- GIẢI
VỀ Ý NGHĨA CHỈ TỊNH
- THEO
THẮNG PHÁP YẾU HIỆP
- Hòa thượng Jotika
IV. MƯỜI
ÁN XỨ TÙY NIỆM - ANUSSATI,
VÀ PHƯƠNG THỨC HÀNH TRÌ
"Anussati"
có nghĩa là luôn tưởng niệm, được hình thành từ hai từ: Anu + Sati.
Anu có nghĩa là luôn luôn. Sati là sự ghi nhận, ghi nhớ, nhớ tưởng.
Theo một lời giải:
Sara.na.m
= Sati: Sự ghi nhớ được gọi là Sati.
Anupunappuna.m
= Anussati: Luôn ghi nhớ, được gọi là Anussati, hay chính là Niệm.
Từ Anussati
lẽ ra phải là Anusati, nhưng theo Văn phạm phải khác đi (Anussati).
Sati từ căn nguyên mẫu là Sar, khi đứng sau Anu thì
"S" trong Sati phải được gấp đôi.
1. ÁN XỨ
TÙY NIỆM PHẬT (Buddhaanussati)
Sự tưởng
nhớ đến các ân đức của Ðức Phật (Araham) thường xuyên, thì gọi
là Tùy Niệm Phật.
Một lời
giải như sau:
Buddha.m
anussati = Buddhaanussati.
Thường xuyên
tưởng nhớ đến các Ðức của Chư Phật đó gọi là Tùy Niệm Phật (sở
hữu Chánh niệm).
Lấy Ðức
Phật làm cảnh. Thông thường từ Buddhaa - Ðức Phật, hiểu là Xá Lợi
Phật, nhưng đây là nói đến Ân đức Pháp tánh của Ngài. Nói thế không
có nghĩa là nghĩ đến ân đức mà không cần nghĩ đến Xá lợi. Vì cái
hoàn mỹ của Xá lợi chính là một ân đức của phúc thoại (Pu~n~nasiri)
trong danh hiệu Bhagavaa.
PHƯƠNG THỨC HÀNH TRÌ.
Ðể niệm
tưởng ân đức Phật, có thể dùng bằng ngôn ngữ Paali, hay bằng tiếng
nói thường dùng [*]. Bằng ngôn ngữ Paali thì như vầy: "Itipiso
Bhagavaa...", hay là "Sobhagavaa itipi araha.m, sobhagavaa itipi
sammaasambuddho..., sobhagavaa itipi bhagavaa".
[*]
Nguyên văn dùng ngôn ngữ Thái, để thích hợp người dịch xin sửa lại
Bằng ngôn
từ thường dùng thì như vậy:
"Ðức
Thế Tôn ấy, cả đến Phạm giới cũng đều vang dội danh hiệu Araha.m
-Ứng Cúng chính vì đã xa lìa, cắt đứt 1500 phiền não, cả đến ngọn
nguồn của chúng cũng được đoạn tận. Tâm hoàn toàn thanh tịnh. Bậc xứng
đáng nhận cúng dường thù thắng của tất cả loài người, Chư Thiên và
Phạm Thiên."
"Ðức
Thế Tôn ấy ... danh hiệu Sammaasambuddha chính vì đã giác ngộ Năm
Sở Tri Pháp (~Neyyadhamma là: Sa"nkhaara, Vikaara, Lakkha.na,
Nibbaana, Pa~n~natti) một cách vẹn toàn, tự chính Ngài thành tựu Toàn
Giác Trí".
"Ðức
Thế Tôn ấy...danh hiệu Vijjaacara.nasampanna (Minh Hạnh Túc), chính vì
đầy đủ khả năng viên trí cùng phương thức thực hành dẫn đến cùng
tột tối thượng, tức ba hay tám Minh và 15 hạnh".
"Ðức
Thế Tôn ấy...danh hiệu Sugata (Thiện Thệ) vì Ngài là Bậc hướng
việc làm thiện hạnh dẫn đến Toàn Giác Trí bằng Tam thập Ðộ cùng đạo
lộ trực chỉ. Dùng chánh niệm tỉnh giác (Satisampajja~n~naa), Ngài đoạn
ly tà kiến, đem lại lợi ích đến những chúng sanh khả giác mà nhờ đó
thoát vòng cương tỏa tử sanh của Tam Giới kể từ khi Ngài cúi đầu nhận
lời Phật ký dưới chân Ðức Phật Diipa"nkara (Nhiên Ðăng) cho
đến khi chứng giác ngộ.
"Ðức
Thế Tôn ấy... danh hiệu Lokaviduu (Thế Gian Giải) vì Ngài đã thấu
đáo Tam giới, tức chúng sanh giới (Sattaloka), cảnh vức giới (Okaasaloka)
và hành giới (Sa"nkhaaraloka) cùng mọi khía cạnh chi tiết."
"Ðức
Thế Tôn ấy... danh hiệu Anuttaro purisadammasaaratthi (Ðiều Ngự Trượng
Phu) vì Ngài là Bậc tối thượng (Anuttara). Ơû Ngài không có cái so
sánh hơn về lãnh vực hướng dẫn chúng sanh khả giáo không Giới, Ðịnh,
Tuệ được an lập vào Giới, Ðịnh, Tuệ theo một trình tự thích ứng từ
thiền chứng đến Ðạo Quả bằng những phương cách thuyết giáo: mềm dẻo,
cứng rắn để thích hợp từng cá nhân."
"Ðức
Thế Tôn ấy...danh hiệu Satthaadevamanussaana.m (Thiên Nhân Sư) bởi Ngài
là Bậc Ðạo Sư của tất cả loài người, Chư Thiên và Phạm Chúng Thiên
trong vai trò vị hướng đạo giúp chúng sanh vượt ngoài vòng sanh tử để
đến Nip-bàn, cũng như người chủ buôn điều khiển đàn bò vượt vùng
đất khô cằn cỗi để đến nơi màu mỡ phồn thịnh.
"Ðức
Thế Tôn ấy... danh hiệu Buddha, bởi Ngài đã liễu tri bốn Thánh Ðế
một cách vẹn toàn và hướng dẫn chúng sanh cũng như Ngài."
"Ðức
Thế Tôn ấy...danh hiệu Bhagavaa, bởi Ngài đầy đủ sáu Thiện
Hành: Issariya, Dhamma, Yassa, Sirikaama, Payatta hơn ai cả."
CHI TIẾT VỀ ÂN ÐỨC PHẬT.
* NĂM SỞ
TRI PHÁP (~NEYYADHAMMA)
1.
Sa"nkhaara: tức Tâm, Sở hữu và Sắc thành tựu (Nipphannaruupa).
2. Vikaara: tức năm sắc Vikaara.
3. Lakkha.na: Bốn tướng trạng của sắc pháp.
4. Nibbaana: Pháp nằm ngoài 5 uẩn và chế định.
5. Pa~n~na.t.ti: tức mọi hình thức giả lập (Danh và Nghĩa chế định)
và cả mọi hình dáng (sa.n.thaana) của loài người, Chư Thiên, Phạm
Thiên, đọa xứ, cây, đất, núi, sông, rừng,...
* TAM MINH
- VIJJAA (NÓI THEO CHÁNH TẠNG)
- Pubbenivaasaanussati~naa.na:
Túc Mạnh Minh.
- Dibbacakkhu~naa.na: Thiên Nhãn Minh.
- Aasavakkhaya~naa.na: Lậu Tận Minh.
* HAY 8
MINH NÓI RỘNG:
- Vipassa.naa~naa.na:
Minh Sát Minh
- Iddhividha~naa.na: Biến Hóa Minh
- Manomayiddha~naa.na: Hóa Tâm Minh
- Pubbenivaasaanussati~naa.na: Túc Mạng Minh
- Cetopariya~naa.na: Tha Tâm Minh
- Dibbasota~naa.na: Thiên Nhãn Minh.
- Dibbasota~naa.na: Thiên Nhĩ Minh
- Aasavakkhaya~naa.na: Lậu Tận Minh.
* 15 HẠNH
(CARA.NA)
- Saddhaa:
Tín.
- Sati: Niệm.
- Hiri: Tàm.
- Ottappa: Quý.
- Viriya: Cần
- Suta: Ða văn.
- Pa~n~naa: Trí tuệ.
- Bhojanrmatta~n~nutaa: Tri Ðộ
- Jaagariyaanuyoga: Ly dục
- Siila: Giới.
- Indriyaasa.mvara: Thu liểm căn môn.
- Ruupapa.thamajhaana: Sơ thiền sắc giới.
- Ruupadutiyajhaana: Nhị thiền sắc giới
- Ruupatatiyajhaana: Tam thiền sắc giới.
- Ruupacatutthajhaana: Tứ thiền sắc giới.
TỨ THANH TỊNH GIỚI
TRONG 15 HẠNH VÀ PHÂN MINH-HẠNH THEO BA UẨN
Bốn thanh tịnh
giới (Catuparisuddhi):
- Giải
Thoát Thu Thúc Giới và Nuôi Mạng Thanh Tịnh Giới thuộc về Giới Hạnh (Siila
+ Cara.na).
