- GIẢI
VỀ Ý NGHĨA CHỈ TỊNH
- THEO
THẮNG PHÁP YẾU HIỆP
- Hòa thượng Jotika
V.
ÁN XỨ VÔ LƯỢNG TÂM - PHƯƠNG THỨC TU TẬP
Appama~n~naa
hay Vô lượng tâm có nghĩa là pháp mà hướng đến Vô lượng chúng sanh ,
không giới hạn.
Một lời
giải thích nguyên văn mang cùng ý nghĩa:
Appamaa.nesu
sattesu bhavaati = Appama~n~naa.
Tu tập một
trong bốn Vô lượng tâm,vị hành giả cần phải có tâm hồn mở rộng đối
với tất cả chúng sanh, không ước lượng. Như thế mới có thể gọi là
Từ tâm vô lượng, Bi tâm vô lượng, Hỷ tâm vô lượng, Xả tâm vô
lượng và trở thành nhân tố dẫn đến thiền chứng. Ðối với những
Phạm trú này, còn phân biệt về người, còn giới hạn về quốc độ thì
chưa phải là Vô lượng tâm, chỉ là việc làm bìmh thường và tất nhiên
là không đạt đến thiền chứng. Tuy nhiên, với những Từ, Bi, Hỷ, Xả
chưa được vô lượng ấy cũng nhận được quả báu cao trội, đời hiện
tại không bị những sợ hãi, âu lo; đời vị lai cho kết quả Nhân,
Thiên.
Tứ vô lượng
tâm còn gọi cách khác là Phạm trú (Brahmavihaara). Bởi vì người thực
hành một trong bốn Vô lượng tâm, người ấy có một tư tưởng sống
như vị Trời Phạm Thiên - Brahmaana~m vihaaroti = Brahmavihaaro.
Thêm nữa,
tiếng Brahma nghĩa là cao thượng, Vihaara hướng thượng. Một lời
giải tiếp theo:
Viharanti
etehiiti = Vihaaraa: Các Bậc Ðại Nhân có đời sống thanh cao nhờ bốn
pháp Vô lượng tâm, hay bốn Vô lượng tâm giúp cho các Bậc Ðại Nhân có
đời sống thanh cao, thì gọi là Vihaaraa".
Brahmaana~m
(Se.t.thaana~m) Vihaaro (se.t.thaabhuuto) - ti = Brahmavihaaro: Sự trở nên cao thượng
nhờ một trong bốn Vô lượng tâm của vị Hiền Giả, thì gọi là Brahmavihaara.
1. TỪ
VÔ LƯỢNG TÂM - Mettaa Appama~n~naa. -
Mettaa
hay Từ Tâm có nghĩa là lòng nhân ái đối với chúng sanh mọi loài.
Một lời
giải nguyên nhân đồng nghĩa: Mijjati siniyhatiiti = Mettaa.
Chi pháp:
sở hữu Vô Sân với đối tượng là chúng sanh mà hành giả có tình thương
Ðối tượng
chúng sanh thân yêu này có hai hạng: Hạng thông thường và Hạng
đủ khả năng tiến đạt định. Nghĩa là giai đoạn tu tập ban đầu
chỉ lấy cảnh những người thân thường tình (cha mẹ, anh em, bạn bè)
mà làm đối tượng cho Từ Tâm, nhưng khi đã phát triển đến giai đoạn
Cận hành định, bấy gi? tâm sẽ biến mãn đến mọi chúng sanh, dù đó
là kẻ thù hay những người mà không ưa thích, kia là đối tượng cho sự
sân hận, đều có thể khởi lòng từ mãn.
Khi nghĩ về
một chúng sanh bằng Sân hận thù có sự bất bình, ghét bỏ, nhưng nếu bằng
lòng Từ thì xót thương, độ lượng mà theo một lời giải gọi là Mijjati
siniyhati - Tình thương đối với chúng sanh, cần phân biệt: Có hai loại
tình thương : Thứ nhất là Từ tâm -Vô hận (Mettaa - Adosa); Thứ hai
là một thiện tánh được biểu hiện bằng sự thương cảm không phân biệt,
không chấp giữ phải là cha mẹ, anh em, vợ chồng, quyến thuộc,... mà đối
với mọi loài đều mát mẻ. Thứ hai là tình thương vị kỷ có phân biệt,
có chấp giữ, có giới hạn. Tình thương này được gọi là Từ tâm hư
ngụy mà chi pháp là sở hữu tham. Tuy nhiên, sự ái luyến khi trở thành một
từ tâm hư ngụy cũng là điều kiện tốt giúp cho thói quen, giúp cho Từ
tâm như thật được dễ dàng sanh khởi và vững trú.
Nhưng nếu
một người mưu tầm Siêu thế pháp, trong khi tâm tư vẫn còn ái luyến một
người nào đó, thì Siêu thế pháp cũng không bao giờ thành đạt. Bởi vì
sự ái luyến sẽ ngăn chận tâm định và mất đi Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajja~n~na)
cũng giống như trường hợp Trưởng lão Channa, vì quá thương yêu Ðức Phật
đã từng thân cận trước kia mà cho đến lúc xuất gia. Khi Ðức Phật
còn tại thế, vị này không thành đạt một Ðạo, Quả nào. Rồi sau đó,
Ðức Thế Tôn đã Níp-bàn, Trưởng lão Channa mới chứng đạt. Ðây bởi
vì lòng ái luyến đã ngăn chận tâm định và Chánh niệm Tỉnh giác.
NHỮNG HẠNG NGƯỜI CẦN
BIẾT ÐỐI VỚI VIỆC RẢI LÒNG TỪ.
Hạng không
nên rải tâm từ trước:
Appiyapuggala:
Người không tình thương.
Atipiyapuggala: Hạng người quá thương yêu.
Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét, chỉ thái độ dửng
dưng, lãnh đạm.
Veripuggala: Hạng thù nghịch.
Hạng không
nên rải tâm Từ riêng biệt:
Li"ngavisabhaagapuggala:
Người khác giới tính.
Hạng người
không thể rải lòng Từ:
Maala"ngatapuggala:
Hạng người đã chết.
Có những hạng
người không nên rải lòng từ trước, bởi vì nếu là những người không
thương yêu sẽ sanh sự bất bình , phật ý. Ngược lại, nếu đối với
những người quá thương yêu mà trong lúc đang gặp phải đau khổ, sẽ
sanh phiền muộn, âu lo. Còn như hạng người mà hành giả có sự lạnh nhạt
dửng dưng thì cũng không nên rải lòng từ trước vì không có gì đáng thương
để gợi lòng từ. Riêng với hạng thù nghịch, nếu rải lòng từ trước
tiên thì chỉ sanh lòng sân hận, chớ không tạo cơ hội cho tâm từ.
Còn đối với
người khác giới tính thì không nên rải tâm từ riêng biệt, vì đó sẽ
sanh lòng ái luyến.
Riêng về hạng
người đã chết thì không thể rải lòng từ, vì tâm từ và cận định sẽ
không sanh khởi.
HẠNG NGƯỜI CẦN RẢI TÂM
TỪ ÐẦU TIÊN.
Khi tu tập
tâm từ mà không để đạt thiền chứng, vị hành giả hướng tâm biến
mãn đến chúng sanh, riêng bản thân có cũng được, không có cũng được.
