- TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT
- THE TIBETAN BOOK OF LIVING
AND DYING
Sogyal Rinpoche
17- Tia sáng nội tại
Khi Ánh
sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết, một hành giả có kinh nghiệm sẽ duy
trì sự tỉnh giác trọn vẹn và hội nhập với ánh sáng ấy, nhờ thế đạt
giải thoát. Nhưng nếu chúng ta không nhận ra Ánh sáng Căn bản thì ta sẽ
chạm mặt với Bardo kế tiếp, đó là Bardo của pháp tánh.
Giáo lý về Bardo của pháp tánh là một giáo lý rất đặc biệt của
Dzogchen qua nhiều thế kỷ. Lúc đầu tôi ngần ngại không dám trình bày
công khai giáo lý thiêng liêng này, và quả thực tôi đã không làm nếu
không có người đi trước. Tử Thư Tây Tạng và một số sách nói về Bardo
của pháp tánh đã được xuất bản, và đã đưa đến những kết luận
ngây ngô. Bởi thế tôi thấy thực quan trọng, và đã đến lúc nên có một
giải thích rõ về Bardo này đúng như nghĩa chân thực của nó. Có lẽ
tôi cũng nên nhấn mạnh rằng tôi chưa đi vào chi tiết về những pháp tu
cao cấp bao hàm trong đó, mà pháp nào cũng cần phái có thầy, và sự liên
hệ với bậc thầy ấy phải được giữ thật hoàn toàn trong sáng.
Tôi đã thu thập tuệ giác từ nhiều
nguồn để viết chương này - mà tôi cho là một trong những chương quan trọng
nhất của quyển sách - càng sáng sủa càng hay. Tôi hy vọng nhờ đấy mà
một vài người trong các bạn có thể liên lạc với giáo lý phi thường này,
và được cảm hứng để tra tầm thêm, và khởi sự tu tập.
Bốn giai đoạn của pháp tánh
Phạn ngữ Dharmata. Tạng ngữ Cho
nyi, nghĩa là bản chất nội tại của mọi sự vật, tinh yếu của các
pháp. Pháp tánh là sự thật nguyên vẹn, vô điều kiện, bản chất của
thực tại, hay thật tánh của hiện tượng giới. Những gì chúng ta đang bàn
là toàn thể căn bản để hiểu tự tánh của tâm và bản chất của vạn
sự vạn vật.
Sự chấm dứt tiến trình tan rã
và xuất hiện Ánh sáng Căn bản đã mở ra một chiều không gian hoàn toàn
mới mẻ, bây giờ bắt đầu phơi bày. Một cách giản dị để giải thích
điều này là so sánh với cách đêm chuyển thành ngày. Giai đoạn cuối của
tiến trình tan rã khi chết là kinh nghiệm màu đen của giai đoạn “thành
tựu”. Nó được mô tả “giống như bầu trời trùm trong màn đêm u tối"
. Sự sinh khởi Ánh sáng Căn bản là như ánh sáng trong bầu trời trống rỗng
không mây ngay trước lúc bình minh. Bây giờ, dần dần mặt trời pháp
tánh bắt đầu lên cao trong vẻ tráng lệ huy hoàng của nó, thắp sáng mọi
đường cong của trái đất ở mọi hướng. Tia sáng tự chiếu của tự
tánh Rigpa xuất hiện một cách tự nhiên và tỏa ra thành ánh sáng và năng
lượng.
Cũng như mặt trời lên trong bầu
trời trong sáng trống rỗng, sự xuất hiện ánh sáng của Bardo pháp
tánh cũng sẽ nổi lên từ không gian lan khắp của Ánh sáng Căn bản. Cái
tên chúng ta đặt cho sự trình diễn âm thanh, ánh sáng và màu sắc này là
"hiện diện tự nhiên" , vì nó vẫn luôn luôn hiện diện trong
tâm, trong sự "trong sáng nguyên ủy", mà vốn là nền tảng của
nó.
Ðiều thực sự xảy ra là một tiến
trình hiển bày, trong đó tâm và bản chất căn để của nó dần dần trở
nên rõ rệt hơn. Bardo pháp tánh là một giai đoạn trong tiến trình
ấy. Vì chính qua bối cảnh ánh sáng và năng lượng này mà tâm hiển thị
trạng thái thuần tịnh nhất của nó. Ánh sáng Căn bản, để tiến đến
sự hiển hiện của nó thành hình dạng trong Bardo kế tiếp, nghĩa là
Bardo của tái sanh.
Tôi nhận thấy một điều rất đáng
chú ý là vật lý học tân thời cũng đã chứng minh rằng khi tra tầm vật
chất đến chỗ cùng cực thì nó được hiển bày dưới dạng một biển
năng lượng và ánh sáng. "Dường như thể vật chất là ánh sáng được
cô đọng lại, được làm cho đông lại... tất cả vật chất là một kết
tinh của ánh sáng thành những mẫu mực di chuyển qua lại trung bình chậm
hơn tốc độ ánh sáng", nhà vật lý David Bohm nhận xét. Vật lý học
tân thời cũng hiểu về ánh sáng trong nhiều phương diện : “Nó đồng thời
là năng lượng và cũng là thông tin - nội dung, hình dáng, cơ cấu. Nó là
tiềm năng của mọi sự" .