- Căn Môn
Thu Thúc Giới thuộc về Căn Môn Thu Thúc Hạnh (Indriyasa.mvara + Cara.na).
- và Vật Dụng
Quán Tưởng Giới thuộc về Tri Ðộ Hạnh (Phujanematta~n~nutaa + Cara.na)
Ðối với
Minh (Vijjaa) tính là Tuệ uẩn (Pa~n~naakhadhaa), Hạnh (Cara.na)
thuộc về Giới Uẩn (Siilakhadha) và Ðịnh uẩn (Samaadhikhandha).
Ðiều cần
nhớ, để đạt đến Hiệp thế định (Lokayasamaadhi) và Siêu thế định
(Lokuttarasamaadhi), yếu tố tối cần là trau dồi cả Minh và Hạnh,
khiếm khuyết một trong hai nhân tố này sẽ thành vô hiệu quả, nghĩa là
không bao giờ đạt định. Ðầy đủ Minh, tức tri kiến nhưng khuyết về
Hạnh: sự thực hành thì đối với Hiệp thế định chưa sanh sẽ không
sanh và như đã sanh cũng bị suy yếu giảm thiểu. Riêng về Siêu thế định:
Thiền Ðạo, Quả cũng không sao hiện khởi được. Ngược lại, có Hạnh
nhưng khiếm khuyết Minh, thì đối với Hiệp thế định, những thiện nghiệp,
nhân dẫn đến các tài sản...mà hành giả đang tích tập sẽ bị thối
thoát, đình trệ. Và riêng về Siêu thế định chẳng những không đạt
Thiền, Ðạo, Quả mà còn làm tăng trưởng ái, mạn, và kiến; cả hạng
đang duy trì cũng tụt hẳn đi, chỉ còn lại một hình thức khổ hạnh,
vì không hiểu biết. Do đó, để đạt Hiệp thế định và Siêu thế định
cần phát triển song hành Minh và Hạnh, điều này sẽ là thuận lợi cho mục
đích của vị hành giả (nếu mục đích ấy là Hiệp thế định và Siêu
thế định).
GIẢI VỀ SÁU PU~N~NA.
1)
Issariya: Tự tại. Chi phần này có 8:
A.nimaa:
tự tại trong việc biến hóa.
Laghimaa: Phi hành một cách nhanh chóng.
Mabimaa:Từ một thân biến vô lượng thân.
Patti: Tự tại trong việc đi lại như ý muốn, không một điều gì
có thể ngăn chặn.
Paakamma: Hóa hiện thành bất cứ hình thể và những màu sắc sai biệt.
IIsitaa: Có khả năng tự mình dẫn dắt tất cả loài người, Chư Thiên,
Phạm Thiên ở mỗi cõi giới.
Vasiitaa: Khả năng nhập định tự tại và thực hiện thần thông cực
kỳ nhanh chóng khi thấy cần.
Yatthakaamaavasaayitaa: Khả năng thực hiện mọi việc và cho kết quả
hoàn tất một cách mau chóng, khi thành tựu biết rằng đã thành tựu.
2)
Dhamma: Tức cửu phần giáo pháp, bốn Ðạo, khả năng đoạn trừ
1500 phiền não tận gốc, bốn Quả và một Níp-bàn.
3)
Yassa: Danh xưng vang dội 10 ngàn vũ trụ (cakkavaala), bao gồm thế
giới loài người, chư thiên, Phạm Thiên, ở động lực bình thường mà
không cần phải công bố như những vị Giáo chủ đương thời.
4)
Sivii: Màu da sáng chói, thân sắc xinh đẹp luôn tươi sáng, không một
vẻ gì buồn chán, tức là 32 đại tướng và 80 phụ tướng.
5)
Kaama: khi Ngài cầm vật gì, bao giờ cũng như ý.
6)
Payatta: Luôn tinh cần ngày và đêm để mang lại hữu ích cho những
người hữu duyên. Ban ngày, trước giờ khất thực, Ngài tiếp độ những
người hữu duyên tìm đến, sau giờ thọ thực, Ngài giáo giới và ban bố
đề tài án xứ thích hợp cho những Vị Tỷ kheo đến yết kiến hội h?p.
Sau giờ những Vị Tỷ kheo yết kiến, Ngài nằm nghỉ giây lát. Rồi sau đó
quán xét duyên lành của tất cả chúng sanh và thuyết pháp thoại cho đại
chúng, đến từ các phương. Sau giờ này là tắm rửa và khoảnh khắc nghỉ
ngơi.
Và ban đêm
canh đầu (6 giờ đến 10 giờ). Ngài trao dạy án xứ và giải đáp câu hỏi
cho những Vị Tỷ kheo. Canh hai (22 giờ đến 2 giờ), Chư Thiên, Phạm
Thiên từ 10 ngàn vũ trụ đến yết kiến hỏi đạo và nghe pháp Ngài, như
thế cho đến hết canh hai. Canh còn lại của đêm (2 giờ đến 6
giờ), Ngài làm việc ở ba giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu (1 giờ 22
phút), Ngài kinh hành, giai đoạn hai (1 giờ 22 phút) là giờ nghỉ, và giai
đoạn sau cùng, Ngài quán xét căn cơ lành của tất cả chúng sanh, loài người,
Chư Thiên, PhạmThiên, ai đã từng vun trồng pháp độ ở đời quá khứ
trong giáo pháp của Chư Phật khác, có thể chứng Ðạo, Quả trong đời hiện
tại được.
2. ÁN XỨ
TÙY NIỆM PHÁP (Dhammaanussati)
Dhammaanussati
có nghĩa là tưởng nhớ đến ân đức của Giáo Pháp (Svaakkhaato...).
Dhammaanussati được giải thích như sau:
Dhamma.m
anussati = Dhammaanussati.
Luôn tưởng
nhớ đến ân đức Pháp Bảo, được gọi là Dhammaanussati.
Chi pháp: Sở
hữu Chánh niệm trong tâm Ðại Thiện, lấy ân đức Pháp làm cảnh.
PHƯƠNG THỨC TU NIỆM:
Vị hành giả
có thể dùng hai ngôn ngữ để tác niệm, ngôn ngữ Paali và ngôn ngữ
thường dùng.
Nếu là
ngôn ngữ Paali thì như sau:
"Svaakkhaato...vi~n~nuhiiti"
hay:
"Bhagavato
dhammo svaakkhaato, bhagavato dhammo paccatta.m veditabbo vi~n~nuuhi"
Ngôn ngữ
thường dùng thì như vầy:
Svaakkaato: Ðức Thế Tôn thuyết pháp có
10: Tam tạng (Tipi.taka), Chú giải - Atthakathaa (phần nghĩa thuyết:
Pháp học), bốn Ðạo, bốn Quả (phần thực chứng: Pháp hành) và Níp-bàn
(mục đích cứu cánh: pháp hành). Giúp cho người nghe pháp thoát khỏi khổ
đau, thoát ly mọi phiền não, tâm hân hoan khiết tịnh. khi thực hành thân
tâm an lạc. Sau khi thực hành cũng được thỏa thích an vui cũng như đã
hoàn toàn thoát khổ. Ðắp đổi lại thời gian dài mà mình mãi tìm kiếm.
Sandi.t.thiko:
Cửu phần Giáo Pháp (4 Ðạo, 4 Quả và Níp-bàn) không phải là những Pháp
để đi đến và nghe. Giáo pháp này phải được tự liễu tri và tự thấy.
Akaaliko:
Bốn Ðạo cho Bốn Quả tương ứng không xen kẻ thời gian, dù đó là khoảnh
khắc.
Ehipassiko:
Cửu phần Giáo lý này là một sự thật hiển nhiên để nói rằng:
"hãy nhìn! Sẽ thấy cũng như quy luật cố định: mặt trăng thì phải
chuyển dời.
Opanayiko:
Cửu phần Giáp pháp cần phải được thực hành, dầu cho lửa có cháy y
phục đang mặc hay tóc trên đầu chăng nữa, thì sự dập tắt không phải
là điều tối cần. Vì chỉ khi nào Cửu phần Giáo pháp này được hiển
lộ, cửu đoạ xứ mới hoàn toàn khép kín.
Paccatta.m
veditabbo vi~n~nuuhi: Thập phần Giáo pháp (tính Tam Tạng
và Sớ Giải) hay Cửu phần Giáo pháp này là pháp mà kẻ trí, kẻ thiện
phàm phu, Chư Vị Thánh Nhân đáng để tự mình liễu ngộ.
CHI TIẾT VỀ Â N ÐỨC
PHÁP
Trong ân đức
Pháp thứ sáu kể thêm về Pháp Học (Tam tạng và Chú giải - A.t.thakaathaa).