Nhưng để đạt thiền chứng, trước hết cần rải lòng từ đối với chính
mình, vì vậy sẽ có điều kiện để nghĩ đến chúng sanh khác, bởi
không có sự thương yêu nào bằng thương chính mình (na caa atta sama~m
pema~m). Khi có lòng từ với chính bản thân, sẽ thấy rằng mình vẫn
muốn lạc, ghét khổ tham sống sợ chết. Rồi so sánh với kẻ khác:
"Họ cũng mong muốn và sợ hãi như mình". Sự so sánh này là nhân
tố quan trọng giúp cho tâm từ dễ dàng sanh khởi và vững trú trong khi rải
lòng từ biến mãn đến mọi chúng sanh cho đến khi thành đạt Cận hành
định và Kiên cố định.
Bậc Ðạo
Sư thuyết rằng:
"Sabbaa
disaa anuparigamma cetasaa
Nevajjhagaa payaramattanaa kvaci
Eva.m piyo puthu attaa paresa.m
Tasmaa na hi.mse para.m attakaamo-ti".
"Hướng
tâm đến mọi phương cũng không thấy thương ai hơn thương chính mình. Và
tất cả mọi người đều như vậy. Do đó, biết thương mình thì đừng nên
nhiễu hại chúng sanh khác".
PHƯƠNG THỨC RẢI LÒNG TỪ.
Rải lòng từ
cho chính mình. Có 4 cách:
Aha~m
avero homi: Mong rằng ta hãy là người không hận thù.
Aha~m abyaapajjo homi: Mong rằng ta hãy là người không sầu muộn, oán hờn.
Aha~m aniigho homi: Mong rằng ta hãy là người không bị khốn bức về
thân tâm.
Aha~m sukhii attaana~m pariharaami: Mong rằng ta hãy là người tự mang lại
an lạc cho thân và tâm.
Bốn cách
trên đây, tu tập một cách nào đó vẫn được.
Ðối với
người khác, nếu là một người thì như vậy:
Avero
hotu: Mong rằng họ là người không hận thù.
Abyaapajjo hotu: Mong rằng họ là người không sầu muộn, oán hờn.
Aniigho hotu: Mong rằng họ là người không bị khốn bức về thân
tâm.
Sukhii attaana~m pariharaami: Mong rằng họ là người tự mang lại an lạc
cho thân và tâm.
Nếu từ
hai người đến vô lượng, thì như vầy:
Averaa
hotu: Mong rằng tất cả đừng hiềm hận lẫn nhau.
Abyaapajjaa hotu: Mong rằng tất cả không sầu muộn, oán hờn.
Aniighaa hotu: Mong rằng tất cả không bị khốn bức về thân tâm.
Sukhii attaana~m pariharaatu: Mong rằng tất cả tự mang lại an lạc cho
thân và tâm.
Ban đầu
hướng tâm đến những người quen biết, những người đang cùng làm việc,
những người cùng sống chung. Từ đó, hướng đến những người đã từng
quen biết, đã từng cùng làm việc, đã từng sống chung, đã từng nhận sự
giúp đỡ trước đó một tháng, một năm, 10 năm, 15 năm, đến thời gian có
thể nhớ được rồi đến vô lượng chúng sanh không giới hạn. Nếu cho
một cá nhân thì theo cách thức riêng lẻ: Avero hotu. Nếu cho một tập
thể thì theo một cách thức: Averaa hontu,...lập đi lập lại nhiều lần
tương tự quán xét về thể trược.
RẢI TÂM TỪ THEO TUẦN TỰ.
Những hạng
người đã kể trên được phân có bốn: Hạng người thương yêu, Hạng
quá thương yêu, Hạng bình thường và Hạng thù nghịch. Hành giả nên rải
tâm từ theo thứ tự. Ðầu tiên là hạng người thương yêu. Kế đến là
người mà quá thương yêu. Rồi tiếp theo là hạng người bình thường và
thù nghịch. Sở dĩ như thế, bởi vì nếu đầu tiên là kẻ thù thì sẽ
sanh sân tâm chớ không tạo cơ hội cho lòng từ, ở đây nói riêng về hạng
thù nghịch, nếu là những khi mà hành giả không thể có lòng từ đối với
kẻ thù thì nên trau dồi tư tưởng bằng cách suy nghĩ: "Kẻ thù không
làm cho ta rơi vào khổ cảnh được mà chính là sự oán cừu". Khi thấy
được kẻ thù thật sự là lòng hiềm hận, oán thù chớ không phải là kẻ
mà mình thù hận, rồi suy xét đến quả báu nhẫn nại của lòng Vô Hận
mà các Bậc Hiền Nhân đã tích tũy vun trồng. Và sau đó rải lòng từ.
Nhưng nếu
vẫn còn sự bất bình, oán giận, hành giả nên xét theo lời Ðức Thế
Tôn thuyết trong Anamataggasa.nyutta :
"Na
so bhikkhave satto suulabharuupo yo na maataa bhuutapubbo, yo na pitaa bhuutapubbo, yo na
bhaataa bhuutapubbo, yo na bhaginii bhuutapubbaa, yo na putto bhuutapubbo, yo na dhiitaa
bhuutapubbaa".
"Này Chư
Tỳ Kheo, không có những người trong quá khứ không từng là mẹ, không từng
là cha, không từng làm anh, không từng làm chị không từng làm con trai,
không từng làm con gái, không từng là thân quyến của mình...".
Hành giả
suy xét tiếp theo:
"Kẻ
thù này trong quá khứ cũng đã từng là quyến thuộc của Ta, vậy Ta không
nên ôm ấp hiềm hận, oán hờn". Rồi hành giả rải lòng từ.
Với những
cách thức trên mà lòng hiềm hận cũng không vơi bớt, tâm từ vẫn không
thể có, thì hành giả chớ nên rải tâm từ với kẻ thù nữa, hãy giữ
tâm xả với họ, hãy xem họ như không có trên đời, việc rải tâm từ
chỉ nên với người thân yêu (hạng quá thân yêu được kể cùng với hạng
này) và những người bình thường, cho đến khi đối với họ cũng như đối
với chính mình.
Còn sở dĩ
phải rải tâm từ đối với kẻ thù cũng vì để khả năng tâm từ đạt
đến vô hạn (Siimasambheda), giữ được tâm bình đẳng (samacittataa)
và là điều kiện thuận lợi cho việc đạt thiền chứng mau chóng và
kiên trụ.
TRẠNG THÁI CỦA TỪ VÔ
LƯỢNG TÂM.
Giả sử rằng,
nếu vị hành giả tu tập án xứ Từ tâm đang cùng ngồi với ba người,
trong đó có người thân, người bình thường và kẻ thù nghịch, kể cả
chính hành giả là bốn người, đột nhiên có một tên cướp hung hãn bước
vào và nói với vị hành giả:
Ta cần một
người trong bốn, cho ngươi tự chọn lấy.
Hành giả hỏi:
- Ông cần làm chi chứ?
Tên cướp
đáp rằng: - Ta cần lấy máu tế thần.
