DUY LỰC
NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 -
1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh
Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001
PHẦN 1
(CUỐN 1 - 10)
01-3
Hỏi : Thế
nào là một câu đủ ba câu của ngài Vân Môn ? Thế nào là Tam huyền Tam yếu
? Thế nào là Ngũ vị quân thần của Tổ Động Sơn ?
Đáp : Tất cả đều là
thủ đoạn của Tổ sư : Trước đời nhà Tống Trung quốc chẳng có tham
công án và thoại đầu, mà chỉ có nghi tình, nghi tình đó do thủ đoạn của
Tổ khiến người tham tự mình phát khởi nghi tình mà chẳng biết là đang
tham thiền mãnh liệt, nên sức tham rất mạnh, đến khi chín mùi rồi, chỉ
điểm một cái liền thấu tam quan.
Thủ đoạn của Tổ là
muốn người tham tự khởi nghi tình nặng mà chẳng biềt mình đang tham, càng
không hiểu chừng nào càng tốt chừng nấy, vì không hiểu tức đại nghi,
đại nghi sẽ được đại ngộ. Ý của Tổ sư muốn cho người phát nghi,
rất kî người ham giải. Sau này Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ra đời,
khiến mọi người biết hết thủ đoạn của Tổ nên phát huy chẳng được,
bất đắc dĩ dạy người tham công án, thoại đầu. Người thời nay do ham
tri giải, ham tìm hiểu, Tổ Sư gọi là con chó. Nhiều người tự làm tài
khôn, đem ý mình giải thích ra, khiến người chẳng thể khởi nghi, mặc dù
giải không đúng, nhưng hễ có đáp án thì chẳng thể nghi; những sách thiền
đời nay đều như thế, khiến người ham coi sách thiền chẳng thể phát
nghi được.
Không nghi thì không ngộ,
vì nghi là nhân, ngộ là quả, không có nhân thì không có quả, nên bất
nghi bất ngộ; nhân nhỏ quả nhỏ nên tiểu nghi tiểu ngộ; nhân lớn quả
lớn nên đại nghi đại ngộ. Không hiểu nhiều là đại nghi, nay đem thủ
đoạn của Tổ sư giải thích ra, lấp bít cửa ngộ của người tham Thiền.
Tôi thường nói "hễ chấp lời thì nghịch ý", chẳng những đối
với pháp môn tham Thiền, pháp môn khác cũng vậy.
- Phật dạy tám mươi bốn
ngàn pháp môn, qui nạp lại thành bốn đại loại : Tham Thiền, niệm Phật,
trì chú, quán tưởng. Nay nhiều người trì chú tưởng là công hiệu ở
trong câu chú, ấy là sai. Nhất thiết duy tâm tạo, công hiệu ở trong tâm
mình chứ chẳng phải ở trong câu chú. Nếu công hiệu ở trong câu chú
thì người nào niệm cũng có công hiệu, đâu thể người này niệm có
công hiệu mà người kia niệm lại chẳng có ? Vậy chứng tỏ công hiệu
ở trong tâm của người niệm, người nào tâm lực mạnh niệm mới có
công hiệu, tâm lực yếu thì không.
-Tâm lực mạnh hay yếu
là do tâm thanh tịnh, hễ tâm suy nghĩ lung tung,vọng tưởng nhiều thì tâm
lực yếu, làm sao có công hiệu! Niệm Phật cũng vậy, công hiệu chẳng
ở tại câu hồng danh của Phật. Tham Thiền cũng thế, công hiệu chẳng
ở tại câu thoại đầu mà ở trong tâm mình. Người tham Thiền chỉ là mượn
câu thoại khởi lên nghi tình, nghi tình ấy là cây chổi automatic quét sạch
tâm, tâm sạch ắt thanh tịnh, phát huy sức dụng, hiệu lực sẽ sanh ra, tự
tánh hiện ra sự dụng automatic.
- Đối với ba câu hỏi
trên, tôi chỉ trả lời chung là thủ đoạn của Tổ sư, nếu hướng theo
chỗ này giải thích tìm hiểu ấy là con chó chứ chẳng phải con sư tử.
