DUY LỰC
NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 -
1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh
Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001
PHẦN 1
(CUỐN 1 - 10)
01-2
Hỏi : Thế
nào là thiền Mặc Chiếu ? Thiền Mặc Chiếu có ở trong năm tông phái thiền
không? Nguồn gốc từ đâu ?
Đáp : Tổ Sư Thiền có năm
tông phái : Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Qui Ngưỡng, Vân Môn. Thời nay
chỉ còn lại hai tông Lâm Tế và Tào Động, ngoài ra các phái kia nghe nói
đã chẳng còn con cháu, chỉ trừ ở Hàn Quốc còn phái Pháp Nhãn Tông. Tất
cả năm tông phái đều chẳng dùng mặc chiếu. Tại sao ? Phật dạy tám mươi
bốn ngàn pháp môn, qui tụ lại cách thực hành thành bốn đại loại :
Tham thiền, niệm Phật, trì chú. quán tưởng. Mặc chiếu thuộc loại quán
tưởng bên Giáo môn, còn Tổ Sư Thiền là giáo ngoại biệt truyền, khác với
Giáo môn, nên không bao giờ dạy người tu theo thiền Mặc chiếu.
Ngài Đại Huệ Thiền sư
đời nhà Tống rất danh tiếng, trong quyển Lá Thư Thiền của ngài
có đoạn chỉ trích những người trưởng lão lúc đương thời chưa kiến
tánh dạy người tu mặc chiếu; Lá Thư Thiền là những thư từ dạy
tham Thiền của ngài gửi các vị quan chức, Thừa tướng đương thời.
Trong thư ngài nêu ra thiền mặc chiếu chẳng phải Tổ Sư Thiền, chỉ trích
những người tu theo thiền mặc chiếu rằng "Bọn họ chẳng phải con
người, vì làm cho người khác tưởng lầm, không thể tu theo chánh pháp,
trở ngại cho sự kiến tánh của người khác".
Còn theo Giáo môn cũng có
cách tu "Tịch chiếu", nhưng điều đó không nằm trong pháp hoằng
dương của tôi. Tôi chỉ hoằng dương Tổ Sư thiền và dạy người tham
thoại đầu, không dạy người tham công án, vì công án phức tạp hơn thoại
đầu. Những người trước đây tu theo thiền mặc chiếu cũng đã có căn
bản, nay chuyển qua tham Tổ Sư Thiền cũng sẽ được mau tiến bộ.
Hỏi : Thế
nào là Tiểu thừa thiền, Trung thừa thiền, Đại thừa thiền và Tổ Sư
Thiền ?
Đáp : Tôi thì chuyên hoằng
dương Tổ Sư Thiền, đối với các phái thiền khác không có nghiên cứu,
nhưng cũng có thể nói sơ lược theo sự hiểu biết của tôi. Nói TAM THỪA
là Thanh Văn thừa (Tiểu thừa), Duyên Giác thừa (Trung thừa) và Bồ Tát thừa
(Đại thừa), còn ngài Lục Tổ nói pháp Tham Thiền là Tối Thượng thừa.
· THANH VĂN THỪA : Dùng Tứ
Thánh Đế :Khổ, Tập, Diệt, Đạo làm căn bản để thực hành. KHỒ là
do vọng tâm sanh ra, nay tu ĐẠO (Ngũ đình tâm quán), hễ chứng đến Niết
bàn của Tiểu thừa là quả A La Hán. Ngũ đình tâm quán gồm năm thứ quán
tưởng : Sổ tức quán, bất tịnh quán, nhân duyên quán, từ bi quán, và lục
thức quán. Tùy theo sự thích hợp của mỗi người; ví như người ấy quý
trọng thân mình thì thích hợp tu bất tịnh quán để khởi quán thành
chán nản tấm thân này, người có tâm hay tán loạn thì thích hợp tu sổ
tức quán v.v. Thanh Văn Thừa cần ba mươi bảy phẩm trợ đạo để phá
ngã chấp. Chánh Pháp là luôn luôn phải phá ngã chấp mới có thể chứng
quả.
· DUYÊN GIÁC THỪA : Dùng
thiền quán thập nhị nhân duyên làm căn bản để tu, bắt đầu từ VÔ
MINH, đến thứ mười hai là LÃO TỬ; bởi do vô minh có HÀNH nên biến đổi
hoài, hành thì do THỨC phân biệt, diển biến tiếp tục, đến SANH và LÃO
TỬ. Quán vô minh diệt rồi thì hành diệt, thức diệt. cho đến sanh diệt
rồi lão tử cũng diệt, chứng quả Bích Chi Phật.
· BỔ TÁT THỪA : Cũng gọi
là Đại thừa, thông thường gọi là Như lai Thiền. Ở Trung Quốc, Đại
thừa chỉ có tám tông, về Như Lai Thiền có bốn tông:
1/Tông Thiên Thai : Căn
cứ theo Kinh Pháp Hoa, cũng gọi là Pháp Hoa Tông. Thiền của Tông Thiên Thai
gọi là Chỉ Quán Thiền, gồm tam chỉ tam quán: Tam Chỉ gồm :
a/ Hệ Duyên Chỉ : Vọng
tâm của mình như khỉ vượn hoạt động chẳng ngừng, đem buộc lại chỗ
đơn-điền (dưới rốn).
b/ Tuỳ Duyên Đối Cảnh
Chỉ : Ví như đang ăn cơm thì tự nghĩ "Mình có tư cách gì để ăn
cơm ?", mặc áo thì nghĩ "Mình có tư cách gì để mặc áo"
v.v.
c/ Thể Chơn Chỉ : Chơn là
chơn thật chẳng hư vọng, tự tánh mình vốn chẳng hư vọng chẳng đối
đãi, chẳng có đủ thứ phân biệt, do vọng tâm sai khiến nên có đủ thứ
đối đãi phân biệt, nay thể cứu cái chơn thật thì không lọt vào đối
đãi, tứ cú v.v.
Tam Quán gồm :
Không, giả, trung. Tức quán vũ trụ vạn vật đều là giả tạo, bản
tánh vốn không. Nhưng cái giả là CÓ, cái không là KHÔNG, cũng còn đối
đãi, nên phải quán trung đạo. Hễ chẳng có đối đãi thì làm gì có
trung đạo ? Nên cuối cùng trung đạo cũng phải quét.
Thường thường gọi CHÆ
là định, QUÁN là huệ, nói thì có tam chỉ tam quán, nhưng sự thật chẳng
có phân chia trước sau, là đồng thời, chẳng được nghiêng về định hoặc
huệ, định huệ đồng thời, định huệ phải bằng nhau. Hễ tâm tán loạn
thì phải CHÆ, hễ tâm hay hôn trầm thì phải QUÁN vậy.
2/ Tông Hiền Thủ :
Căn cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, cũng gọi là Hoa Nghiêm Tông. Thiền quán là
Pháp Giới Quán, có bốn giai đoạn gồm : Lý pháp giới, Sự pháp giới,
lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới. Khi quán thành được
chứng quả "Nhất chơn pháp giới".
- Lý pháp giới và Sự
pháp giới : Ví như căn nhà được hình thành bởi cây, gạch, ngói, sắt
v.v. mỗi thứ dù riêng biệt, nhưng có cái lý là làm thành căn nhà; nhân
công, các vật liệu gạch, ngói, cây, sắt v.v.. để làm nên căn nhà ấy
là sự. Hễ có lý mà không có sự cũng chẳng thành căn nhà, hễ có sự
mà không có lý cũng chẳng thành.