Trước cảnh
tượng hãi hùng này, nếu hành giả cho tên cướp giết kẻ thù đi hay người
kia thì chưa gọi là thành đạt từ vô lượng tâm. Nhưng nếu vị hành giả
tự hy sinh thân mình để thay thế ba ngư?i kia cũng chưa gọi là Từ vô lượng
tâm. Bởi vì còn phân biệt mình và người khác. Chỉ khi nào hành giả xem
tất cả như một, bản thân cũng như người khác và ngược lại, đó mới
là Tâm Từ không giới hạn. Trong Visuddhimagga- atthakathaa [Sa~myuttanikaaya,
Nidaanavagga, Anamatagga- sa"nyutta Dutiyavagga, trang 233-234. - Ch. Trang 295-396
và Visud. Phần I, phẩm Phạm trú, trang 298] giải thích rằng:
"
Attani hitanajjhatte
Ahite ca catubhidhe
Yadaa passati naanatta.m
Hitacittova paani.na.m"
"Na nikaamalaabhi mettaaya
Kusatiiti pavuccati
Yadaa catasso siimaayo
Sambhinnaa honti bhikkhuno"
"Sama.m pharati mettaaya
Sabbaloka.m sadevaka.m
Mahaaviseso na naayati"
Ðại ý nghĩa
là khi nào vị hành giả còn phân biệt giữa bốn hạng người, chính
mình, người thân yêu, bình thường và thù nghịch. Tâm từ khi ấy chỉ
là một lòng nhân đối với chúng sanh, chưa phải là một từ tâm viên
mãn, một tính phổ cập của lòng từ. Vì khi nào hành giả đối với bốn
hạng người không còn phân biệt, không còn sự khác nhau, Từ tâm biến
mãn mọi loài kể cả Thiên nhân và Phạm chúng, giới hạn của tâm Từ
không có đối với Vị Tỳ Kheo ấy. Vị ấy là bậc cao trội hơn tất cả
những vị Tỳ Kheo chưa thành đạt Từ vô lượng tâm.
Riêng về
Tâm Từ của vị hành giả mà trước đối tượng kẻ thù giữ tâm hành xả,
cũng có thể thành tựu Từ vô lượng tâm, nếu tâm từ của vị hành giả
ấy xem những người thân yêu hay những người bình thường như đối với
chính mình. Bởi vì thái độ nín lặng, thản nhiên trước kẻ thù thì cũng
giống như kẻ thù ấy không có trên đời.
Về những
phương cách rải lòng từ như đã nói là sự hướng tâm trực tiếp hành
giả với đối tượng. Theo cách thức này, Từ tâm sẽ dễ dàng sanh khởi
, nhưng lại khó khăn cho người thực hiện. Bởi vì cách thức đã nói là
không dùng lối niệm đọc, chỉ liên tưởng bằng ý thức. Tuy nhiên, để
trau dồi những Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ thêm Kiên cố định mà đối
với vị hành giả cần có, do đó, nguyên tắc đầu tiên là phương cách
này. Sau đó, khi đã thành đạt từ tâm vô lượng mới dùng phương cách
niệm, đọc tiếp sau đây:
Tức là khi
tác niệm rải lòng từ, hành giả dùng bốn điều kiện của Từ tâm
(Avera, Abyaapajja, Aniigha, Attaana~m pariharati) và hướng đến 12 đối tượng
nhận, trong đó 5 tổng quát và 7 riêng biệt.
5 tổng
quát, đó là:
Sabbe
sattaa: Tất cả chúng sanh.
Sabbe paa.naa: Tất cả hữu tình.
Sabbe bhuutaa: Tất cả loài hữu tình.
Sabbe puggalaa: Tất cả mọi người (người ở đây hiểu theo Thắng
Pháp).
Sabbe attabhaavapariyaapannaa: Tất cả chúng sanh có tự thể.
Và 7 đối
tượng riêng biệt là:
Sabbaa
itthiyo: Tất cả nữ nhân.
Sabbe purisaa: Tất cả nam nhân.
Sabbe ariyaa: Tất cả Thánh nhân.
Sabbe anariyaa: Tất cả phàm phu.
Sabbe devaa: Tất cả Chư thiên.
Sabbe manussaa: Tất cả nhân loại.
Sabbe vinipaatika: Tất cả loài đọa xứ.
Với cùng
10 phương biến mãn:
Paratthimaaya
disaaya: Phương đông.
Pacchimaaya disaaya: Phương tây.
Uttaraaya disaaya: Phương bắc.
Dakkhi.naaya disaaya: Phương nam.
Puratthimaaya anudisaaya: Phương đông nam.
Pacchimaaya anudisaaya: Phương Tây Bắc.
Uttaraaya anudisaaya: Phương đông bắc.
Dakkhi.naaya anudisaaya: Phương Tây nam.
He.t.thimaaya disaaya: Phương trên.
Uparimaaya disaaya: Phương dưới.
Hành giả
tác niệm theo thứ tự đầu tiên với 20 câu (5 đối tượng * 4 điều kiện)
cho 5 đối tượng tổng quát:
Sabbe
sattaa averaa hontu; abyaapajjaa hontu; anighaa hontu; sukhii attaana.m pariharantu.
Sabbe paa.naa averaa hontu...
Sabbe bhuutaa averaa hontu...
Sabbe puggalaa averaa hontu...
Sabbe attabhaavapariyaapannaa...
Và 28 câu
(7 đối tượng * 4 điều kiện) cho đối tượng riêng biệt:
Sabbaa
itthito averaa hontu, abyaapajjaa hontu, aniighaa hontu, sukhii attaana.m pariharantu.
Sabbe purisaa averaa hontu...
Sabbe ariyaa averaa hontu...
Sabbe anuriyaa averaa hontu...
Sabbe devaa averaa hontu...
Sabbe manussaa averaa hontu...
Sabbe vinipaatikaa averaa hontu...
12 đối tượng
* 4 điều kiện = 48 đối tượng biến mãn (Puggalavaaraphara.naamettaa),
cùng các phương hướng:
Puratthimaaya
disaaya sabbe sattaa... sabbe vinipaatikaa averaa hontu abyaapajjaa hontu aniighaa hontu
sukhii attaana~m pariharantu
Mong cho tất
cả chúng sanh ...tất cả loài đọa xứ trong hướng đông đừng hận thù,
đừng oán hờn, đừng bị khốn bức thân tâm, hãy tự mang lại an lạc.
Chín hướng
còn lại cũng tương tự như vậy, mỗi hướng với 48 đối tượng biến mãn.
Tất cả là 480 phương biến mãn Từ tâm (Disaaphara.naa-mettaa)
48 đối tượng
biến mãn Từ tâm và 480 phương biến mãn là 528 Từ tâm biến mãn.
Nên hiểu
thêm rằng 528 Từ tâm biến mãn có ở vị hành giả là do không hướng
tâm đến cá nhân một người , mà là tất cả ở mọi phương. Do đó, khi
nói: "Tôi có 528 Từ tâm đối với Ngài" là sai lầm.
ẤN TƯỚNG VÀ TIẾN ÐẠT
TRONG ÁN XỨ TỪ TÂM.