Về những lời của Phật, của Tổ, ý muốn chúng ta ngộ nhập tự tánh,
làm con sư tử, chẳng phải làm con chó để giải thích Tam huyền tam yếu
như thế nào, và e rằng người giải thích bị Tổ mắng là con chó vậy.
Hỏi : Xin Sư phụ kể
về công án được ngộ của ngài Tuyết Phong ?
Đáp : Khi mới gặp nhau,
Tuyết Phong hỏi Đức Sơn :" Tất cả chư Phật ngộ được ấy, con có
phần không?" Đức Sơn lấy cây gậy đánh vào đầu, bảo :" Nói
gì ?" Tuyết Phong liền ngộ, phá được Sơ quan. Sau này ở Ngao Sơn nhờ
Nham Đầu Thiền sư ngộ triệt để, phá mạt hậu Lao quan.
Hỏi : Khi
tham đến đầu sào trăm thước như thế nào ?
Đáp : Tôi lấy cây bút
để thí dụ: Bây giờ tham thoại đầu đề khởi nghi tình là bắt đầu từ
thoại vĩ đến thoại đầu, đang đi nữa đường, chẳng phải ở thoại
vĩ, cũng chưa đến thoại đầu. Một ngày kia đi đến thoại đầu , cũng
là đầu sào trăm thước, thì câu thoại tự mất, chỉ còn nghi tình , gọi
là nghi tình thành khối, tức một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng
giây phút gián đoạn; muốn buông xuống nghi tình buông chẳng được, muốn
nỗi vọng tưởng cũng nỗi lên chẳng được. Chỗ này là nguồn gốc ý
thức, đến chỗ này rồi chẳng còn đường đi, ngó về phía trước thanh
thanh tịnh tịnh, nhưng chưa lìa ý thức. Ngoại đạo tiểu thừa tu đến
chỗ này thì ngưng, vì hết đường đi, chẳng còn chỗ để đi. Nên Lai Quả
Thiền sư nói là "phải tiến thêm một bước"; Tổ sư nói "Đầu
sào trăm trượng thêm bước nữa", lọt vào hư không, lìa ý thức là
ngộ.
Theo Lai Quả Thiền sư thì
lọt vào hư không phải té xuống, té xuống phải chết; chết còn chưa đủ,
phải té cho tan nát, "tuyệt hậu tái tô", chết đi sống lại,
cũng gọi là đại tử đại hoạt , lúc đó mới kiến tánh triệt để. Tại
sao phải té cho tan nát ? Tan nát là tan nát cái ý thức phân biệt. Hễ chết
mà chỉ là tiểu tử thì chẳng được, vẫn còn ý thức, nên phải té cho
tan nát, thức phân biệt mới hết, gọi là đại tử đại hoạt.
Hỏi : Đến
chỗ đó thoại đầu cũng hết, vọng tưởng cũng hết, nhưng vì Lai Quả
Thiền sư nói là người công phu đến chỗ này rồi còn phải lôi cái ổ
đem ra đập tan Mạt-Na-thức và A-lại-da thức ?
Đáp : Mạt-na-thức là
ngày đêm luôn chấp ngã, đã rời khỏi cái thức rồi không còn chấp ngã
nữa, nhưng còn tập khí , mặc dù còn nhưng sẽ hết. Tổ sư nói ví như
ghe đã gần bờ rồi, khỏi cần chèo, khỏi cần chống, buông chèo buông
chống rồi tự nhiên vào bến.
Chữ TÉ ở đây là chỉ
tập khí; tập khí thế gian và xuất thế gian. Bồ tát Thập Địa kiến tánh,
tập khí thế gian đã hết, nhưng tập khí xuất thế gian vẫn còn chút
ít. Phàm phu kiến tánh thì sự kiến tánh bằng với Bồ tát Thập Địa,
nhưng tập khí thế gian vẫn còn nhiều, vì bị tập khí chướng ngại, nên
sự dụng chẳng thể bằng, nhưng sẽ hết dần, như ghe gần bờ, chẳng cần
chèo chống, tự nhiên sẽ vào bến.