Bởi vì ai đã học tập thông thạo Chánh Tạng, Chú Giải (Atthakaathaa)và
Phụ sớ (.Tiikaa) tức là đã tự mình hưởng được hương vị Pháp
Học mà ở người khác, những người không học, không thể hưởng. Và do
đó Pháp Học cũng giống như Ðạo, Quả và Níp-bàn, tức cũng được gọi
là Paccatta.m veditabbo vi~n~nuuhi. Bởi lẽ, Ðạo Quả và Níp-bàn cũng
tương tự thế, cũng chỉ những Bậc Thánh chớ không một ai khác có thể
liễu ngộ. Giả như, nếu có một vị học trò đã thành đạt Ðạo, Quả
và Níp-bàn, nhưng ngược lại vị Thầy không chứng đạt gì cả. Trong hai
vị này, hưởng được hương vị Ðạo, Quả và Níp-bàn chỉ là vị đệ
tử. Bởi là Pháp mà Bậc trí tự mình liễu ngộ - Paccatta.m veditabbo
vi~n~nuuhi.
3. ÁN XỨ
TÙY NIỆM TĂNG (Sa"nghaanussati)
Sa"nghaanussati
có nghĩa là tưởng nhớ đến ân đức Tăng Bảo (Suppatipanno...).
Theo lời giải
tự như sau:
Sa"ngha.m
anussati = Sa"nghaanussati: luôn tưởng niệm ân đức Tăng, gọi là
Tùy Niệm Tăng.
Chi pháp: Sở
hữu chánh niệm trong tâm Ðại Thiện, đối tượng là ân đức Tăng Bảo.
PHƯƠNG THỨC TU NIỆM:
Ðể tưởng
niệm ân đức Tăng, vị hành giả có thể dùng hai ngôn ngữ, bằng ngôn ngữ
Paali hay ngôn ngữ thường dùng.
Là ngôn ngữ
Paali thì như vậy:
"Suppa.tipanno...lokassa",
hay:
"Bhagavato
saavakasa"ngho supatipanno...bhagavato saavakasa"ngho anuttara.m
pu~n~nakkhetta.m lokassaati"
Nếu bằng
ngôn ngữ thường dùng thì như sau:
Suppa.tipanno: Tám Chúng Tăng (4 Ðạo, 4 Quả),
đệ tử của Ðức Thế Tôn ấylà những bậc Thiện Hạnh, những bậc đầy
đủ Tăng Thượng Giới Học, Tăng Thượng Ðịnh Học, Tăng Thượng Tuệ Học.
Uujupa.tipanno...là
những bậc Trực hạnh, thẳng tiến đến Níp-bàn, không hệ lụy thế
gian, không cống cao, kiêu mạn.
~Naayapa.tipanno...
là những bậc đi trên đường đến Níp-bàn, ấy là Pháp Bất tử (Chánh
hạnh), không còn ước vọng tái sanh (bhavasampatti), tài sản (bhogasampatti).
Saamiicipa.tipanno...là
những bậc như thật hạnh đáng cho mọi người nghiêng mình lễ bái.
Aøhuneyyo:
chư Thánh Tăng ấy (bốn đôi, tám chúng) đệ tử của Ðức Thế Tôn có
khả năng đem lại quả báo lớn, là những bậc xứng đáng nhận vật thí
mà những người ở xa đem đến.
Paahuneyyo: là những người khách tối thượng
của đời, vì các Ngài chỉ xuất hiện trong thời Ðức Chánh Ðẳng Giác.
Do đó, các Ngài xứng đáng nhận những vật dụng mà người ta soạn sẵn
cho khách của họ.
Dakkhi.neyyo:
có khả năng như ý, chính điều này, các Ngài xứng đáng nhận ước nguyện
thí của những người đã dứt bỏ tài sản để mong rằng sẽ được tài
sản cho mình và người khác ở đời sau.
A~njalikara.niiyo:
lànhững bậc đầy đủ Giới, Ðịnh, Tuệ, các Ngài đáng được loài người,
chư thiên, Phạm thiên chắp tay lễ bái.
Anuttara.m
pu~n~naakkhetta.m lokassa: là phước điền tối thượng, gieo giống lành
của loài người, Chư thiên và Phạm thiên. Giống như một cánh đồng màu
mỡ đất tốt, sẽ làm hạt giống sinh trưởng tươi tốt dầu hạt gieo có
ít đi chăng nữa.
THÊM VỀ ÂN ÐỨC TĂNG.
Tiếng
Saavakasa"ngha dùng trong 9 ân đức Tăng ấy không chỉ là nói riêng
Chư Tỳ khưu Tăng, mà bất luận là cư sĩ, nam hay nữ đã chứng Ðạo, Quả
thì đều được xem là Saavakasa"ngha. Vì nói về ân đức là nói
về Pháp tánh. Như thế dầu là một Vị Tỷ kheo phàm Tăng, nếu vị này
đầy đủ Giới, Ðịnh, Tuệ thì vẫn gọi là Saavakasa"ngha. Như
vậy, vị hành giả khi tưởng nhớ đến ân đức của Chư vị Thánh Tăng
"bốn đôi, tám chúng" thì cũng nên tưởng nhớ đến những vị Phàm
Tăng đầy đủ Giới, Ðịnh, Tuệ.
* CHÍN
ÂN ÐỨC PHÂN THEO NHÂN VÀ QUẢ.
Trong 9 ân
đức này, tối thượng và cao cả hơn cả là bốn ân đức đầu, các ân
đức còn lại chỉ là kết quả của bốn ân đức trên. Vì rằng ai đã
thành tựu bốn ân đức đầu một cách đầy đủ, trọn vẹn thì đã mang
lại hữu ích cho chúng sanh, có nghĩa là đã thành tựu những ân đức còn
lại. Hay nói một cách khác bốn ân đức đầu tiên là nhân, năm ân đức
sau là kết quả.
Cũng nên hiểu
thêm, khi tưởng nhớ, đọc niệm ân đức Tam Bảo, để tránh những nỗi
sợ hãi, lo sợ, đó là một cách thức đúng đắn và cần thiết hơn những
việc chú niệm nào cả. Nhưng, hiểu ý nghĩa của những ân đức ấy lại
là một việc làm quan yếu hơn. Hiểu rõ ý nghĩa, tâm hành giả sẽ dễ
dàng an trụ và hân hoan, ấy là Tâm đại Thiện hợp Trí. Giả như ngược
lại, tâm hành giả sẽ không sao an trụ, hân hoan, sáng suốt (hợp trí). Chỉ
là một tư tưởng mù quáng thiếu đổng lực Tam nhân.
* NGUYÊN
NHÂN GỌI CHƯ THÁNH VỚI CHÍN ÂN ÐỨC.
Sở dĩ các
Bậc Thánh Hữu Học được gọi là Supa.tipanno, vì các Ngài là những
người khéo thực hành. Là Ujupa.tipanno, vì là những người đi trên
đường trực chỉ đến Níp-bàn. Là ~Naayapa.tipanno, vì là người thực
hành hướng về Níp-bàn. Gọi là Saamiicipa.tipanno là vì người đã
chơn chánh thực hành, đáng để cho mọi người chắp tay lễ bái.
Ðây là lời
giải tự bằng nguyên văn Phạn ngữ những tiếng trên:
Su.t.thu
pa.tipajjantiiti = Supa.tipannaa
Ujuka.m pa.tipannaati = Ujuppa.tipannaa
~Naayena pa.tipannaa = ~Naayappa.tipannaa
Saamiici.m katvaa pa.tipannaa = Saamiicipa.tipannaa.
Sở dĩ các
Bậc Vô Lậu được gọi bằng những danh hiệu ấy vì các Ngài đã thực
hành bốn việc làm trên.
* ÐIỂM
DỊ ÐỒNG GiIỮA THÁNH CƯ SĨ VÀ BẬC XUẤT GIA
Sự thành tựu
Thánh nhân giữa hai hạng: Xuất Gia và Cư Sĩ chỉ khác là về khía cạnh
phương thức hành trì, tức về Tăng Thượng Giới Học. Hai phương thức còn
lại, Ðịnh và Tuệ học thì hoàn toàn giống nhau. Ðối với Tăng Thượng
Giới Học của người Cư sĩ thì ngũ giới (hoặc bát giới). Riêng về Bậc
Xuất Gia thì 227 giới hoặc tám tỉ 185 triệu 36 ngàn học giới (nguyên văn:
8180 ko.ti ; Ko.ti = 10 triệu 5 triệu ba vạn sáu ngàn)
Như vậy,
chín ân đức đã kể chỉ cho Bậc Xuất Gia và Thánh Cư Sĩ.
* HẠNG
NGƯỜI KHIẾM KHUYẾT BỐN ÂN ÐỨC ÐẦU, THÀNH TỰU NĂM ÂN ÐỨC SAU
Khiếm khuyết
bốn ân đức đầu, thành tựu năm ân đức sau tức là cha mẹ đối với
con cái. Nói theo pháp tánh, một người xứng đáng nhận Aahunaavatthu,
Paahunavaathu, Dakkhi.navatthu, A~njaliikamma phải thành tựu những ân đức Supa.tipanna...Trường
hợp cha mẹ đối với con, dù không thành tựu những ân đức ấy, song vẫn
là xứng đáng để thọ nhận Aahunavatthu...của con. Ðây không dựa
vào pháp tánh mà lấy theo nhân bản.
