- GIẢI
VỀ Ý NGHĨA CHỈ TỊNH
- THEO
THẮNG PHÁP YẾU HIỆP
- Hòa thượng Jotika
VII. ÁN XỨ
TỨ ÐẠI PHÂN QUÁN:
PHƯƠNG THỨC TU TẬP
Catudhaavavatthaana
là quán sát về bốn đại giới (Dhaatu) trong thân, cho đến khi thấy
từng khối, từng phần của Ðại giới, không còn là những định thức:
Ta, họ, nam, nữ, chúng sanh, trời, người,... thì đó được gọi là Catudhaavavatthaana
- Tứ đại phân quán.
Chi pháp: Sở
hữu trí tuệ trong Ðại Thiện hay Ðại Tố.
Trong án xứ
Tứ đại phân quán, vị hành giả quán xét về Tứ đại này, tính rộng
rãi có 42 là 20 Ðịa đại, 12 Thủy đại, 4 Hỏa đại và 6 Phong đại. Từ
thể trược đầu tiên cho đến thể trược thứ 20: các thể trược này
mang hình thái thể khối, thô cứng, các Ngài phân định là Ðịa đại. Từ
thể trược thứ 21: mật (pitta~m) đến thể trược cuối cùng là nước
tiểu (putta~m) ở dạng thể lỏng và thấm rịn, được phân là Thủy
đại. Phần Hoả đại tức là bốn loại lửa: lửa làm ấm áp cơ thể (santapparatejo),
lửa phá hủy cơ thể (dahanatejo), lửa làm cơ thể suy mòn, già yếu
(jiira.natejo) và lửa làm tiêu hóa vật thực (paacakatejo). Riêng Utumaatejo
không kể ở đây, bởi vì đã tính cùng ba loại lửa đầu.
Về Phong đại,
tức sáu loại gió: Gió đưa lên phần trên (Uddha"ngamavaayo), gió
đưa xuống phần dưới (adhogamavaayo), gió chuyển hoạt trong bụng (Ku.tachi.t.thavaayo),
gió trong ruột (ke.t.thaadayavaayo), gió khắp châu thân (A"ngama"ngaanusuuriivaayo)
và gió thở vào ra (assaasapassaasavaayo).
Ở đây
không có cái gọi là nam, nữ, ta, họ, nhân loại, chư thiên, phạm
thiên,... mà chỉ là tứ đại trong một tập hợp và có hình dạng khác
nhau, giữa những tập hợp đó tùy thuộc ở nghiệp lực của mỗi cá
nhân.
Việc quán
sát tứ đại trong thân này có hai lối: vắn tắt và rộng rãi. Nếu là người
lợi căn (Tikkhapuggala) thì lối suy quán vắn tắt, tứ đại vẫn có
thể hiển lộ rõ ràng, bỏ được cái nhìn thân kiến là người nam, là
người nữ,...Riêng về người độn căn (Ma.n.dapuggala) thì cần theo
lối suy quán rộng rãi.
PHƯƠNG THỨC SUY QUÁN
Vị hành giả
nên suy quán bằng tư tưởng, theo lời dạy của bậc Tướng Quân Chánh
Pháp (Dhammasenaanaapatii) là: "Tất cả những chổ ở của người
đời được mang những tên gọi nhà cửa, cung điện, ngôi lầu,...mà thực
sự chỉ là sự kết hợp của vật liệu xây cất. Ðối với thân của Ta
cũng vậy, bằng 300 đốt xương, 900 sợi gân, 900 cơ bắp thịt và mảng da
lớn. Rồi sự hình thành cơ thể.
Những
xương, gân, thịt, da ấy khi quán sát như thật chỉ là bốn phần: Phần
thô cứng là Ðịa đại; phần thấm rịn, rỉ chảy là Thủy đại; phần
làm chuyển biến: tráng kiện đến già yếu suy vong hay làm nóng ấm cơ thể
là Hỏa đại; phần làm chuyển hoạt hay kèm giữ các oai nghi lớn nhỏ là
Phong đại.
Rồi suy quán
bằng cả hai: lời nói và tư tưởng.
"Yathaa
pa.ticca ka.t.thaadi~m
Aagaaranti pavuccati
Eva~m pa.ticca atthaayaadi~m
Sariiranti pavuccati"
"Dựa vào
cây mà gọi là nhà cửa, liêu cốc,...thì tương tự, dựa vào gân, thịt,
xương, da mà gọi là thân thể".