Bardo pháp tánh có 4 giai đoạn,
mỗi giai đoạn trình bày một cơ hội khác nữa để giải thoát. Nếu cơ
hội này không được bắt lấy, thì giai đoạn kế tiếp sẽ mở ra. Sự
giải thích mà tôi làm ở đây về Bardo này bắt nguồn từ mật điển
Dzogchen, trong đó nói chỉ nhờ pháp tu cao cấp đặc biệt gọi là Togal, người
ta mới có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của Bardo pháp tánh. Bởi
thế, Bardo pháp tánh này ít nổi bật trong các giáo lý về sự chết
trong truyền thống Tây Tạng. Ngay cả trong Tử Thư Tây Tạng, vốn cũng thuộc
giáo lý Dzogchen, chuỗi liên tục 4 giai đoạn này cũng chỉ nói mơ hồ, hầu
như hơi ẩn mật, và không xuất hiện trong một cơ cấu trật tự rõ
ràng.
Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng
danh từ chỉ có thể cho một vài hình ảnh khái niệm về những gì có thể
xảy ra trong Bardo pháp tánh mà thôi. Những hình ảnh của Bardo
này vẫn chỉ là khái niệm, khi mà hành giả chưa kiện toàn pháp môn
Togal. Khi đã kiện toàn pháp tu ấy thì những gì tôi nói sau đây sẽ trở
thành một kinh nghiệm cá nhân không thể chối cãi. Ðiều mà tôi cố
trình bày ở đây chỉ là để cho bạn biết về hiện hữu của một chiều
không gian kỳ diệu như vậy, và để hoàn tất sự mô tả của tôi về
các cõi Trung Ấm. Tôi cũng hy vọng sâu xa rằng sự mô tả đầy đủ này
có lẽ sẽ giúp nhắc nhở bạn phần nào, khi bạn kinh quá tiến trình chết.
1- Quang sắc - Phong cảnh bằng
ánh sáng
Trong Bardo pháp tánh, bạn mang
một cái thân bằng ánh sáng. Giai đoạn đầu của Bardo này là khi
"hư không tan thành ánh sáng" .
Thình lình bạn ý thức đến một
thế giới âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Tất cả những hình dạng quen
thuộc thường ngày đã hòa tan thành một phong cảnh ánh sáng lan khắp.
Ánh sáng này rực rỡ chói chang, trong suốt và nhiều màu, không bị giới
hạn bởi một chiều hướng nào, lóng lánh và luôn luôn chuyển động. Tử
Thư Tây Tạng gọi nó "giống như một ảo giác trên đồng trống trong
hơi nóng mùa hè" . Màu sắc của nó là biểu hiện tự nhiên của thể
tánh tứ đại trong tâm : hư không màu xanh, nước trắng, đất vàng, lửa
đỏ và gió lục.
Những tướng sáng chói chang ấy
trong Bardo pháp tánh an trú lâu mau hoàn toàn tùy thuộc mức độ
an trú của bạn trong pháp môn Togal. Chỉ khi bạn thực sự làm chủ pháp
môn này, bạn mới có thể ổn định kinh nghiệm ấy và xử dụng nó để
đạt giải thoát. Nếu không, Bardo pháp tánh chỉ lóe lên như một làn
chớp, mau đến độ bạn không ngờ nó đã xẹt tới nữa. Tôi lại phải
nhấn mạnh rằng, chỉ một hành giả Togal mới có thể có sự trực nhận
vô cùng quan trọng này, đó là những biểu hiện ánh sáng chói lọi này
không hiện hữu ngoài tự tánh của tâm.
2- Hội nhập - Chư thiên
Nếu bạn không thể nhận ra đấy
là biểu hiện tự nhiên của tự tánh - Rigpa, thì những quang sắc giản
đơn khi ấy khởi sự hòa vào nhau, cô đọng lại thành những điểm sáng
hay những trái cầu bằng ánh sáng đủ cỡ, gọi là tiklé. Trong những
trái cầu sáng này, "những mandala chư thần an lạc và phẫn nộ"
xuất hiện, khi những trái cầu khổng lồ bằng ánh sáng tụ lại, dường
như chiếm trọn cả không gian.
Ðây là giai đoạn thứ hai, gọi là
"ánh sáng tan thành nhất thể", trong đó ánh sáng xuất hiện dưới
hình dạng những đức Phật hay chư thiên đủ cỡ, đủ màu sắc hình dạng,
cầm những đồ phụ tùng khác nhau. Ánh sáng họ chiếu ra thật chói chang
làm lòa mắt, âm thanh thì ghê rợn như ngàn tiếng sấm sét nổi lên, còn
những tia sáng thì như những tia laser đâm thủng mọi sự.