Từ lúc ban
đầu rải Từ tâm cho chính mình, cho đến sau cùng là đối tượng kẻ thù,
tức là Sơ tướng. Khi tâm Từ biến mãn cả ba hạng người (trừ hành giả)
nghĩa là chưa đạt đến vô hạn, tức là Trì tướng. Và khi đã thành tựu
Từ tâm vô lượng là đạt Tự tướng. Ba ấn tướng này, diễn tiến theo
cách vòng. Nói là cách vòng vì ấn tướng chỉ dùng mỗi một ý thức chứ
không trực diện bằng mắt để tu tập. Do đó, ba ấn tướng này không
theo lối trực tiếp. Về quá trình tiến đạt, là khi tác niệm Avero
homi hay Avero hoti hay Averaahontu cho chính mình, cho người thân
yêu hay người bình thường hoặc thù nghịch, thì đó là chuẩn bị Tiến
đạt. Khi tâm biến mãn trong Trì tướng và Tự tướng thì gọi là Cận
hành tiến đạt. Và thiền chứng sanh khởi tức là Kiên cố định tiến
đạt.
QUẢ BÁU DO SỰ TU TẬP TỪ
TÂM
Tu tập từ
vô lượng tâm có những quả báu như sau:
1) Sukha~m
supati: Khi ngủ được an lạc.
2) Sukha~m pa.tibujjhati: Khi thức dậy cũng được an lạc, trạng thái
như khi vừa xả định.
3) Na ~naapaka~m supina~m passati: Ngủ không thấy ác mộng.
4) Nanussaana~m piyo hoti: là nơi thương mến của mọi người.
5) Devataarakkhati: Ðược Chư Thiên bảo hộä.
6) Nassa aggi vaa visa~m vaa sattha~m vaa kamati: lửa hay thuốc độc hoặc
vũ khí không thể làm hại.
7) Tuvata~m citta~m samaadhiyati: Tâm dễ dàng định tỉnh.
8) Mukkhava.n.no vippasiidati: Sắc diện tươi sáng.
9) Asammu.lho kaala~m karoti: lâm chung không bấn loạn.
10) Uttari - mappa.tivijjhanto brahmalokupago hoti: Nếu chưa thành đạt
A-la-hán mà thành đạt thiền chứng sẽ sanh về Phạm Thiên giới.
ÐIỀU CẦN BIẾT TRONG
ÁN XỨ TỪ NIỆM.
Ðó là:
Lakkha.na:
Trạng thái
Hasa: Phận sự.
Paccupa.t.thaana: Nhân thành tựu.
Pada.t.thaana: điều kiện cần thiết.
Sampatti: sự đầy đủ.
Vipatti: sự thối thoát.
Aasannapaccatthika: kẻ thù gần.
Duurapaccatthika: kẻ thù xa.
(Mỗi án xứ
Vô lượng tâm đều có 8 điều này)
Lakkha.na:
Nitaakaarappavattilakkha.na - Trạng thái là động lực thúc đẩy
thân, khẩu, ý trong việc mong cầu lợi ích cho chúng sanh.
Rasa:
Nituupasa~mhaararasaa - Phận sự là mang lại lợi ích cho chúng
sanh.
Paccupa.t.thaana:
Agnaatavinayapaccupa.t.thaanaa - Nhân thành tựu là ngăn trừ mọi
thù hiềm.
Pada.t.thaana:
Nanaapabhaavadassanapada.t.thaanaa - Ðiều kiện cần thiết là
nghĩ đến điều tốt đẹp, khả ái của chúng sanh, không nghĩ đến điều
xấu xa, không tốt .
Sampatti:
Byaapaaduupasamo sampatti - Viên Mãn là lòng oán hận đã ngăn
trừ trong thời gian dài.
Vipatti:
Sinehasambhavo vipatti - Thối thoát là thương yêu do lòng vị kỷ.
Aasannapaccatthika:
Raago aasannapaccatthiko - kẻ thù gần là sự ái luyến.
Duurapaccatthika:
Byaapaado duurapaccatthika - kẻ thù xa là lòng hiềm hận.
2. ÁN XỨ
BI VÔ LƯỢNG TÂM (Karu.naa - appama~n~naa)
Karu.na
hay Bi tâm tức là sự động tâm, rung động, không thể nín lặng trước
chúng sanh đang khổ. Hay thái độ giúp đỡ chúng sanh đang đau khổ được
hạnh phúc, cũng được gọi là Bi. Một lời giải tự như sau:
"Paradukkhe
sati saadhuna.m hadayakampana.m karotiiti = Karu.naa".
Pháp tánh
nào mà các Bậc chân nhân động tâm, rung động trước đau khổ của kẻ
khác. Pháp tánh ấy được gọi là Bi. Hay:
"Ki.naati
paradukkha.m hi.msati vinaasetiiti = Karu.naa"
Pháp nào chặn
đứng, ngăn trừ sự khổ của kẻ khác. Pháp ấy gọi là Bi.
Chi
pháp: Sở hữu Bi, đối tượng là: chúng sanh đang đau khổ (Tất nhiên
là cảnh chế định)
Nói theo
thông thường, Bi có hai: Bi như thật và Bi hư ngụy. Bi như thật là sự động
tâm trước chúng sanh khác đang khổ hoặc là sẽ khổ. Hay là một thái độ
giúp đỡ cũng thế. Song, không hề có sự bi lụy sầu muộn hay ai oán.
Tâm hoàn toàn khiết tịnh, trong sạch. Nói cách khác hơn là Tâm đại thiện
hay Ðại tố có cùng sở hữu Bi. Về Bi hư ngụy tuy cũng có thái độ động
tâm trước chúng sanh đang khổ hay tương lai sẽ khổ, nhưng bên cạnh là
những sầu muộn hay ai oán, bi lụy chính là tâm sân có cùng Ưu thọ.
Án xứ Bi
tâm này là hành giả phát triển Bi như thật. Ðối tượng của Bi cũng
được tính có hai: chúng sanh đang nhận chịu đau khổ trong năm suy vong (Vyasana:
Bệnh, già, chết, tài sản suy vong, quyến thuộc suy vong) và chúng sanh sẽ
phải gặp năm điều này, hay sẽ nhận chịu khổ đau trong khổ cảnh hay
khổ luân hồi: Sanh, lão, tử mà không có ai có thể vượt qua. Vị hành giả
tu tập, nếu không gặp đối tượng thứ nhất, vẫn có thể rải lòng Bi
với đối tượng thứ hai bằng cách suy nghĩ rằng:
"Chúng
sanh này mặc dù đang hạnh phúc bởi những danh xưng, quyền lợi, tài sản,
đồ chúng hay thế nào đi nữa, nhưng trong tương lai vẫn không thể thoát
khỏi những khổ suy vong hay những khổ luân hồi trong khi luân chuyển đời
này và đời khác. Hay hơn nữa là sự khổ đau trong đọa xứ".
Và khi rải
lòng từ bi, hành giả cũng theo một thứ tự:
Ðầu tiên
là cho chính mình.
Kế đến là hạng bình thường.
Tiếp theo, người thân.
Và sau cùng là kẻ thù.
Thứ tự như
vậy cũng bởi vì, nếu sau chính mình là người thân yêu, Bi tâm như thật
khó mà sanh khởi, chỉ có là hư ngụy. Còn nếu như không là người thân
yêu mà là kẻ thù, thì làm thích thú nếu kẻ thù của mình đang khổ và
đó chính là lòng tham. Nên việc rải lòng Bi vẫn phải theo một thứ tự
thích hợp cho đến khi trở thành vô lượng tâm như đã nói ở phần Từ
tâm vô lượng. Về lối thực hành, để ngăn trừ tham muốn khi kẻ thù
đang khổ và sân tâm khi kẻ thù đang hạnh phúc thì cũng như cách ngăn trừ
hiềm hận ở lòng Từ. Ơû đây không lặp lại, chỉ nói đến phương cách
rải lòng Bi theo lối niệm đọc mà trình bày tiếp theo đây.