"A.t.thi
nahaaru~nca na~msa~nca
Camma~nca catuka~m pata~m
Parivaarito aakaaso
Saíkhaya~m ruupaịti gacchati"
" Trong
không gian có 300 đốt xương, 900 sợi gân, 900 cơ bắp thịt và mảng da bao
bọc chiếm vị trí thì gọi là thân thể".
"Yo
imasmi~m kaayo thaddhabhaavo vaa kharabhaavo vaa aya~m pa.thaviidhaatu, yo
aabandhanabhaavo va dravabhaavo vaa aya~m aapodhaatu, yo paripaacanabhaaso vaa uịhabhaavo
vaa aya~m tejodhaatu, yo vittambhanabhaavo vaa samudiiraịabhaavo vaa aya~m
vaayodhaatu".
"Trong
thân này, phần thô cứng là Ðịa đại, phần đượm nhuần quến tụ là
Thủy đại, phần biến chuyển và đốt nóng là Hỏa đại, phần kềm giữ
và làm chuyển hoạt các oai nghi là Phong đại".
"Iti
aya~m kaayo acetano abyaakato su~n~no nissatto nijjiivo dhaatusamuuhoyeva".
"Thân
này là vô thức, là vô ký, nó là rỗng không, không là chúng sanh, không
là sinh mạng, chỉ là tập hợp của Tứ đại".
SUY QUÁN THEO LỐI RỘNG
RÃI
Phương thức
này hành giả quán sát theo 42 đại giới: là 20 Ðịa đại, 12 Thủy đại,
4 Hoả đại và 6 Phong đại, theo thứ tự:
Hành giả
quán xét rằng: Tóc mọc trên đầu ấy, nó không biết rằng: "Ta mọc
trên da đầu" và ngược lại da đầu cũng không biết rằng tóc mọc
trên da. Tóc này không phải là một sinh mạng, nó chỉ là thuần túy Ðịa
đại. Rồi quán sát thêm rằng tóc mang hình dạng sợi tơ này, ngoài bản
chất là Ðịa đại, nó còn có ba Ðại giới khác làm chổ nương trú, tức
Thủy đại, Hỏa đại và Phong đại. cả về màu sắc, khí vị, dưỡng tố
(ojaa) cũng do ba sắc môi sinh đó. Bốn Ðại giới cũng nương tựa lẫn
nhau, có từ 8 sắc bất ly avinibbhoga và chỉ như vậy, chứ không là
một sinh mạng (sattajvaa) nào khác.
Quán sát Ðịa
đại, từ thể trược tóc đến thể trược thứ 20 lá óc, rồi phân theo
8 sắc avinibbhoga (bất ly). Về phần Thủy đại, từ mật cho đến cuối
cùng lànước tiểu, rồi cũng phân theo 8 sắc avinibbhoga. Quán sát Hỏa
đại, lấy bốn loại lửa và phân theo 8 sắc avinibbhoga. Quán sát
theo Phong đại lấy sáu loại gió rồi phân theo 8 sắc avinibbhoga. Tất
cả được quán sát riêng biệt cũng giống như phần thể trược tóc.
Khi đã suy
xét 42 đại gới trong thân, theo Ðất (20), Nước (12), Lửa (4), Gió (6) cả
về màu sắc (va.n.na), khí (gandha), vị (rasa), và dưỡng tố,
hành giả nên hiểu rằng những địa đại, hỏa đại và phong đại thì
được tri nhận bằng cảm xúc của thân, thủy đại được tri nhận bằng
tư duy của ý, màu sắc tri nhận bằng sự thấy, mùi khí tri nhận bằng sự
ngửi mùi của mũi, vị tri nhận bằng sự nếm của lưỡi và dưỡng tố
được tri nhận bằng tư duy của ý.
SUY QUÁN 42 ÐẠI GIỚI
THEO 13 KHÍA CẠNH.
Vacanaattho:
quán sát theo ý nghĩa của mỗi tiếng (tên gọi của những đại giới).
Kalaapato: quán sát về sự kết hợp từ những đơn vị sắc pháp.
Cu.n.nato: quán sát phần cực tiểu như đất trong bọn sắc.
Lakkha.naadito: Quán sát về trạng thái (lakkha.na), phận sự (rasa)
và sự thành tựu (paccupa.t.thaana)
Samu.t.thaanato: Quán sát về bốn nhân sanh (Nghiệp, tâm, quí tiết và
vật thực)
Naanatta-ekattato: Quán sát điểm tương đồng và dị biệt.
Vinibbhogaavinibhogato: Quán sát đến sự ly khứ và bất ly.
Sabhaagavisabhaagato: Quán sát đến sự tương hợp và bất tương hợp.
