...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Nghi Thức Cầu An
- Thích Nhật Từ tuyển chọn và biên tập 1994
- Lời Tựa
- (Ấn Bản Internet)
Vào đầu năm 1994, nhiều
Phật tử chùa Giác Ngộ, TP. Hồ Chí Minh đã yêu cầu chúng tôi sớm soạn
thảo một nghi thức tụng niệm thuần Việt, để giúp cho các Phật tử mới
vào đạo, dễ dàng hiểu được giáo pháp cao siêu của đức Phật. Đáp lại
lời yêu cầu đó, chúng tôi đã soạn thảo hoàn tất bản thảo của các
nghi thức sau đây: (i) Kinh Nhật Tụng - Tổng Hợp 49 Kinh Căn Bản của
Hai Truyền Thống Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông, (ii) Nghi Thức Cầu
An và Cầu Siêu, (iii) Nghi Thức Sám-Hối, (iv) Nghi Thức Cúng
Vong, và (v) Nghi Thức Lễ Thành Hôn.
Được sự khích lệ của một số quý tôn túc trong
các chùa TP. Hồ Chí Minh và cũng như ở các tỉnh phía Nam, chư đại đức
Tăng Ni và quý Phật tử chùa Giác Ngộ đã phát tâm ấn tống 3000 quyển Kinh
Nhật Tụng, như một dấu chỉ đóng góp vào việc Việt hóa nghi thức
tụng niệm tại Việt Nam. Chỉ trong vòng vài ngày, toàn bộ số Kinh ấn tống
đã được các Chùa thỉnh về đọc tụng. Trong một tháng sau đó, chúng
tôi nhận được nhiều thơ chỉ giáo, khích lệ, và yêu cầu chúng tôi sớm
tái bản quyển Kinh Nhật Tụng này, để phổ biến rộng rãi hơn.
Trong lúc chúng tôi dự định tái bản song song với việc ấn hành quyển Nghi
Thức Cầu An và Cầu Siêu, chúng tôi nhận được giấy chấp thuận cho
nhập học tại trường Đại học Delhi, New Delhi, nên đã lên đường sang
Ấn Độ. Thế là mọi việc tạm đình chỉ.
Vào mùa Hạ năm 1998, chúng tôi có dịp trở về Việt Nam.
Trong thời gian này, chúng tôi lại nhận được nhiều sự khích lệ nồng
nhiệt của chư tôn đức, nên đã cố gắng duyệt lại bản thảo của Nghi
Thức Cầu An và Cầu Siêu và nhờ người đánh vi tính. Việc in ấn chưa
hoàn tất thì chúng tôi lại lên đường sang Ấn Độ. Nhờ sự phát tâm của
Sư cô Như Phước và quý Phật tử chùa Giác Ngộ, Nghi Thức Cầu An và
Cầu Siêu đã được ấn tống vào cuối năm 1998.
Nhân dịp này, chúng tôi chân thành cảm ơn đại đức Nhật
Hạnh, đại đức Nhật Bình, sư cô Như Phước và Phật tử chùa Giác Ngộ
cũng như chư tôn đức giáo phẩm đã chỉ giáo, khích lệ và hỗ trợ, nhờ
đó, quyển Nghi Thức Cầu An và Cầu Siêu được ra mắt quần chúng
Phật tử. Ngoài ra, chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn đại đức Vân
Phong và phật tử Diệu Tần đã phát tâm đánh lại bản thảo của nghi thức
này, nhờ đó, việc ấn tống đã có thể diễn ra như dự định.
- Chandigarh, Ấn Độ, ngày 19 tháng 2 năm Canh Thìn (2000)
- Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
- Kính bút
Hướng Dẫn
Hành Trì
Đây là nghi thức cầu an cầu
siêu thuần tiếng Việt, gồm nhiều kinh khác nhau để đáp ứng cho các căn
cơ và đối tượng khác nhau. Phần kinh văn chủ yếu được chọn lọc từ
hai nguồn Kinh điển chính của Phật giáo là nguồn kinh tạng Nam tông và
nguồn kinh tạng Bắc tông. Trong hai khóa lễ này, ngoài thần chú bát-nhã
tâm Kinh là thần chú duy nhất còn giữ lại để tụng trì, tất cả các
thần chú khác đều được tỉnh lược. Nghi thức này chủ yếu nhấn mạnh
đến tinh thần "Niệm Pháp" mà đức Phật đã giảng dạy và nhắc
nhở trong pháp niệm Tam Bảo trong kinh tạng Nam tông, và phát huy tinh thần
tụng niệm, tư duy và thực hành kinh điển của Kinh Lượng bộ. Hai tinh thần
này hoàn toàn phù hợp với pháp môn Tịnh Độ vốn thịnh hành ở nước
ta và các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên... Nhờ tụng niệm giáo
pháp của Phật, chúng ta có thể hiểu rõ lời Phật dạy, và nhờ đó, có
cơ hội vun bồi, nuôi lớn và sống với tiềm năng từ bi và trí tuệ
trong mỗi chúng ta. Nghi thức cầu an và cầu siêu này nhắm đến việc tạo
ra sự an lạc và chánh nhân giải thoát cho người thọ trì ngay hiện tại
và tương lai.