- Lý sự vô ngại pháp giới
: Nay đã thành căn nhà rồi thì cây cũng là nhà, ngói cũng là nhà, đã
dung hòa thành căn nhà rồi thì tất cả đều có thể gọi là nhà. Mặc
dù như vậy, nhưng ngói là ngói, cây là cây, gạch là gạch, mọi cái vẫn
còn khác nhau mà dung hợp lại, thứ nào cũng là một bộ phận của căn nhà,
ấy gọi là lý sự vô ngại.
- Sự sự vô ngại pháp
giới : Căn nhà đã cất xong, con người dọn vào ở, có cửa ra vào, trời
nắng trời mưa chẳng có chướng ngại, gọi là sự sự vô ngại.
3/ Tam Luận Tông : Căn
cứ theo ba thứ luận của Tổ Sư, ấy là Bá Luận, Thập Nhị Môn Luận,
Trung Quán Luận, về thiền quán là Tách Không Quán.
4/ Duy Thức Tông : Cũng
gọi là Từ Ân Tông, thiền quán là Tứ Tầm Tư Quán.
Trên đây chỉ nói sơ qua
các tông phái, mỗi tông phái đều có pháp thiền riêng biệt. Thật ra thì
các tông phái nói trên, như pháp sư của tông Thiên Thai cũng ít người tu
Chỉ Quán. Thời gần đây, đệ tử của Pháp sư Đế Nhàn là ngài Đàm Hư,
đều nói " Giáo lý thì diển Thiên Thai, thực hành thì qui Tịnh Độ",
các pháp sư tông Hiền Thủ cũng vậy.
Vì Chỉ Quán thiền từ
đời Trí Giả Đại sư được chứng nhưng chứng chưa cứu cánh, lúc Trí
Giả Đại sư gần tịch, có người hỏi ngài chứng tới đâu thì Ngài trả
lời rằng chỉ chứng được năm phẩm, sau này ít nghe có ai được chứng
nữa. Pháp Giới Quán lại càng ít hơn. Bốn tông Đại thừa này nếu chứng
đến cùng tột là Như Lai Thiền. Theo Kinh Lăng Nghiêm, Như Lai Thiền cũng có
năm mươi bảy cấp bậc.
Tổ Sư Thiền :
Cũng gọi Đạt Ma Thiền, là do Tổ Sư từng đời truyền xuống . Đức Phật
Thích Ca thuyết pháp 49 năm, tự nói chẳng từng thuyết một chữ , Vì 49 năm
thuyết pháp là bất đắc dĩ, chẳng phải bản tâm . Đến sau cùng đưa lên
một cành bông, trong hàng ngũ hàng triệu chư Thiên cõi trời, người, chỉ
có một mình ngài Ma Ha Ca Diếp được ngộ, mới truyền thừa pháp môn Tổ
Sư Thiền này. Ngài Ma Ha Ca Diếp là Sơ Tổ, truyền cho A Nan là Nhị Tổ,
đến Tổ thứ 28 là ngài Đạt Ma truyền sang Trung Quốc, nên cũng gọi là
Đạt Ma Thiền. Còn về cách thực hành tham tổ Sư Thiền thì tôi đã giải
thích nhiều lần rồi vậy.
Hỏi : Sư
nói tham thiền có tình trạng nhức đầu là tốt, nhưng có người lại sợ
bị đau thần kinh ?
Đáp : Nếu có sợ là
còn ngã chấp. Đã nói "Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ", hễ
còn sợ là không được, là nghịch với căn bản của mình, thà chết cũng
được, chớ có sợ. Vì từ xưa đến nay, gần bảy ngàn Tổ tham thiền kiến
tánh, chưa hề nghe ai bị chết do tham Thiền, chỉ nghe nói có nhiều trường
hợp Phật tử mắc bệnh nan y, tham thiền hết bệnh. Ví như có một bà
lão bị bệnh suyễn hơn 22 năm, bác sĩ đã tuyên bố vô phương trị, tham
thiền được một năm thì hết bệnh. Tại sao ? Vì do quên nên hết. Bởi
nhất thiết duy tâm tạo, khi đề khởi câu thoại đầu khởi lên nghi tình
rồi, như ngài Lai Quả nói :" Thân tâm quên, thế giới cũng quên"
thì bệnh làm sao còn ? Hễ nhớ tới bệnh hoài thì bệnh chẳng bao giờ hết
được.
Sư Bà Vĩnh
Bữu : Kính bạch Sư Phụ, trong chiêm bao con đang ngồi tham thiền khởi lên
nghi tình, nhưng ma đến quấy nhiễu , con không sợ, còn dạy họ tham Thiền
để thoát khỏi nghiệp ma. Cứ ba lần như thế, sau đó lại có con rắn đến
quấn lấy thân con, trong khi con vừa tham thiền, vừa lấy cây gươm chém đầu
con rắn, vậy có mắc phải tội sát sanh không ?
Đáp : Tham thoại đầu
khi khởi lên nghi tình như Ỷ thiên trường kiếm" - cây gươm dài chọc
trời gặp gì cũng chém; gặp ma chém ma, gặp Phật chém Phật, ấy là bởi
chúng sanh đều có bệnh chấp thật, nhưng bất cứ chấp cái gì cũng không
đúng, cũng là chướng ngại cái dụng của tựï tánh.
Trong chiêm bao biết tham thiền,
biết có chánh niệm là rất tốt, mình tu pháp môn thiền là chánh pháp,
tà không bao giờ thắng được cái chánh, lại, chính nghi tình là cây gươm
để dẹp tà. Vả lại, tôi thường nói "Vô sở đắc, vô sở cầu,
vô sở sợ", đâu có sợ ma được ! Sư bà ở trong chiêm bao giữ được
"vô sở sợ" là tốt, chuyện ở trong chiêm bao sát sanh làm sao có
tội ! Đừng nói là chiêm bao, nay nếu vì lý do cứu được nhiều chúng
sanh mà phải sát sanh thì không có tội. Ngài Hư Vân nói " Người làm
quan đã thọ Bồ Tát Giới hoặc ngũ giới, gặp kẻ tội phạm cần xử tử
theo luật pháp nhà nước vẫn phải chấp hành,vì giết một người mà cảnh
cáo được hàng trăm ngàn người, chẳng những không có tội mà còn có
công nữa.
Hỏi : Trong
Kinh Viên Giác có câu " Tri huyển tức ly, bất tác phương tiện, ly huyễn
tức giác, diệc vô tiệm thứ", vậy có trùng hợp với ý Tổ sư Thiền
không ?
Đáp : Phàm là kinh giáo
đều thuộc Giáo môn, giải thích theo thứ lớp, còn Thiền tông thì không
giải thích theo thứ lớp, nên gọi là "ly ngôn thuyết". TRI HUYỄN
TỨC LY, BẤT TÁC PHƯƠNG TIỆN, đã biết là huyển đâu còn chấp thật! Hễ
không chấp thật thì khỏi cần phương tiện gì, lìa huyễn tức giác, sự
giác đó cũng chẳng có thứ tự. Phương tiện chẳng cho là phương tiện,
cũng chẳng có thứ tự, ấy là tánh automatic, nhưng chẳng phải hợp với
ý Tổ sư Thiền; Tổ sư thiền chẳng hợp với tất cả giáo thừa, nên gọi
giáo ngoại biệt truyền. Về việc này Lai Quả Thiền sư và ngài Bác Sơn
nói:" Thiền chẳng thể dùng lời nói giải thích, Giáo môn thì được."