Ajjhattikabaahiravisesato: Quán sát sự khác biệt giữa nội phần và ngoại
phần.
Sa"ngaho: Quán sát cách trợ giúp.
Paccayoto: Quán sát về sự tương trợ.
Asamannaahaarato: Quán sát về tính vô tri.
Paccayavibhaagato: Quán sát bằng cách phân tích duyên pháp (paccayadhamma)
cuả các đại giới.
1. Quán sát
theo ý nghĩa của mỗi đại giới (vacanatthaato): là xét rằng Ðất
có trạng thái "lớn rộng" và "chiếm chổ", nước là trạng
thái "rỉ chảy" và "thấm rịn", lửa là trạng thái
"nóng lạnh" và gió là trạng thái "chuyển động". Trong mỗi
đại giới này đều có trạng thái riêng biệt. Như vậy, đối với thân
của ta, phần chiếm chỗ và phần lớn rộng là Ðất, phần rỉ chảy và
phần thấm rịn là nước, phần nóng hay lạnh là lửa và phần di chuyển,
hoạt động là gió.
2. Quán sát
về phần kết hợp từ những đơn vị sắc pháp (Kaalapato): Ðại giới
trong trái tim là một sự kết hợp của 12 loại sắc: tám sắc bất ly (avinibbhogaruupa),
thần kinh thân, sắc tính, sắc ý vật và sắc mạng quyền. Ðối với những
thịt, gân, da, gan, phổi, óc cùng là một kết hợp của 11 loại sắc là 8
bất ly, sắc thần kinh thân kinh, sắc trạng thái và sắc mạng quyền. Về
lửa làm tiêu hóa vật thực thì nó được kết hợp với 9 thứ sắc là 8
sắc bất ly và sắc mạng quyền. Phần tóc, lông, móng, răng, da,... và các
thủy đại như máu, mủ, ...cùng những Hỏa giới còn lại và Phong giới
thì những giới ấy chính là sự kết hợp của 8 sắc bất ly. Như thế không
thể nói rằng đây là chúng sanh, đây là ta, là họ, là nam hay là nữ.
3. Quán sát
phần cực tiểu (Cu.n.nato): trong thân với bấy nhiêu dung lượng này,
nếu đem nghiền nát, tán nhuyển cho đến khi như là bụi mạc, rồi bỏ
vào bọc chứa thì cũng khoảng 20 - 30 lít. Mà thân này được tồn tại bởi
vì có Thủy đại kết nối, bện thắt, có Hỏa đại là người nuôi dưỡng,
bảo vệ, có Phong đại che chở, bảo tồn cho lớn mạnh. Ngoài những Ðại
giới này không còn gì khác.
4. Quán sát
về trạng thái, phận sự và sự thành tựu (Lakkha.naadito): Ðịa đại
này, trạng thái là cứng, ngại; phận sự là làm cho các sắc khác lớn mạnh
và sự thành tựu là "chịu đựng" các sắc pháp. Ðối với Thủy
đại, trạng thái là thấm rịn và rỉ chảy, phận sự là làm cho sắc
pháp lớn mạnh, sự thành tựu là cô đọng, quến tụ các sắc khác thành
từng phần, từng khối. Hỏa đại, trạng thái là nóng hoặc lạnh, phận
sự là nung nấu các sắc khác, và sự thành tựu là làm cho các sắc khác
nóng ấm. Về Phong đại, trạng thái là sự giúp đỡ các sắc khác được
lớn mạnh, phận sự là hấp dẫn các sắc khác, và sự thành tựu tức
là sự chuyển động, dời đổi. Ngoài các đại giới này không có cái
gì khác.
5. Quán sát
về nhân sanh (Samu.t.thaana): trong 42 đại giới này, vật thực mới, vật
thực cũ, mủ và nước tiểu sanh từ thời tiết. Nước mắt, nước mũi,
nước bọt và mồ hôi, bốn đại giới này có khi sanh từ thời tiết, có
khi sanh từ tâm. Lửa tiêu hóa vật thực thì sanh từ nghiệp, gió hơi thở
ra vào sanh từ tâm. ba mươi hai đại giới còn lại đều có thể sanh từ
một trong bốn nhân (nghiệp, tâm, quí tiết và vật thực).
6. Quán sát
sự tương đồng và dị biệt (Naanatta-ekattato) trong bốn đại giới
này thì về trạng thái, phận sự và sự thành tựu có khác nhau, nhưng
chung quy tất cả đều có sanh và diệt, đều là vô thường, khổ và vô
ngã.
