện Trí (ariyaana.m dasanakaamattaa), vui mừng khi gặp Bậc Thiện trí
và nghe pháp (pamojjabahulataa), khiêm nhường (asathataa), không gian
xảo (amaayaavitaa), thường có lòng tịnh tín (pasaada).
3. CƠ TÁNH SÂN
Riêng người
cơ tánh sân thì hoàn toàn trái ngược những đặc điểm trên:
3.1 Các cử
chỉ oai nghi: (Iriyaapatha)
Những cử
chỉ trong lúc bước đi cứng rắn, mạnh dạn, nhanh nhẹn, những bước chân
nặng nề sẽ để lại dấu chân hằn sâu nét gót.
Trong lúc đứng
hoặc ngồi cũng trong dáng vẻ mạnh dạn và thô cứng.
Khi nằm vẫn
là những động tác nhanh nhẹn cố hữu. Ơû người cơ tánh này, chỗ nghỉ
không là điều mà họ phải quan tâm, do đó thường hay bừa bãi và ít khi
được sửa soạn kỹ lưỡng chu đáo. Cũng như người có tính ái họ
không mấy v?a lòng khi đánh thức, gọi dậy, thậm chí điều này có thể
làm cho họ nổi giận nữa là khác.
3.2 Việc
làm (Kicca):
Tất cả những
việc làm, họ đều cho kết quả hoàn tất nhưng cẩu thả và bừa bãi.
3.3 Sự
thọ dụng (Bhojana)
Những vật
thực mang các vị mặn, đắng, chua, chát vẫn là những thứ mà họ thích
hơn cả. Trong khi dùng thức ăn, thức uống, họ dùng thô tháo vội vàng,
và tương ứng với cố tật này là không có thói quen nếm vị, (có lẽ
vì thế) họ dễ bất bình với thức ăn nào đó mà không vừa lòng.
3.4 Tính
cảm quan (Dassana):
Cực đoan
trong cảm quan nhận thức, hoàn toàn không vừa lòng trước ngũ quan bất toại,
dù chỉ là một khía cạnh tầm thường, nhỏ nhặt mà họ đã xem là
không hay.
Ðối với
người cơ tánh sân, họ không mấy gì lưu tâm đến những đồ vật, chốn
ở quen thuộc mà điều kiện nào đó họ phải bỏ đi. Nếu là người cơ
tánh ái, ấy là ấn tượng khó phôi phai.
3.5 Pháp
tánh (Dhammapavatti)
Người cơ
tánh sân thường mắc phải những khuyết như sau: nóng giận (kodha),
thù hiềm (upanaaha), chỉ trích việc công đức của người khác (makkha),
muốn hơn người (palaasa), ganh tị (issa), bỏn sẻn (macchatiya).
4. CƠ TÁNH GIÁC
Ðối với
người cơ tánh giác chỉ khác với người cơ tánh sân ở những thiện
tánh sau đây:
Biết nghe
những lời dạy bảo hữu ích (sovacassataa), là người bạn tốt cho kẻ
khác (kalyaa"namittataa), tiết độ trong vật thực (bhojane
matta~n~nutaa), ghi nhận và cảnh tỉnh (chánh niệm tỉnh giác - satisampajja~n~na.m),
luôn hướng đến tinh cần (jaagariyaanuyoga), có lòng nhân (sa.mvega),
chuyên cần với những việc làm công đức (yonisopadhaana.m).
5. CƠ TÁNH SI
Người cơ
tánh si có những đặc điểm sau:
5.1 Cử
chỉ oai nghi (Iriyaapattha):
Cách bước
đi, dỡ chân và đạp xuống bằng những động tác cứng nhắc, những cử
chỉ thô kệch. Người cơ tánh này cũng như người cơ tánh sân tức là sức
nặng của cơ thể chịu nhiều về phần sau bàn chân, như vậy dấu chân sẽ
in đậm nét gót.
Những cử
chỉ khi đứng hoặc ngồi thường trong dáng vẻ thụ động, mất linh hoạt.