GIÁC VỌNG : Cái GIÁC đã
là vọng rồi, lấy cái giác để tri vọng thì càng thêm một lớp vọng .
Ngài Vĩnh Gia đại sư có 4 câu kệ để phá cái tri (giác). Kinh Lăng Nghiêm
nói :" Kiến văn giác tri đều là bệnh của chúng sanh từ vô thỉ."
ấy là kiến bệnh, như con mắt bệnh thấy hoa đốåm trên không, nếu
con mắt chẳng bệnh thì chẳng thấy hoa đốm trên không vậy. Bốn bài kệ
của ngài Vĩnh Gia là:
Bài thứ nhất :
Nhược dĩ tri tri tịch,
thử phi vô duyên tri,
Như thủ chấp như ý, phi
vô như ý thủ.
- Nếu lấy sự tri để tri
cái tịch lặng, sự tri là năng, tịch lặng là sở, có năng tri, sở tri thì
chẳng phải vô duyên tri, vô duyên là không có năng sở. Nay có cái tri để
tri tịch, cái tịch này còn chưa phải là vọng, và cái tri ấy chẳng phải
vô duyên tri, như Ïdùng tay nắm cây như ý. Tôi thường nói về cái dụng
của tự tánh automatic, hoạt bát vạn năng, nay dùng tay nắm cây như ý rồi
thì chẳng phải tay không có cây như ý. Tay nếu không chấp cây như ý thì
hoạt bát vạn năng, lấy caí bình, cái tách,..lấy gì cũng được. Hễ chấp
cây như ý trong tay là đánh mất tánh hoạt bát vạn năng của tay, lấy cái
gì cũng chẳng được, do có năng sở vậy. Tự tánh hoạt bát, chẳng có năng
sở đối đãi, nên chư Phật chư Tổ dạy mình quét, khôi phục tánh hoạt
bát vạn năng, đây là lớp thứ nhất.
Bài thứ hai :
Nhược dĩ tự tri tri, diệc
phi vô duyên tri,
Như thủ tự tác quyền,
phi vô tác quyền thủ.
-Cái năng tri của bài thứ
nhất, trở thành cái sở tri của bài thứ hai, tức tự biết mình có sức
năng tri, mặc dù chưa có sở tri, nhưng chính cái tri đó đã trở thành sở
tri rồi: Tự mình là năng, cái tri là sở, cũng chẳng phải vô duyên tri,
chẳng phải là cái tri không đối đãi của tự tánh. "Tự biết mình
có cái năng tri ấy như tự nắm thành quyền ( nắm tay), chẳng phải là
cái tay hoạt bát vạn năng (không nắm lại), nên vẫn phải quét mới khôi
phục được tánh hoạt bát vạn năng.
-Lớp thứ nhẩt (bài 1)
là tri tịch, lớp thứ hai là tri vọng, tri tịch còn không được, huống là
tri vọng! Đây là những bài kệ phá tri của ngài Vĩnh Gia, như Kinh Lăng
Nghiêm nói " Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn", nên Thiền tông
nói một chữ TRl là cửa tai họa.( Tri chi nhất tự, chúng họa chi môn,)
Tri huyễn và tri vọng đều
giống nhau. Kinh Viên Giác nói TRI HUYỄN TỨC LY, BẤT TÁC PHƯƠNG TIỆN, LY
HUYỄN TỨC GIÁC, DIỆC VÔ TIỆM THỨ; Tri huyễn tức lìa, bất tác phương
tiện là không co ùtác ý chứ không cần buông bỏ nó. Vậy thì lìa như thế
nào? Các giáo phái như Tông Thiên thai, Hiền thủ đều tự có phái thiền
của họ, cứ tu theo thiền quán của mình là tự động lia. Do thiền quán
của Giáo môn còn có năng sở, nên khác với cái lìa tự động của Tổ
Sư Thiền. "Lìa huyễn tức giác, cũng chẳng thứ lớp" giống như
Tổ sư Thiền nhưng lại chẳng phải, vì Tổ sư Thiền chẳng có năng sở,
và bốn câu kệ trong Kinh Viên Giác chỉ là lý thuyết, sau đó mới dạy
hai mươi lăm thứ quán. Lấy Tông Thiên thai để dẫn dụ thì có Không, Giả,
Trung (Samatha, Tam ma Bát đề và Thiền na), trở đi trở lại thành hai mươi
lăm thứ thiền quán, có năng quán và sở quán. Cũng khác hơn cách tu tri vọng,
vì tri vọng có sự buông bỏ, còn ở đây thì "bất tác phương tiện",
tự nhiên được lìa. Nên nói tri huyễn với tri vọng giống mà hơi khác,
giữa thiền Giáo môn và thiền giáo ngoại biệt truyền cũng có khác.
Hỏi : Ngài
Khuê Phong Tông Mật Thiền sư nói "Vô tâm là đạo, biết vọng là
tu" như thế nào ?
Đáp : Ngài Khuê Phong là
Tổ thứ năm của tông Hiền Thủ . Trong kinh Viên Giác có câu " Tất cả
chúng sanh đều chứng viên giác" , ngài nói là sai, ở chữ CHỨNG
phải là chữ CỤ, tức là tất cả chúng sanh đều cụ túc viên
giác. Còn ngài Chơn Tịnh Thiền sư bên Tổ sư Thiền lại chứng tỏ rằng
ngài Khuê Phong sai lầm. Theo Giáo môn thường còn hơi chấp thật, do chấp
thật mới nói "Có Phật tánh", nếu theo Bát nhã "Nói có phật
tánh là thêm, nói không có Phật tánh là bớt" , vì lọt vào tứ cú vậy.
Thiền sư Chơn Tịnh có giảng một đoạn kinh rằng :" Vô minh hiện
hành này của tất cả chúng sanh là đại trí của Như Lai", chứng tỏ
ngài Khuê Phong còn chấp thật, còn lọt vào nhị biên tương đối, còn chứng
với chưa chứng.
Tổ sư có bốn câu kệ
nói về vấn đề huyễn:
Nhược nhơn kiến huyễn
bổn lai chơn,
Thị tắc danh vi kiến Phật
nhơn.
Viên thông pháp pháp vô
sanh diệt,
Vô diệt vô sanh thị Phật
thân.
- Ý nói nếu người nào
thấy huyễn vốn là chơn, thì người ấy gọi là thấy Phật. Theo viên
thông tự tánh thì pháp vô sanh diệt, vô diệt vô sanh là pháp thân của Phật,
của mình. Còn theo ngài Khuê Phong thì còn sanh diệt, diệt sanh diệt rồi mới
hết sanh diệt. Về thiền môn thì chẳng có sanh diệt để diệt, như tôi
thường thí dụ, do vọng tâm của mình hoạt động ngày đêm không ngừng
nên thấy có sanh tử luân hồi, đến khi vọng tâm ngưng rồi thì sanh tử
ngưng và thấy cứu cánh Niết bàn. Tâm mình xoay thấy căn nhà xoay như sự
sanh tử luân hồi; rồi căn nhà ngưng xoay như sanh tử diệt, nhưng căn nhà
đâu có xoay và ngưng xoay? Ấy là do thân mình xoay sanh cảm giác sai lầm
cho là căn nhà xoay, thân mình ngưng xoay rồi cảm giác sai lầm cho là căn
nhà ngưng xoay. Căn nhà hồi nào cũng y hệt, chẳng có xoay và ngưng xoay, tức
là pháp không sanh không diệt. Nay thấy xoay là sanh, thấy ngưng xoay là diệt,
vốn chẳng có xoay và ngưng xoay, là do cái tâm vậy.