7. Quán sát
tính ly khứ và bất ly khứ (Vinibbhogaavinibbhogato): bốn đại giới phân
tích là chỉ riêng về trạng thái, phận sự, thành tựu (bởi có khác nhau
nên: vinibbhoga). Nhưng riêng bốn đại giới với nhau thì không thể
tách rời, phân ly (Avinibbhogaa).
8. Quán sát
sự tương hợp và bất tương hợp (sabhaagavisabhaagato): Ðiạ đại giới
và Thủy đại giới, hai giới này tương hợp nhau bởi vì đều là garudhaatu
(trọng đại). Hai giới Hỏa đại và Phong đại tương hợp nhau, bởi vì
đều là lahudhaatu (khinh đại). Nhưng giữa Ðất - Nước và Lửa -
Gió thì không tương hợp nhau, bởi vì một là trọng đại, một là khinh
đại.
9. Quán sát
sự khác biệt giữa nội phần và ngoại phần (Ajjhattikabaahiravisesato):
bốn đại giới sanh trong thân chúng sanh này là chỗ nương trú cho 5 sắc
thần kinh, ý vật (hadaya), hai sắc tính (bhaava), sắc mạng quyền,
hai biểu tri (vi~n~natti) cùng với bốn oai nghi và sanh từ bốn nhân
sanh (ajjhatti-kavisesa). Về bốn đại giới ngoại thân chúng sanh, thì
nó không là môi sinh cho những sắc đã kể cũng như là các đại oai nghi và
nó cũng không đủ bốn nhân sanh, chỉ có mỗi một nhân thời tiết (baahiravisesa).
10. Quán về
cách trợ giúp (sa"ngaho): Ðịa đại sanh từ nghiệp giúp cho những
Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại mà những đại giới này cũng sanh từ
nghiệp. Ðịa đại sanh từ tâm, quý tiết, hay vật thực sẽ trợ giúp cho
ba giới còn lại cũng sanh từ tâm, quý tiết hay vật thực.
11. Quán
sát về sự tương tự (paccaya): Ðịa đại này là nền tảng của
các đại giới còn lại. Nó có thủy đại kết nối, quyện thắt để không
tách rời, phân ly. Có Hỏa đại gìn giữ. Có Phong đại nuôi dưỡng, bảo
tồn. Nó giúp cho địa giới khác bằng khả năng câu sanh (sahajaataa),
y chỉ (nissaya), hổ tương (a~n~nama~n~na),...
Thủy đại
thắt dính, kết nối các đại giới khác để không tách rời phân ly. Nó
có Ðịa đại là chổ đứng, có Hỏa đại gìn giữ, có Phong đại chống
đỡ, bảo tồn. Nó giúp cho các đại giới khác bằng những khả năng câu
sanh, y chỉ, hổ tương,...
Hỏa đại
là làm cho các đại giới khác được nhu nhuyến thích nghi. Nó có Ðịa đại
là chổ đứng , có Thủy đại thắt dính để không tách rời, có Phong đại
chống đỡ, bảo tồn. Nó giúp cho các đại giới còn lại bằng những khả
năng câu sanh, y chỉ, hổ tương,...
Phong đại,
nó chống đỡ và bảo tồn các đại giới được đứng vững mạnh, nhờ
Ðịa đại làm chổ đứng, Thủy đại thắt dính không cho tách rời, Hỏa
đại gìn giữ. Nó giúp cho các đại giới còn lại bằng những khả năng
câu sanh, y chỉ, hổ tương...
12. Quán
sát về tính vô tri (asamannaahaarato): Ðịa đại này nó không biết rằng
ta là địa đại và cũng không biết rằng mình giúp cho các đại giới khác
bằng cách làm nền tảng, các đại giới khác cũng không biết có địa đại
là chỗ tựa y.
Phần Thủy
đại thì không biết rằng nó là thủy đại. Nó không bi?t rằng mình đang
giúp cho các đại giới khác bằng cách thắt dính và đượm nhuần. Ngược
lại, các đại giới khác cũng không biết có phong đại trợ giúp được
đượm nhuần, được thắt dính.
Hỏa đại
thì không biết rằng nó là Hỏa đại, không biết rằng nó đang giúp cho
các đại giới khác được nhu nhuyến thích nghi. Ngược lại, các đại giới
khác cũng không biết có hỏa đại trợ giúp để được nhu nhuyến, được
thích nghi.
Phong đại
cũng không biết nó là phong đại, cũng không biết rằng nó đang trợ giúp
cho ba đại giới còn lại được vững mạnh. Và ba giới còn lại cũng không
biết có phong đại nâng đỡ, bảo tồn.