I. Thời Khóa
Ứng Dụng
1. Khóa lễ kinh cầu an
chủ yếu được tụng vào các dịp cầu an bệnh nhân, cầu tai qua nạn khỏi,
cầu gia đạo bình an, cầu quốc thới dân an, cầu mưa hòa gió thuận, hay
tụng vào những dịp khánh hỷ, lễ an vị Phật, lễ khai trương, lễ khởi
công, lễ khánh thành, lễ tân gia, lễ sinh nhật, lễ đáo tuế, lễ cầu
thọ, lễ chúc thọ v.v... Kinh cầu an, ngoài nghi thức dẫn nhập và phần
sám nguyện và hồi hướng, gồm có 11 kinh mang nhiều nội dung khác nhau, nhằm
đáp ứng cho nhiều tình huống hay căn cơ và đối tượng khác nhau. Tùy
theo tính chất của từng khóa lễ mà người thọ trì nên chọn tụng kinh
nào cho thích hợp.
Ví dụ, đối với khóa lễ cầu an gia đạo, cầu
quốc thới dân an, cầu mưa hòa gió thuận vào các buổi sáng, trưa, chiều
hay tối định kỳ thì nên tụng theo thứ tự từ Kinh thứ nhất cho đến
Kinh sau cùng, sau đó tiếp tục tụng lại từ đầu. Nghĩa là cứ mỗi
khóa lễ, ngoài phần dẫn nhập và phần kết thúc, ta tụng một bài Kinh
chính. Trong khóa lễ kế tiếp, ta tụng bài Kinh kế tiếp. Mười một bài
kinh khác nhau có thể được luân phiên tụng niệm cho mười một thời
kinh.
Đối với khóa lễ cầu nguyện thế giới hòa bình, nước
nhà hưng thạnh thì nên tụng một trong bốn Kinh sau đây: Kinh Từ
Tâm, Kinh Phước Đức, Kinh Thiện Sanh hay Kinh Người Cư Sĩ Tại
Gia.
Đối với khóa lễ cầu an cho bệnh nhân ta có thể lần
lượt tụng các Kinh sau đây: Kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm,
Kinh Giáo Hóa Người Bệnh, Kinh Các Pháp Quán Niệm, Kinh Dụ Ngôn Bọt Nước,
Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, Kinh Biết Sống
trong Hiện Tại hay Kinh Người Cư Sĩ Tại Gia.
Đối với khóa lễ an vị Phật hay lễ khai trương
hay lễ khánh thành thì tụng Kinh Từ Tâm và Kinh Phước Đức.
Đối với khóa lễ cầu an cho cơ quan, xí nghiệp, hội
đoàn và chợ thì nên tụng một trong các Kinh sau đây: Kinh Thiện
Sanh, Kinh Từ Tâm, Kinh Phước Đức hay Kinh Người Cư Sĩ
Tại Gia.
2. Khóa lễ kinh cầu siêu chủ yếu tụng vào các dịp
lễ tang, cúng thất, cúng giổ, cúng cô hồn, cúng cầu siêu cho hương linh
chết oan, chết tự vẫn, chết bất đắc kỳ tử… mà chưa thác sanh được
do nghiệp chướng và thiếu sự gia trì của ba Ngôi Báu. Kinh cầu siêu, cũng
như kinh cầu an, ngoài nghi thức dẫn nhập và phần sám nguyện và hồi hướng,
gồm có sáu Kinh khác nhau nhằm đáp ứng cho các căn cơ đối tượng khác
nhau. Tùy theo đối tượng hương linh và tang quyến mà ta nên chọn Kinh nào
tụng cho thích hợp với từng khóa lễ.
Ví dụ, đối với hương linh đã từng quy y Tam Bảo,
chuyên niệm Phật cầu vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A-di-đà
thì ta nên tụng Kinh Thế Giới Cực Lạc.