Việc dứt tập khí đó
Thiền tông gọi là "Bảo nhiệm", nên Tổ sư nói "Bất phá
trùng quan bất bế quan". Bế quan tức nhập thất, nhập thất là để
bảo nhiệm chứ chẳng phải để tu cho kiến tánh. Nay nhiều người lầm
tưởng nhập thất để tu, sai lầm như thế rất nguy hiểm, đi lầm đường
cũng chẳng hay, nên Thiền tông nói "Bất phá trùng quan bất bế
quan" là vậy.
Hỏi : Công
án và thoại đầu khác nhau như thế nào ?
Đáp : Công án là có chuyện
tích, phức tạp hơn. Ví như công án tham chữ VÔ của Ngài Triệu Châu:
Có tăng hỏi Triệu Châu
: Con chó có Phật tánh không ?"
Đáp : Có.
Vị khác hỏi :" Con
chó có Phật tánh không? "
Đáp : Không.
Tại sao Triệu Châu nói
"Không" ? Thứ nhất: cùng là một câu hỏi, người này hỏi đáp
có, người kia hỏi đáp không, rất mâu thuẫn; Thứ hai: tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, con chó cũng là chúng sanh, sao lại không có Phật
tánh ? Ý của Triệu Châu sao lộn xộn thế ? Lúc thì trả lời có, lúc
thì trả lời không. Lại không trả lời đúng theo Giáo môn là chúng sanh
đều có Phật tánh ? Ngài có trả lời sai không? Nếu chẳng sai thì ý của
Ngài ở chỗ nào ? Thắc mắc không biết.
Công án có sự tích dài
như thế, phức tạp khó tham, dễ dẫn người tham lọt vào hồ nghi, dùng
tâm đi tìm hiểu. Còn thoại đầu chẳng có chuyện tích nào cả, chỉ là
một câu hỏi, tự mình hỏi mình, hễ không hiểu thì đáp không ra, thắc
mắc tức là tham vậy. Rất đơn giản, dễ tham, chỉ có một câu, dễ
phát khởi chánh nghi. Chánh nghi chỉ cho tâm nghi, không cho tâm đi tìm . Sự
tiến bộ của tham thoại đầu chẳng kém hơn công án, nên tôi chỉ dạy
người tham thoại đầu mà không dạy người tham công án là vậy.
Hỏi : Tham
thiền và Thiền có khác nhau không ?
Đáp : Chữ THIỀN là tiếng
Aán Độ, gọi là Thiền Na, gồm phàm phu thiền, Đại thừa thiền v.v.đủ
thứ thiền mênh mông. Nói THAM THIỀN là tham Tổ Sư Thiền, thuộc giáo ngoại
biệt truyền, chỉ có một thôi, ngoài ra chẳng còn cái khác.
Tất cả thiền Giáo môn
đều có giáo lý, có thiền quán, Tổ Sư Thiền thì tất cả giáo lý đều
quét sạch, chỉ là tham công án hoặc thoại đầu để khởi lên nghi tình.
Tổ Sư Thiền ở ngoài giáo lý nhưng lại chẳng phải không đúng với
giáo lý; khỏi cần giáo lý nhưng lại lấy kinh giáo ấn chứng cũng được;
quét sạch tất cả giáo lý nhưng đến lúc ngộ rồi lại thuyết giáo lý,
như Phật Thích Ca ngộ rồi, nói ra đều là giáo lý (Kinh), nên Tổ Sư Thiền
khác hơn tất cả thiền .
Hỏi : Thế
nào là nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao ?
Đáp : Phật pháp nói
"Nhất thiết duy tâm tạo", nhắm mắt chiêm bao là ban đêm ngủ ,
trong chiêm bao, ý thức của mình tạo ra cái thân chiêm bao, tiếp xúc người
trong chiêm bao, có người quen kẻ lạ, tiếp xúc thế giới chiêm bao, núi
sông đất đai, nhà cửa cây cối. Trong chiêm bao chẳng cần cái thân tiếp
xúc cũng biết nóng lạnh, biết ngon dở, biết khổ vui. Tất cả đều do một
mình thức thứ sáu biến hiện, còm năm thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân
đang nghỉ ngơi, trong trạng thái ngưng hoạt động, nên gọi "Độc đầu
ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao".