Các đại
giới chỉ diễn biến theo một thực tính (Sabhaava) biệt lập, chớ
không là chúng sanh, là hữu tình nào.
13. Quán
sát bằng sự phân tích duyên pháp (paccayavibhaagato): Thân chúng sanh
mà được hiện hữu cũng bởi vì do nghiệp, tâm, quí tiết và vật thực.
Là nếu những sắc có nghiệp là yếu tố trợ sanh thì những tâm, quí tiết
và vật thực giúp cho sanh khởi. Có 18 loại sắc như là nhãn, nhĩ, tỷ,...gọi
chung là Sắc nghiệp (kammajaruupa). Những sắc quý tiết và vật thực
là yếu tố trợ sinh thì nghiệp và tâm giúp cho sanh khởi. Có 13 hoặc 12
loại sắc như là máu, thịt da, gân, gan, phổi, ...được gọi là Sắc quý
tiết (Utujaruupa) hay Sắc vật thực (Aahaarajaruupa). Việc làm
môi sinh cho nhãn, nhĩ và làm việc biểu tri cho Thân, khẩu, những việc
này lấy tâm làm yếu tố trợ sanh thì nghiệp, quý tiết và vật thực
giúp cho sanh khởi. Có 15 thứ như là những việc biểu tri của thân và
tâm: cười, khóc, thở, ...Những thứ này gọi chung là sắc tâm (cittajaruupa)
Rồi phân
tích duyên pháp: "Nghiệp là năng duyên (janakapaccaya) cho sắc nghiệp
và là cận y duyên (upanissayapaccaya) cho ba loại sắc còn lại.
Quí tiết
là năng duyên cho sắc quí tiết và là Hiện hữu duyên (Atthipaccaya),
Bất ly duyên (Avigata) cho ba loại sắc còn lại.
Tâm là năng
duyên cho sắc tâm và là Hậu sanh duyên (pacchaajaatapaccaya), Hiện hữu
duyên (Atthipaccaya) và Bất ly duyên (avigatapaccaya) cho ba sắc còn
lại.
Sắc đại
hiển (mahaabhuuta): Ðất, Nước, Lửa, Gió sanh từ Nghiệp, Tâm,
Quý Tiết, Vật Thực, chúng đều tương trợ lẫn nhau. Nghĩa là địa
đại sanh từ nghiệp giúp cho ba đại giới sanh từ nghiệp còn lại bằng
khả năng Câu Sanh (sahajaata), Hổ Tương (a~n~nama~n~na), Y Chỉ (nissaya),
hiện hữu (atthi), bất ly (avigata) và bằng khả năng làm nền tảng,
nhưng không giúp trợ sanh; Và giúp cho các đại hiển khác sanh từ tâm,
quí tiết, vật thực bằng khả năng y chỉ (nissaya), hiện hữu (atthi),
bất ly (avigata) nhưng không giúp trợ sanh và làm nền tảng.
Thủy đại
sanh từ nghiệp giúp cho ba đại giới còn lại sanh từ nghiệp còn lại bằng
khả năng câu sanh (sahajaata), hổ tương (a~n~nama~n~na), y chỉ (nissaya),
hiện hữu (atthi), bất ly (avigata) và bằng khả năng thắt dính,
kết nối, nhưng không giúp trợ sanh. Nó giúp cho các đại hiển khác mà
sanh từ tâm, quí tiết, vật thực bằng khả năng y chỉ (nissaya), hiện
hữu (atthi), bất ly (avigata) nhưng không bằng khả năng thắt dính
và trợ sanh.
Hỏa đại
sanh từ nghiệp giúp cho ba đại giới sanh từ nghiệp còn lại bằng khả năng
câu sanh (sahajaata), hổ tương (a~n~nama~n~na), y chỉ (nissaya),
hiện hữu (atthi), bất ly (avigata) và bằng khả năng làm nhu
nhuyến, nhưng không giúp trợ sanh. Nó giúp cho các đại hiển khác sanh từ
tâm, quí tiết, vật thực bằng khả năng y chỉ (nissaya), hiện hữu
(atthi), bất ly (avigata) nhưng không phải bằng khả năng làm nhu
nhuyến và trợ sanh.
Phong đại
sanh từ nghiệp giúp cho ba đại giới sanh từ nghiệp còn lại bằng khả năng
câu sanh (sahajaata), hổ tương (a~n~nama~n~na), y chỉ (nissaya),
hiện hữu (atthi), bất ly (avigata) và bằng khả năng nâng đỡ,
bảo tồn cho lớn mạnh nhưng không giúp trợ sanh. Nó giúp cho bốn đại hiển
khác sanh từ tâm, quí tiết, vật thực bằng khả năng y chỉ (nissaya),
hiện hữu (atthi), bất ly (avigata) nhưng không giúp cho tồn tại,
lớn mạnh và không giúp trợ sanh.