Đối với hương linh và tang quyến chưa quy y Tam Bảo, chưa
thấu rõ ba quy luật của mọi sự vật hiện tượng là vô thường, khổ não
và vô ngã hay quá bi lụy đau thương về sự sinh ly tử biệt mà trở nên
bi quan yếm thế thì ta nên tụng các kinh như Kinh Qui Luật Cái Chết,
Kinh Nhổ Lên Mũi Tên Sầu Muộn hay Kinh Vô Thường-Khổ Não-Vô
Nga宠
Đối với hương linh và tang quyến chưa tường tận về giáo
lý nghiệp báo và tái sanh của đạo Phật thì ta nên tụng Kinh Cúng Thí
Người Mất và Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh.
Việc tụng kinh phù hợp với căn cơ của hương linh và
tang quyến sẽ giúp cho kẻ còn lẫn người mất được nhiều lợi lạc.
Tuy nhiên, chúng ta nên linh động trong việc chọn kinh nào thật sự thích hợp
để tụng, không nhất thiết phải y theo hoàn toàn hướng dẫn có tính
cách đề nghị trên đây. Do đó, chúng ta có thể luân phiên tụng một
trong sáu Kinh để giúp cho hương linh và tang quyến biết rõ được toàn bộ
lời dạy của Phật về quy luật vô thường, sanh tử và tái sanh. Được
như vậy thì lợi lạc sẽ nhiều hơn.
II. Trình Tự
Nghi Thức
Trình tự nghi thức của cả
hai khóa lễ cầu an và cầu siêu bao gồm ba phần:
- Phần thứ nhất là nghi thức dẫn nhập khóa lễ.
- Phần thứ hai là phần kinh chi
鮨 và,
Phần thứ ba là phần sám nguyện và hồi hướng.
Chi tiết và trình tự của các phần này được trình bày
rõ ở trang trước của khóa lễ cầu an và cầu siêu. Phần thứ nhất và
phần thứ ba là nghi thức bắt buộc mà người tụng niệm phải cố gắng
tụng niệm cho đầy đủ. Riêng phần thứ hai là phần kinh chính, ta có thể
tụng một hay nhiều kinh tùy theo sở thích và thời gian cho phép hoặc ta
có thể tụng theo thứ tự trước sau hoặc chọn lựa kinh tụng sao cho phù
hợp với căn cơ đối tượng. Người tụng niệm nên đọc kỹ các hướng
dẫn được phụ chú dưới các phần thuộc nghi thức dẫn nhập và kết
thúc khóa lễ để việc tụng niệm Pháp Bảo được lợi lạc nhiều hơn.
III. Cách Đánh
Mõ và Điểm Chuông
1. Ký hiệu được sử dụng
Ký hiệu O chỉ cho Chuông;
ký hiệu C chỉ cho "nhắp chuông" (nhắp dùi chuông vào vành chuông
để báo hiệu rằng sẽ có một tiếng chuông được vọng lên) và ký hiệu
M chỉ cho Mõ.
2. Cách vào
chuông mõ
C O O O M M M MM M M,
O M,
O M,
O M MM M C.
3. Cách phối
hợp chuông, mõ, khánh và lời tụng
Sau tiếng nhắp chuông của
vị duy-na, vị chủ lễ bắt đầu xướng tụng. Chủ lễ xướng hết chữ
thứ hai thì đại chúng mới bắt đầu hòa theo và cùng tụng. Chữ đầu và
chữ thứ ba của đoạn do chủ lễ khởi xướng thì không có nhịp mõ. Nhịp
mõ được gõ vào nhịp chữ thứ hai và thứ tư. Nghĩa là tiếng mõ thứ
nhất sẽ đi với chữ (tiếng) kinh thứ hai, tiếng mõ thứ hai sẽ đi với
chữ (tiếng) kinh thứ tư. Sau đó, cứ mỗi chữ thì có một nhịp mõ cho
đến hết một bài kinh. Riêng chữ (tiếng) kinh áp chót thì gõ hai nhịp
mõ liền nhau và chữ (tiếng) kinh cuối thì một tiếng mõ dứt. Cứ như vậy,
chúng ta tụng hết thời kinh.