- Còn ngài Khuê Phong thì
nói có cái vọng thật để mình biết, bên thiền môn không cần tri, vì
có vọng đâu mà cần tri ? Cũng đâu có vọng đâu để mình buông ? Tại
mình chiêm bao mới có, do con mắt bệnh mới thấy có sơn hà đại địa,
vũ trụ vạn vật v.v.Chớ nói là vọng, cái chơn cũng là sai lầm, vì có vọng
mới có chơn ( vọng là xoay, chơn là ngưng xoay ). Kinh Lăng Nghiêm nói
:" Vọng với chơn là hai thứ vọng", nếu muốn bỏ vọng để tìm
chơn thì ấy là hai thứ vọng, nên ngài Khuê Phong chỉ được làm Tổ của
Giáo môn chứ không được làm Tổ của Thiền môn.
Hỏi : Ngài
Đại An thiền sư ở cuốn Châu Nguyên Cảnh Sách rằng "Ở lại
Qui Sơn ba mươi năm, chăn con trâu đen thành trâu trắng, sờ sờ đuổi chẳng
đi", vậy pháp đó có phải thiền Mặc chiếu không ?
Đáp : Không phải, ấy
là bảo nhiệm sau khi ngộ. Ngài Đại An thiền sư là sư đệ của Qui Sơn,
lúc đầu Tư Mã thiền sư đi hành cước khắp nơi, phát hiện ngọn Qui Sơn,
nói "Chỗ này sẽ thành đạo tràng lớn, nhưng phải tìm một chủ
nhân ở đó". Khi đến nơi Bá Trượng, nói với Bá Trượng rằng :
"Con phát hiện một nơi tốt lắm, sau này có thể tụ chúng 1500 người,
nhưng hiện nay tìm không ra chủ nhân".
Bá Trượng nói " Để
xem trong chúng có ai chăng ?". Lúc đầu gọi Thủ tọa là ngài Huê Lâm
ra, Tư Mã Thiền sư nói "Không phải", sau gọi Qui Sơn ra, Sư vừa gặp
là đồng ý liền, nên ngài Bá Trượng sai Qui Sơn làm Trụ trì nơi đó.
Huê Lâm nghe nói liền bảo
:" Ta là Thủ tọa mà không được làm Trụ trì, sao gọi người thấp
hơn ?"
Bá Trượng nói :" Thế
thì hai vị thử trước mặt tôi, ai được thì đi.".
Ngài chỉ ngay cái bình
đang đựng nước hỏi :" Chẳng được gọi là bình, gọi là gì
?"
Huê Lâm nói "Gọi là
cái nút".
Qui Sơn thì đá nhào bình
nước.
Qui Sơn một mình ở đó
được bảy năm, chẳng có ai tới, muốn ra hoằng pháp nên xuống núi, nào
ngờ nửa đường bị con rắn con cọp chặn lại không cho đi. Qui Sơn nói
:" Nếu ta có duyên ở lại núi hoằng pháp thì tất cả các ngươi phải
tản đi", các con thú tản đi y như lời, ngài quay trở về núi. Chẳng
bao lâu, Bá Trượng phái Đại An và một số vị đã kiến tánh đến giúp
Qui Sơn hoằng pháp, cất chùa lớn dung nạp hơn 1500 người, do ngày nào cũng
qui tụ 1500 người, nên được gọi là "Thiện tri thức 1500 người".
Sau khi ngài tịch, Thiền sư Đại An kế thừa, có người hỏi về pháp thiền,
ngài nói :" Tôi ở Qui Sơn 30 năm, ăn cơm Qui Sơn, đả thất Qui Sơn,
nhưng không có học thiền Qui Sơn". Ngài chỉ khán "Một con
trâu", cũng chẳng có nói là trâu đen biến thành trâu trắng, chỉ nói
rằng :" Tối ngày chỉ một trâu trắng hiện tiền ".
Tổ sư Thiền nói đến
chữ TRÂU là ngộ rồi bảo nhiệm, chứ không phải lúc tu. Ở nơi khác
nói đến vấn đề giữ trâu cũng vậy, đều là ý bảo nhiệm.
Hỏi : Tu
Thiền càng không biết càng tốt, không được kiến giải, chỉ khởi nghi
tình để tham thiền. Vậy một người chưa biết gì về đạo Phật có thể
tu thiền được không ? Cần học căn bản giáo lý nhà Phật hay không ? Đã
biết khá nhiều về Phật pháp có khó cho tu thiền không ?
Đáp : Tôi kể một công
án ở Truyền Đăng Lục : Ngài Tự Hồi Thiền sư, là người dốt nát, vốn
là thợ đá được mời đến chùa xây cất. Y ở đó đập đá thường
nghe người nói rằng Kinh Pháp Hoa rất hay, dù dốt nát không biết chữ nhưng
cũng ráng hỏi người từng chữ một , như vậy trải qua mấy năm , chẳng
những hỏi đến biết hết mà còn thuộc lòng, chẳng cần coi chữ, vừa
đập đá vừa niệm kinh Pháp Hoa. Ngàøi Trụ trì của chùa là một vị tổ
sư kiến tánh, cũng do kiếp trước có nhân duyên, một hôm, ngài Trụ trì
thấy vừa đập đá vừa niệm kinh, hỏi :" Ông đọc Kinh Pháp Hoa để
làm gì ?"
Đáp :" Con niệm kinh
Pháp Hoa là muốn thành Phật".
Hỏi :" Niệm như vậy
đến khi nào mới thành Phật được ?"
Đáp :" Vậy làm thế
nào mới được thành Phật ?"
Ngài Trụ trì dạy tham thoại
đầu. Nếu là người khác thì đâu chịu bỏ qua Kinh Pháp Hoa, vì trải qua
bao nhiêu cực khổ mới được thuộc lòng! Nhưng y vâng lời liền, chuyển
qua tham thoại đầu, vừa đập đá vừa tham, ngày đêm không ngừng, trải
qua mấy năm, một ngày kia do cục đá quá cứng đập không bể, ra sức đập
một cái phát ra tia lửa liền ngộ, bạch lại với ngài Trụ trì, chứng tỏ
đã ngộ mới xuống tóc xuất gia. Sau ra thăng tòa thuyết pháp, thường
khai thị rằng :" Quí vị người nào cũng hơn tôi, tôi là người dốt
nát, tôi đã kiến tánh thì sao quí vị cứ tự cho là nghiệp chướng nặng,
tự coi nhẹ mình như thế !" Sự thật trên chứng tỏ chẳng cần biết
giáo lý .
- Có một vị còn tệ hơn,
tánh hơi khờ, đã xuất gia, ở trong thiền đường tham thiền mà chẳng biết
thiền là gì cả, hỏi người kế bên :" Thiền là cái gì?" Người
ấy bảo :" Thiền còn không biết hả, nó đậu ở trên cây, hay kêu
vào mùa hè ấy mà !"( Theo tiếng Trung Quốc: Thiền là Con ve, cùng âm với
chữ Thiền ). "Biết rồi biết rồi! " Vị ấy tham thiền rất
siêng năng, ngày đêm đi hoài, ở trong núi thì đường đi lõm chõm, chỗ
cao chỗ thấp, đang tham thiền đi không để ý, vắp té liền ngộ. Đây chứng
tỏ người không biết giáo lý, lại khờ ngốc, mà vẫn có thể kiến
tánh vậy.