Ðấy là "42 thần an lạc và 58
thần phẫn nộ" mô tả trong Tử Thư Tây Tạng. Những vị này xuất hiện
trong giai đoạn vài "ngày", ở trong những mandala đặc biệt của họ
gồm từng nhóm năm. Hình ảnh này chiếm trọn bầu trời bên trong tâm thức
bạn, với một cường độ mãnh liệt mà nếu bạn không thể nhận ra thực
chất của nó, thì nó có vẻ đe dọa ghê gớm. Bạn bị ngốn ngấu trong nỗi
sợ hãi kinh hoàng, và bạn ngất xỉu.
Từ chính bạn và từ những vị thần
ấy, có những chùm tia sáng nhỏ nhiệm tỏa ra, hòa tâm bạn với tâm chư
thiên. Vô số trái cầu sáng xuất hiện trong những tia sáng càng tăng thêm
rồi "cuộn lại", khi tất cả chư thần đều tan vào trong bạn.
3- Tuệ giác
Nếu bạn vẫn chưa nhận ra được
và an trú, thì giai đoạn kế tiếp mở ra, gọi là "nhất thể tan
thành trí tuệ".
Một chùm tia sáng nhỏ nhiệm khác
tuôn phát từ tim bạn và một chùm ảo tượng khổng lồ mở ra ; tuy nhiên
từng chi tiết vẫn sáng sủa rõ ràng. Ðây là sự trình bày những khía cạnh
khác nhau của trí tuệ, hiện ra một lượt dưới dạng những tấm thảm
trải ra bằng ánh sáng và trái cầu sáng rực rỡ.
Ðầu tiên, trên một tấm thảm
ánh sáng màu xanh lục, xuất hiện những trái cầu sáng màu xa-phia xanh, gồm
những nhóm năm. Phía trên đó, trên một thảm ánh sáng trắng, xuất hiện
những trái cầu sáng chói lọi, trắng như pha-lê. Trên nữa, trên một thảm
ánh sáng vàng nhạt, xuất hiện những trái cầu sáng màu vàng ròng, và
trên nữa, một thảm ánh sáng đỏ nâng đỡ những trái cầu sáng đỏ màu
hổ phách. Trên tất cả là một trái cầu ánh sáng rực rỡ như một cái
lọng tỏa ra làm bằng lông chim công.
Sự trình diễn những quang sắc
sáng chói này là biểu hiện của năm trí : pháp giới thể tánh trí, giống
như hư không cùng khắp ; đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu
quan sát trí và thành sở tác trí. Nhưng vì trí Thành sở tác chỉ kiện
toàn được vào lúc giác ngộ, nên nó chưa hiện ra ở đây. Bởi thế mà
không có thảm ánh sáng màu lục và những trái cầu sáng, tuy thế nó nội
tại trong tất cả màu sắc khác. Ðiều được biểu hiện ở đây là tiềm
năng giác ngộ của ta. Thành sở tác trí chỉ xuất hiện khi ta thành Phật.
Nếu bạn không đạt giải thoát
ở đây nhờ an trú không tán loạn vào tự tánh tâm, thì những tấm thảm
ánh sáng và những trái cầu sáng trong đó, cùng với tự tánh bạn, tất
cả sẽ tan vào trong trái cầu sáng như cái lọng lông chim công.
4- Hiện diện tự nhiên
Ðiều này báo hiệu giai đoạn cuối
cùng của Bardo pháp tánh, "trí tuệ tan thành hiện diện tự
nhiên". Bây giờ, toàn thể thực tại trưng ra trong một cuộc trưng bày
vĩ đại. Trước hết, trạng thái thanh tịnh nguyên thủy xuất hiện như một
bầu trời mở rộng không mây, rồi chư thần an lạc và phẫn nộ xuất hiện,
tiếp theo là những cảnh giới chư Phật, và dưới đó là sáu cõi luân hồi.
Tính cách bao la vô hạn của cảnh
tượng này thực hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng thông thường của chúng
ta. Mọi khả tính đều được trình bày : từ trí tuệ và giải thoát cho
đến mê mờ và tái sinh. Ở điểm này, bạn tự thấy mình có những khả
năng nhận thức và trí nhớ sáng suốt. Chẳng hạn, với sự sáng suốt
hoàn toàn, các giác quan không bị trở ngại, bạn sẽ biết các đời trước
và đời sau, thấy suốt tâm địa người khác và có tri kiến về cả sáu
nẻo luân hồi. Trong một thoáng, bạn có thể nhớ lại một cách sống động
tất cả những giáo lý đã được nghe, và cả những giáo lý chưa từng
nghe cũng thức dậy trong tâm bạn.
Toàn thể cảnh tượng này sẽ tan
biến trở lại vào tinh chất sơ nguyên của nó, như một cái lều sụp đổ
khi những sợi dây của nó bị cắt đứt.