Ðối với
cha mẹ, người con cần phải cúng dường (những vật như: AAhunavatthu,
Paahunavatthu) và kính trọng cha mẹ, ấy là nhân tài sản, lợi lộc, trường
thọ, danh xưng và tránh mọi sợ hãi. Nếu không như thế, kết quả sẽ
ngược lại. Riêng về Dakkhi.navatthu (phúc cầu vật) thì Cha mẹ
không phải là đối tượng thí tuyệt đối; bởi kết quả của sự thí sẽ
không hoàn toàn như ý người con. Nhưng, nếu cha mẹ là người đầy đủ
bốn đức tánh ban đầu, điển hình như Triệu phú A.naathapi.n.dika
hay naang Visaakhaa, không nói riêng đến những người con mà kể cả mọi người,
những Bậc cha mẹ ấy vẫn xứng đáng thọ nhận Dakkhi.naavatthu, vì
kết quả thí sự của những ai cúng dường những vị ấy sẽ hoàn toàn
như ý. Ðiều này, Ðức Thế Tôn đã đề cập trong Itivuttaaka,
Temiiyajaataaka và Dakkhi.navibha"nga.
4. ÁN XỨ
TÙY NIỆM GIỚI (Siilaanussati)
Siilaanussati
có nghĩa là sự nhớ lại giới thanh tịnh mà đã gìn giữ không bị năm
điều hoen ố (xem phần tiếp theo).
Một lời
giải tự:
Siila.m
anussati = siilaanussati: nghĩa như đã nói.
Chi pháp: Sở
hữu Chánh niệm trong tâm Ðại thiện làm nhiệm vụ gìn giữ, bảo vệ điều
học.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP.
Nền tảng
thực hành đầu tiên, vị hành giả cần làm đủ năm điều sau:
1.Thanh lọc
giới hạnh, không bị nứt rạn bởi năm điều hoen ố, đầy đủ năm điều
thanh tịnh.
2. Tâm
không nô lệ tham ái, tức sự bảo trì giới hạnh không bị vọng móng
pháp thế gian (Lokiyasampatti)
3. Thân khẩu
an lập trong học giới một cách nghiêm khắc, có thể chỉ trích một cách
cơ sở.
4. Việc thực
hành với thân khẩu của mình, dầu kẻ thù, người ngu có chỉ trích, nhưng
người trí ca ngợi tán thán.
5. Cần phải
hiểu rằng: Giới này là nhân dẫn đến Cận định, Kiên cố định và Ðạo
định (maggasamaadhi), Quả định (phalasamaadhi).
Trau dồi đầy
đủ năm phần này, vị hành giả tưởng niệm về Giới của mình:
"Aho
me vata siila.m ho
Akkha.n.da.m achidda.m have
Asabala.m eka.mmaasa.m
Bhuujissa.m aparaamaasa.m
Pasattha.m sabbavi~n~nuuhi
Samaadhi sa.mvattanaka.m"
"Giới
của Ta thanh tịnh, không bể vụn, không lổ hổng, không loang lổ, không
tì vết, tất cả như thật. Giới Ta thanh tịnh không nô lệ tham ái, không
thể có người chỉ trích. Giới của dầu Ta kẻ thù, kẻ ngu chỉ trích,
nhưng kẻ trí ca ngợi tán thán. Giới này là nhân dẫn đến cận định,
Kiên cố định cùng Ðạo định, Quả định".
GIỚI HOEN Ố VÀ KHÔNG
HOEN Ố.
Có bốn điều
giới hoen ố: Kha.n.dasiila.m - Giới bể vụn; Chiddasiila.m - Giới
loang lổ; Sabalasiila.m - Giới loang màu; Kammaasasiila.m - Giới tỳ
vết.
Năm điều
không hoen ố ngược lại trên.
Kha.n.dasiila.m
- Giới bể vụn. Học giới đầu tiên và cuối cùng hay một trong hai đã
vi phạm. Như trường hợp cư sĩ là học giới thứ nhất hay thứ tám; hoặc
cả hai giới này.
Akha.n.dasiila.m
- Giới không hư nát: tức giới đầu tiên vàgiới cuối cùng vẫn còn
nguyên vẹn.
Chiddasiila.m
-Giới bị lỗ hổng, tức giới thứ hai đến giới kế cùng (nếu là Cư
sĩ thì từ hai đến bảy), một trong những giới này đã vi phạm.
Achiddasiila.m
- Giới không bị lỗ hổng: những học giới khoảng giữa vẫn còn nguyên
vẹn.
Sabalasiila.m
- Giới loang lổ: Những học giới khoảng giữa đã vi phạm nhưng không kề
nhau, như vi phạm giới thứ hai và thứ tư, hai với sáu,...
Asabalasiila.m
- Giới không loang lổ: Những học giới khoảng giữa vẫn còn nguyên vẹn.
Kammaasasiila
- Giới tỳ vết: Các học giới khoảng giữa vi phạm kế tiếp nhau: như vi
phạm học giới 2, 3 hay 2,3,4 hay 2,3,4,5...(vi phạm bốn học giới liên tục
là hạn định cuối cùng).
Akammaasasiila
- Giới không tỳ vết: Các học giới khoảng giữa vẫn còn nguyên.
5. ÁN XỨ
TÙY NIỆM THÍ (Caagaanussati)
Caagaanussati
- Tùy niệm thí là sự nhớ tưởng đến những việc thí thanh tịnh của
mình, không vì danh vọng, không ngã mạn chi phối.
Một lời
giải tự như sau:
Caagaa
anussati = Caagaanussati: sự luôn nhớ tưởng đến việc thí thanh tịnh của
mình, thì được gọi là tùy niệm thí.
Chi pháp: Sở
hữu chánh niệm trong tâm Ðại thiện mà cảnh là sự tác ý dứt bỏ tài
sản.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP:
Tu tập án
xứ này, vị hành giả cần có sự dứt bỏ vật thí, đầy đủ ba tiêu
chuẩn:
Dhammiyaladdhavatthu:
Vật thí phải tốt đẹp.
Ticetanaaparipuura.na: Ðầy đủ Tam tư (Hoan hỷ trước jhi làm, đang khi
làm và sau khi làm).
Muttacaagii: Khi bố thí không có sự bỏn sẻn, ái và ngã mạn.
Tròn đủ
ba tiêu chuẩn này, hành giả cũng cần nên xét qua người khác để phản tỉnh
l?i mình. Hành giả suy xét: "Phần lớn mọi người bỏn sẻn đối với
tài sản, vàng bạc, không muốn dứt bỏ để bố thí. Trái lại, họ còn
làm cho ái, mạn và kiến tăng trưởng vì những quan tâm về vẻ đẹp thân
thể, lối ăn uống thích hợp. Cứ mãi đắm say, thỏa thích, trong đó xen
những điều kiêu mạn người với người. Ơû những trường hợp này, Ta
có cơ hội chiến thắng kẻ thù bỏn sẻn và làm trở lực cho ái, mạn
và kiến. Ðây cũng là nhân cho quả báu thọ mạng, sắc đẹp, sức mạnh,
an lạc ở các sanh hữu sau".
Tiếp theo,
hành giả tu tập:
"Manussatta.m
suladdha.m me
Svaaha.m caage sadaa rato
Maccharapariyu.t.thaaya
Pajaaya vigato tato"
"Ở mọi
người vẫn thường có sự bỏn sẻn hoặc tiếc nuối với những tài sản
của vật, nhưng Ta vui thích dứt bỏ những vật ấy với sự rộng lượng".
Nếu là Bậc
Xuất Gia khi đang thực hành Khả Niệm Pháp (Saara.niiyadhamma hay Saara.niyavatta)
mà bên cạnh tu tập án xứ Tùy Niệm Thí, thì sẽ càng giúp cho Khả Niệm
Pháp được dồi dào hơn. Vì thực hành Khả Niệm Pháp phải đòi hỏi thời
gian bố thí kéo dài 12 năm. Nếu Vị Tỷ kheo ấy tu tập án xứ Tùy Niệm
Thí thì sẽ được quả báu từ hai phía: Khả Niệm Pháp và Tùy Niệm
Thí.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP KHẢ
NIỆM PHÁP
Vị hành giả
tu tập Khả Niệm Pháp (Saara.niyadhamma) nên tìm một trú xứ có Tỳ
kheo và Sadi, nhưng không quá nhiều. Những Vị Tỷ kheo, Sa di này phải là
những người có giới và ưa thích giới luật, thọ trì một trong hai pháp
học hoặc pháp hành (Vipassanaadhura). Trú xứ có những người như vậy,
việc thực hành sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn.
Trước khi
thực hành, vị hành giả cần lập tâm: "Kể từ nay Ta sẽ tu tập Khả
Niệm Pháp mà Ðức Thế Tôn đã quảng bố trong suốt 12 năm". Rồi Vị
Tỷ kheo cần phải thông tri cho những Vị Tỷ kheo, Sa di đồng biết.