Trong lúc nằm nghỉ, không mấy gì là đẹp đẽ, tay chân hoàn toàn tự do
buông thả vô ý thức. Nằm trong tư thế úp mặt, chỗ nghỉ lại không
được sửa soạn, vung vãi bừa bãi, khi ai đánh thức họ lại chậm chạp,
trễ nãi và sau những động tác trì hoàn, kéo dài, họ mới hoàn toàn thức
dậy.
5.2 Việc
làm (Kicca)
Những công
việc được thực hiện là vụng về, thô kệch. Người cơ tánh này ít
đem lại một kết quả thành công.
5.3 Cách
thọ dụng (Bhojana)
Không ưa thích
cá biệt vật thực nào như những người cơ tánh khác, việc ăn uống của
họ không lựa chọn. Ăn uống vụng về, thô tháo, y phục vấy bẩn hay vật
thực còn dính lại phần ngoài miệng. Khi đó, nếu họ làm một việc thì
việc đó là ăn uống.
5.4 Tính
cảm quan (Dassana)
Oû người
cơ tánh này, họ không thể nhận xét đối tượng, thiếu tự tin (hoặc vì
khả năng hiểu biết hạn chế, hoặc vì thiếu thói quen phán đoán). Sự
nhận định của họ hoàn toàn phụ thuộc vào kẻ khác, người mà họ xem
là hơn mình. Sự nhận định của người đó sẽ là sự nhận xét của họ,
cả việc nhận định về một người, cũng vậy.
5.5 Pháp
tánh (Dhammapavatti)
Người cơ
tánh si thường có những khuyết tánh như: buồn ngủ, dã dượi (thiinamiddha),
phóng túng, buông lung (kukkucca), ngờ vực, phân vân (vikikicchaa),
không tin lý nhân quả (aadaanagaahitaa), khó dạy bảo (duppa.tinissaggitaa).
6. CƠ TÁNH TẦM.
Ðối với
những người cơ tánh tầm, cũng giống như người cơ tánh si, khác nhau chỉ
là về pháp tánh sau: thường nói nhiều (bhassabahulataa), vui thích những
nơi đông đảo hội chúng (ga.naaraamataa), không vui thích trong việc
làm công đức như bố thí, trì giới,..., thiên hướng bất định, những
việc làm không đi đến kết quả (anava.t.thitakiccataa), ban đêm thường
có những suy nghĩ hư ảo (rattidhumaayanaa), ban ngày họ ra sức làm việc
mà ban đêm suy tính nghĩ ngợi, điều mà họ không biết rằng nó sẽ chẳng
đi đến kết quả (divaapajjalanaa). Ơû những người cơ tánh này thường
có ý nghĩ rối rắm (huraahura.mdhaavanaa).
Lối nhận
định về carita trên đây, Bậc Ðạo Sư không đề cập đến, cả những
vị Alahán Tuệ phân tích, Lục thông cũng vậy. Ðây chỉ là những lời nhận
định của những vị Axaalê tiền bối, để thiền sinh dễ dàng chọn lấy
án xứ (ka.m.ma.t.taana) thích hợp.
Như vậy,
cũng cần nên hiểu, sự nhận định trên chỉ là tương đối thôi. Vì rằng,
đối với người cơ tánh hỗn hợp, để nhận định về họ không phải
là điều dễ dàng, và rất có thể dẫn đến sự nhầm lẫn. Vả lại, nếu
không phải là những vị tha tâm thông, thì đối với những người đa
văn khéo học hỏi. Dầu cho họ là những người cơ tánh bất thiện chăng
nữa - nhờ chánh niệm tỉnh giác (satisampajja~n~naa) mà họ có thể bỏ
đi những cá tính không hay, điều này là thành quả của những kiến văn
hiểu biết. Như thế càng khó nhận định thuộc cơ tính nào.
NHÂN SANH CARITA
Một điều
kỳ lạ là trong chúng ta ai ai cũng là người như nhau, sonh tâm tính mỗi người
mỗi khác, đôi khi trái hẳn nhau, kể cả là bà con, anh em ruột thịt, có
người thiên hướng ác hạnh, có người thiên hướng thiện hạnh hoặc có
người cả hai. Vì sao có sự dị biệt này? Ấy chỉ vì những việc làm
thiện nghiệp trong quá khứ của mỗi người không giống nhau.
