- Nghi Thức Cầu An
- Thích Nhật Từ tuyển chọn và biên tập 1994
8
KINH BỐN LÃNH VỰC
QUÁN NIỆM
Tôi đã nghe như sau: Hồi
đó đức Phạⴠở tại ấp phố Kam-mat-sa-đam-ma, thuộc xứ Kuru. Một hôm,
đức Thế Tôn bảo các thầy tỳ-kheo rằng: O
- Có một con đường có thể giúp
chúng sanh thực hiện được thanh tịnh, vượt được lo lắng sợ hãi, diệt
trừ được khổ não, chấm dứt được khóc than và đạt tới chánh pháp.
Con đường ấy là con đường an trú trong bốn lãnh vực quán niệm.
O
Các đức Như Lai thời quá khứ và thời tương lai đã từng
và sẽ đạt tới quả vị Chánh giác, không còn vướng mắc vào bất cứ
gì, đó cũng là nhờ lập tâm an trú trong bốn lãnh vực quán niệm. Nương
theo bốn lãnh vực quán niệm, các Ngài đã và sẽ đoạn trừ được năm
sự ngăn che, thanh lọc được những cấu uế của tâm thức, vượt được
tình trạng ốm yếu của tuệ giác, tu tập theo bảy yếu tố giác ngộ và
đạt tới quả vị giác ngộ chân chính cao nhất. Các đức Như Lai của thời
hiện tại như Ta đây, sở dĩ đạt tới được quả vị Chánh giác, không
còn vướng mắc vào bất cứ gì, cũng là nhờ lập tâm an trú trong bốn
lãnh vực quán niệm. Nương theo bốn lãnh vực quán niệm, Ta và các đức
Như Lai đã đoạn được năm sự ngăn che, thanh lọc được cấu uế của
tâm thức, vượt được tình trạng ốm yếu của tuệ giác , tu tập theo bảy
yếu tố giác ngộ và đạt tới quả vị giác ngộ chân chính cao nhất. O
Bốn lãnh vực an trú trong quán niệm là: phép quán thân như
thân, quán cảm thọ như cảm thọ, quán tâm như tâm và quán pháp như pháp.
Đây là cách
an trú trong phép quán thân như thân:
Vị
hành giả đi biết là mình đi, đứng biết là mình đứng, ngồi biết là
mình ngồi, nằm biết là mình nằm, đi ngủ biết mình đi ngủ, thức giấc
biết mình thức giấc. Như thế vị hành giả quán thân như thân, bên trong
cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy,
có sáng, có đạt, đó gọi là quán thân như thân.
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân bằng cách có
ý thức rõ ràng về những tư thế và động tác của thân thể như đi ra
đi vào, cúi xuống, ngửng lên, duỗi ra, co vào. Khi mặc y áo, khi cầm y
bát, khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi nói năng, khi im lặng, vị ấy đều biết
phát khởi ý thức một cách khéo léo, thiết lập chánh niệm nơi thân, có
biết, có thấy, có sáng, có đạt, đó gọi là quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân mỗi khi thấy
phát sinh một tâm niệm ác, bất thiện, liền sử dụng một tâm niệm thiện
để đối trị, tiêu diệt và đoạn dứt tâm niệm ác kia. Như một người
thợ môgiăng sợi dây mực theo thanh gỗ và dùng một lưỡi rìu bén đẽo
cho thanh gỗ ngay thẳng; vị hành giả khi thấy một niệm ác sinh khởi liền
sử dụng một niệm lành để đối trị, tiêu diệt và cắt dứt niệm ác
kia. Như thế vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên
ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt.