Như đã
trình bày, vị hành giả tu tập khả niệm pháp phải bố thí trong suốt thời
gian 12 năm. khi khất thực, nhận được bao nhiêu vật thực, vị hành giả
nên đem chia lại cho những Vị Tỷ kheo và Sa di, nhưng không phải tùy theo
sở thích của mình (thuận vị nào chia cho vị ấy). Ðầu tiên nên cúng dường
cho những vị Trưởng lão cao hạ rồi tiếp tục theo thứ tự hạ lạp. Nếu
có cúng dường cho những vị nào đó trước (nghĩa laakhông theo thứ tự hạ
lạp), Vị Tỷ kheo nhận vật thực ấy phải nằm trong 5 trường hợp sau:
1. Vị Tỷ
kheo hay Sa di đang bệnh.
2. Vị Tỷ kheo hay Sa di đi mới đến.
3. Vị Tỷ kheo hay Sa di sắp đi xa.
4. Vị Tỷ kheo hay Sa di đi nuôi bệnh.
5. Vị Tân Tỷ kheo hay Tân Sa di chưa có y bát.
Những lúc
phân phát vật thực, không nên sắp đặt để cúng dường, hãy để vào
bát rồi những vị nhận hoặc là không nhận sẽ chọn tùy thích. Phần
còn lại, vị hành giả sẽ thọ dụng. Nếu như vật thực không dư lại,
vị hành giả khất thực tiếp nữa trong những thời gian có thể nhận vật
thực được (không quá đứng bóng). Và lúc trở về cũng phân phát vật
thực như thế. Nếu hết lại tiếp tục đi. Nhưng nếu vật thực hết mà
thời gian cũng không còn, vị hành giả tu tập chịu đựng. Ðiều quan trọng
là không nên nảy sinh bất bình, nóng giận. Vì nếu như thế, những sự
tinh cần tu tập trong nhiều ngày, nhiều tháng,nhiều năm trước đây trở
nên vô hiệu quả. Các Ngài A-xà-lê ghi lại rằng có một Vị Tỷ kheo thực
hành Khả Niệm Pháp tinh cần trong suốt 12 năm, trong thời gian này, có lần
sau khi khất thực trở về để bát lại phòng ăn rồi đi xuống hồ tắm.
Khi ấy có Vị Trưởng lão đi vào thây cái bát, biết đó là của vị trì
Khả Niệm Pháp, nên vị Trưởng lão đã lấy hết những phần vật thực
trong đó. Tắm xong trở lại, vị này thấy bát rỗng không đã nổi giận
trách rằng: "Ai đã lấy những vật thực mà chẳng để lại phần cho
tôi!" Mười hai năm chuyên cần thực hành Khả Niệm Pháp đã bị tiêu
hoại trong một ngày. Nếu muốn kết quả, vị này phải thực hành 12 năm
nữa kể từ ngày ấy.
Vị Tỷ
kheo thực hành Khả Niệm Pháp cùng bên cạnh phát triển Tùy Niệm Thí thì
nên suy xét rằng: Panussatta.m... Nhờ sự tương trợ lẫn nhau mà
tránh được những bất bình bực dọc.
QUẢ BÁU THỰC HÀNH KHẢ
NIỆM PHÁP.
Thành tựu
Khả Niệm Pháp, khi chưa lâm chung, nhận được 4 quả báu sau:
- Không khó
khăn vấn đề vật thực.
- Vật thực đi bát trở về dầu chia bao nhiêu vị cũng không hết.
- Những cuộc cúng dường bằng phiếu ẩm thực, luôn luôn vị ấy được
hưởng những vật thượng vị.
- Những hạng chư thiên Bhumma.t.tha và Rukkha.t.tha sẽ cúng dường
vật thực.
Một giai
thoại về hai quả báu đầu:
Có một Vị
Tỳ Kheo tên là Tissa, sống tại ngọn núi tên là Selaagiri, Vị
này thành đạt Khả Niệm Pháp. Không xa ngọn núi này là bản làng Mahaagiri
và cũng là nơi mà Tỳ Kheo Tissa khất thực. Một hôm, khoảng 50 Vị
Tỳ Kheo khác đi đến lễ bái tháp Naagadiipa cũng cạnh đấy, rồi những
vị này ở lại nơi đây. Khi đến giờ khất thực, tất cả đi vào làng Mahaagiri,
nhưng ở đây những Vị Tỳ Kheo không nhận được một muỗng vật thực
nào, thế là phải quay về bát không. Trên đường về, tình cờ đối diện
với Tỳ Kheo Tissa ở về hướng ngược đường. Tỳ Kheo Tissa
vui mừng, đón tiếp và hỏi thăm:
- Các Hiền
Giả khất thực đầy đủ chưa?
Những Vị
Tỳ Kheo kia đáp rằng:
- Này Hiền
Giả! Chúng tôi vẫn chưa nhận được vật thực gì.
Nghe thế, Tỳ
Kheo Tissa liền bảo:
- Các Hiền
Giả hãy ở đây chờ tôi.
Những Vị
Tỳ Kheo nhận lời. Rồi Trưởng lão Tissa đi vào làng, đứng tại
nơi mà hàng ngày nhận vật thực. Ngày hôm đó, vị Thôn trưởng trong làng
đã sắp đặt cơm sữa và chờ đợi, vừa thấy Trưởng lão đi đến,
ông ta mang ra cúng dường để vào đầy bát. Nhận xong. Tỳ Kheo Tissa
trở về và cùng những Vị Tỳ Kheo kia độ thực. Mỗi vị đều no đủ.
Thọ thực xong, những Vị Tỳ Kheo lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Hiền Giả
đã chứng thần thông khi nào thế?
- Thưa chư
Hiền Giả, chẳng phải do thần thông mà chính là quả báu tôi đã thực
hành Khả Niệm Pháp vậy.
Tỳ Kheo Tissa
đáp lời và nói thêm:
- Dầu có
phân phát tới 100.000 Vị Tỳ Kheo cũng không sao hết phần vật thực này.
Nghe xong, những
Vị Tỳ Kheo vô cùng phấn khích, nói rằng:
- Lành thay!
Lành thay! Này Hiền Giả.
Quả báu
thứ ba cũng được kể ở giai đoạn khác:
Tại ngọn
núi tên là Cetiyapabbata. Một hôm có ngày lễ hội cúng dường Bảo
Tháp, ngày lễ này Ðức Vua cùng dân chúng tổ chức và theo cách bốc thăm.
Trưởng lão Tissa cư ngụ tại núi Selaagiri cũng được thỉnh mời
trong cuộc lễ hôm đó và Trưởng lão Tissa đã đến đấy. Khi Trưởng
lão đến nơi mới hỏi dân chúng rằng:
- Trong những
vật thí hôm nay, vật nào quý hơn cả?
- Có 20 tấm
vải choàng, thưa Ngài. Họ đáp lời.
Vị Trưởng
lão nói:
- Những tấm
vải choàng ấy thuộc về Ta.
Nghe vậy,
dân chúng không lấy gì làm hài lòng. Vì theo họ, những vị cótrách nhiệm
cao cả, hay những vị Trưởng lão cao hạ thì xứng đáng hơn.
Nhưng rồi,
đến giờ cúng dường, 20 tấm vải choàng ấy vẫn thuộc về Trưởng lão
Tissa như Ngài đã nói. Ðức Vua, vị thí chủ trong buổi lễ, thấy
thế ngạc nhiên hỏi Trưởng lão:
- Ngài đã
chứng thần thông từ lâu rồi chăng?
- Tâu Ðại
Vương, Tôi chẳng có khả năng thần thông nào, ấy chỉ vì quả báu thực
hành Khả Niệm Pháp.
Ðức Vua
và đại chúng nghe vậy vô cùng hoan hỷ.
Một giai
thoại khác kể về quả báu thứ tư như vầy:
Tại xứ Tích
Lan, có ngôi làng tên là Bhaatara, chỗ này là trú xứ của 12 Vị Tỳ
Kheo Ni, vị Trưởng nhóm tên là Naagaa và vị này đã chứng đạt Khả
Niệm Pháp. Khi ấy có một toán cướp, do tướng cướp thủ lãnh là Tissa
cầm đầu.
Bọn chúng
bắt đầu cướp giựt tài sản của cải trong khắp làng Bhaatara. Trước
sự hung hãn này, dân làng ngày đêm nơm nớp lo âu, rồi dựa vào đêm
khuya vắng vẻ, họ rủ nhau lần lượt trốn đi, không còn ai cả. Cũng không
kịp giã từ những Vị Tỳ Kheo Ni.
Sáng ngày
hôm sau, cả ngôi làng hoàn toàn vắng vẻ bóng người. Vị Tỳ Kheo Ni trưởng
nhóm hôm đó sau khi tìm hiểu nguyên nhân mới bảo những Vị Tỳ Kheo Ni đệ
tử rằng:
- Các Hiền
Giả hãy ở lại học tập hay hành pháp quán như hiện đang làm, chớ nên
để gián đoạn.
Nhắc nhở
những Vị Tỳ Kheo ni xong, lúc ấy cũng đã đến giờ khất thực, Vị Trưởng
lão Ni cầm bát từ trú xứ đi thẳng đến cội Ðại Bồ đề (Mahaabodhi)
ở đầu làng. Cây Ðại Bồ đề này có một vị thọ thần cư ngụ. Khi
ấy vị Trưởng lão ni đứng nơi trú xứ của mình, vị thọ thần bèn
đem vật thực cúng dường và thỉnh rằng: "Xin Ngài hãy đến đây nhận
vật thực hàng ngày".