Nếu trong
lúc bố thí, trì giới, tu thiền hay làm việc công đức nào đó mà kèm
theonhững sự vọng cầu mong muốn quả báo tài sản của Chư Thiên hay
nhân loại - dĩ nhiên những sự ước vọng này không cùng tâm lộ với
tâm đang tạo thiện nghiệp - đó là ái. Trong lúc ấy nghĩ rằng: mình là
người như thế này như thế kia, là kiêu mạn, chấp ta, là tri kiến sai lầm.
Những thiện nghiệp nào được tạo mà theo đó là những tham phần này, sẽ
là nhân cho hậu quả các sanh hữu sau đó là người có tánh ái.
Nếu trong
lúc tạo các công đức mà nảy sinh sự bực tức, bất bình hay ganh ghét
hoặc bỏn sẻn, hoặc tiếc nuối. Những thiện nghiệp làm theo các sân phần
này sẽ cho kết quả những sanh hữu về sau là người có cơ tánh sân.
Nếu khi
làm các thiện nghiệp mà làm một cách mù quáng, thiếu sáng suốt, không
biết rõ đâu là nhân, đâu là quả của việc làm, hoặc ngờ vực, lưỡng
ước, trong lúc làm hay phóng đãng mông lung quên rằng mình đang làm công
đức. Chính những thiện nghiệp mà bên cạnh là những sự mù quáng, nghi
hoặc, phóng đãng này sẽ dẫn đến các sanh hữuvề sau là người cơ tánh
si.
Nếu trong
lúc làm các công đức mà mãi mê vui thú, nghĩ ngợi đến những đối tượng
dục phước (kaamagu.n - aaramma.na), tức dục tâm (kaamavitakka).
Hay nghĩ đến sự oán giận, thù hiềm với kẻ khác là hận tâm (byaapaadavitakka),
hoặc là suy nghĩ tính kế làm hại chúng sanh khác, tức là hại tầm (vihi.msaavitakka).
Chính những thiện nghiệp bị chi phối bởi ba loại tầm này sẽ cho kết
quả là người có tính trong các sanh hữu về sau.
Nếu cùng
trong lúc tạo các công đức mà khởi lên sự tịnh tín, trong sạch, tin nơi
quả báu của việc mình đang làm hay hướng tâm ngưỡng mộ về Tam Bảo,
tức là đức tin. Các nghiệp thiện cùng với đức tin này sẽ cho quả
báu các sanh hữu, đó là người cơ tánh Tín.
Nếu trong
lúc thực hiện việc làm công đức một cách sáng suốt, hiểu rõ thế
nào là nhân, thế nào là quả của việc đang làm, khi thực hiện thiện
nghiệp khéo tư duy: tất cả chúng sanhđược tạo tác bởi nghiệp, nghiệp
là tài sản, nghiệp là cha mẹ, nghiệp là quyến thuộc và rồi tất cả
đều là vô ngã, ấy là biệt nghiệp trí (kammassakata~n~naa.na). Ta và
người khác chỉ là những ngũ uẩn, những danh sắc trong một tập hợp, cái
mà gọi là bàng sanh, nhân loại, người nam, người nữ, chỉ là những giả
định để gọi cho những đơn vị danh sắc mà bản chất cố hữu vẫn
là sanh và diệt, đây chính là Minh sát trí (Vipassanaa~naa.na). Hay nghĩ
rằng: các bậc hiền trí luôn trau dồi, tích tập các công đức, nay Ta làm
việc làm của những vị ấy, đó sẽ là điều an lạc cho đời này và đời
sau, tức Thẩm quán trí (paccavekkha.na~naa.na). Hoặc mong ước rằng: nhờ
năng lực của những công đức này, xin cho ta hãy là người có trí tuệ.
Chính việc làm công đức được trí tuệ khéo tư duy như vậy sẽ cho kết
quả là người cơ tánh giác trong các sanh hữu về sau.