Tức là,
khi rải lòng Bi hướng về chính mình, hành giả tác niệm: "Aha~m
dukkhaa muccaami: Mong rằng Ta hãy thoát khỏi khổ thân và khổ tâm".
Tác niệm
,khi hướng về một người khác: "Dukkhaa muccatu: Mong rằng chúng
sanh ấy (này) thoát khỏi khổ đau về thân và tâm".
Hướng về
hai người cho đến vô lượng: "Dukkhaa muccantu: Mong rằng tất cả
thoát khỏi khổ về thân và tâm".
Thường cách
rải lòng từ bi chỉ một điều kiện: "Thoát khỏi khổ - Dukkhaa
muccati" và 12 đối tượng, cùng với 5 phổ quát và 7
riêng biệt.
Tác niệm hướng
đến tổng quát:
1. Sabbe
sattaa dukkhaa muccantu : Xin cho tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau về
thân và tâm.
(...)
5. Sabbe
attabhaavapariyaapannaa dukkhaa muccantu: Xin cho tất cả loài có tự thể
thoát khỏi khổ đau.
Năm đối
tượng trên là Bi tưởng biến mãn phổ quát (anodisaphara.naakaru.naa).
Tác niệm hướng
đến riêng biệt:
1. Sabbaa
itthiyo dukkhaa muccantu: Xin cho tất cả nữ nhân thoát khỏi khổ đau về
thân và tâm.
(...)
7. Sabbe
vinipaatikaa dukkhaa muccantu: Xin cho tất cả loài đọa xứ thoát khỏi khổ
đau về thân và tâm.
Bảy đối
tượng trên đây là Bi tâm biến mãn riêng biệt (Odisaphara.naakaru.naa).
Tác niệm
cùng với 10 phương hướng:
Puratthimaaya
disaaya sabbe sattaa... pe...sabbe vinipaatikaa dukkhaa muccantu: Xin cho tất cả
chúng sanh... tất cả loài đọa xứ trong hướng đông thoát khỏi khổ đau
về thân và tâm.
Chín hướng
còn lại cũng tương tự như vậy. Mỗi hướng có 12 Bi tâm (do 12 đối tượng).
Tất cả 10 hướng có 120 Bi tâm và gọi là Bi tâm biến mãn phương hướng
(disaaphara.naakaru.naa). 12 Bi tâm biến mãn chúng sanh và 120 Bi tâm biến
mãn phương hướng. Tất cả là 132 Bi tâm biến mãn.
Về những
ấn tướng, tiến đạt và quả báo của bi tâm thì giống như ở phần Từ
Tâm. và đối với án xứ bi tâm cũng có 8 điều kiện cần biết, đó là:
Lakkha.na:
Paradukkhaa panayanaakaappavattilakkha.na - Sự diễn tiến của thân, khẩu,
ý trong việc làm ngôn từ ngăn trừ đau khổ của kẻ khác, đó là trạng
thái.
Rasa:
Paradukkhaasahanarasaa - không thể nín lặng trước đau khổ của kẻ khác
và muốn giúp đỡ, đó là phận sự.
Paccuppa.t.thaana:
Avihi~msaapaccupa.t.thaanaa - Không não hại chúng sanh khác, đó là sự
thành tựu của tâm bi.
Pada.t.thaanaa:
Dukkhaabhibhuupaana~m anaathabhaavadassanapada.t.thaanaa - Suy xét để thấy chúng
sanh khác đau khổ, đó là điều kiện cần thiết.
Sampatti:
Vihi~msuupamo sampatti: sự lắng đọng của sân tâm trong việc làm não hại
chúng sanh, đó là sự đầy đủ.
Vipatti:
Sokasambhavo vipatti: Khởi sự sầu muộn, bi lụy. Ðó là sự thối
thoát.
Aasannapacca.t.thika:
Sahasita.m domanassa.m aasannapaccatthika.m - Sự buồn khổ trước cảnh dục
phược (Kaamagu.na - aaramma.na) là kẻ thù gần.
Duurapaccatthika:
Vihi~msaa duurapaccatthikaa: sự não hại chúng sanh là kẻ thù xa.
3. ÁN XỨ
HỶ VÔ LƯỢNG TÂM - Muditaa-appama~n~naa -
Muditaa
có nghĩa là sự vui mừng, hân hoan trước hạnh phúc, thành lợi của chúng
sanh khác. Như một lời giải:
Ta~m
sama"ngino modanti etaayaati = Muditaa: Bậc Hiền nhân hướng tâm đến
tất cả bằng sự đồng cảm mà khởi lên lòng vui thích trong hạnh phúc của
kẻ khác do sự đồng cảm ấy được gọi là Muditaa hay Tùy hỷ.
Chi
pháp: sở hữu Tùy Hỷ, đối tượng là cảnh chế định: Chúng sanh
hạnh phúc.
Và nói
thông thường, Tùy hỷ có hai: Tùy hỷ như thật và Tuỳ hỷ hư ngụy. Tùy
hỷ như thật là đồng vui trước chúng sanh hạnh phúc hoặc là sẽ hạnh
phúc. Tuy nhiên, không hề có sự chấp giữ hay kiêu mạn, chỉ là trạng
thái tâm hân hoan, hoàn toàn khiết tịnh mà đó là tâm Ðại Thiện hay Ðại
Tố sanh từ sở hữu Tuỳ hỷ.
Riêng về
Tuỳ hỷ hư ngụy, mặc dù đó cũng là tâm có trạng thái vui mừng, hân
hoan nhưng là một thái độ chiếm hữu, chấp giữ có từ căn tham tương
ưng hỷ. Tuỳ hỷ hư ngụy này phần lớn là do cái nhìn chấp giữ: đây
là cha mẹ, anh em, con cái, bè bạn của mình. Khi những người này có được
danh xưng, địa vị, tài sản,...
Tu tập án
xứ tùy hỷ là hành giả phát triển Tùy hỷ như thật.
Nói về
chúng sanh hạnh phúc, đối tượng tùy hỷ cũng có hai. Thứ nhất là chúng
sanh đang hạnh phúc hay sẽ hạnh phúc. Thứ hai là chúng sanh đã từng hạnh
phúc nhưng hiện tại đang đau khổ. Nếu hành giả không gặp hạng thứ nhất
vẫn có thể tu tập với hạng thứ hai, với suy nghĩ rằng: "Chúng sanh
này mặc dù đang đau khổ, nhưng trước kia đã từng hướng hạnh phúc về
danh xưng, tài sản, địa vị hay một hạnh phúc nào đó".
Khi tu tập,
hành giả nên theo một thứ tự:
Ðầu tiên
là chính mình.
Sau đó là những người thương yêu nhất, kể cả hạng thứ nhất và thứ
hai.
Rồi những người thân yêu, cũng có hai hạng.
Tiếp theo là hai hạng bình thường.
Và sau cùng là hai hạng kẻ thù.