Đó gọi là quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân: ngậm khít hai
hàm răng lại, lưỡi áp vào nóc họng, lấy tâm mà chế ngự tâm, đối trị
tâm, tiêu diệt và đoạn dứt tâm. Như hai người lực sĩ nắm lấy một
người sức yếu, chế ngự hoàn toàn người này một cách tự do. Như thế,
vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập
chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là
quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân khi thở vào biết
là mình đang thở vào, khi thở ra biết là mình đang thở ra, khi thở vào một
hơi dài biết là mình đang thở vào một hơi dài, khi thở ra một hơi dài
biết là mình đang thở ra một hơi dài, khi thở vào một hơi ngắn biết là
mình đang thở vào một hơi ngắn, khi thở ra một hơi ngắn biết là mình
đang thở ra một hơi ngắn, có ý thức về toàn thân trong khi thở vào, có
ý thức về toàn thân trong khi thở ra, có ý thức là mình đang làm dừng lại
những vận hành của thân thể khi thở vào, có ý thức là mình đang làm dừng
lại những vận hành của thân thể khi thở ra. Như thế, vị hành giả
quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi
thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả
quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân, nhờ xa lìa nếp
sống ngũ dục mà niềm hỷ lạc được phát sinh và thấm nhuần đầy dẫy
trong châu thân. Trong thân thể này, niềm hỷ lạc do sự xa lìa mà phát
sinh ấy không chỗ nào là không phổ biến; như một người tắm, sau khi bỏ
bột tắm vào chậu, nhồi bột tắm ấy vào nước, cho đến khi cục bột
tắm không có chỗ nào là không thấm nhuần chất nước. Vị hành giả cảm
thấy niềm vui do sự xa lìa mà phát sinh đầy dẫy trong châu thân mình,
không chỗ nào là không thấm nhuần. Như thế, vị hành giả quán thân như
thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết,
có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân.
O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân, thấy niềm
hoan hỷ do định phát sinh thấm nhuần đầy dẫy trong châu thân mình. Trong
thân thể này, niềm hoan hỷ ấy do định phát sinh không chỗ nào không phổ
biến. Như một dòng suối trong núi, trong sạch không ô nhiễm, chảy ra đầy
dẫy khắp cả bốn mặt; những nơi không có nẻo để nước chảy vào
thì nướ飠của dòng suối ấy từ dưới
phun lên, thấm nhuần núi non, không chỗ nào là nước không chảy đến.
Cũng như thế, niềm hoan hỷ do định phát sinh thấm nhuần vào toàn châu
thân của vị hành giả, không chỗ nào là không phổ biến. Như thế, vị
hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập
chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị
hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân, thấy niềm
hoan lạc phát sinh do sự vắng mặt của hoan hỷ được thấm nhuần đầy
dẫy trong tự thân. Trong thân thể của vị hành giả này không có chỗ
nào là niềm an lạc phát sinh ra do sự vắng mặt của hoan hỷ ấy không thấm
nhuần đầy dẫy, như các loại sen xanh, sen hồng, sen đỏ, sen trắng sinh
ra từ trong nước, lớn lên từ trong đáy nước, rễ sen, ngó sen, lá sen,
hoa sen đều thấm nhuần chất nước, không có chỗ nào là nước không thấm
nhuần. Như thế, vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên
ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt.
Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân lấy tâm thanh tịnh
và sự lý giải của mình mà bao trùm cả thân thể mình, làm cho toàn thân
không có chỗ nào không được bao trùm bởi tâm thanh tịnh ấy; cũng như một
người choàng lên một cái áo dài tới bảy hoặc tám sải, từ đầu tới
chân, không chỗ nào mà thân thể không được chiếc áo bao phủ. Như thế,
vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập
chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị
hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân quán niệm về
sự quang minh, biết tiếp nhận, hành trì và tưởng nhớ đến sự quang
minh, từ trước ra sau cũng vậy, từ sau ra trước cũng vậy, từ ngày đến
đêm cũng vậy, từ đêm đến ngày cũng vậy, từ dưới lên trên cũng vậy,
từ trên xuống dưới cũng vậy, tâm không điên đảo, không bị ràng buộc,
tu tập theo pháp môn về quang minh, rốt cuộc tâm sẽ không bị ám chướng
che lấp. Như thế, vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên
ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt.
Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân biết khôn khéo
tiếp nhận quán tướng, biết khôn khéo duy trì đối tượng quán niệm, như
một người đang ngồi quán sát một người đang nằm hay một người đang
nằm quán sát một người đang ngồi. Như thế, vị hành giả quán thân như
thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết,
có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân.
O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân biết rõ thân
này chỉ tồn tại tùy thuộc theo giá trị thật của những yếu tố cấu
tạo nên nó, từ đỉnh đầu tới gót chân, thấy toàn là những yếu tố
bất tịnh. Trong thân thể này của ta có tóc, lông, móng tay, răng, da thô,
da mịn, thịt, gân, xương, trái tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non,
mật, bao tử, phân, óc, màng óc, nước mắt, mồ hôi, đàm, nước bọt, mủ,
máu, mỡ, tủy, bong bóng, nước tiểu… Như một cái thùng đựng đầy các
loại hạt giống, người có mắt thì có thể thấy được rõ ràng đây
là hạt lúa, đây là hạt kê, đây là hạt cải… Vị hành giả theo dõi
thân này, biết rõ thân này chỉ tồn tại tùy thuộc theo giá trị thật của
những yếu tố tạo nên nó, từ đỉnh đầu tới gót chân, thấy toàn là
những yếu tố bất tịnh. Như thế, vị hành giả quán thân như thân, bên
trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy,
có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân quán sát những
yếu tố cấu tạo nên thân. Trong thân thể của ta đây có yếu tố đất,
có yếu tố nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió, có yếu tố hư không,
có yếu tố tâm thức. Cũng như một người đồ tể, sau khi đã giết con
bò và lột da nó, đem bày thịt bò ra trên đất thành sáu phần, vị hành
giả cũng quán sát sáu yếu tố tạo nên cơ thể của mình như thế. Trong
thân thể của ta, đây là yếu tố đất, đây là yếu tố nước, đây là
yếu tố lửa, đây là yếu tố gió, đây là yếu tố hư không, đây là yếu
tố tâm thức. Như thế, vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng
như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có
sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân lại quán thân
người chết, sau một hoặc hai ngày cho đến sáu bảy ngày, bị diều quạ
mổ rút, bị lang sói xé ăn, sau khi được hỏa thiêu hay chôn vùi dưới đất
thì bị hoặc sình thối hoặc mục nát… Vị hành giả ấy thấy như thế
rồi tự so sánh với thân thể mình: thân thể của ta đây rồi cũng sẽ
như thế, cũng sẽ trải qua những giai đoạn như thế, rốt cuộc không thể
tránh thoát được. Như thế, vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng
như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có
sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân trong khi quán niệm
thấy được một bộ xương sắc xanh, mục nát, bị gặm nhấm nửa chừng,
nằm một đống trên mặt đất. Thấy như thế, vị ấy tự so sánh với
thân thể mình: thân thể ta đây rồi cũng sẽ như thế, cũng sẽ trải qua
những giai đoạn như thế, rốt cùng không thể tránh thoát được. Như thế,
vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập
chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó頧ọi là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân khi quán niệm
thấy được một thi hài không có da, thịt, máu, huyết, các khúc xương chỉ
còn dính vào nhau bằng những sợi gân. Thấy như thế vị ấy tự so sánh
với thân thể mình: thân thể ta đây rồi cũng sẽ như thế, cũng sẽ trải
qua những giai đoạn như thế, rốt cùng không thể tránh thoát được. Như
thế, vị hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết
lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi
là vị hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân trong khi quán niệm
thấy được các khúc xương phân tán mỗi khúc một phía, xương chân, xương
ống chân, xương đùi, xương chậu, xương sống, xương vai, xương cổ, đầu
lâu… mỗi thứ một nơi. Thấy như thế vị ấy tự so sánh với thân thể
mình: thân thể ta đây rồi cũng sẽ như thế, cũng sẽ trải qua những
giai đoạn như thế, rốt cùng không thể tránh thoát được. Như thế, vị
hành giả quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập
chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị
hành giả quán thân như thân. O
Lại nữa, vị hành giả quán thân như thân trong khi quán niệm
thấy được những khúc xương trắng như vỏ ốc, xanh như chim bồ câu, đỏ
như phết màu, hư hoại và nát vụn ra như bột. Thấy như thế vị ấy tự
so sánh với thân thể mình: thân thể ta đây rồi cũng sẽ như thế, cũng
sẽ trải qua những giai đoạn như thế, rốt cùng không thể tránh thoát
được.