Hỏi : Thế
nào là đạt được tiểu ngộ? Đạt được đại ngộ ? Khi đạt được
chỉ có người tham thiền biết hay người xung quanh cũng có thể biết ?
Đáp : Về vấn đề tiểu
ngộ và đại ngộ, trong quyển Thiền thất khai thị lục có nói tiểu
ngộ là chứng quả A La Hán; còn theo Thiền Quan Sách Tấn thì tiểu
ngộ tức là giải ngộ, phát trí huệ chứ không phải chứng ngộ , Cũng
theo Thiền Quan Sách Tấn, khi chưa đạt đến đại ngộ có thể trải
qua mấy mươi lần tiểu ngộ.
Trong giới Phật tử người
Hoa, tiểu ngộ đã phát huệ cũng có hơn ba trăm người. Tuy nhiên, tiểu ngộ
cũng có cạn có sâu, trong Truyền Đăng Lục cũng có nhiều trường hợp
như vậy. Nói về đại ngộ, theo ngài Huỳnh Long Thiền sư không chia thành
nhiều lớp; Huỳnh Long Thiền sư có 3 cửa về đại ngộ, gọi là "Huỳnh
Long Tam Quan", ấy là sơ quan, trùng quan và mạc hậu lao quan. Người
tham thoại đầu đến nghi tình vỡ thì gọi là "phá bổn tham", tức
đã thấu được sơ quan, cũng gọi là "Tổ sư quan". Hễ phá được
bổn tham thì như bậc A La Hán, siêu xuất luân hồi. Nhưng Lai Quả thiền
sư có nói :" Phá được sơ quan thấy pháp thân, phá được trùng quan
chứng pháp thân, phá được mạc hậu lao quan là thấu pháp thân".
Ở đây còn có cái thí dụ
: Lấy thiền đường để thí dụ thì người phá được sơ quan là đã đến
cửa thiền đường, nhìn vào trong thấy rõ mọi vật nhưng chưa vào được.
Phá được trùng quan cũng như vào được thiền đường, thấy rõ mọi gốc
cạnh. Phá được lao quan là đã đi đến phía sau, thấu qua thiền đường,
tức là chỗ nào cũng rõ ràng, chẳng chỗ nào chẳng tỏ .
Trên đây nói sơ qua tình
hình của tiểu ngộ đại ngộ, sau khi ngộ rồi chỉ có mình biết, người
xung quanh chẳng hiểu được, nên nói "Như người uống nước, lạnh nóng
tự biết". Lại, ngộ rồi muốn nói cho người chưa ngộ biết cũng chẳng
được, như người chưa ăn qua đường thì chẳng biết vị ngọt là thếnào,
dù người đã ăn qua giải thích từ sáng đến chiều cũng chẳng thể diển
tả cho biết được. Muốn cho hiểu, chỉ cần đem một ít đường cho nếm
qua thì "Ổ" lên một tiếng , hóa ra ngọt là như thế ! Đối với
vật chất đã như vậy, người có kinh nghiệm nói với người không có
kinh nghiệm cũng chẳng được, huống là kinh nghiệm về tinh thần, Làm sao
nói cho người khác biết ! Chỉ có người đã ngộ rồi nói với nhau mới
biết, cũng như tôi đã ăn qua đường, nói về chất ngọt với người đã
ăn qua thì y biết liền.
Hỏi : Ngài
Lai Quả nói về Nghi tình thành khối như thế nào?
Đáp : Ngài Hư Vân nói rằngï
như đầu sào trăm thước : Cây sào ví như đường đi ý thức, tôi đã giảng
về hai chữ "Thoại đầu": Khi nói một câu thoại, phải khởi niệm
lên nói ra, khi chưa khởi niệm mới là thoại đầu, khi đã khởi niệm muốn
nói, mặc dù chưa nói ra đã là thoại vĩ rồi.
Nay chúng ta tham thiền chưa
phải là thoại đầu, nhưng cũng chẳng phải là thoại vĩ, là từ thoại vĩ
tiến đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường, một ngày kia sẽ đi đến
thoại đầu, đến thoại đầu tức đã đến đầu sào trăm thước, lúc
đó câu thoại tự mất, mới được gọi là thoại đầu, đến chỗ này
thì công phu đã thành khối, công phu hai mươi bốn giờ đồng hồ không
có giây phút nào gián đoạn, cố ý muốn buông bỏ nghi tình cũng không
được. Lúc ấy câu thoại mất nhưng nghi tình vẫn còn, cố ý bỏ xuống
nghi tình chẳng được, cố ý muốn nổi lên vọng tưởng cũng chẳng được,
đến chỗ này trước mắt thanh thanh tịnh tịnh, tức là nguồn gốc của
ý thức, nhưng vẫn còn dính mắc với ý thức , chưa thể lìa ý thức. Phải
từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước mới rời khỏi ý thức, lọt
vào hư không.
Lai Quả thiền sư nói
" Đã lọt vào hư không thì phải té xuống, mà té xuống phải té cho
chết, tan nát thành bột, chết đi sống lại mới triệt để, gọi là
"Tuyệt hậu tái tô", cũng gọi là "Đại tử đại hoạt".
Nếu chết mà chưa tan nát hết vẫn chỉ là tiểu tử, phải đại tử rồi
mới đại hoạt, mới được kiến tánh triệt để, sự ngộ mới có thể
bằng Phật. Đến khi công phu đã thành khối thì hy vọng rất lớn, có thể
trong năm - bảy ngày kiến tánh, nửa tháng, một tháng kiến tánh.
Theo ngài Lai Quả, nếu
nghi tình thành khối thì khỏi cần kiến tánh cũng được. Tại sao ? Vì
có vọng tưởng thì có tướng, hễ có tướng Diêm La Vương mới thấy và
nắm bắt được; còn nghi tình không có tướng, không tướng thì Diêm La Vương
không thấy, làm sao sai tiểu quỷ bắt mình được ? Hễ Diêm La Vương thấy
tức là còn sanh tử, Diêm La Vương không thấy tức sanh tử chẳng còn,
không cần kiến tánh cũng được, nhưng đến lúc ấy muốn không kiến
tánh cũng chẳng được. Ví như đã đi đến Sài Gòn rồi nói là chưa đến
há có được ư? Nếu nghi tình được hai mươi bốn giờ không gián đoạn
tức gọi là thành khối, ( Tiếng Hán gọi là thành đoàn, thành phiến), rất
có hy vọng kiến tánh.
Lúc bắt đầu tham thì
trong hai mươi bốn giờ đồng hồ gián đoạn hết hai mươi ba tiếng, dần
dần giảm bớt sự gián đoạn thành hai mươi hai tiếng, rồi hai mươi mốt
tiếng, hai mươi tiếng. Nếu thoại đầu quen thuộc rồi sẽ từ từ giảm
bớt sự gián đoạn, kết quả sẽ khiến nghi tình thành khối, người nào
cũng đến được, bất quá người dũng mãnh thì tiến bộ nhanh, người lôi
thôi thì tiến chậm, thế nào cũng sẽ đến nơi, vì có đi ắt có đến .
Ví như từ Chợ Lớn đến Sài Gòn một trăm bước, hễ đi được một
bước còn chín mươi chín, hai bước còn chín mươi tám, rồi chín mươi bảy,
chín mươi sáu. có đi sẽ có đến.
Hỏi : Khi
tham thiền có thể làm việc bằng tay chân hoặc bằng trí óc, vậy có thể
xem kinh được không ?