Ðịa đại
sanh từ tâm, quí tiết, vật thực giúp cho ba đại giới còn lại sanh từ
tâm , quí tiết, vật thực và đều giúp cho những đại giới mà sanh với
bất kỳ nhân nào.
Tương tự
với những Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại cũng thế. Tất cả, về cách
thức trợ giúp giống như Ðịa đại sanh từ nghiệp và giúp cho những đại
giới khác sanh từ tâm, quí tiết, vật thực. Sự diễn tiến của các đại
giới này đều tương trợ lẫn nhau: 1, 2, 3, đại giới làm chỗ nương giúp
cho 3, 2, 1 đại giới sanh khởi.
Trong bốn
đại giới này, địa đại là yếu tố kèm giữ trong lúc đi tới, buớc
lui và ngồi xuống. Ðất mà được Thủy đại cùng sanh khởi đượm nhuần
là yếu tố cho sự đứng vững. Thủy đại cùng sanh với đất là yếu tố
cho sự duỗi tay, duỗi chân. Hỏa đại cùng sanh với gió là yếu tố cho sự
dỡ tay chân. Phong đại cùng sanh với lửa là yếu tố cho sự bước đi,
thối lui và tránh né.
ẤN TƯỚNG - TIẾN ÐẠT
- ÐẠO QUẢ TRONG SỰ TU TẬP ÁN XỨ TỨ ÐẠI PHÂN QUÁN
Tu tập án
xứ này, Trì tướng và Tự tướng không hiển lộ, chỉ có Sơ khởi tướng
tức là bốn đại giới trong nội thân. Về tiến đạt thì chỉ có hai
là: sơ khởi tiến đạt và Cận hành tiến đạt. Còn Kiên cố tiến đạt
và thiền chứng thì không thể hiện khởi. Mà như vậy cũng bởi vì bốn
đại giới này là phần thực tính (sabhaava), đòi hỏi vị hành giả
phải có một trí tuệ nhạy bén để có thể liễu tri các thực tính ấy.
Do đó, định của vị hành giả không đủ sức mạnh để đạt đến thiền
chứng. Nhưng nếu sự quan sát về bốn đại giới trong thân có trí tuệlàm
then chốt để thấy rõ sự sanh diệt của các giới thì vị hành giả ấy
sẽ thành tựu Ðạo, Quả.
QUẢ BÁU CỦA SỰ TU TẬP
ÁN XỨ TỨ ÐẠI PHÂN QUÁN.
Su~n~nata~m
avasaahati: liễu tri vô ngã tướng.
Sattasa~n~na~m samugghaateti: phá vỡ kiến chấp là chúng sanh, là người,
là nam, là nữ, ...
Bhayabhoravasaho hoti: không sợ hãi trước chúng sanh hung bạo, tâm giống
như vị A-la-hán.
Aratisaho hoti: khả năng từ bỏ sự chán nản trong pháp học, pháp
hành và từ bỏ sự vui thích trong cảnh ngũ dục.
I.t.thaani.t.thisu ugghaanigghaata~m na paapu.naati: không vui thích vừa lòng
trong cảnh khả ái, không chán ghét phiền lòng trong cảnh bất toại.
Mahaapa~n~no hoti: là người có nhiều trí tuệ.
Amatapariyosaano hoti: Níp-bàn là cứu cánh trong kiếp hiện tại.
Sugatipariyaayano hoti: nếu không thành đạt Níp-bàn trong kiếp này, đời
sau sanh trong thiện thú.
-ooOoo-
VIII. ÁN XỨ VÔ SẮC - PHƯƠNG THỨC TU TẬP-
Trong án xứ
Vô sắc không dùng là Aaramma.nakamma.t.thaana như 10 hoàn tịnh, 10 bất
mỹ, 10 hằng niệm, 4 Vô lượng tâm mà chỉ là Aaramma.nikakamma.t.thaana.
Phần tâm thiền hiện khởi thì dựa vào các cảnh án xứ: hư không giả
định (thiền không vô biên xứ), vô sở hữu giả định (natthibhaavapa~n~natti
- thiền vô sở hữu xứ) giống như đối với vật thực uế tưởng và tứ
đại phân quán sanh khởi dựa vào vật thực và bốn đại giới.