Thứ tự
này, đầu tiên là chính mình rồi đến những người thân yêu nhất, bởi
vì như thế Tùy hỷ hư ngụy dễ dàng sanh khởi đối với những người
quá thương yêu như thế nào thì Tùy hỷ như thật cũng dễ dàng có với
người quá yêu thương tương tự như vậy. Do đó, hành giả cần có một
thứ tự thích hợp. Và như vậy cho đến khi tùy hỷ đạt đến Vô giới
hạn như đã nói ở Từ tâm.
Về lối thực
hành để ngăn trừ sân tâm hay đố kỵ trong khi rải lòng tùy hỷ đối với
hai hạng kẻ thù, thì cũng giống như cách ngăn trừ hiềm hận ở lòng từ,
ở đây sẽ đề cập tiếp theo là phương cách niệm đọc.
Khi rải lòng
tùy hỷ, nếu cho chính mình, hành giả tác niệm:
"Aha~m
yathaaladdhasampattito naa vigacchaam: Xin cho Ta những hạnh phúc, thạnh lợi
đang có đừng hoại vong".
Nếu cho một
người khác: "Yathaaladdhasampattito naa vigacchatu: Xin cho chúng sanh
ấy (này), những hạnh phúc, thạnh lợi đang có đừng hoại vong".
Tác niệm
cho hai người đến vô lượng: "Xin cho họ những hạnh phúc, thạnh lợi
đang có đừng hoại vong".
Phương cách
rải lòng tùy hỷ theo thông thường, có một điều kiện: Lathaakaddhasampattito
naa vigacchatu và 12 đối tượng tính rộng, trong đó có 5 tổng
quát và 7 riêng biệt.
Hành giả
tác niệm khi hướng đến 5 đối tượng tổng quát, thì như vầy:
Sabbe sattaa
yathaa laddhasampattito naa visacchantu: Xin cho tất cả chúng sanh những hạnh
phúc, thạnh lợi đang có đừng hoại vong.
Sabbe
paa.naa...
Sabbe bhuutaa...
Sabbe puggalaa...
Sabbe attabhaavapariyaapannaa...
Ðây gọi
là Biến mãn Hỷ tổng quát.
Tác niệm hướng
đến 7 đối tượng riêng biệt:
Sabbe
itthiyo yaathaaladdhasampattito naa vigacchantu: Xin cho tất cả nữ nhân những
hạnh phúc thạnh lợi đừng bị hoại vong.
Sabbe purisaa...
Sabbe ariyaa...
Sabbe anariyaa...
Sabbe devaa...
Sabbe manussaa...
Sabbe vinipaatikaa...
Bảy đối
tượng này gọi là biến mãn Hỷ riêng biệt và gom chung 12 đối tượng thì
gọi là chúng sanh biến mãn hỷ.
Tác niệm
cùng với 10 phương hướng:
Puratthimaaya
disaaya sabbe sattaa...sabbe vinipaatikaa yathaaladdhasampattito naa gacchantu: Xin
cho tất cả chúng sanh ... tất cả loài đọa xứ trong hướng đông, những
hạnh phúc, thạnh lợi đang có đừng bị hoại vong.
Các phương
hướng còn lại cũng tương tự như vậy, mỗi phương có 12 Tuỳ hỷ
(do 12 đối tượng). Tất cả là 120 phương hướng biến mãn hỷ (Disaaphara.naamuditaa).
12
chúng sanh biến mãn hỷ và 120 phương hướngbiến mãn Hỷ, gọi là 132
biến mãn hỷ.
Về ấn tướng,
tiến đạt và quả báu của án xứ Tùy hỷ tương tự phần Từ vô lượng
tâm.
Và án xứ
tùy hỷ, cũng giống như ở các án xứ Vô lượng tâm khác, đều có 8 điều
cần biết sau đây:
Trạng thái
(lakkha.na): Pamadanalakkha.naa, tức là sự vui thích trong hạnh
phúc của kẻ khác.
Phận sự (Rasaa):
Anissaayanarasaa: là không đố kỵ trước thạnh lợi của kẻ khác.
Sự thành tựu
(Paccupa.t.thaana): Aratighaatapaccupa.t.thaanaa tức là ngăn trừ lòng đố
kỵ.
Ðiều kiện
cần thiết (Pada.t.thaana): Parasampattidassanapada.t.thaanaa, tức là
phải thấy được sự thạnh lợi của kẻ khác.
Sự tròn đủ
(Sampatti): Arativupasamosampatti, tức là lòng đố kỵ đã được
lắng đọng.
Sự thối
thoát (Vipatti): Padaasambhavo vipatti, tức là sự ngạo mạn, tự
cao.
Kẻ thù gần
(Aasannapaccatthika): Gehasita.m sosanassa.m aasannapaccattika.m, tức là
sự đắm say trong ngũ dục (Kaamagu.na).
Kẻ thù xa
(Duurapaccatthika): Aratiduurapaccatthika tức là sự không ưa thích,
ganh ghét trước thạnh lợi của kẻ khác.
4. ÁN XỨ
XẢ VÔ LƯỢNG TÂM - Upekkhaa-Appama~n~naa -
Upekkhaa hay Hành
Xả, tức là thái độ im lặng đối với chúng sanh, không chi phối bởi
những ý muốn tốt (Từ), bởi việc ngăn chận khổ đau (Bi) hay bởi sự
đồng vui trước chúng sanh hạnh phúc (Hỷ).
Một lời
giải thích:
Aaveraa
hontu aadibayaapaarappahaanena majjhatta bhavuupagamanena ca upekkhatiiti = Upekkhaa.
Pháp nào
ở trạng thái quân bình đối với chúng sanh, không thương xót cũng không
ghét bỏ, nghĩa là không chi phối bởi Từ, Bi, Hỷ (averaa hontu...).
Pháp ấy được gọi là Hành Xả.
Chi
pháp: Sở hữu Hành Xả với đối tượng cảnh là chúng sanh bình thường
(bình thường trong ý nghĩa không ghét không thương).
Ðối tượng
chúng sanh bình thường được tính có hai. Thứ nhất là do khả năng tiến
đạt định, thứ hai là hạng thường tình. Hạng thường tình tức là những
người mà vốn đã không thương không ghét, chỉ lãnh đạm hững hờ. Ðó
là thái độ chung hầu hết mỗi người. Hạng người do khả năng tiến đạt
định, đó là đối tượng thương yêu hay thù nghịch, đang đau khổ hay hạnh
phúc.
Về thái độ
lãnh cảm đối với chúng sanh cũng có hai: từ động lực hành xả và từ
động lực si mê. Thái độ lãnh cảm do mãnh lực hành xả ấy không có sự
liên hệ với Từ, Bi, Hỷ như đã nói. Và đó là một hành xả như thật.
Về thái độ có từ động lực si mê, đó là khi gặp cảnh đáng thương,
không biết cần phải có sự thương xót. Ðiều đáng mong mỏi, đáng mưu
tìm thì không mưu tìm, không mong mỏi. Trước đối tượng đáng tôn trọng,
tịnh tín thì không biết đó là nơi đáng tôn trọng. Ðiều đáng ghê sợ,
đáng nhàm chán thì không biết để ghê sợ, để nhàm chán. Cái đáng
giúp đỡ, đáng bảo vệ thì không biết giúp đỡ, bảo vệ. Ðiều cần
phát triển, cần xây dựng để tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn thì thờ ơ,
hờ hững. Ðây là những hành xả hư ngụy, hay còn gọi là Vô trí hành xả
(A~n~naa.na - upekkhaa).