*
Nếu bạn có được sự an trú bền vững để nhận ra
những hiện tượng ấy là "tia tự chiếu" từ chính bản tâm Rigpa
của bạn thì bạn sẽ được giải thoát. Nhưng nếu không có kinh nghiệm
của pháp tu Togal, bạn không thể nhìn vào những vị thần "sáng chói
như mặt trời". Thay vì thế, bạn đưa mắt nhìn xuống lục đạo,
theo khuynh hướng tập quán nhiều đời trước. Chính những hình ảnh lục
đạo bạn nhận ra sẽ dụ dẫn bạn trở lại vào lưới mê.
Trong Tử Thư Tây Tạng, những thời
kỳ nhiều "ngày" được dành cho những kinh nghiệm về Bardo
pháp tánh. Ðây không phải là những ngày dương lịch 24 tiếng đồng hồ,
bởi vì trong phạm vi pháp tánh, chúng ta đã hoàn toàn vượt ra ngoài mọi
giới hạn thời - không. Những "ngày" này là "ngày thiền
quán" và ám chỉ thời gian mà chúng ta có thể an trú không tán loạn
trong tự tánh tâm, hay trong trạng thái nhất tâm. Nếu không có sự thực tập
an trú vững vàng trong thiền định thì những ngày ấy có thể ngắn như một
phút, và sự xuất hiện chư thần an lạc và phẫn nộ sẽ mau chóng đến
độ ta không thể ghi nhận được.
Hiểu ngộ pháp tánh
Khi Bardo pháp tánh xuất
hiện cho tôi
Tôi sẽ từ bỏ mọi kinh hoàng sợ
hãi
Vì nhận ra tất cả đều từ tâm
tôi hiển bày
Và biết đấy là xuất hiện tự
nhiên của Trung Ấm
Bây giờ khi đã đạt đến cao điểm
Tôi sẽ không sợ chư thần an lạc
và phẫn nộ sinh khởi từ chính tâm tôi.
Chìa khóa để hiểu Trung Ấm này
là, tất cả mọi kinh nghiệm xảy ra trong đó đều là tia chiếu tự nhiên
của tự tánh tâm. Ðiều đang xảy đến là, những khía cạnh khác nhau của
năng lực giác ngộ của tâm thức đang được phóng thích (khi không còn bị
thân xác trở ngại - DG). Hệt như những tia sáng cầu vồng nhảy múa do một
bình pha-lê chiếu ra chỉ là sự hiển bày tự nhiên của nó, cũng thế những
xuất hiện chói chang của pháp tánh không thể tách rời tự tánh của
tâm. Chúng chính là những biểu hiện tự nhiên của nó. Bởi thế, dù có
những hình ảnh ghê rợn đến đâu, Tử Thư Tây Tạng nói, chúng cũng không
làm gì được bạn hơn là một con sư tử độn bông.
Tuy nhiên, thật không đúng khi gọi
những xuất hiện này là "hình ảnh" hay "kinh nghiệm", vì
hình ảnh, kinh nghiệm tùy thuộc vào một tương quan nhị nguyên giữa chủ
thể nhận thức và đối tượng bị nhận thức. Nếu chúng ta có thể nhận
ra những tướng trạng ấy của Bardo pháp tánh, xem đấy là năng lực
trí tuệ của chính tâm ta, thì khi ấy không có sai khác giữa cái thấy và
cái bị thấy, và đây là một kinh nghiệm về bất nhị. Thể nhập hoàn
toàn vào kinh nghiệm ấy là đạt giải thoát. Vì, như Kalu Rinpoche nói :
"Giải thoát xảy đến vào lúc sau khi chết, khi tâm thức có thể nhận
ra rằng những gì nó kinh nghiệm chỉ là tâm tạo" .
Tuy nhiên, bây giờ khi chúng ta
không còn có nền tảng vật lý hay được bao bọc bởi một thế giới vật
lý, thì những năng lực của tự tánh tâm được giải tỏa trong trạng thái
Trung Ấm có thể trông như vô cùng thực, và dường như có một hiện hữu
khách quan. Chúng dường như hiện hữu trong một thế giới bên ngoài chúng
ta. Và khi không có sự tu tập vững chãi thì ta sẽ không biết đến một
cái gì bất nhị, duy tâm tạo. Một khi chúng ta đã lầm cho những hiện tượng
ấy là tách biệt với ta, là "những hình ảnh bên ngoài" thì
chúng ta sẽ phản ứng lại bằng sợ hãi hoặc hy vọng, và thế là nó dẫn
chúng ta đi vào mê lộ.
Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất
hiện, sự nhận ra được nó là chìa khóa để giải thoát, ở đây cũng
thế, trong Bardo pháp tánh. Nhưng ở đây, chính sự nhận ra “tia tự
chiếu của tính giác Rigpa”, - sự biểu hiện năng lực của tự tánh -
làm nên sự khác biệt giữa giải thoát hay tiếp tục chu kỳ tái sanh do
nghiệp. Lấy ví dụ sự xuất hiện một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ,
xảy ra trong giai đoạn của hai Bardo này. Những vị này gồm chư Phật
thuộc 5 dòng họ, nguyên lý nữ tánh của những vị ấy, chư Bồ-tát nam nữ,
chư Phật trong lục đạo và một số chư thần phẫn nộ và thần hộ mạng.