Do luật chi
phối (hiện tại với hiện tại, hiện tại với vị lai, quá khứ với hiện
tại) mà mạnh dạn đi đến kết luận: những thiện nghiệp và điều kiện
chi phối trong quá khứ cho kết quả đời hiện tại, và nhờ đó, cơ tánh
được xác định. Như vậy những ai ước mong cho mình có một thói quen
[*] thiện tánh thì cần ngăn ngừa ác pháp không thể chi phối trong khi làm
việc công đức.
[*] Dịch
thoát nghĩa chữ Carita
Và hơn nữa,
trong điều kiện thuận lợi: được sanh làm người, gặp Phật giáo và
có tuổi thọ, nếu tỉnh thức và biết mình, thời cơ hội hoán cải, sửa
đổi (nếu là cơ tánh bất thiện), cơ hội vun bồi, tích lũy (nếu là cơ
tánh thiện) sẽ không là điều khó khăn bởi những thiện nghiệp sau: luôn
học hỏi những pháp nhân sanh trí hoặc giúp cơ hội cho kẻ khác học hỏi,
dứt bỏ tài sản, bố thí thuốc trị bệnh, cúng dường sàng tọa, và điều
dĩ nhiên là những thiện nghiệp này không bị chi phối bởi những chướng
ngại pháp.
-ooOoo-
GIẢI VỀ
BA TIẾN ÐẠT- BHAAVANAA
1. SƠ KHỞI TIẾN ÐẠT -
PARIKAMMABHAAVANAA:
(hay Chuẩn
bị tiến đạt), là những tâm đại thiện, đại tố nào từ lúc bắt đầu
sanh khởi làm nhiệm vụ nhất tâm an trụ vào các án xứ chỉ tịnh cho đến
khi Trì tướng (Uggahanimitta) xuất hiện. Những đại thiện, những đại
tố trong quá trình này được gọi là giai đoạn chuẩn bị tiến đạt - Parikammabhaavanaa.
Sau đây là
những lời giải tự tiếng "Parikamma + Appana.m parikapoti
parisa"ngarotiiti = Parikamma.m" và "Pari-aadi bhuuta.m kamma.m
parikamma.m".
" Tâm lộ
nào làm nền tảng, làm nhiệm vụ chuẩn bị cho Kiên cố định (Appanaa)
hiện khởi, tâm lộ ấy là Parikamma". Hay:
"Tâm lộ
nào là nhân tố để triển khai án xứ, tâm lộ ấy gọi là Parikamma".
Tiếng Pari
hay Parikamma ở lời giải tự thứ nhất được giải thích là Dvaatuvatthaanuvatthaka
- upasaarapada tức là cội nguồn hay khởi đầu, chứ không dùng trong nghĩa
thường dùng: vẹn toàn hay bao trùm. Ở lời giải tự thứ hai Pari được
giải thích là Dvaatuvatthavisesaka - upasaarapada, tức là sự khởi đầu
một cách đặc thù chuyên biệt, nói rõ hơn là sự khởi đầu của một
quá trình tiến đạt án xứ.
Tâm lộ
nào là nền tảng, là cơ sở cho kiên cố định hay là khởi điểm của một
quá trình tiến đạt án xứ, hành giả làm phát triển, làm lớn mạnh những
tâm lộ ấy. Sự phát triển ấy gọi là Chuẩn bị tiến đạt (Parikammabhaavanaa).
Hay sự tiếp
nối liên tục của những tâm lộ làm nhiệm vụ chuẩn bị cho Kiên cố định,
sự chuyển tiếp này gọi là Chuẩn bị tiến đạt - Parikammabhaavanaa -
như lời giải tự: "Parikamma~nca ta.m bhaavanaa caati = Parikammabhaavanaa"
(những tâm lộ phát triển làm nhiệm vụ chuẩn bị, những tâm lộ đó gọi
là Chuẩn bị tiến đạt - Parikammabhaavanaa).
2. CẬN HÀNH TIẾN ÐẠT
- UPACAARABHAAVANAA.
Những tâm
đại thiện, Ðại Tố nào sanh kế cận Kiên cố định hay thiền chứng, gọi
là Cận hành.
Ðây là lời
giải tự tiếng Upacaara - Cận hành: "Appanaaya sanuupe
caritapavattatiiti = Upacaara.m". Tâm lộ nào đến gần lãnh vực thiền
chứng, thì gọi là cận hành.