Còn mở mắt chiêm bao là
do đồng-thời-ý-thức biến hiện. Sao gọi Đồng thời ý thức ? Tiền ngũ
thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân hoạt động như thường, mắt thấy cảnh
vật là do nhãn thức và ý thức đồng thời khởi lên; nhĩ thức nghe được
tiếng , nhưng chưa thể phân biệt là tiếng gì: Tiếng chim hay tiếng người,
nam hay nữ, già hay trẻ lớn nhỏ. phải có ý thức mới phân biệt rõ
ràng. Ngược lại, nếu chỉ có ý thức mà không có nhĩ thức thì chẳng
thể nghe, nên gọi "đồng thời ý thức biến hiện".
Độc đầu ý thức là do
tâm tạo, đồng thời ý thức cũng là do tâm tạo, nên Phật pháp nói
"ngủ" là nhắm mắt chiêm bao, "thức" là mở mắt chiêm
bao, cũng là ở trong chiêm bao.
Hỏi : Thế
nào là độc-ảnh-cảnh và đới-chất-cảnh ?
Đáp : Đó là danh từ Phật
học : Độc-ảnh-cảnh là chỉ nghe theo cái bóng có tiếng, chẳng có thật
chất, chẳng phát lên tiếng. Ví như người đang ngủ nói chuyện với người
trong chiêm bao, mặc dù người thức ngồi ở bên cạnh nhưng không thể
nghe được tiếng nói giữa họ, gọi là độc ảnh cảnh.
Đới-chất-cảnh : Đới
nghĩa là kèm theo, kèm theo cái chất của tiếng : Như nay tôi thuyết pháp
thì tiếng thuyết pháp của tôi mọi người đều nghe được, gọi là đới-chất-cảnh.
Thật ra, đới chất cảnh
và độc ảnh cảnh đều là do tâm tạo, hễ ở trong chiêm bao tham thiền với
ban ngày tham thiền đều giống nhau. Vả lại, trong chiêm bao tham thiền được
thì công phu đã tiến bộ. Nhắm mắt chiêm bao là chiêm bao, mở mắt chiêm
bao cũng là chiêm bao, tự tánh vốn chẳng có hai, vì muốn diễn đạt cho
người hiểu nên nói thành hai.
Hỏi : Tham
thiền có chướng ngại việc làm không?
Đáp : Thiền tông rất
thích hợp với mọi tầng lớp xã hội, vì những Phật tử tham thiền bất
cứ làm kỹ nghệ gì, trong lúc làm việc, vừa làm vừa tham, năng suất sản
xuất đều tăng gấp bội. Tôi thường dạy người tham Thiền phải đem việc
tham thiền đặt ở hàng đầu, có người nói :" Trong lu gạo của con
chẳng còn hạt gạo thì tham thiền sao được !" Thật ra, việc tham thiền
đâu có chướng ngại việc kiếm cơm ? Ai làm nghề gì cứ y theo nghề cũ,
chẳng những không chướng ngại việc kiếm cơm, còn giúp tăng thêm thu nhập
nữa !
Ví như có vài chục Phật
tử vừa tham thiền vừa may, sản phẩm mau hơn bình thường gấp bội, thậm
chí còn hơn ! Chẳng những mau, lại còn đề cao chất lượng. Có một Phật
tử làm nghề vô mực bút bi, trước kia chưa tham thiền, từ sáng đến chiều
chỉ vô được 40 cây bút, sau khi tham thiền rồi, sản phẩm chẳng những
tăng lên, lại cây bút nào cũng viết được tốt, ra mực đều đặn, không
như lúc trước, có cây thì viết được, có cây thì không. Bất cứ làm
công việc gì, bằng tay chân hay trí óc cũng thế.