Tất cả đều xuất hiện giữa ánh sáng chói lọi của năm trí.
Chúng ta phải hiểu những Phật và
Bồ-tát này như thế nào ? - "Mỗi hình dạng thuần tịnh trong đây
tiêu biểu một viễn cảnh giác ngộ của một phần kinh nghiệm bất tịnh
của chúng ta” . Năm vị Phật thuộc dương tánh là khía cạnh thanh tịnh
của năm uẩn làm nên tự ngã. Năm trí của Phật là khía cạnh thanh tịnh
của năm cảm xúc tiêu cực. Năm vị Phật mẫu là những đức tính đại
chủng thanh tịnh thuộc tâm, mà chúng ta kinh nghiệm thành ra đại chủng bất
tịnh của thân và hoàn cảnh. Tám vị Bồ-tát là khía cạnh thanh tịnh của
tám thức, và phần nữ tánh của họ là đối tượng của tám thức.
Dù là hình ảnh thanh tịnh năm vị
Phật thuộc năm dòng họ với những loại trí tuệ hiện ra, hay hình ảnh
bất tịnh của năm uẩn và những cảm xúc tiêu cực của chúng xuất hiện,
bản chất của những hình ảnh ấy chỉ là một. Sự khác nhau là ở thái
độ chúng ta khi nhận ra những hình ảnh ấy, và ở chỗ ta có nhận ra rằng
chúng vốn xuất phát từ nền tảng của tự tâm ta hay không.
Hãy lấy ví dụ một cái gì xuất
hiện trong tâm phàm tình của ta như là một ý tưởng về tham dục ; nếu
bản chất thực của nó được nhận ra, thì nó khởi lên - tách rời chấp
thủ - như là "Diệu quan sát trí". Thù ghét và giận dữ, khi nhận
chân được nó lìa chấp thủ, thì nó khởi lên với sự trong sáng như kim
cương, và đấy là "Ðại viên cảnh trí". Khi ngu si được nhận
chân, nó khởi lên như là ánh sáng tự nhiên rộng lớn không có khái niệm,
gọi là "Pháp giới thể tánh trí". Kiêu mạn, khi được nhận chân,
được thực chứng như là bất nhị và bình đẳng, thì đó là "Bình
đẳng tánh trí”. Ganh tị, khi được nhận chân, thì thoát khỏi thiên vị
và chấp thủ, và khởi lên như là "Thành sở tác trí" . Vậy, năm
cảm xúc tiêu cực khởi lên như là hậu quả trực tiếp của sự không nhận
chân được bản tánh thực của chúng. Khi được nhận chân thì chúng được
thanh lọc và giải thoát, và khởi lên không khác gì hơn là sự hiển bày
của năm trí.
Trong Bardo pháp tánh, khi bạn
không nhận ra được những tia sáng của năm trí ấy, thì ngã-chấp-thủ sẽ
đi vào nhận thức của bạn, cũng như một người lên cơn sốt cao khởi sự
có ảo giác và thấy đủ thứ cảnh tượng trước mắt. Bởi thế, chẳng
hạn nếu bạn không nhận ra màu đỏ, ánh sáng hổ phách của Diệu quan
sát trí, thì nó xuất hiện như một ngọn lửa, vì đó là tinh túy của hỏa
đại ; nếu bạn không nhận ra thực chất ánh sáng màu vàng của Bình đẳng
tánh trí, thì nó xuất hiện như là địa đại, vì đấy tinh túy của địa
đại.v.v....
Ðấy là cái cách những tướng hiện
ra trong Bardo pháp tánh sẽ bị biến hóa - khi ngã chấp đi vào trong
nhận thức - thành ra có thực chất để nhập vào những căn bản vọng
tưởng trong sinh tử.
Một bậc thầy Dzogchen dùng thí dụ
băng và nước để chứng minh sự thiếu nhận thức và ngã chấp diễn ra
như thế nào : Nước thường là lỏng, một yếu tố có những tính chất
kỳ diệu làm sạch và giải khát. Nhưng khi gặp lạnh nó đông lại thành
băng giá. Cũng thế, mỗi khi ngã chấp xuất hiện, nó củng cố vừa kinh
nghiệm bên trong của ta vừa cái cách ta nhìn thế giới quanh mình. Nhưng
cũng như sức nóng mặt trời sẽ làm cho băng tan thành nước, dưới ánh
sáng của sự trực nhận, bản chất trí tuệ của chúng ta không còn bị
trói buộc (bởi ngã chấp - DG) sẽ hiển bày.