Nói về Trưởng
lão Naagaa (em trai của Trưởng lão ni Naagaa) cũng cùng ngụ tại
ngôi làng ấy với những Vị Tỳ Kheo khác, cả thảy 12 vị. Khi dân làng
đã bỏ đi, những Vị Tỳ Kheo cũng quyết định đi đến ngôi làng khác.
Trước khi đi, Trưởng lão Naaga, vị trưởng nhóm Tỳ Kheo mới nghĩ
rằng:
- Nên đến
cho những Vị Tỳ Kheo ni hay biết.
Thế là
Ngài cùng với những vị đệ tử đến trú xứ của những Vị Tỳ Kheo ni
và nói rằng Ngài sẽ cùng những Vị Tỳ Kheo đi đến ngôi làng khác. Nghe
thế, Trưởng lão ni Naagà yêu cầu những Vị Tỳ Kheo hãy ở lại, mình sẽ
lo phần vật thực cúng dường. Nói rồi, sắp đặt vật thực mà vị thọ
thần đã dâng đem đến cúng dường cho những vị Trưởng lão. Nhưng, Trưởng
lão Naaga từ chối bảo rằng:
Ðức Thế
Tôn không cho phép nhận vật thực của Vị Tỳ Kheo ni.
Biết được
sự việc này, vị thọ thần càng thêm thỏa thích đã thỉnh những Vị Tỳ
Kheo ở lại để tự mình cúng dường hàng bữa.
Kể từ đó,
những Vị Tỳ Kheo sống bằng vật thực của vị thọ thần trong suốt bảy
năm.
Sự nhận cúng
dường của Trưởng lão Naaga khôngphải là quả báu Khả Niệm Pháp của
Trưởng lão hành trì, mà đây là quả báu của Trưởng lão ni Naagaa,
người chi của Ngài, và cũng do tinh thần tôn trọng giới luật mà Trưởng
lão nghiêm ngặt chấp trì.
6. ÁN XỨ
TÙY NIỆM THIÊN (Devataanussaati)
Devataanussati
tức là tưởng nhớ đến những thiện nghiệp của chính mình (đức
tin,...) để so sánh với Chư Thiên, Phạm Thiên, những vị mà đầy đủ chân
nhân báo (Sappurisaratana) và chân nhân pháp. Như thế được gọi là
Tùy niệm Thiên.
Chi pháp: Sở
hữu Chánh niệm trong tâm Ðại thiện, Tín... làm cảnh.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP
Tu tập án
xứ này, vị hành giả sống tại một nơi u tịch, xa vắng bóng người, rồi
suy tưởng đến quá trình trở thành một Thiên nhân, một vị Phạm Thiên:
"Những vị ấy khi hãy còn là nhân loại đã vun trồng đủ đầy 7 chân
nhân báu, ấy là: Tín, Giới, Văn, Thí, Tuệ, Tàm, Quý cùng với
7 chân nhân pháp là:Tín, Niệm, Tàm, Quý,Ða văn, Tấn và Tuệ.
Thành quả ấy sau khi mệnh chung trở nên một Thiên nhân, một Phạm Thiên.
Hành giả phản tỉnh lại mình, thấy rằng: "Cũng giống như những vị
ấy", từ đó hỷ lạc hân hoan sanh.
Các Ngài Phụ
Sớ bảo rằng:
"Yathaaruupaaya
saddhaadidhammajaataaya samannaagataa devataa-itocutaa tattha uppa.n.naa, mehampi
tatthaaruupaaya saddhaadidhammaa sa.mvijjanti"
"Các
Thiên Nhân, Phạm Thiên khi còn là người đủ đầy chân nhân báu và chân
nhân pháp, mệnh chung những vị ấy trở nên như thế. Ta nay cũng ở trường
hợp tương tự".
7. ÁN XỨ
NIỆM TỊCH TỊNH (Upasamaanussati)
Upasamaanussati
tức là suy tưởng trạng thái Níp-bàn, tịch lạc (Sa-utisukha), vắng
lặng phiền não cùng ngũ uẩn. Như thế gọi là Niệm Tịch Tịnh.
Chi pháp: Sở
hữu Niệm trong tâm Ðại thiện lấy đặc tính Níp-bàn làm cảnh.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP.
Tu tập án
xứ này, vị hành giả cần hiểu biết ý nghĩa và đặc tính Níp-bàn, sau
đó khởi đầu tu tập:
- Mananimmaddano:
Níp-bàn là Pháp vắng lặng mọi sự đắm say. (Cha Madanimmadano)
- Pipaasayinayo: là Pháp tịnh chỉ những khát vọng trong dục phược cảnh.
- Aalayamugghaato: Là pháp nhổ tận ái luyến trong cảnh dục phược.
- Va.t.tupaccedo: Là pháp cắt đứt vòng luân chuyển của ba luân.
- Ta.nhakkhayo: Không còn khát ái.
- Viraago: Xa lìa ái dục.
- Nirodho: Ðoạn khát ái.
- Dhuva.m: Vĩnh hằng.
- Ajara.m: Không già.
- Nippapa~nca.m: xa lìa các trở ngại pháp, tức là Ái, Mạn, Kiến
- những pháp kéo dài luân hồi.
- Sacca.m: như thật.
- Paara:Thoát khỏi khổ luân hồi (Va.t.tadukkha)
- Sududdasa.m: Là pháp không phải để cho người thiểu trí.
- Siva.m: Là pháp thích hợp cho sự thoát ly phiền não.
- Amata.m: Là pháp bất tử.
- Khema.m: Là pháp Vô úy.
- Abbhuta.m: Là pháp kỳ diệu.
- A.niitika.m: Là pháp không dẫn đến sự sợ hãi.
- Taana.m: Là pháp bảo vệ chúng sanh không rơi vào luân hồi
(va.t.thasa"nsaara)
- Le.na.m: Là Pháp tránh mọi sợ hãi.
- Visuddhi: Là pháp thanh tịnh không còn phiền não.
- Diipa.m: Là hải đảo để thoát khỏi lũ lụt là tứ bộc.
- Vara.m: Là pháp mà Bậc Hiền Trí ưa thích.
- Nipu.na.m: Là Pháp tế nhị, vi tế.
- Asa"nkhata.m: Là pháp không hình thành từ bốn Paccaya(Duyên sinh).
- Mokkho: Thoát ly phiền não.
- Se.t.tho: Là pháp đặc thù.
- Anuttaro: Là Pháp vô thượng.
- Lokassanto: là Pháp nằm ngoài tam giới.
Khi hiểu đặc
tính Níp-bàn một cách như thật, cần suy niệm trong tâm rằng:
"Saavataa
bhikkhave dhammaa sakhaataa vaa asa"nkhataa vaa viraago .tesa.m dhammaana.m
aggamakkhaayati, yadida.m madanimmaddano [*], pipaasavinayo, akayasamugghaato,
va.t.tapacchedo ta.nhakkhayo, viraago, nirodho, nibbaana.m"
[*] Cha.
Visuddhimagga. Phần I, trang 284: Madanimmadano
"Này Chư
Tỳ Kheo, Pháp nào hình thành hay không hình thành từ bốn Duyên Trợ (paccaya)
tức Pháp Hữu Vi (sa"nkhaata) hay Pháp Vô Vi (asa"nkhaata).
Hai pháp này, pháp nào có trạng thái vô nhiễm, cắt đứt vòng luân chuyển
của ba luân, chấm dứt khát ái, thoát ly ái dục, từ bỏ khát ái là những
vật kết tập. Như Lai nói rằng pháp đó là tối thượng hơn cả."
Vị hành giả
suy tưởng có thể qua ngôn ngữ Paali hoặc là ngôn ngữ thường dùng về
đức tính Níp-bàn. Nhưng điều quan trọng là chính hành giả phải hiểu
ý nghĩa của ngôn từ ấy.
Lại nữa,
trong tất cảnhững vị hành giả tu tập án xứ tùy niệm, kể từ án xứ
tùy niệm Phật cho đến án xứ Tịch tịnh này, đầy đủ một cách trọn
vẹn chỉ có những Chư Thánh, hạng phàm phu không thể đạt khả năng hoàn
toàn. Tuy nhiên, nếu là những người đa văn, trí tuệ nhờ vào sự khéo học
hỏi, khi suy tưởng những đặc tính Níp-bàn vẫn có khởi lòng tịnh tín
với án xứ này.
Ngài Buddhaghosa
trong Visuddhimaggatthakathaa viết như sau:
"Cha
anussatiyo viya ca ayampi ariyasaavakasseva ijjhati (sacchikariyaabhisamayavasena
nibbaanagu.naana.m paaka.tabhavato) Eva.m santipi upasamagarukena puthujjanenaapi
manasikaatabbaa sutavasenaapi hi upasame citta.m pasidati".