Sự phát
triển những tâm lộ cận hành này, gọi là cận hành tiến đạt (Upacaarabhaavanaa).
Như lời giải tự:
"Upacaara~nca
ta.m bhaavanaa caati = Upacaarabhaavanaa".
" Sự
phát triển cùng với tâm lộ cận hành, gọi là cận hành tiến đạt (Upacaarabhaavana)".
3. KIÊN CỐ TIẾN ÐẠT -
APPANAABHAAVANAA
Kiên cố
hay appanaa ở đây chỉ cho sự trực chỉ của sở hữu tâm. Những
tâm đáo đại và tâm siêu thế cùng các sở hữu hợp cũng được gọi là
Appanaa. Ðiều này có nghĩa là Appanaa hay kiên cố là sự hướng
đến của sở hữu tâm cùng các pháp tương ưng. Song ở đây nên hiểu
theo ý nghĩa chuyên biệt hơn trong lời giải tự sau:
"Appeti
sampayuttadhamme aaramma.na.m abhiniropetiiti = Appanaa".
" Pháp
nào hướng các pháp tương ưng đến cảnh một cách khắn khít hơn, pháp
đó gọi là kiên cố", tức thiền chi trong đáo đại và siêu thế."
Lời giải
tiếng "Appanaabhaavanaa":
"Appanaa
ca saa bhaavanaa ceti = Appanaabhaavanaa"
" Những
tâm lộ kiên cố cùng sự phát triển của chúng gọi là Kiên cố tiến đạt".
Trong ba tiến
đạt này, những tâm đại thiện hay đại tố nào sanh khởi trước thiền
chứng, gọi là sơ khởi tiến đạt hay giai đoạn chuẩn bị. Ơû giai đoạn
này được phân làm hai: những tâm đại thiện, đại tố sanh vào thời
điểm đầu giai đoạn chuẩn bị thì gọi là sơ khởi tiến đạt (parikammabhaavanaa).
Cũng những đại thiện, đại tố này mà sanh vào thời điểm cuối của
giai đoạn chuẩn bị, nghĩa là sắp bước vào giai đoạn thiền chứng, thì
gọi là cận hành tiến đạt (upacaarabhaavanaa). Hai tiến đạt này tuy
hai nhưng chỉ là một, tên gọi khác nhau chỉ vì ở vào thời điểm khác
nhau. Trường hợp này tương tự như hữu phần rúng động (Bhava"ngacatana),
gọi là hữu phần dứt dòng (Bhava"ngupaccheda), chỉ là vì hũu phần
rúng động nào sanh sau.
GIẢI VỀ
BA ẤN TƯỚNG
1. SƠ TƯỚNG
(PARIKAMMANIMITTA)
Những cảnh
án xứ (như Kasi.na...) đều được gọi là Ấn tướng (Nimitta).
Theo lời giải
tự:
"Aaramma.nikadhamme
nimitte jhaaniyato = Nimitta.m"
"Pháp
nào được Tâm và sở hữu tri nhận trong vai trò năng tri, pháp ấy được
gọi là ấn tướng hay cảnh sở tri."
Sơ tướng
hay Parikammanimitta, tức là ấn tướng của các tâm lộ trong giai đoạn
sơ khởi, hay còn gọi giai đoạn chuẩn bị. Parikammabhaavanaa, trong
trường hợp này nên hiểu theo hợp từ Raajaputto (Raajassa + Putta),
có nghĩa là con của Ðức Vua, chớ không phải là Vua. Cũng vậy, Parikammanimitta
là cảnh sở tri của Parikammabhaavanaa chớ không phải là Parikammabhaavanaa.
Như lời giải
tự sau: "Parikammasse nimitta.m = Parikammanimitta.m", cảnh sở tri
của chuẩn bị tiến đạt thì gọi là sơ tướng, như án xứ Ðất, Nước,
Lửa, Gió,... là ấn tướng của vị hành giả.
2. TRÌ TƯỚNG (UGGA.NHANIMITTA)
Những án xứ
nào mà được ý môn ghi nhận không cần qua nhãn môn, những án xứ ấy gọi
là trì tướng (Ugga.nhanimitta).