Bây giờ ta có thể thấy rõ làm thế
nào - sau khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, rồi Bardo pháp tánh xuất
hiện - mà sinh tử thực sự đã khởi lên như hậu quả của sự không nhận
ra được bản tâm trong cả hai lần ấy. Lần đầu Ánh sáng Căn bản, nền
tảng (hay Tướng - DG) của tự tánh tâm, đã không được nhận ra, nếu
nhận được, là ta đã đạt giải thoát. Lần thứ hai năng lực (hay Dụng)
của tự tánh ấy xuất hi?n, và đó là một cơ hội thứ hai để giải thoát
; nhưng nếu nó không được trực nhận thì những cảm xúc tiêu cực khởi
lên, cô đọng lại thành nhiều nhận thức sai lầm khác nhau, cùng nhau tiếp
tục tăng trưởng những cảnh giới huyễn mộng mà ta gọi là sinh tử,
giam giữ ta trong chu kỳ tái sanh. Toàn thể sự tu tập tâm linh, như vậy, cốt
là để lật ngược cái tình huống mà tôi muốn gọi là quá trình vô
minh, để chấm dứt tạo tác, chấm dứt củng cố những nhận thức sai lạc
chằng chịt lệ thuộc vào nhau, những thứ đã bẫy ta vào cái thực tại
huyễn hóa do chính ta bày đặt.
Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất
hiện vào lúc chết, ở đây trong Bardo pháp tánh cũng thế, chưa chắc
đã được giải thoát. Vì khi ánh sáng trí tuệ chiếu ra, nó còn kèm theo
một loạt những âm thanh và ánh sáng ấm áp dịu dàng hấp dẫn hơn, không
tràn ngập, không chói chang như ánh sáng trí tuệ. Những ánh sáng mờ nhạt
này - có màu khói nhạt, màu vàng, lục, xanh, đỏ và trắng - là những
khuynh hướng tập quán vô thức trong ta tích lũy do giận dữ, tham lam, ngu
si, nhục dục, ganh tị và kiêu mạn. Ðấy là những cảm xúc đã tạo ra
sáu cõi luân hồi hay lục đạo : địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người,
a tu la và chư thiên.
Nếu chúng ta không nhận ra và an
trú pháp tánh của tự tâm trong đời sống thường ngày (nghĩa là ngồn gốc
6 cõi ở ngay trong tâm thức - DG), thì theo bản năng chúng ta sẽ bị lôi cuốn
về phía những ánh sáng mờ của lục đạo, vì khuynh hướng chấp thủ cố
hữu nơi ta khởi sự thức dậy. Tâm ta lùi lại vì cảm thấy bị đe dọa
bởi ánh sáng trí tuệ chói chang. Những ánh sáng ấp áp, sự mời gọi của
những khuynh hướng thường ngày, dụ dẫn chúng ta vào một tái sanh mới,
được định đoạt bởi cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất (trong 6 thứ
nói trên) trong nghiệp thức chúng ta.
*
Ta hãy lấy một ví dụ sự xuất hiện của một trong
những vị Phật trong Tử Thư Tây Tạng để minh họa toàn thể tiến trình
này. Bậc thầy hay bạn đạo nói với thần thức người chết như sau :
Này thiện nam/nữ, hãy lắng nghe
không tán loạn !
Vào ngày thứ ba, một ánh sáng sẽ
sanh khởi, đó là tinh chất của địa đại. Ðồng thời, từ cõi Phật phương
Nam, gọi là "thế giới quang vinh" đức Phật Bảo Sanh sẽ xuất hiện
trước ngươi, thân ngài màu vàng, tay cầm viên bảo châu như ý. Ngài ngồi
trên tòa có những con ngựa đỡ và được ôm bởi Phật mẫu Mamaki,
nguyên lý nữ tánh của ngài. Xung quanh ngài là hai Bồ-tát dương tánh : Hư
Không Tạng (Akashagarbha) và Phổ Hiền (Samantabhadra), và hai Bồ-tát nữ
tánh : Mala và Dhupa, làm thành 6 vị Phật ở trong bối cảnh ánh sáng cầu
vồng.
Tính thuần tịnh nội tại của thọ
uẩn - Bình đẳng tánh trí - một bầu ánh sáng vàng chói lọi, được
trang trí bằng những trái cầu cũng bằng ánh sáng (tiklés) lớn nhỏ đủ
cỡ, trong suốt rực rỡ, con mắt trần không thể chịu nổi, sẽ tuôn
tràn về phía ngươi từ nơi tim của Phật Bảo Sanh và nguyên lý nữ tánh
của ngài, và đâm xoáy tim ngươi đến nỗi con mắt ngươi không thể nào
nhìn vào đó.
Vào cùng lúc ấy, cùng với tia
sáng trí tuệ, có một ánh sáng xanh của cõi người chiếu về phía ngươi,
xoáy vào tim ngươi. Khi ấy, bị kiêu mạn thúc đẩy, trong nỗi kinh hoàng
ngươi chạy trốn ánh sáng vàng quá chói lọi kia, nhưng lại thích ánh
sáng xanh của cõi người, và bị dính mắc vào đó.
Lúc ấy, ngươi đừng sợ ánh sáng
vàng chói chang, hãy nhận ra đó là trí tuệ. Hãy an trú tự tánh ngươi
trong đó một cách thoải mái, vô vi. Hãy tin tưởng vào đó, hãy có sự
sùng kính và khát khao đối với nó. Nếu ngươi nhận ra nó là tia chiếu tự
nhiên của tự tánh Rigpa ngươi, thì dù cho ngươi không có sùng kính, chưa
đọc kinh cầu nguyện, tất cả chư Phật và ánh sáng ấy cũng sẽ tan hòa
bất ly với ngươi, và ngươi sẽ đạt đến cõi Phật.