"Thành
tựu án xứ tịch tịnh một cách vẹn toàn chỉ đối với những bậc Thánh
nhân (bởi lẽ chỉ Chư Thánh mới hoàn toàn thấu đáo, trực diện
Níp-bàn) không giống như những án xứ tùy niệm Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới,
Thiên. Dẫu vậy, nhưng nếu những hạng phàm nhơn đặt trọng tâm đối với
Níp-bàn, suy tưởng đặc tính Níp-bàn bằng nhiều phương cách với khả năng
trí tuệ học hỏi, lòng tịnh tín đối với Níp-bàn vẫn có."
Trong ấn chứng
Tịch tịnh tùy niệm, Níp-bàn là môt chân đế pháp (Paramatthadhamma)
nằm ngoài tâm, sở hữu, sắc pháp. Và hoàn toàn không tùy thuộc hữu vi
hay Danh và Sắc. Khi nói hai pháp Nội phần và Ngoại phần, thì Níp-bàn là
pháp Ngoại phần, độc lập. Bậc Ðạo Sư gọi thuật ngữ này (Ngoại phần)
trong bộ Dhammasa"nganimaa.tikaa là Bahiddhaadhammaa. Do vậy,
Níp-bàn không lấy cốt lõi bên trong tự thể của một chúng sanh.
NÍP-BÀN QUA Ý NGHĨA TỊCH
TỊNH VÀ TỊCH LẠC
Gọi Upasama
có nghĩa là tịch tịnh, tịch tịnh phiền não và ngũ uẩn. Do đó,
Níp-bàn được gọi là Tịch tịnh. Nói đến cái an lạc, Níp-bàn là một
tịch lạc hay cái an lạc vì đã tịnh chỉ phiền não và ngũ uẩn. Có nghĩa
là Níp-bàn không hưởng nhận cảnh và cũng chẳng là cảnh để tri nhận
như sắc và thinh...Chính điều này mà nói rằng: Trong Níp-bàn không có lạc
cảm thọ (Vedayitasukha) hay những cảm thọ lạc liên hệ dục phược
ở thế gian, chỉ là trạng thái vắng lặng hay gọi là Tịch lạc, sự an
lạc đặc thù hơn mọi cảm thọ nào cả.
Ơû lạc cảm
thọ hay cái lạc liên hệ sự thụ hưởng cảnh dục phược, khi đã hưởng
nhận, cảnh ấy sẽ mất đi. Và ai hưởng thụ chúng phải gắng sức kiếm
tìm cái ban đầu đã mất để lần nữa được hưởng thụ. Song, cái vất
vả khó khăn do tầm cầu phần lớn chỉ đem lại kết quả đối ngược lại.
Vì những khó khăn mà vẫn không mang lại thỏa mãn, để toại nguyện
hơn, chúng sanh bằng mọi cố gắng, bằng con đường Chánh hạnh hay Tà hạnh,
miễn sao nó đem lại nhu cầu đòi hỏi cho mình. Khi rơi vào quyền lực của
khát ái, vì mãi dính mắc những lạc cảm thọ sai khác, mệnh chung đời sống
nàyphải rơi vào khổ cảnh, một cõi nào đó và nhận chịu rất nhiều khổ
đau, cái khổ mà ở nhân loại không hề biết đến. Cũng giống như những
món nợ phải trả cho lạc cảm thọ mà mình đã vay chịu lãi. Suy xét những
điều này chúng ta nên kinh cảm, sợ hãi vì những cái khổ đau đã từng
nhận chịu trong quá khứ, hay trong hiện tại hoặc trong tương lai đều do
nguyên nhân là cảm thọ. Do đó, các Bậc Trí không tán thán, ca ngợi lạc
cảm thọ.
Riêng đối
với tịch lạc không liên hệ, tùy thuộc ở sự nhận hưởng cảnh dục
phược như lạc cảm thọ, là một trạng thái vắng lặng pháp hành: Danh
và Sắc. Trong trạng thái này chính là an lạc của Níp-bàn. Cũng như một
nhà triệu phú giàu có, đầy đủ mọi nhu yếu: sắc, thinh, khí, vị, xúc.
Nếu trong 1 lần ông đang ngủ yên giấc, những người nô lệ của ông
bên ngoài sắp đặt mọi thực phẩm, chuẩn bị tất cả việc cần dùng
cho một nhà triệu phú, rồi đi vào đánh thức ông dậy. Giữa lúc đang
ngon giấc, ông cảm thấy không vừa lòng và bảo họ đừng bao giờ đánh
thức những lúc đang an giấc như vậy. Bọn nô lệ giúp việc lại thưa rằng:
Thực phẩm cùng những vật cần dùng họ đã sửa soạn sẵn, do đó mới
vào đánh thức ông để thọ dụng. Nhưng ông Triệu phú ấy vẫn không thức
để được tiếp tục giấc ngủ của mình.
Chỉ một sự
yên lặng thông thường ở giấc ngủ, người đời đôi khi cảm thấy vừa
lòng hơn mọi sự thụ hưởng khác. Nói thế để chỉ rằng: nếu cái an lạc
từ sự yên lặng mọi pháp hành: Danh và Sắc thì đó là an lạc tối thượng
hơn mọi cái an lạc nào khác. Chúng ta nên suy xét điều này.
Ðức Thế
Tôn thuyết trong phẩm Devadavagga sa.laayatasa"ngutta rằng:
"
Sadevakassa lokassa
Etevo sukhasammataa
Yattha
cete nirujjhanti
Ta.m tesa.m dukkhasammata.m"
"
Sukha.m di.t.thamariyebhi
Sakkaayassa nirodhana.m
Paccaniikamida.m hoti
Sabbalokena passata.m"
"Chúng
sanh ơ đời, kể cả Hàng thiên nhân nghỉ rằng những cảnh trần: sắc,
thinh, khí, vị, xúc là thiện mỹ, là an lạc. Ở đâu thiếu nó (Níp-bàn)
ấy là đau khổ, là bất thiện (thiện trong nghĩa tốt)
"Chư Thánh
thấu rõ trạng thái Tịnh lạc - Níp-bàn, sự dập tắt mọi Danh Sắc, ngũ
uẩn và là một chân đế pháp. Vì đã thấu đáo Níp-bàn, điều mà phàm
nhân không sao hiểu được, nên có cái nhìn xuyên suốt, vượt hẳn chúng
sanh bị si mê che lấp và nằm trong quyền lực của Tham ái".
Hai thái độ
trên cũng như hai người quay lưng với nhau và đi về hai hướng khác nhau.
8. ÁN XỨ
TÙY NIỆM SỰ CHẾT (Mara.naanussati)
Mara.naanussati
có nghĩa là tưởng đến cái chết mà mình sẽ phải gặp, để luôn kinh cảm
và cảnh tỉnh.
Chi pháp:
Sở hữu Chánh niệm trong tâm Ðại thiện, lấy sắc mạng quyền đã diệt
làm cảnh.
Có bốn sự
chết:
1. Samucchedamara.na:
Sự viên tịch của Chư vị A-la-hán, cắt đứt hoàn toàn khổ luân hồi.
2. Kha.nikamara.na:
Sự hoại diệt của Danh Sắc trong từng sát na.
3. Sammutimara.na:
Cái chết theo thế gian định gọi: như cây chết, xác chết, mới chết,...
4. Jviitindriyupaccedamara.na:
Danh mạng quyền và Sắc mạng quyền của chúng sanh đã diệt, chấm dứt một
kiếp.
Bốn sự chết
này, Án Xứ Tùy Niệm Sự chết lấy điều thứ tư làm án xứ.
Vì Samucchedamara.na không phải có ở mọi người, chỉ riêng chư vị
A-la-hán. Còn đối với Kha.nikamara.na thì chuyển biến cực kỳ nhanh
chóng, ở người thông thường không thể quan sát thấy. Còn Sammutimara.na
vì quá thông thường nên không làm động tâm vị hành giả. Do đó, ba điều
đầu không dùng làm án xứ niệm sự chết. Chỉ riêng điều thứ tư Jviitindriyupaccedamara.na
có hai là: Kaalamara.na và Akaalamara.na. Kaalamara.na làchết
do hết phước báo,hay hết tuổi thọ hoặc là cả hai. Akaalamara.na
là chết bởi đoạn nghiệp. Vị hành giả tu tập cả hai loại này.
PHƯƠNG THỨC TU TẬP.
Tu tập án
xứ niệm về sự chết, vị hành giả suy quán qua hình ảnh tử thi trước
mắt hay tưởng đến người đã chết mà trước đó có đủ uy quyền,
danh vọng, tài sản. Rồi hành giả suy niệm:
"Mara.na~m
me bhavissati jiivitindriya~m upacchijjissati - Ta sẽ chết, danh và sắc mạng
quyền này sẽ hoại diệt".