Ðây là lời
giải tự tiếng "Ugga.nhanimitta".
"Uggahelabbhati
- Uggaha.m uggaha~nca ta.m nimitta~ncaati = Uggahanimitta".
"Cảnh
nào được trì giữ bởi các môn Ðổng lực đại thiện, đại tố, cảnh
ấy được gọi là cảnh Uggaha (cảnh được thủ trì). Những cảnh Uggaha
trong thời điểm là cảnh sở tri (ấn tướng) của các đổng lực đại
thiện và đại tố, thì được gọi là Uggahanimitta (trì tướng).
Một lời
giải thích khác:
"Ugga.naatiiti
= Uggaho, uggahasan nimitta.m, Ugga.nhanimitta.m".
" Tâm lộ
nào trì giữ cảnh án xứ, tâm lộ ấy được gọi là Uggaho (Thủ
trì tâm lộ), cảnh sở tri của tâm lộ này được gọi là Uggahanimitta
(trì tướng).
Ðể phân
định rõ hơn về hai hai ấn tướng vừa kể, chúng ta xét qua những điểm
khác biệt của hai ấn tướng trên. Sơ tướng là những án xứ cảnh hiện
tại và được tri nhận bằng nhãn môn (nếu là án xứ cụ thể). Trong khi
đó, trì tướng là án xứ được tri nhận bằng Ý môn chứ không qua trung
gian nhãn môn. Ðiều này có nghĩa là trì tướng cảnh quá khứ, và cảnh
quá khứ này phải được ý môn biết rõ như nhãn môn đã từng biết.
3. TỰ TƯỚNG
(PA.TIBHAAGANIMITTA.M)
Vì là những
án xứ giống nhau nên gọi là Pa.tibhaaga (tương tợ).
Pa.tibhaaganimitta
là những án xứ khi trở thành án tướng nó mang đặc tính giống nhau như
trì tướng (Uggahanimitta.m).
Một lời
giải tự như sau:
"Pa.tibhaaga.m
nimitta.m = Pa.tibhaaganimitta.m".
"Những
ấn tướng nào có đặc tính giống trì tướng thì gọi là tự tướng".
4. NHỮNG ÐIỂM DỊ ÐỒNG
CỦA HAI ẤN TƯỚNG: TRÌ TƯỚNG VÀ TỰ TƯỚNG
Cả hai ấn
tướng này: Trì tướng và tự tướng đều là cảnh sở tri mà được tri
nhận qua ngõ ý môn chứ không qua trung gian nhãn môn như ấn tướng ban đầu.
Sự khác
nhau của hai ấn tướng này là đối với trì tướng sẽ được ý môn biết
rõ như ngũ môn nhãn môn đã biết, từ hình thểkích thước đến màu sắc
của cảnh sở tri này. Riêng về tự tướng cũng được ý môn nhận biết
như thế, song giai đoạn này cảnh sở tri sẽ tinh tế, khiết hóa hơn, hơn
cả 100 lần. Ðược ví dụ rằng cũng giống như trăng ngày rằm trong suốt
không một gợn mây. Sở dĩ như vậy là vì tự tướng là khả năng thiền
định thuần thục của hành giả thoát thai từ sự an trụ vào trì tướng
bằng cách trùng lập nhiều lần. Tuy nhiên, tự tướng vẫn là cảnh giả
định không phải cảnh Chơn đế như một số người đã sai lầm. Trong bộ
kinh Visuddhimaggamaahaatiikaa do Ngài Dhammapaala là trước giả, nói
rằng:
"
Ta~nca kho pa.tibhaaganimitta.m neva va.n.navanta.m na sa.n.thaanavanta.m
aparamatthasabhaavattaa"
" Nếu
là Chân đế thời Tự tướng không có màu sắc hay một hình thể nào cả,
do đó Tự tướng chỉ là cảnh giả định".
Ngài Anuruddha
trước khi giải thích điều gì, lời nói đầu tiên là "Katha.m?
- Tại sao?". Từ này thuật ngữ gọi là Kathetukammayataapucchaa - Lời
tự vấn.
Mục lục
| I | II-a | II-b | III | IV-a | IV-b
| V | VI | VII