Về ý nghĩa
và phương thức tu tập như đã nói kế sau thiền tầng thứ năm của án xứ
địa đại hoàn tịnh.
-ooOoo-
- ÁN XỨ CHỈ TỊNH PHÂN
THEO CÕI
Trong 40 án
xứ chỉ tịnh, ở cõi nhân loại thì đầy đủ 40. Ở sáu cõi trời dục
giới chỉ có 28 (trừ 10 bất mỹ, thân hành niệm và vật thực uế tưởng).
Bởi vì chư thiên phần lớn khi mệnh chung thì không còn thân xác cũng như
ngọn đèn vụt tắt đi, về thân thể với những bộ phận tóc, lông,
móng, răng, da, ... đều xinh đẹp chớ không nhơ bẩn, đáng tởm. Phần vật
thực thì cũng không phải khó khăn, vất vả bởi đó là vật thực Chư
thiên, và khi dùng vào thì trở thành máu thịt ngay sau đó, chứ không có
phẩn, nước tiểu, đàm, nước bọt, là những vật đáng gớm. Do đó, 10
bất mỹ, thân hành niệm và vật thực uế tưởng không có trong các cõi
này. Riêng loài chư thiên tứ đại nương sống cùng nhân loại thì khi chết
, thân xác vẫn còn, các thể trược, vật thực lại càng đáng tởm hơn cả
loài người.
Trong cõi Sắc
giới thì có 27 án xứ (trừ 10 bất mỹ, thân hành niệm, tức quan niệm, vật
thực uế tưởng) bởi vì các vị Phạm Thiên không có hơi thở cũng không
dùng vật thực nên tức quan niệm và vật thực uế tưởng không có. Còn
19 bất mỹ và thân hành niệm thì lý do cũng như 5 tầng trời Dục giới
cao.
Trong bốn cõi
vô sắc, cõi thứ nhất được bốn án xứ vố sắc, cõi thứ hau có ba án
xứ vô sắc (trừ không vô biên xứ), cõi thứ ba có hai (trừ không vô
biên xứ và thức vô biên xứ). Cõi thứ tư được một án xứ là thiền
phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Trong Abhidhammaavataara-atthakathaa
[trang 123] viết rằng:
"Asubhaani
dasaahaara-sa~n~naa
Kaayagataasati
Devesu na pavattanti
Dvaadasetaani sabbadaa" [Nappavattanti]
"12 án
xứ là 10 bất mỹ, vật thực uế tưởng, thân hành niệm thì không có điều
kiện tu tập trong 6 cõi trời dục giới".
"Taani
dvaadasa cetaani
Aanaapaanassatipi ca
Terasa ca panetaani
Brahmaloke na vijjare" [Aanaapaanasatiipi ca.]
"13 án
xứ loại trừ ở cõi trời dục giới và Tức quan niệm thì không có trong
cõi sắc giới".
".Thapetvaa
caturaaruppe
Natthi ki~nci aruupisu
Manussaloke sabbaani
Pavattanti na sa.msayo"
"Trong
cõi vô sắc, ngoài bốn án xứ vô sắc thì không có một án xứ nào
khác."
"Cõi nhân loại thì có đủ 40 Án xứ".
40 ÁN XỨ PHÂN THEO CHÂN
ÐẾ VÀ CHẾ ÐỊNH.
Trong 40 án
xứ có 28 án xứ thuộc về chế định là 10 hoàn tịnh, 10 bất mỹ, các
thể trược, cảnh của bốn Vô lượng tâm; hư không giả định và vô hữu
giả định là cảnh của thiền vô sắc thứ nhất và thứ ba.
Án xứ thuộc
về chân đế có 12 là 8 hằng niệm (trừ thân hành niệm và tức quan niệm),
vật thực uế tưởng, tứ đại phân quán , thiền không vô biên xứ và
thiền vô sở hữu xứ. Mười hai án xứ này, hằng niệm Phật và hằng niệm
tăng có giới, định, tuệ là cảnh chân đế. Hằng niệm pháp có 4 Ðạo,
4 Quả, Níp-bàn và giới định tuệ sanh từ sự thực hành là cảnh chân
đế. Hằng niệm giới có giới phần là cảnh chân đế. Hằng niệm thí
có tâm dứt bỏ là cảnh chân đế. Hằng niệm thiên có 7 chân nhân báo
và 7 chân nhân pháp là cảnh chân đế. Niệm tịch tinh có Níp-bàn là cảnh
chân đế. Niệm sự chết lấy sự hoại diệt cuối cùng của Danh và Sắc
mạng quyền làm cảnh chân đế. Bốn án xứ còn lại là cảnh chân đế
như đã biết.