Nếu ngươi không nhận ra đấy là
tia chiếu tự nhiên của tự tánh ngươi, thì hãy có lòng sùng kính mà cầu
nguyện, nghĩ : "Ðây là ánh sáng năng lực từ bi của Phật Bảo Sanh.
Con xin quay về nương tựa ngài" . Vì đó quả thực là Phật Bảo Sanh
đang đến hướng dẫn ngươi trong nỗi kinh hoàng của cảnh Trung Ấm, đó
là những móc câu bằng ánh sáng của năng lực tâm đại bi, bởi thế
ngươi hãy để niềm sùng kính tràn ngập tim ngươi.
Ðừng thích trú trước ánh sáng
xanh của cõi người. Ðây là con đường hấp dẫn của những khuynh hướng,
tập quán mà ngươi đã tích lũy bằng kiêu mạn mãnh liệt. Nếu ngươi quyến
luyến với nó, ngươi sẽ tái sanh vào cõi người, ở đó ngươi sẽ kinh
quá những đau đớn của sinh, già, bệnh, chết ; ngươi sẽ lỡ mất cơ hội
ngoi đầu lên khỏi vũng lầy sinh tử. Ánh sáng xanh dịu này là một chướng
ngại bít lấp con đường giải thoát, bởi thế ngươi đừng nhìn vào đó,
mà hãy từ bỏ kiêu mạn ! Từ bỏ những khuynh hướng tập quán của nó.
Ðừng quyến luyến ánh sáng xanh dịu, đừng khát khao nó. Hãy sinh tâm
sùng kính và khát ngưỡng ánh sáng vàng chói chang, hãy tập trung toàn sự
chú ý của ngươi vào đức Phật Bảo Sanh và cầu nguyện :
"Than ôi, vì kiêu mạn con đã
lang thang trong sinh tử.
Xin đức Phật Bảo Sanh dẫn đường
cho con
Trên đạo lộ quang minh rực rỡ vốn
là "Bình đẳng tánh trí".
Xin Phật mẫu Mamaki tối thượng của
ngài hãy đi sau con
Xin các ngài giúp con vượt qua ngõ
hiểm nghèo Trung Ấm
Và đưa con đến trạng thái toàn
giác".
Nhớ đọc lời cầu nguyện này
trong niềm sùng kính sâu xa, ngươi sẽ tan thành ánh sáng cầu vồng trong
tim của Phật Bảo Sanh và Phật mẫu Mamaki, trở thành một báo thân Phật
trong cõi Phật "Quang vinh" phương Nam".
Sự mô tả đức Phật Bảo Sanh xuất
hiện kết thúc với lời giải thích rằng nhờ vị thầy hay bạn đạo “khai
thị” như thế nhiều lần, người chết sẽ được giải thoát, dù năng
lực họ có kém cỏi bao nhiêu. Tuy nhiên, Tử Thư nói, dù đã được khai
thị nhiều lần, có những người vì ác nghiệp nên không nhận ra, không
giải thoát được. Bị giao động bởi tham dục, si mê và kinh hoàng trước
những ấm thanh ánh sáng ấy, họ sẽ chạy trốn. Bởi thế, vào
"ngày" hôm sau, vị Phật kế tiếp là A Di Ðà với ánh sáng vô lượng,
cùng với mandala chư thần của ngài sẽ xuất hiện trong tất cả vẻ huy
hoàng với quang sắc màu đỏ chói lọi, đồng thời lại có ánh sáng đục
hấp dẫn của ngạ quỷ đạo, do tham dục thấp hèn phát sinh. Tương tự
như thế, Tử Thư lần lượt giới thiệu sự xuất hiện của chư thần an
lạc và phẫn nộ.
*
Người ta thường hỏi tôi : "Chư thần có hiện ra
cho một người Tây phương không ? Nếu có, thì có phải hiện dưới hình
dạng quen thuộc của phương Tây hay không ?"
Những sự hiển bày của Bardo
pháp tánh được gọi là "hiện diện tự nhiên". Ðiều này có nghĩa
chúng nội tại vô điều kiện, hiện hữu trong tất cả chúng ta. Sự
khởi lên của chúng không tùy thuộc sự chứng đắc nào của ta, nhưng sự
nhận ra chúng thì có tùy thuộc. Những hình ảnh ấy không phải chỉ
xuất hiện cho người Tây Tạng, mà đấy là kinh nghiệm phổ quát và căn
để, nhưng cái cách theo đó chúng được thấy, tùy thuộc bối cảnh sống
của chúng ta. Vì tự bản chất chúng là vô giới hạn, nên chúng có tự
do xuất hiện dưới bất cứ hình dạng nào.
Bởi thế, chư thần có thể mang
hình dạng mà chúng ta thường quen thuộc nhất trong đời sống hàng ngày.