Các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiện nam và tín nữ quán
thân như thân theo những chỉ dẫn chi tiết ấy thì họ là những người
an trú trong phép quán thân như thân. O
Đây là cách
an trú trong phép quán cảm thọ trong cảm thọ:
Vị hành giả khi có một lạc thọ liền biết là
mình đang có một lạc thọ, khi có một khổ thọ liền biết là mình đang
có một khổ thọ, khi có một xả thọ liền biết là mình đang có một xả
thọ. Khi có một lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ trong thân thể; một lạc
thọ, khổ thọ hay xả thọ trong tâm ý; một lạc thọ,hổ thọ hay xả
thọ thuộc thế gian hayhông thuộc thế gian; một lạc thọ, khổ thọ
hay xả thọ về ham muốn hay không thuộc về ham muốn, vị ấy đều biết
rõ. Như vậy, vị hành giả quán cảm thọ như cảm thọ, trong cũng như ngoài,
thiết lập chánh niệm nơi cảm thọ, có biết, có thấy, có sáng, có đạt.
Đó gọi là vị hành giả quán cảm thọ như cảm thọ. O
Nếu có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiện nam và tín nữ
quán cảm thọ như cảm thọ theo những chỉ dẫn chi tiết ấy thì họ là
những người an trú trong phép quán cảm thọ như cảm thọ. O
Đây là cách
an trú trong phép quán tâm thức như tâm thứ
飺 Vị hành giả khi có hay không có tâm ý tham dục biết
là mình có hay không có tâm ý tham dục; khi có tâm ý giận dữ, tâm ý
không giận dữ, tâm ý si mê, tâm ý không si mê, tâm ý ô nhiễm, tâm ý
không ô nhiễm, tâm ý hợp nhất, tâm ý tán loạn, tâm ý hạ liệt, tâm ý
cao thượng, tâm ý nhỏ mọn, tâm ý rộng rãi, tâm ý tu tập, tâm ý không
tu tập, tâm ý định, tâm ý bất định, tâm ý giải thoát, tâm ý không giải
thoát… vị ấy đều có ý thức rõ ràng. Như vậy, vị hành giả quán
tâm như tâm, trong cũng như ngoài, thiết lập chánh niệm tại tâm, có biết,
có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán tâm như tâm. O
Nếu có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiện nam và tín nữ quán
tâm như tâm theo những chỉ dẫn chi tiết ấy thì họ là những người an
trú trong phép quán tâm thức như tâm thức. O
Đây là cách
an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thứ
飠như đối tượng tâm thức: Vị hành giả thấy khi con mắt tiếp xúc với sắc
trần mà có hay không có phát sinh nội kết thì biết đích thực là có hay
không có nội kết; nếu chưa có nội kết mà phát sinh ra nội kết thì vị
ấy cũng biết; nếu nội kết đã sinh mà bây giờ tiêu diệt không phát
sinh nữa thì vị ấy cũng biết. Đối với các giác quan khác như tai, mũi,
lưỡi, thân và ý cũng vậy. Khi những giác quan ấy tiếp xúc với các đối
tượng của chúng mà bên trong có hay không có phát sinh nội kết thì biết
đích thực là có hay không có nội kết; nếu chưa có nội kết mà phát
sinh ra nội kết thì vị ấy cũng biết; nếu nội kết đã sinh mà bây giờ
tiêu diệt không phát sinh nữa thì vị ấy cũng biết. Như vậy, vị hành
giả quán pháp như pháp, trong cũng như ngoài, thiết lập chánh niệm tại
pháp, có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả
quán pháp như pháp. O
Nếu có các vị hành giả quán pháp như pháp theo những chỉ