Đáp : Nếu xem kinh mà vẫn
tham được thì cũng có thể xem . Nhưng ý của ông muốn xem kinh để làm
gì ?Nếu để tăng cường lòng tin tham thiền thì được; nếu muốn biết
thêm giáo lý sẽ rất chướng ngại . Nhưng nếu nghi tình đã thuần thuộc
rồi thì đang lúc xem kinh cũng tham được, chẳng có chướng ngại cho mình.
Hỏi : Căn
bản của thiền Mặc chiếu và khán thoại đầu có giống nhau không ?
Đáp : Căn bản khác nhau.
Tại sao ? Mặc chiếu có năng chiếu và sở chiếu, khán thoại đầu khởi
lên nghi tình chẳng có năng sở, không lọt vào tứ cú. Mặc chiếu ở bên
Giáo môn gọi là quán tưởng. Vào đời nhà Tống ở Trung Quốc, lúc ấy
có người chưa kiến tánh ra hoằng pháp, tự làm tài khôn, nói đã kiến
tánh , lấy bảng hiệu của Tổ Sư Thiền dạy người tu mặc chiếu, nên
ngài Đại Huệ gọi đó là tà thiền. Người tu Tổ Sư Thiền phải tu đúng
tông chỉ của Tổ Sư Thiền, nếu lấy bảng hiệu của Tổ Sư Thiền mà dạy
người tu mặc chiếu tức như ngoại đạo vậy. Nên ngài Đại Huệ trong
cuốn Lá Thư Thiền chỉ trích những người cùng thời rằng "Bọn
họ chẳng phải là con người" . Ở bên Giáo môn, tu mặc chiếu mà có
phá ngã chấp thì cũng là chánh pháp, nhưng không phải là Tổ Sư thiền, hễ
không phá ngã chấp sẽ lọt vào tà ma ngoại đạo.
Hỏi : Tham
thiền cần tụng kinh bái sám không ?
Đáp : Kỳ thật, nếu suốt
ngày tham thiền chẳng gián đoạn tức là suốt ngày tụng kinh, hành trì
kinh vậy. Như cha mẹ bảo con đi nấu cơm thì phải vâng lời đi nấu cơm,
nay không chịu đi nấu mà chỉ miệng niệm "nấu cơm, nấu cơm." lập
lại cho cha mẹ nghe, cha mẹ đâu cần nghe lại lệnh của mình ! Cũng vậy,
Phật dạy chúng sanh tu hành là muốn chúng sanh thực hành lời dạy bảo của
Phật , Kinh là lời dạy của Phật bảo mình y kinh tu hành, nếu có hiếu với
Phật là phải thực hành, nay chẳng chịu thực hành mà chỉ niệm trước
mặt Phật hai chữ "Nấu Cơm", niệm mãi chắc phải đói thôi.
Hỏi : Trong
kinh nào nói "Đại nghi đại ngộ"?
Đáp : Câu nói này không
có ở trong kinh mà là trong lịch sử thiền tông, là lời của Tổ sư. Ở
Trung Quốc, Truyền Đăng Lục rất nhiều, trước nhất là Cảnh Đức
Truyền đăng Lục, ghi lại lịch sử của một ngàn bảy trăm tổ, sau
đó có Ngũ Đăng Hội Nguyên, Ngũ Đăng Nguyên Thống, NguÕ Đăng Truyền
Thơ, Chỉ Nguyệt Lục v.v.tất cả đều ghi lại lịch sử của Tổ Sư
Thiền, từng đời từng đời truyền xuống, thầy đối với đệ tử như
thế nào, đệ tử ngộ đạo như thế nào, quá trình ngộ đạo v.v. đều
ghi rõ ràng.
Hỏi : Tiểu
ngộ rồi phải ra sao ? Vẫn tham câu thoại đầu cũ hoặc phải đổi qua câu
thoại đầu mới để khởi nghi tình ?
Đáp : Tiểu ngộ chưa phải
là phá bổn tham, tiểu ngộ chỉ là giải ngộ thôi, câu thoại đầu vẫn
còn nguyên, vẫn tiếp tục tham câu thoại đầu đó đến khi nào kiến
tánh mới thôi, không được đổi câu khác.
Hỏi : Tham
thiền mỗi ngày phải sám hối không ?
Đáp : Tham thiền sẽ được
kiến tánh thành Phật, Tổ sư có dạy :" Ngoài nghi tình ra không được
khởi một niệm khác, cho dù chơn lý cao hơn Phật cũng là biệt niệm, chướng
ngại sự tham thiền của mình, nên chỉ cần luôn luôn giữ nghi tình không
gián đoạn. Lúc bắt đầu thì gián đoạn nhiều, một ngày hết hai mươi
ba tiếng, rồi dần dần hai mươi hai tiếng, hai mươi mốt tiếng. cứ tham
mãi, sự gián đoạn sẽ rút bớt, chứ không được sanh tâm muốn làm một
cái gì.
Như trên đã nêu, bất cứ
buông bỏ vọng tưởng, trừ vọng tưởng, đè nén vọng tưởng còn không
được, huống là sanh tâm nghĩ chuyện khác ! Sở dĩ tạo tội là vì có vọng
tưởng khởi lên, cần có nghi tình miên mật, thành khối rồi tự nhiên sẽ
có thiền giới. Bậc cư sĩ mặc dù chưa thọ giới xuất gia, nếu công phu
thành khối tất cả giới luật xuất gia đều trì hết. Vọng niệm chẳng
khởi lên, thiện niệm chẳng khởi lên thì nói chi ác niệm ! Nên trong giới
luật gọi là Thiền giới, cũng gọi Định-Cộng-Giới. Nay công phu còn có
gián đoạn thì phải tập cho đến không gián đoạn, chứ đừng nên suy
nghĩ lúc gián đoạn phải làm sao.
Hỏi : Làm
thế nào khỏi lọt vào vô ký không ?
Đáp : Tham thiền luôn phải
có nghi tình, nếu không có nghi tình cũng không có vọng tưởng là lọt
vào vô ký không, thuộc thiền bệnh rất nặng. Tổ sư gọi là "Ngâm nước
chết", vĩnh viễn không được kiến tánh. Mặc dù cảm thấy thanh
thanh tịnh tịnh, thấy chẳng có gì, trong người êm dịu, nhưng đó là thiền
bệnh. Chẳng thà có vọng tưởng có nghi tình, còn hơn là chẳng có vọng
tưởng cũng chẳng có nghi tình. Bởi thế, nghi tình là điều rất cần thiết,
không được đánh mất nghi tình. Đã có nghi tình nhưng bỏ câu thoại là
không được; chưa đến thoại đầu mà bỏ câu thoại ắt sẽ gián đoạn,
lọt vào vô ký không. Khi đến được thoại đầu rồi câu thoại tự mất.
Cho nên, bất kể có nghi tình hay không có nghi tình, câu thoại vẫn để
trong tâm hỏi tới hoài, chớ cho gián đoạn, lâu ngày sẽ thành tự động
không gián đoạn.
Hỏi : Về
tư thế tham Thiền như thế nào ?