Có một cô tên Hằng Thiền,
làm nghề cắt may, bắt đầu tham thiền từ năm 1979. Một hôm cô vừa tham
vừa cắt, bất giác quên để ý đến việc cắt may, đến lúc sực nhớ
thì áo đã cắt xong, tự nghĩ "Nãy giờ lo tham không để ý đến ni tấc,
lần này chắc phải đền cho người khách rồi !" Không ngờ kiểm tra
lại thì không cắt lộn, áo may xong lại được khách khen là vừa ý. Từ
đó về sau cứ yên tâm vừa tham vừa cắt mà không bị sai, người em hỏi
cô ấy cắt bao nhiêu tấc bao nhiêu phân thì trả lời là không biết ! Chợt
nghe rất vô lý, nhưng thật tế là vậy.
Tại sao không để ý mà
lại không sai ? Tôi thường nói :"Dụng của tự tánh automatic, chẳng cần
qua sự tác ý của bộ não, hễ suy nghĩ là chậm trễ rồi. Nên tôi nói
"người tham thiền bất cứ làm việc gì đều tham được", nghi tình
quen thuộc rồi sẽ có sự dụng automatic, chẳng cần tác ý, kể cả công
việc tính toán sổ sách; bình thường hễ sơ ý là dễ tính sai, nhưng khi
tham thiền khởi dụng automatic không bị nhầm lẫn, điều này đã được
chứng tỏ bởi nhiều Phật tử.
Lại, các Tổ sư dạy rằng
tham Thiền chẳng cần phải tập ngồi thiền để tập tham, mà là vừa
làm việc vừa tập tham, Mặc dù nếu tập tham bằng cách ngồi sẽ nhanh hơn,
vừa làm vừa tham sẽ chậm hơn. Ví như tập ngồi để tham thì một tháng
có thể quen được, vừa làm vừa tham phải tốn một năm mới có thể
quen. Người vừa làm vừa tham tốn một năm để quen, nhưng có thể ba năm
kiến tánh; mà người tập ngồi trong một tháng đã quen lại phải tốn ba
trăm năm, có khi không được kiến tánh ! Lúc đầu thì nhanh nhưng về sau
lại chậm, ban đầu thấy chậm nhưng thật sự lại nhanh. Nên Tổ sư muốn
mình ở nơi động tập tham mà quen chứ không nên ở nơi tịnh mà hạ thủ
công phu; tu là phải lúc đang làm việc mà tu chứ không phải ngồi không
mà tu. Nay nhiều người thích nhập thất để tu, kỳ thật Thiền tông là
không cho nhập thất, phải đợi sau khi ngộ rồi bảo nhiệm mới cho nhập
thất, nên Thiền tông có câu "Bất phá Trùng quan bất bế quan".
Hỏi : Khi
dự Thiền thất, phải tuân thủ quy củ của Thiền đường như thế nào ?
Đáp : Thiền thất là nơi
cho người thực tập tu hành, Quy củ Thiền đường ở Trung Quốc rất nghiêm
khắc, nay ở đây tuy phương tiện nhưng cũng phải có quy củ , để tránh
ảnh hưởng đến ngưòi khác.
- Ở Thiền đường, lúc đi
hương hoặc tọa hương không được nói chuyện, cười giỡn; nếu nói
chuyện hoặc cười giỡn, chẳng những chướng ngại mình, còn chướng ngại
đến người khác.
- Khi ra ngoài đại tiểu
tiện không được đứng ở ngoài hành lang đàm tiếu, đi xong liền trở vào
Thiền đường.
- Không cho con nít đi
theo, trừ khi đứa bé ấy biết tham thiền.
- Ở Thiền đường Trung
Quốc có người tuần hương, hễ phạm quy cũ là hương bảng đánh xuống
liền. Ở đây dù không đánh hương bảng, nhưng hễ phạm quy củ là không
cho dự Thiền thất.
Hỏi : Tham
thoại đầu làm sao biết là mình tinh tấn ?
Đáp : Muốn biết tinh tấn
rất dễ : Tham Thiền cần sự miên mật, kéo dài và không kẻ hở. Đề lên
câu thoại đầu hỏi lần thứ nhất, không hiểu; hỏi tiếp lần thứ hai,
vẫn không hiểu, hỏi tiếp lần thứ ba. Cứ hỏi mãi, liên tiếp chẳng ngừng,
chẳng có kẻ hở, ngày đêm hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn.