ÁN XỨ PHÂN THEO CƠ TÁNH
Trong sáu loại
cơ tánh: Ái, Sân, Si, Tầm thuộc về cơ tánh xấu, hành giả nên dùng án xứ
đối trị với những cơ tánh này để dẹp bỏ những thói quen không tốt.
Riêng hai cơ tánh Giác và Tín là hai cơ tánh tốt, hành giả nên dùng những
án xứ thích nghi bồi đắp thêm cho hai cơ tánh này để vững mạnh. Giống
như bệnh nhân cần dùng thuốc uống và thức ăn đối trị căn bệnh để
chóng lành. Nếu dùng những loại thuốc và thức ăn dễ gây bệnh thì cơn
bệnh sẽ trầm trọng hơn và dẫn đến tử vong. Còn người vô bệnh thì
cần phải dùng những thức ăn để bồi bổ để giữ gìn sức lực và
tránh những thức ăn gây độc có thể làm sức lực suy mòn. Ðối với việc
thực hành án xứ không thích hợp tuy vẫn vô hại nhưng điều đó sẽ cho
kết quả chậm trễ. Do vậy:
Người cơ
tánh ái cần thực hành án xứ bất mỹ, thân hành niệm, tham ái sẽ được
lắng đọng, thiền chứng sẽ hiện khởi. Nếu như tu tập các Vô lượng
tâm hay án xứ màu sắc hoàn tịnh, tham ái sẽ tăng trưởng và chận đứng
thiền chứng.
Ðối với
người cơ tánh sân, sân tâm là một trạng thái khả ố, không đẹp mà
án xứ bất mỹ hay thân hành niệm cũng là trạng thái ấy. Do đó, các án
xứ này, người cơ tánh sân khi thực hành, sân tâm dễ bộc phát, thiền
chứng không viên thành. Ðối lại, những án xứ Vô lượng tâm là trạng
thái làm cho tâm mát mẻ, hân hoan, các án xứ màu sắc hoàn tịnh là những
hình thức xinh đẹp, khả ái dễ làm cho người chú mục được vừa lòng,
thỏa thích. Do đó, người cơ tánh sân cần tu tập án xứ Vô lượng tâm
và án xứ màu sắc hoàn tịnh để sân tâm lắng đọng và thiền chứng
sanh khởi.
Người có
cơ tánh si và người có cơ tánh tầm thì trạng thái tâm si là mê muội,
ám mờ làm cho tâm vọng động, xao lãng. Trạng thái của Tầm thì phóng đãng,
mông lung, nếu Tầm quá nhiều, quá mạnh mẽ thì làm cho tâm vọng động,
không yên tịnh. Do đó, người có cơ tánh si và Tầm, nếu tu tập án xứ
niệm sự chết, niệm tịch tịnh, vật thực uế tưởng, tứ đại phân
quán tế nhị, tinh vi thì sẽ làm cho si tâm và tầm tăng trưởng. Nhưng đối
với án xứ tức quan niệm nó không vi tế, khó nhận, luôn xuất hiện rõ
ràng ở hơi thở vào ra. Do đó, người cơ tánh si hoặc tầm nên tu tập
án xứ tức quan niệm để có thể thiền chứng sanh khởi.
Người cơ
tánh Tín thì trạng thái của tánh Tín là đức tin tưởng, ngưỡng mộ, nếu
khi hiểu được ân đức của giáo pháp và Giới- Ðịnh-Tuệ của Ðức Phật,
của Tăng chúng thì đức tin sẽ dũng mãnh. Do đó, người cơ tánh Tín cần
tu tập 6 án xứ hằng niệm (từ ân đức Phật đến ân đức Thiên) để
đức tin được lớn mạnh, già dặn hơn.
Ðối với
người cơ tánh Giác thì với trí tuệ nó là trạng thái xuyên suốt, thấu
đáo, không bị ngăn che các sự thật đối với cảnh. Do đó khi quán xét
các cảnh có trạng thái tinh vi, tế nhị, trí tuệ sẽ nhạy bén và lớn mạnh
hơn. Vì lẽ ấy, người cơ tánh Giác cần tu tập 4 án xứ là niệm sự chết,
niệm tịch tịnh,vật thực uế tưởng và tứ đại phân quán để trau dồi
trí tuệ thêm phần sắc bén, nhanh nhẹn.
Các án xứ
còn lại thích hợp cho mọi cơ tánh.
Mục lục
| I | II-a |
II-b | III | IV-a | IV-b | V | VI
| VII