Đáp : Ở trong Thiền thất,
theo đoàn thể phải có giờ giấc; đi nửa tiếng ngồi nửa tiếng. Còn
ở nhà thì bất kể đang làm việc hay rảnh rỗi, cứ ngồi đến mỏi thì
đi, đi đến mỏi thì ngồi, không cần coi giờ, không được nghiêng về
ngồi. Hễ cảm thấy khi ngồi có nghi tình hơn, đi thì không có, ấy cũng
chẳng được; ngược lại, nếu cảm thấy đi có nghi tình hơn ngồi cũng
không được. Vì đi là động, ngồi là tịnh, lúc tịnh cảm thấy nghi
tình nhiều, ham ngồi là bị tịnh trói buộc; lúc đi cảm thấy nghi tình
nhiều hơn cũng bị "động" trói buộc, phải khiến cho công phu động
cũng chướng ngại không được, tịnh cũng chướng ngại không được, động
chẳng biết là động, tịnh chẳng biết là tịnh, động tịnh bằng nhau,
quên cả động tịnh mới được.
Hỏi : Khi
ngồi thiền thấy đủ thứ cảnh giới phải làm sao ?
Đáp : Bất cứ thấy điều
gì : Thấy ánh sáng, thấy hoa, thấy Phật, Bồ tát. tất cả đều là cảnh
giới. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :" Nếu như chẳng chấp là thánh ấy
là cảnh giới tốt, hễ chấp liền lọt vào tà". ( Bất tác thánh
tâm, nhơn thiên cảnh giới, nhược tác thánh tâm, tức thọ quần tà)
". Nay hễ thấy cảnh giới tốt, thấy Phật đến xoa đầu mình , cũng
phải coi là cảnh giới hư vọng; thấy cảnh giới địa ngục khủng bố
cũng đừng sợ hải, bất kể thấy cảnh giới gì cũng không để ý tới,
chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình mà tham.
Hỏi : Vì
sao lịch đại Tổ sư, chư hộ pháp long thiên phải bận rộn khi đả thiền
thất ?
Đáp : Trong cuốn "Thiền
Thất Khai Thị Lục" của Lai Quả Thiền Sư nói :" Khi đả thất,
chẳng những trong chùa ngoài chùa, kể cả chư Phật chư Tổ đều rất bận
rộn để cho đại chúng yên tâm đả thất. Bận rộn việc gì ? Bận rộn
làm hộ pháp cho chúng, che chở cho chúng được phương tiện để tham Thiền.
Bởi vì tham Thiền sẽ được kiến tánh thành Phật, sẽ độ cho vô lượng
vô biên chúng sanh". Nếu như trong một - hai trăm người chúng ta có một
người thành Phật cũng đủ lấy vốn lại rồi !
Có một câu chuyện về
Đạo Tuyên Luật sư đời nhà Đường : Ngài là sơ tổ của Luật Tông,
trì giới rất trong sạch nghiêm chỉnh, nên cảm hóa được cõi Trời mỗi
ngày đem cơm và thức ăn đến cúng dường. Như thế trải qua mấy tháng,
được nhiều người hay biết . Có một vị Thiền sư nghe nói, muốn biết
hình tướng của Thiên nhơn cõi Trời, một ngày kia đến thăm ngài Đạo
Tuyên, ở lại đợi đến giờ ngọ, chẳng thấy có ai đến cúng dường,
rồi 12 giờ, 01 giờ, vẫn không thấy, mới từ giã ra về.
Một lát sau, thiên nhơn cõi
Trời đi vào, Luật Sư bảo :
- Ông biết tôi chỉ ăn
ngọ, sao giờ này mới đến ? Hôm nay sao trễ thế ?
Thiên nhơn nói :" Con
vẫn đi đúng giờ, nhưng vì căn nhà bị hào quang của vị Thiền sư che
khuất, khiến con vào không được, nay hào quang đã tan đi, con mới vào
được căn phòng này."
Đạo Tuyên Luật sư mới
biết là do ánh sáng hào quang của vị Thiền sư kia, nhưng chính bản thân
vị ấy cũng không hay biết điều này. Bởi do Luật sư ngày thường khinh
khi Thiền sư không đủ oai nghi bề ngoài, không nghiêm chỉnh giới luật,
nhưng từ đó về sau chẳng dám khinh khi nữa.
Hỏi : Thật
tướng của các pháp là gì ? Tại sao kiến tánh rồi lại tiêu diệt thân
tâm thế giới ?
Đáp : Tại có tâm chấp
nên có câu hỏi này, do có chấp tâm nên thấy đủ thứ hiện tượng thế
giới, ví như trong Kinh Lăng Nghiêm nói :"Do con mắt bệnh". Nhưng lời
nói của Phật chỉ là phương tiện, chẳng phải thực tế. Nay nói
"Khi kiến tánh tất cả hiện tượng thân tâm thế giới đều tan nát"
vẫn còn chưa đúng; hễ có sanh mới có diệt, nếu vốn chẳng sanh, làm
sao có diệt !
Kinh Pháp Hoa nói :" Chư
pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng", tịch diệt tướng
tức Niết bàn tướng, vốn chẳng sanh diệt. Tấùt cả pháp từ vô thỉ
đến nay vốn không sanh diệt thì làm sao khi thức tỉnh rồi liền tiêu diệt
! Lấy cái gì để tiêu diệt ? __Chỉ là tiêu diệt những vọng tâm, những
chấp tâm thôi. Tức các bệnh chấp thật đã trị hết , như Kinh Pháp Hoa
nói : " Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ". Thế
gian tướng thường trụ, đâu có tiêu diệt !
Kinh Kim Cang nói đến ngũ
nhãn : Nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn. Phàm phu chỉ
có nhục nhãn, cõi Trời có thiên nhãn, những người có định lực rồi
cũng phát được thiên nhãn. Phật thì đầy đủ ngũ nhãn, nên có thể
dùng nhục nhãn để thấy ngũ uẩn của thế gian. Nếu chẳng thấy thì lấy
gì để dạy chúng sanh ? Chỗ thấy của Phật, phàm phu chẳng thể thấy, Bồ
tát cũng chẳng thể thấy, Phật thì thấy đủ cả.
Hỏi : Phú
Lâu Na hỏi Phật : Thân tâm thanh tịnh bổn nhiên, sao lại thình lình sanh
khởi sơn hà đại địa ?
Đáp : Chính Phật ở
trong Kinh Lăng Nghiêm có trả lời :" Do vọng tâm chấp thật nên mới
sanh ra, do con mắt bệnh từ vô thỉ đến nay nên mới thấy sơn hà đại
địa, thấy có chúng sanh. ấy là con mắt bệnh khiến tâm Bồ đề bị lao
nhọc, ví như con mắt ngó hẳn một chỗ, ngó lâu mỏi mệt , thấy có hoa
đốm trên không. Tâm Bồ đề của chúng ta cũng vậy, do mỏi mệt nên thấy
sơn hà đại địa, đủ thứ hiện tượng.
Phú Lâu Na hỏi tiếp :
"Tại sao có vọng tâm đó ? Sao khi không vọng tâm khởi lên ? sao gọi
là vọng ?"
Phật đáp :" Đã gọi
là vọng thì làm sao có lý do ? Vọng vốn chẳng nguyên do, hễ có nguyên do
tức chẳng gọi là vọng " ( Ký danh vi vọng, vân hà hữu nhân ? Nhược
hữu sở nhân, vân hà danh vọng ).
Ở trong Kinh Viên Giác, Phật
đưa ra bốn thí dụ, ở đây chỉ gom lại một : Do vọng tâm ngày đêm hoạt
động không ngừng nên thấy rõ ràng có sanh tử luân hồi, nhưng trong Bát
Nhã Tâm Kinh lại nói là "Vô lão tử diệt vô lão tử tận" (Chẳng
có sanh tử, cũng chẳng có sự hết sanh tử ), chúng ta nói "Nay thì có
sanh tử, khi nào kiến tánh sẽ hết sanh tử", ấy là do bệnh chấp thật.