Nay bắt đầu tập tham, hai
mươi bốn tiếng gián đoạn hết hai mươi ba tiếng, dần dần tiến bộ còn
lại hai mươi hai tiếng, rồi tiến bộ thêm còn hai mươi mốt tiếng. Hễ
gián đoạn giảm nhiều là tiến bộ nhanh, chứ chẳng phải có thấy hoa,
thấy ánh sáng, thấy có Phật Thích Ca đến sờ đầu thọ ký v.v.ấy chẳng
phải là tiến bộ, phải quét sạch.
Tinh tấn là nghi tình bớt
đi sự gián đoạn, Ví như Lai Quả Thiền sư nói :" Nếu công phu của
mình hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn tức công phu thành khối, cũng là
đến chỗ đầu sào trăm thước; chỗ này là nguồn gốc của ý thức, tiến
thêm một bước nữa là rời khỏi ý thức, là kiến tánh. Đến được chỗ
này rồi không cần ngộ cũng được."
Tại sao ? Khi chúng ta chưa
tham Thiền, suốt ngày vọng tưởng, có vọng tưởng thì có tướng, ví như
nghĩ đến Chợ Bến Thành thì hiện lên tướng của Chợ Bến Thành, nghĩ
đến thành phố Hà Nội hiện lên tướng của thành phố Hà Nội . Có tướng
thì Diêm La Vương thấy được, có thể sai tiểu quỷ đến bắt; nghi tình
chẳng có hình tướng, chẳng hình tướng thì Diêm La Vương chẳng thể thấy,
cũng chẳng thể sai tiểu quỷ đến bắt được. Hễ Diêm La Vương thấy tức
có sanh tử, Diêm La Vương chẳng thấy thì sanh tử không còn. Khi nghi tình
thành khối, mặc dù chưa kiến tánh, nhưng cũng đối phó với Diêm La Vương
được rồi, nên nói không ngộ cũng được.
Nhưng nếu công phu đến
đó rồi muốn không kiến tánh cũng chẳng được, ví như đã đến Sài
Gòn muốn không tới cũng chẳng được. Công phu đến đó rồi tự nhiên sẽ
được ngộ.
Hỏi : Thiền
thoại đầu bắt đầu từ đâu ?
Đáp : Tổ Sư Thiền từ
đời Phật Thích Ca truyền lại cho ngài Ma Ha Ca Diếp làm Sơ Tổ, ngài A
Nan là Nhị Tổ, từng đời truyền xuống đến Tổ thứ hai mươi tám là
ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc, sau đó chia thành năm phái :
Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Qui Ngưỡng, Vân Môn. Nói năm phái kỳ thât
chỉ là một, do thủ đoạn của các Tổ sư khác nhau, khiến người tham
Thiền phát khởi nghi tình mà chẳng tự biết là mình đang tham. Ngài Lai Quả
Thiền sư trong cuốn Thiền Thất Khai Thị Lục nói " Vô tham tức
chơn tham", không biết mình đang tham Thiền thì dồn hết bao nhiêu tâm
sức đến chỗ nghi, nên sức dụng rất mạnh, khi cơ duyên chín mùi, hễ
điểm một cái là ngộ triệt để, thấu suốt tam quan.
Thủ đoạn của mỗi tông
phái khác nhau, ví như năm người làm năm món ăn khác nhau, mỗi mỗi tự
có đặc sắc, mặc dù món đó bốn người kia vẫn biết làm nhưng không
ngon bằng. Người tham Thiền cảm thấy thích hợp với thủ đoạn của tông
phái nào thì đến ngay Tổ Sư tông phái đó để khiến cho mau kiến tánh.
Dù thủ đoạn của năm phái khác nhau nhưng sự ngộ chẳng khác.
- Ví như ngài Đạo Lâm
Thiền sư có một thị giả tên là Biện Trung, ba năm chẳng được dạy bảo
tham Thiền gì cả, trong tâm rất nghi mà chẳng tự biết, cứ thắc mắc
"tại sao thầy mình chẳng chịu dạy bảo học đạo, chỉ bắt mình suốt
ngày làm việc, bới cơm, xách nước, quét dọn." Như thế trải qua ba
năm, nhân duyên đã chín mùi, một hôm từ giã Sư rằng :" Con xuất gia
là vì học đạo, nhưng đến đây đã ba năm mà chẳng được thầy dạy bảo
gì, nay con xin đi chỗ khác."