dẫn chi tiết ấy thì họ là những người biết an trú trong phép quán đối
tượng tâm thức như đối tượng tâm thức trong phạm vi sáu loại nhận
thức. O
Lại nữa, vị hành giả quán pháp như pháp, nếu thấy ở
nội tâm có hay không có ái dục thì đích thực biết đó là có hay không
có ái dục, ái dục chưa sinh mà bây giờ phát sinh thì cũng đích thực biết
như thế, ái dục đã sinh mà bây giờ tiêu diệt thì cũng đích thực biết
như thế. Đối với bốn thứ ngăn che khác là giận dữ, hôn trầm, trạo
cử và hối tiếc cũng thế. Khi trong nội tâm có hay không có nghi ngờ thì
đích thực biết là có hay không có nghi ngờ, nghi ngờ chưa sinh mà bây giờ
phát sinh thì cũng đích thực biết như thế, nghi ngờ đã sinh mà bây giờ
tiêu diệt thì cũng đích thực biết như thế. Như thế, vị hành giả
quán pháp như pháp, trong cũng như ngoài, thiết lập chánh niệm nơi pháp,
có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là vị hành giả quán pháp
như pháp trong phạm vi năm thứ ngăn che. O
Lại nữa, vị hành giả quán pháp như pháp khi thấy trong nội
tâm có hay không có yếu tố giác ngộ do niệm thì đích thực biết có hay
không có yếu tố giác ngộ do niệm, khi yếu tố niệm chưa phát sinh mà
bây giờ phát sinh thì cũng đích thực biết như thế, khi yếu tố niệm đã
sinh rồi mà bây giờ đang tồn tại không mất mát, không suy thoái lại
còn thêm lớn thì cũng đích thực biết như vậy. Đối với các yếu tố
giác ngộ khác như chọn pháp môn, tinh tiến, hoan hỷ, nhẹ nhõm, tập trung
(định) cũng thế. Nội tâm có hay không có yếu tố buông xả thì đích
thực biết là có hay không có yếu tố buông xả, yếu tố giác ngộ do
buông xả chưa phát sinh mà bây giờ phát sinh thì cũng đích thực biết như
thế, yếu tố giác ngộ do buông xả đã phát sinh rồi mà bây giờ đang tồn
tại không mất mát, không suy thoái lại còn thêm lớn thì cũng đích thực
biết như vậy. Như thế, vị hành giả quán pháp như pháp, trong cũng như
ngoài, thiết lập chánh niệm nơi pháp, có biết, có thấy, có sáng, có đạt.
Đó là vị hành giả quán pháp như pháp trong phạm vi bảy yếu tố giác ngộ.
O
Nếu các vị hành giả nào biết quán pháp như theo những
chỉ dẫn chi tiết ấy thì họ là những người biết an trú trong phép
quán pháp như pháp.
Vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nào mà trong bảy
năm lập tâm an trú trong bốn lãnh vực quán niệm này sẽ tất nhiên chứng
đắc được hai thứ quả vị, hoặc hiện tiền chứng đắc được trí tuệ
cứu cánh, hoặc chứng đắc quả hữu dư A-na-hàm. O
Đừng nói gì bảy năm, hoặc sáu năm, năm năm, bốn năm,
ba năm, hai năm hay một năm; vị hành giả nào trong bảy tháng, sáu tháng, năm
tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, hay một tháng; thậm chí chỉ trong bảy
ngày bảy đêm hay một ngày một đêm mà lập tâm an trú trong bốn lãnh vực
quán niệm thì nếu buổi mai bắt đầu thực tập buổi chiều đã có thể
thấy sự thăng tiến, buổi chiều bắt đầu thực tập thì buổi tối đã
có thể thấy được sự thăng tiến.
Khi nghe Đức Phật dạy như thế, toàn thể đại chúng đều
vui mừng chưa từng có và hoan hỷ phụng hành. OOO