Tu tập án
xứ Xả vô lượng tâm này là hành giả phát triển Hành Xả Như Thật.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA XẢ
VÔ LƯỢNG TÂM VÀ XẢ BA LA MẬT
Hai thái độ
Hành Xả, Vô lượng tâm và Ba la mật đều là sự im lặng trước chúng
sanh như nhau, nhưng đối tượng cảnh tác động có sự khác nhau.
Thái độ
im lặng không xáo động, không chi phối vì Từ, Bi, Hỷ, Xả. Chỉ là trạng
thái quân bình đối với chúng sanh, đó là Xả Vô Lượng Tâm.
Thái độ
im lặng khác là đối với những người mang lại điều tốt đẹp hay sự
xấu xa cho mình; với những cử chỉ tôn trọng,kính lễ, thương tưởng chẳng
hạn hoặc là những hành động khiếm nhã, những việc làm gây tổn hại
cũng thế. Tâm vẫn không khác hơn, vẫn là sự im lặng không thay đổi,
ấy là Xả Ba La Mật. Thái độ này cao trội hơn, khó làm hơn thái
độ : Xả vô lượng tâm.
LỐI THỰC HÀNH DẪN ÐẾN
KIÊN CỐ ÐỊNH.
Ðể phát
triển đến kiên cố định, những án xứ Vô lượng tâm: Từ - Bi- Hỷ
thì không cần có sự phân biệt về người (dĩ nhiên cũng phải là người
Tam nhân), về án xứ cũng không lựa chọn (không cần chọn một án xứ
nào đó làm nền tảng). Nhưng riêng về án xứ Xả vô lượng tâm thì vị
hành giả phải là người chứng Tứ thiền và thiền tầng thứ tư này phải
được tu tập từ một trong ba án xứ: Từ, Bi, Hỷ chớ không thể từ một
án xứ nào khác. Do đó, mà nói rằng phải tùy người và tùy án xứ. Có
sự phân biệt này cũng bởi vì sự tu tập án xứ Xả vô lượng tâm chỉ
thành đạt duy nhất mỗi một thiền tầng thứ năm. Chính vì vậy mà một
người chưa đạt thiền thứ tư thì không tu tập án xứ hành xả đạt đến
thiền chứng. Và như vậy án xứ phải tùy người.
Riêng việc
phải lựa chọn án xứ, vì nếu như thiền tầng thứ tư có từ sự tu tập
án xứ hoàn tịnh hay tức quan niệm chẳng hạn thì không có khả năng giúp
cho sự phát triển án xứ hành xả đến thiền chứng. Bởi lẽ, với những
cảnh chế định (hoàn tịnh hay hơi thở) của thiền tầng, đối với cảnh
chế định (chúng sanh bình thường) của thiền tầng thứ năm sẽ sanh khởi
tiếp theo, hoàn toàn khác hẳn. Nhưng ngược lại, nếu thiền tầng thứ
tư có thể tự có từ sự tu tập Từ hay Bi hoặc Tùy hỷ thì sự phát triển
Xả vô lượng tâm, thiền chứng đó có thể thành tựu. Bởi vì những cảnh
chế định: chúng sanh thân yêu hay chúng sanh đau khổ hay chúng sanh hạnh
phúc của thiền tầng thứ tư đối với cảnh chế định của thiền tầng
thứ năm: chúng sanh bình thường, sẽ sanh tiếp theo có trạng thái giống
nhau.
VIỆC
LÀM ÐẦU TIÊN ÐỂ THỰC HÀNH.
Vị hành giả
tu tập án xứ Xả vô lượng tâm, đầu tiên phải thuần thục năm khả
năng thiền chứng (Vaacii) đối với thiền thứ tư. Sau đó, suy xét
đến trở ngại của những thiền tầng thành tựu từ sự tu tập Từ- Bi-
Hỷ.
Rồi xét đến
sự cao bội của thiền tầng được tu tập từ án xứ Hành xả.
"Nettaadayo
c.laarikaa
Sattakelaayanena ca
Yuttaa canuupacaarikaa
Pa.tighaanunayaana.m ca".
" Những
Từ - Bi - Hỷ vẫn còn thô thiển, vì các thiền chi còn tương ưng Hỷ thọ
(somanassavedanaa) còn sự vui thích và thương cảm đối với chúng
sanh, cả lối thực hành cũng còn cận kề hiềm hận và luyến ái".
"Upekkhaa
tu santabhaavaa
Sukhumaapa.niitaapi ca
Kilesohi ca viduuraa
Savepullaphalaa tathaa".
" Riêng
về Hành Xả ấy là một trạng thái tĩnh lặng, tế nhị, thù thắng, vượt
xa phiền não và cho kết quả đặc thù, lớn trội."
Rồi tiếp
đến quán xét về sự hiện hữu của tất cả chúng sanh mà vận hành tùy
thuộc vào những hành vi của mỗi cá nhân:
"Attanaa
katakammena
Aagatoya.m ca gacchati
Attanaa katakammena
Aagato tva.m ca gacchasi."
"Người
ấy có mặt ở đời này là do hành vi (kamma) của chính họ. Có mặt
đời sau cũng do hành vi của họ. Người này có mặt ở đời này và đời
sau cũng do hành vi của chính họ; và Ta cũng không khác hơn."
"Na
tassa tava yogena
Labbhaa ki~nci sukha.m dukkha.m
Upanetu.m apanetu.m
Kammassako hiya.m jano".
"Cái
đem lại hạnh phúc và ngăn trừ đau khổ không phải do sự giúp đở của
người nào, mà nghiệp của chính mỗi chúng sanh mới là trọng yếu."
Khi thực hiện
việc rải lòng xả, hành giả cần theo một thứ tự: trước hết vẫn là
chính mình, rồi tiếp theo là những người bình thường, người thân yêu,
người quá thân yêu và cuối cùng là hạng thù nghịch.
Thứ tự
trên, sau bản thân là hạng bình thường chớ không là hạng thân yêu, bởi
vì hành xả hư ngụy dễ dàng có đối với hạng bình thường (bình thường
theo hạng thường tình) như thế nào thì hành xả như thật cũng dễ dàng
tương tự như vậy. Còn riêng những người thân yêu, quá thân yêu hay thù
nghịch thỉ hành xả dù hư ngụy hay như thật cũng khó mà sanh khởi.
Do đó,
hành giả cần phải có một thứ tự thích hợp cho đến khi thành đạt Xả
vô giới hạn như đã nói ở những Vô lượng tâm trước.
Về phương
thức thực hành,tránh những sân tâm hay đố kỵ trước đối tượng kẻ
thù thì cũng giống như phần tâm Từ đã nói, sau đây theo là nói đến
phương thức niệm đọc.
Là khi giữ
tâm hành xả đối với chính mình, hành giả tác niệm: "Aha~m
kammassako - Ta có nghiệp là sở hữu". Hành giả tác niệm
khi nghĩ về một người khác: "Kammassako - Chúng sanh ấy (này) có
nghiệp là sở hữu". Nếu nghĩ về hai đến vô lượng thì tác niệm:
"Kammassakaa - Tất cả chúng sanh có nghiệp là sở hữu".