Kỳ thật chẳng phải có sanh tử và sanh tử diệt rồi gọi là Niết Bàn.
Theo ý của Đức Phật, thí dụ vọng tâm ngày đêm hoạt động chẳng ngừng
thì tất nhiên phải thấy có sanh tử, khi nào vọng tâm ngưng hoạt động
thì sanh tử luân hồi cũng ngưng, lúc đó gọi là Cứu cánh Niết bàn.
Cũng vậy, thân xoay thấy
căn nhà xoay, nay muốn tìm cách để cho căn nhà ngưng xoay mà thân chẳng chịu
ngưng thì làm sao được ? Phải thân mình ngưng xoay rồi tự nhiên căn nhà
ngưng xoay. Căn nhà xoay tức sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay tức cứu
cánh Niết bàn; Căn nhà có xoay đâu mà nói căn nhà ngưng xoay ? Căn nhà có
xoay đâu mà nói sanh tử luân hồi ! Tất cả đều là hư vọng, do thân
xoay mới có cảm giác sai lầm, chỉ cần cái thân ngưng xoay, như Kinh Pháp
Hoa nói "Thường tự tịch diệt tướng" vậy.
Hỏi : Tất
cả Phật, Tổ, Thiền sư đều kiến tánh bởi pháp môn tham Thiền khởi
nghi tình, phải không ? Nếu phải, tại sao Phật lại thuyết nhiều kinh điển
làm chi ?
Đáp : Theo lời của Lai
Quả Thiền sư, tất cả Phật quá khứ, Phật hiện tại và vị lai đều
phải do tham Thiền kiến tánh thành Phật, Phật Thích Ca cũng vậy. Thế thì
tại sao Phật lại giảng kinh thuyết pháp ? Lúc Phật mới thành đạo, tự
đóng cửa lại trong ba tuần lễ định không ra thuyết pháp, vì Phật nghĩ
rằng "Bệnh chấp của chúng sanh quá nặng, nếu ta ra thuyết pháp, e rằng
sau này sẽ chấp thật lời nói của ta, có hại thì nhiều, lợi thì ít; hễ
không ra thuyết pháp thì tất cả chúng sanh đều không có cơ hội giải
thoát". Sau đó nghĩ rằng :" Quá khứ chư Phật đều phải thuyết
pháp, chẳng có Tam thừa mà nói Tam thừa, chẳng phải Phật mà nói có Phật,
vì phải hóa độ chúng sanh nên không thể không nói".
Bởi tánh của chúng sanh
trong thế giới Ta Bà này ham tri kiến, nên mới dùng lời nói thuyết pháp
làm Phật sự hóa độ.
Kinh Duy Ma Cật nói :"
Thế giới khác chẳng có lời nói, ăn cơm cũng là Phật sự độ chúng
sanh, đủ thứ chẳng dùng lời nói để độ chúng sanh. Ở Cõi Ta Ba thì phải
dùng lời nói để độ chúng sanh, nên Đức Phật mới giảng kinh thuyết
pháp".
Thời Phật Thích Ca chẳng
có kinh, Phật chỉ trực tiếp dạy pháp tu hành. Sau khi Phật nhập Niết
bàn, hàng đệ tử mới kết tập lại thành các bộ kinh; hồi đời Phật
cũng chẳng chia thành Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa, sau kết tập lại
thành có Tam thừa. Pháp tham Thiền này là Tối thượng thừa, vì không ở
trong giáo lý của Tam thừa, nên cũng gọi là giáo ngoại biệt truyền.
Tại sao Phật thuyết Tam
thừa ? Vì lòng từ bi hóa độ chúng sanh , nếu không thuyết thì chúng sanh
chẳng thể giải thoát, nên phải đặt ra để nói, nói xong liền quét. Ví
như trong Bát Nhã Tâm Kinh, quét từ phàm phu đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ
tát, và quét luôn cả Phật, rồi mới được chứng quả Phật. Tất cả
kinh Đại thừa liễu nghĩa như Kinh Kim Cang, Kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già. đều
như thế. Nói tóm lại tức là xác định sự quét như một cây chổi thôi
: Phật nói ra kiến lập liền quét; kiến lập thừa Thanh văn quét Thanh văn,
kiến lập thừa Duyên giác quét Duyên giác, kiến lập thừa Bồ tát quét Bồ
tát, kiến lập Phật thừa quét Phật. Do bệnh chấp của chúng sanh rất
khó trị, nên Phật nói xong liền quét, vì sợ chúng sanh chấp theo lời Phật
vậy.
Đức Phật thuyết pháp
49 năm, tự nói chẳng thuyết một chữ, vì hễ nói ra là chẳng phải rồi.
Trong Kinh Lăng Già, Phật bảo :" Lời nói của ta chỉ là vọng tưởng,
chớ nên chấp thật". Lời nói của Phật, của Tổ là muốn phá chấp
thật của chúng ta, nếu còn chấp vào lời nói của Phật, của Tổ thì bệnh
chấp vẫn còn nguyên, làm sao có thể kiến tánh thành Phật ? Kinh Đại thừa
liễu nghĩa cũng dạy chúng ta quét, nay tham Thiền là quét bằng cách
automatic, chẳng cần khởi niệm muốn quét, cũng chẳng cần khởi niệm không
quét, vì sự quét đó tự động.
Phật Thích Ca thuyết
pháp 49 năm, sau cùng đưa lên một cành bông, truyền pháp môn Thiền này đến
ngày hôm nay, ấy mới hợp với ý của Phật.
Ở Ấn Độ, ngài Ma Ha Ca
Diếp là Sơ Tổ, truyền sang Trung Quốc do ngài Đạt Ma là Sơ Tổ, đến đời
nhà Thanh, đã có hơn bảy ngàn Tổ ghi trong "Ngũ Đăng Truyền Thư".
Về Giáo môn, người được chứng ngộ rất ít, còn đối với những người
ham cầu tri kiến, chỉ được gieo trồng thiện căn, sau này thiện căn được
chín muồi rồi ( hoặc một kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp sau ) mới có thể
do tham thiền rồi chứng ngộ.
Hỏi : Sao
Sư phụ nói không có nhân quả ?
Đáp : Ông vừa bảo tôi nói
"Không có nhân quả" ấy là sai, tôi nói "không có nhân
duyên", là do trong Kinh Lăng Nghiêm nói "Phi nhân duyên, phi tự
nhiên" chứ chẳng phải không có nhân quả. Nói "không có nhân quả",
chấp vào một bên là tà kiến, là tội địa ngục, thuộc tà kiến trong năm
thứ ác kiến. Nếu pháp sư nào chỉ giảng được nghĩa hai câu thì pháp sư
đó phải đọa địa ngục; hễ pháp sư giảng thấu nghĩa ba câu mà người
nghe hiểu lầm, thì người nghe có lỗi chứ chẳng phải lỗi tại pháp sư.
Trong cuốn Niên Phổ của ngài Hư Vân Thiền sư, có trường hợp chỉ
trả lời sai một chữ, phải đọa làm con chồn năm trăm kiếp, chẳng phải
chuyện chơi. Tôi đã từng nói là không được chấp thật, nếu chấp CÓ
là thật có bệnh còn nhẹ, hễ chấp cái KHÔNG cho là thật không, thì bệnh
rất khó trị.
Mục Lục
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/