Hay suy niệm
rằng:
"Nara.na~m
me dhuva~m jiivita~m adhuva~m - Cái chết của Ta là điều chắc chắn, mạng
sống của Ta là cái không vững bền"
Khi tu tập,
vị hành giả không nên niệm suông, vô tình, cần phải tác ý một cách mạnh
mẽ. Vì nếu như lơ là hay không khéo tác ý, trí tuệ cùng sự kinh cảm
không thể sanh khởi, chỉ dẫn đến sự bất lợi. Nghĩa là khi hành giả
nhớ đến cái chết của người thân thương thì sanh sự buồn rầu, phiền
muộn. Nếu như đó là kẻ thù thì cảm thấy thỏa thích, hài lòng. Còn như
không thân cũng không thù thì hành giả lại lãnh đạm, thờ ơ. Nhưng nếu
nghĩ đến chính bản thân lại hốt hoảng, sợ hãi, ấy chỉ vì hành giả
không khéo tư duy.
Sự tu tập
được tư duy cân nhắc, vị hành giả khi nghĩ về một cái chết, không
nói riêng là người nào, sẽ không bao giờ sanh sự quyến luyến, ghét bỏ
hay thù nghịch, chỉ khởi lên trí quán xét bên cạnh là lòng kinh cảm, động
tâm. Chính nhờ hành giả đã khéo suy xét, tư lương.
Vị hành giả
nên suy quán bằng phương cách của Ðức Phật và Ngài Buddhaghosa ghi lại
như vầy :
1. Na kho
aha~n~neveko mara.nadhammo mara.na~m aanatiito atha kho yaavataa sattajana~m aagati cuti
upapatti, sabbe sattaa mara.nadhamaa mara.na~m anatiitaa. (Trích trong Abhi.nahesutta,
phần Pa~nca"nguttara)
[Cha.
A"nguttara. Pa~ncakanipaata dutiya.n.naasaka niivara.navagga
abhi.nahepaccavekkhitabba.thaanasutta (trang 65)]
"Cái chết
và không thể tránh khỏi chết, không phải chỉ riêng Ta. Một điều chắc
thật, tất cả chúng sanh từ quá khứ sanh lại kiếp này và rồi kiếp
này sanh lại kiếp sau. Tất cả phải chết và không thể tránh khỏi chết".
2. Yamekaratti~m
pathama~m
Gabbe vasati maa.navo
Abbhu.t.thitova so yaa.ti
Sa gaccha~m na nivattati.
(Trích từ
nguyên văn Ayogharataataka)
[Cha.
Khuddaka - Jaataka. Ekaadasakanipata dasarathajaa.taka (trang 237)]
"Ai đã
sanh vào thai bào người mẹ ở một đêm tối nào thì sẽ đi về dần cái
chết, chớ không bao giờ đi ngược lại".
3. Daharaa
ca hi vuddhaa ca
Ye baalaa ye ca pa.n.ditaa
Addhaa ceva daliddaa ca
Sabbe maccuparaaya.naa
(Trích Mahaacasarathajaataka
paali)
[Sayaa.
Khuddakanikaaya Sutta.nipaata sallasuta, quyển 25, trang 448]
"Những
thiếu niên hay thanh niên, già lão, kẻ ngu hay người trí, giàu sang hay
nghèo hèn. Tất cả cái chết là điểm cuối cùng".
4. Phalaanamiva
pakkaana~m
Nicca~m patanato bhaya~m
Eva~m jaataanamaccaana~m
Nicca~m para.nato bhaya~m.
(Trích trong Suttanipaata)
[Sayaa.
Khuddakanikaaya Sutta.nipaata sallasuta, quyển 25, trang 448.]
" Tất
cả hữu tình đang hiện hữu đều gặp phải âu lo, tức sự hiển nhiên về
cái chết, cũng như trái cây chín phải rơi rụng".
5. Saayameka
na dissanti
Paato di.t.thaa bahuujanaa
Paato eko dissanti
Saaya~m di.t.thaa bahuu janaa
(Trích trong Temijaataka)
[Cha.
Khud. Jaataka (quyển 2, trang 159). Mahànipàta, Mùgapakkhajàtaka]
"Những
người thấy trong buổi sáng, nhưng buổi chiều không còn thấy nữa. Họ
đã chết. Những người trong buổi chiều vẫn còn đó, sáng mai không còn
nữa. Họ đã chết".
6. Ussaavoca
tinaggamhi
Suuriyugamana~m pati
Evamaayu manussaana~m
Maa ma~m amma nivaanaya.
(Trích trong Suddha~ncajaataka)
"Tuổi
thọ của Ta quả là ngắn ngủi, chỉ là giọt sương đầu cỏ, mà tia nắng
mặt trời cũng có thể phá tan. Thế, ta đừng bao giờ cản ngăn sự xuất
gia của tuổi trẻ"
7. Sabbe
sattaa mara.naa dhuva~m, sabbesattaa mara.naanicca~m, sabbe sattaa marissanti maranti ca
mara.nesu ca tathevaaha~m marissaami ettha me natthi sa~msayo.
"Tất cả
chúng sanh, sự chết đều là hiển nhiên, không thể hoán cải. Tất cả đã
chết, đang chết và sẽ chết. Thế, ta cũng sẽ chết không nghi ngờ".
QUÁN VỀ
SỰ CHẾT KHÔNG QUA SỰ KIỆN.
"Jiivita~m
byaadhi kaalo ca
Dehanikkhepana~m gati
Pa~nceta jiivalokasmim
Animittaa na naayare"
[Cha.
Visuddhimagga. Phần I, trang 228]
Năm điều
không ước định đối với chúng sanh: Tuổi thọ, Bệnh tật, Thời gian, Nơi
chốn, Sanh thú.
- Tuổi
thọ (Vaayu): không ước định sẽ chết vào tuổi nào.
- Bệnh tật (Byaadhi): không ước định vì bệnh gì.
- Thời gian (Kaalo): không ước định ban ngày hay ban đêm.
- Nơi chốn (Dehanikkhepana~m): không ước định trong nhà hay bên
ngoài.
- Sanh thú (Gati): không ước định rằng sau khi chết sẽ về đâu.
QUÁN SỰ
CHẾT BẰNG SỰ TĂNG TIẾN HAY SUY THỐI.
"Yathaa
aarogya.m yabbana.m
Tatheva jiivita~m sabba~m
Byaadhijaraaparosita~m
Mara.nappariyasita~m."
" Mạng
sống cuối cùng là sự chết. Cũng như vô bệnh và thanh xuân, sau cùng là
bệnh hoạn và già lão".
SUY QUÁN
BẰNG LỐI SO SÁNH.
"
Sura-sa.n.thaana-pulliddhii
Buddhivu.d.dhe jinadvayo
Ghaateti mara.na~m khippa~m
Kaatu~m maadisake kathaa".
"Sự chết
phá hủy cả những người uy hùng (Vasudeva, Baladeva,...) vĩ đại (như
Vua Mahaasammata), đại phúc (Jotika, Triệu phú Jaa.tila), đại thần
lực (như Trưởng lão Mahaamoggallaana), đại tuệ (Trưởng lão Saariiputta),
những Bậc Ðộc Giác, Toàn Giác. Còn nói gì đến Ta".
SUY QUÁN
BẰNG NHỮNG KHOẢNH KHẮC NGẮN
"Ahosataha.
m jiiveyya.m
Ekaalopassa bhujana~m
Assaasana passaana~m
Kaareyya~m satthusaasana~m".
"Sinh mạng
của Ta sống bằng từng muỗng cơm, đáng để ta thực hành lời dạy của
Bậc Ðạo Sư. Mạng sống của Ta sống trong từng hơi thở vào ra, đáng để
Ta thực hành lời dạy của Bậc Ðạo Sư."
QUÁ TRÌNH TIẾN ÐẠT
Tu tập án
xứ niệm sự chết mặc dù không đạt đến Kiên cố định nhưng cũng có
những thứ bậc tiến đạt tức khả năng nhận biết về sự chết mà
được gọi là Mara.nasa~n~naa (tưởng sự chết). Có 8 giai đoạn:
1. Ghi nhận
về sự chết qua sự sống còn từng ngày và đêm
2. Ghi nhận về sự chết từng ngày hay từng đêm (12h)
3. Ghi nhận về sự chết nửa ngày hay nửa đêm (6h)
4. Ghi nhận về sự chết từng bữa cơm.
5. Ghi nhận về sự chết từng nửa bữa cơm.
6. Ghi nhận về sự chết từng thời gian bốn hay năm muỗng cơm.
7. Ghi nhận về sự chết từng thời gian từng muỗng cơm.
8. Ghi nhận về sự chết từng hơi thở ra vào.
Tám giai đoạn
này, đạt đến giai đoạn thứ tám, hành giả đã có một Chánh niệm vô
cùng nhạy bén.
Ðạt đến
giai đoạn 7 và 8, hành giả đã có một Chánh niệm hết sức vững vàng
và kiên định. Ở các giai đoạn thứ nhất đến thứ sáu, Chánh niệm chưa
được dũng mãnh, hãy còn yếu kém. Tuy nhiên, thành đạt các giai đoạn này
vẫn là điều lợi ích, bởi vì đây sẽ là nhân dẫn đến cứu cánh cuối
cùng trong Phật Giáo.
Mục lục
| I | II-a |
II-b | III | IV-a | IV-b | V | VI | VII