Phương thức
tác niệm này có một điều kiện: Kammaddakaa và 12 đối tượng,
trong đó 5 tổng quát và 7 riêng biệt.
Tác niệm hướng
về 5 đối tượng tổng quát:
Sabbe
sattaa kammassakaataa: Tất cả chúng sanh có nghiệp là sở hữu.
Sabbe
paa.naa...Tất cả loài hữu tình...
Sabbe
bhuutaa... Tất cả loài hữu tình...
Sabbe
puggalaa... Tất cả những người...
Sabbe
attabhaavapariyaapannaa... Tất cả các loài có tự thể...
Năm đối
tượng này được gọi là Xả biến mãn tổng quát.
Tác niệm
đối với 7 đối tượng riêng biệt:
Sabbe
itthito kammassakaa: Tất cả nữ nhân, nghiệp là sở hữu.
Sabbe
purisaa... Tất cả nam nhân...
Sabbe
ariyaa... Tất cả Chư Thánh...
Sabbe
anariyaa... Tất cả phàm phu...
Sabbe...
Tất cả Chư Thiên...
Sabbe
manussaa... Tất cả nhân loại...
Sabbe
vinipaatikaa... Tất cả loài đọa xứ...
Bảy đối
tượng trên được gọi là Xả biến mãn riêng biệt. Năm xả biến mãn tổng
quát và bảy Xả biến mãn riêng biệt. Tất cả gọi là 12 chúng sanh biến
mãn Xả.
Tác niệm từng
đối tượng theo mỗi phương:
Puratthimaaya
disaaya sabbe sattaa...sabbe vinipaatikkammassakaa: Tất cả chúng sanh, tất cả
hữu tình,... trong hướng đông, nghiệp là sở hữu.
Các phương
còn lại cũng như vậy, mỗi phương với từng đối tượng. Tất cả là
120 (10 phương * 12 đối tượng) phương hướng biến mãn xả (disaaphara.naa-upekkhaa)
12 chúng
sanh biến mãn xả và 120 phương hướng biến mãn xả. Gom chung là 132 biến
mãn xả lớn rộng.
Về ấn tướng,
tiến đạt và quả báu của án xứ Xả Vô lượng tâm thì cũng tương tự
án xứ Từ vô lượng tâm. Và như bao án xứ Vô lượng tâm khác, Xả vô lượng
tâm cũng có 8 điều cần biết như sau:
Lakka.na:
Sattesumajjhattaakaarappavattilakkha.naa - Trạng thái là sự
quân bình đối với tất cả chúng sanh.
Rasa:
Sattesusamabhaavadassanarasaa - Phận sự là nhìn chúng sanh đều
tương đồng, không kém không hơn.
Paccupa.t.ti~naana:
Pa.tighaanunayavuupasamapaccupatthaanaa - Sự thành tựu là những
hiềm hận được vắng lặng và sự thương yêu đối với chúng sanh cũng
không còn.
Pada.t.thaana:
Kammassakaa sattaa te kammassa ruciyaa sukhitaa vaa bhavissanti dukkhato vaa muccissanti
pattasampattiyo vaa na parihaayissantiiti eva.m pavattakammassakataadassanapada.t.thaanaa - Ðiều kiện cần thiết
là trí tuệ phải suy xét: "Tất cả chúng sanhđều có nghiệp là sở hữu.
Những hạnh phúc, tài sản thịnh vượng không phải do ý muốn của một
người nào".
Sampatti:
Pa.tighaanunayavuupasamo sampatti - sự đầy đủ là những hiềm
hận được vắng lặng và sự thương yêu không còn.
Vipatti:
Gehasitaaya a~n~naa.nupekkhaaya sambhavo vipatti - Sự thối thoát tức
là sự lãnh cảm, si mê từ cảnh ngũ dục (Kaamagu.na).
Aasannapaccatthika:
A~n~naa.nupekkhaa aasannapaccatthikaa - Kẻ thù gần tức là lãnh đạm có từ
động lực si mê.
Duurapaccatthika:
Kaagapa.tighaa duurapaccathikaa- Kẻ thù xa là tham ái và sân hận.
NGUYÊN NHÂN VÔ LƯỢNG TÂM
CHỈ CÓ BỐN.
Sở dĩ Vô
lượng tâm có bốn, bởi để thanh tịnh hóa nội tâm từ các phiền não: Cuồng
Nộ, Hiềm Hận, Ðố Kỵ, Ái Luyến tiềm tàng ở mỗi chúng sanh.
Và sự quan tâm của từng cá nhân đối với nhau cung với bốn ác pháp như
thế. Mà đối kháng những ác pháp này, đó là những Vô lượng tâm: Từ
- Bi - Hỷ - Xả. Vì lẽ thông thường, tâm mọi chúng sanh đều có một
trong những Cuồng Nộ, Hiềm Hận, Ðố Kỵ, Luyến Ái. Có khác nhau cũng
chỉ là hơn kém.
Do đó, người
nhiều cuồng nộ cần tu tập Từ tâm, tâm sẽ được vắng lặng
và trở nên khiết tịnh. Có nhiều hiềm hận thì tu tập Bi tâm.
nhiều sự ganh ghét , đố kỵ thì tu tập Hỷ tâm. Nhiều
tham ái khát vọng thì tu tập Xả tâm.
Và khi trong
sự quan tâm của nhau, hướng đến lợi ích của chúng sanh khác, đó là Từ.
Ngăn những điều vô ích cho
chúng sanh
khác, đó là Bi. Ðồng vui với hạnh phúc của chúng sanh, đó là Hỷ. Bình
thản khi làm lợi ích cho chúng sanh hay ngăn những điều vô ích hoặc là
trong sự đồng vui với chúng sanh, tức là Xả.
Cũng giống
như bà mẹ có bốn đứa con: Một đứa là trẻ thơ, một đứa đang đau bệnh,
một đứa đã lớn khôn và đứa bận việc riêng của mình. Bà mẹ sẽ ao
ước nhìn thấy đứa con nhỏ lớn khôn. Bà sẽ quan tâm, chăm sóc cho đứa
con đau bệnh. Bà vui mừng trước sự trưởng thành của đứa con đã lớn.
Nhưng không hề lo âu, bận tâm về đứa con đã tự mình biết liệu.
Tương tư sự
quan tâm của chúng sanh đối với nhau cũng không ngoài bốn điều ấy. Do
đó, Vô lượng tâm chỉ là bốn.
Trong Tứ
vô lượng tâm này, phát triển Từ tâm có lợi ích lớn rộng, đó là cơ
sở thuận lợi cho sự phát triển những Vô lượng tâm khác: Bi - Hỷ và Xả.
Nó cũng là nhân tố để dễ dàng phát triển các pháp độ. Chính vì thế
mà ai mong muốn thành đạt Toàn Giác Trí, cũng như để tích lũy pháp tánh
Toàn Giác thì cần tu tập Từ tâm, khi nghĩ rằng mình cần trau dồi 30
pháp độ trong suốt thời gian dài chịu khổ luân hồi.
Mục lục
| I | II-a |
II-b | III | IV-a | IV-b | V | VI | VII