Ví dụ, với hành giả Tây phương, thì chư thần có thể mang hình dạng
chúa Ki-tô hay đức Mẹ đồng trinh. Thông thường, toàn thể sự hiển bày
giác ngộ của chư Phật là giúp chúng ta, bởi thế nên chúng có thể mang
hình dạng nào thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta. Nhưng dù dưới hình
dạng nào thì điều quan trọng vẫn là phải nhận ra rằng tự bản chất,
không có sự khác nhau nào cả giữa những biểu hiện ấy.
Sự trực nhận
Giáo lý Dzogchen giải thích rằng, cũng
như một người sẽ không nhận ra Ánh sáng Căn bản nếu không có sự thực
chứng tự tánh tâm và một kinh nghiệm vững vàng về pháp tu Trekcho ; cũng
thế nếu không thực hành pháp Togal thì không thể nhận ra được Bardo
pháp tánh. Một hành giả Togal thuần thục đã kiện toàn và an trú trong
ánh sáng của tự tánh thì khi sống, họ đã có kinh nghiệm trực tiếp về
những biểu hiện sẽ nổi lên trong Bardo pháp tánh. Năng lượng và
ánh sáng này như vậy nằm ngay trong chúng ta, mặc dù hiện tại chúng bị
khuất lấp. Tuy nhiên, khi thể xác và những tầng thô của tâm thức đã
chết, thì chúng tự nhiên được phóng thích, và âm thanh, màu sắc và ánh
sáng của tự tánh ta sẽ chiếu sáng rực rỡ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có nhờ
pháp Togal mới có thể xử dụng Bardo này để giải thoát. Những
hành giả Mật tông trong Phật giáo sẽ liên kết những tướng xuất hiện
trong Bardo pháp tánh với pháp tu của riêng họ. Trong Mật tông,
nguyên lý chư thần là một cách truyền thông. Chư thần được hiểu như
những ẩn dụ, nhân cách hóa và biểu trưng cho những năng lực và tính chất
vô biên của tâm trí tuệ chư Phật. Sự nhân cách hóa những năng lực và
tính chất ấy dưới hình dạng chư thần sẽ giúp cho hành giả nhận ra
chúng và thiết lập tương quan với chúng. Nhờ tu tập sự tạo ra rồi
thâu lại hình ảnh ấy vào tâm, qua phương pháp quán tưởng, mà hành giả
nhận ra rằng cái tâm quán ra chư thần và chư thần được quán ra ấy
không phải là hai thứ tách biệt.
Trong Phật giáo Tây Tạng, mỗi
hành giả có một yidam, hình ảnh một vị Phật hay Bồ-tát nào mà họ cảm
thấy có duyên với mình, và thường triệu thỉnh vị ấy để quán tưởng
hình ảnh trong tim mỗi khi tập luyện. Thay vì xem những tướng của pháp
tánh là hiện tượng bên ngoài, hành giả Mật tông sẽ liên kết chúng với
yidam, hình ảnh vị Phật của riêng họ, hòa nhập làm một với tướng
ấy. Bởi vì trong khi tu luyện, họ đã nhận ra yidam là tia chiếu tự
nhiên của tâm giác ngộ, nên (khi chết) họ có thể nhìn các tướng trong Bardo
pháp tánh như là biểu hiện của yidam ấy. Với cái thấy thuần tịnh
này, hành giả sẽ nhận ra bất cứ gì xuất hiện trong Bardo đều là
những thị hiện của yidam. Rồi nhờ năng lực tu tập và sự ban phước của
yidam, vị ấy sẽ đạt giải thoát trong Bardo pháp tánh.
Ðấy là lý do trong truyền thống
Tây Tạng có lời khuyến cáo - cho cư sĩ thế tục và những hành giả
thông thường chưa quen thuộc với pháp tu yidam - rằng bất cứ tướng gì
khởi lên, đều nên quán ngay đấy là đức Quán Thế AÂm, vị Phật của
lòng bi mẫn, hoặc đức A Di Dà, hoặc Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) tùy theo vị
nào họ quen thờ nhất. Nói tóm lại, bất cứ cách nào bạn thường tu tập
trong đời sống, thì cũng bằng cách đó bạn cố mà nhận ra các tướng
trong Bardo pháp tánh.
Một gợi ý khác để nhìn Bardo
pháp tánh là, hãy xem nó như thế giới nhị-nguyên được hiển bày trong
hình dạng thuần tịnh tối hậu của nó. Chúng ta được đưa ra phương tiện
để giải thoát, song đồng thời chúng ta cũng bị dụ dẫn bởi tiếng gọi
của những bản năng và tập quán trong ta. Ta kinh nghiệm năng lực thuần túy
của tâm linh mà đồng thời cũng kinh nghiệm sự rối ren mờ mịt của nó.
Dường như thể ta đang được nhắc nhở phải làm một quyết định, phải
chọn lựa giữa đường này hay đường kia. Dĩ nhiên chúng ta có được cái
quyền chọn lựa ấy hay không còn tùy thuộc vào mức độ hoàn tất của
việc tu tập của ta trong lúc sống.