Đối với bài sám nguyện trước bài hồi hướng, ta có thể
phối hợp mõ với khánh. Tiếng mõ đầu sẽ đi với chữ kinh thứ hai, tiếng
khánh đầu sẽ đi với chữ kinh thứ ba. Sau đó, một chữ tiếng mõ, một
chữ tiếng khánh, cứ như vậy phối hợp mõ và khánh tụng cho hết bài
sám. Phần kết thúc bài sám như sau: chữ áp chót của bài sám sẽ đi kèm
với hai tiếng mõ liền nhau hơi nhanh và chữ cuối sẽ đi kèm với một tiếng
mõ; trong khi từ chữ áp chót của bài sám, khánh được đánh theo hồi, từ
bảy đến mười nhịp, khoảng cách của các nhịp khít dần đều và âm
thanh của các nhịp nhỏ dần đều.
4. Cách đánh
mõ và điểm chuông
Ngoài mục đích tạo trường
canh và nhạc điệu cho các khóa lễ, mõ và Chuông còn có tác dụng thức tỉnh
người đọc. Để các tác dụng này được phát huy triệt để, mõ phải
được đánh đều đặn, nhịp nhàng, chậm rãi; không được đánh quá mạnh
hay quá nhẹ để tránh trường hợp tiếng lớn, tiếng nhỏ làm mất trang
nghiêm khóa lễ và khó đọc tụng cho đều. Chuông được điểm ngân nga
sau các đoạn hay câu có ký hiệu O, cốt để đưa người đọc tụng trở
về với thực tại, lắng niệm và ghi nhớ sâu lời Phật dạy.
IV. Cách Thức
Tụng Niệm
Phần nghi thức dẫn nhập
và nghi thức sám nguyện và hồi hướng được tụng niệm bình thường
như các khóa lễ truyền thống xưa nay. Phần chánh Kinh phải được đọc
một cách chậm rãi, rõ ràng theo nhịp trường canh của mõ. Để người đọc
tụng và người nghe dễ hiểu và được lợi lạc, người đọc nên ngừng
hai hoặc ba nhịp không tụng, sau mỗi dấu chấm câu hoặc sang hàng hay hết
một đoạn, trong khi mõ vẫn được gõ đều. Tụng như vạthì nghĩa lý
kinh sẽ được rõ ràng, người đọc đỡ mệt sức do quá cố gắng, nhất
là, tránh được sự ngắt nhịp tùy tiện.
Trong khi tụng niệm, đừng quá chú trọng tới kỷ thuật
tán tụng, mặc dù kỷ thuật này có thể giúp cho người tụng lẫn người
nghe dễ lắng tâm và phát khởi niềm tin. Nội dung và ý tưởng của
kinh là phần ‘cốt lõi nhất’ mà ta cần phải chú tâm thật sâu thì mới
có thể lãnh hội hoàn toàn. Do đó, chỉ chú trọng đến ‘kỷ thuật tụng
hay’ mà không nắm bắt được ý kinh thì việc tụng kinh có thể trở
nên vô ích và mất thời giờ. Người tụng phải chú tâm hoàn toàn vào
nghĩa lý của kinh, tư duy và liên tưởng về nghĩa lý đó, để hiểu rõ lời
dạy của Đức Phật (tụng kinh giả minh Phật chi ly 马 rồi ứng dụng sự hiểu biết đó vào cuộc sống hằng
ngày. Chính sự ứng dụng lời kinh vào cuộc sống mới thật sự đem lại
phước báu, an lạc và giải thoát cho chúng ta. Do đó, ta không nên chỉ tụng
niệm bằng miệng mà còn phải tụng niệm bằng tâm. Tụng niệm
bằng tâm thì ta mới tránh được thái độ tụng niệm như để trả bài
cho Phật hay như một cái máy lặp, chỉ phát ra âm thanh về chánh pháp nhưng
không phát khởi được niềm tin chân chánh cũng như sự hiểu biết và
thái độ quyết chí hành trì chánh pháp ấy. Tụng niệm bằng tâm thì ngay
khi tụng niệm, chúng ta đang an trú trong từng giây phút của trạng thái định
và đây là nền tảng để trí tuệ vô lậu, giải thoát phát sanh. Như vậy,
trong một hành vi tụng niệm bằng tâm, ba trạng thái giới định huệ đã
có thể hội đủ nhờ vào thái độ chuyên chú để tìm ra lý đạo.
Tụng niệm như vậy, người tụng và người nghe, kẻ thác
và người còn đều được lợi lạc.
Kính mong các bậc thức giả hãy siêng năng tụng niệm và
thực hành lời Phật dạy để chân lý của Đức Phật trở thành máu huyết
cho sự sống của chúng ta!
- Chùa Giác Ngộ
- Mùa An Cư 1998
- Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
- Kính ghi
|
|