Sư hỏi :" Đi chỗ khác
làm gì ?"
Đáp : " Học Phật
pháp".
Sư nói :" Phật pháp
thì ở đây cũng có chút ít".
Hỏi : " Là cái gì
?"
Đạo Lâm Thiền sư nhổ một
sợi lông trên tà áo thổi trước mặt thị giả, khiến y liền ngộ. Ấy
cũng là thủ đoạn của Tổ Sư, chẳng cần nói năng dạy bảo, làm cho
hành giả tự sinh nghi, thời tiết chín mùi là ngộ.
- Thiền Sư Từ Minh ở
Long Vân hai năm, hễ mỗi lần hỏi pháp là bị thầy chửi mắng thậm tệ
còn hơn người thế gian, tự phát khởi nghi tình nặng mà chẳng hay biết.
Một hôm đi hỏi pháp lại bị thầy mắng và dùng cây muốn đánh, Sư nói
:" Thầy làm như thế đâu phải là người dạy tham Thiền !"
Thầy nghe rồi càng giận,
Sư tính mở miệng muốn cãi, thầy lấy tay bịt miệng Sư lại, Sư liền
ngộ. Ấy cũng là thủ đoạn của Tổ Sư.
- Như Tổ sư Lâm Tế hỏi
pháp ba lần bị đánh đuổi ba lần, ấy cũng là thủ đoạn của Tổ Sư vậy.
- Trước đời nhà Tống,
ở Trung Quốc chẳng có sự tham công án thoại đầu, sau đời nhà Tống,
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ra đời, ghi chép tất cả thủ đoạn của
Tổ sư, khiến người tham Thiền biết hết các thủ đoạn đó nên chẳng
phát được nghi tình, bất đắc dĩ dạy tham thoại đầu công án, do sức
nghi yếu nên người kiến tánh cũng ít, muốn đến được chỗ "Vô
tham tức chơn tham", phải tốn hết biết bao nhiêu công sức và thời
gian.
Hỏi : Thiền
Mặc Chiếu có phải thuộc Tông Tào Động không ?
Đáp : Ai nói Thiền Mặc
Chiếu thuộc Tông Tào Động là người ấy phải đọa địa ngục. Mặc
chiếu là tà thiền, Tông Tào Động là chánh tông, chẳng thể là mặc chiếu.
Trong cuốn Lá Thư Thiền của ngài Đại Huệ chỉ trích về mặc chiếu
tà thiền, có thể xem cuốn sách đó để hiểu biết mặc chiếu tà thiền
là như thế nào. Hiện nay loại Nhất Cấp Thiền chẳng có phần thực
hành, chỉ xem qua Truyền Đăng Lục rồi lấy ý mình thay cho ý của Tổ
Sư. Mặc chiếu là trụ tâm ở một nơi, Kinh Kim Cang nói "Ưng vô sở
trụ", Kinh Pháp Bảo Đàn nói "Lấy vô trụ làm gốc", Thiền
tông đâu thể để tâm trụ ở nơi nào ! Ấy là nghịch với ý của Tổ,
nên nói là tà thiền.
Tại sao Phật với Tổ dạy
mình phải VÔ SỞ TRỤ ? Tôi dùng cánh tay để thí dụ : Tay mình vốn hoạt
bát vạn năng, lấy gì cũng được, nay hễ trụ ở một nơi chẳng chịu
buông, như tay nắm chặt cây viết thì đánh mất tánh hoạt bát vạn năng
của tay, nên Tổ Sư dạy là phải quét, quét rồi mới khôi phục lại
tánh hoạt bát vạn năng. Cây viết là vật có, nay không trụ nơi có mà trụ
ở nơi không, thì tánh hoạt bát vạn năng ấy cũng bị đánh mất, cũng phải
quét rồi mới khôi phục lại sự hoạt bát vạn năng của Tự Tánh, cho
nên phải vô sở trụ, lấy vô trụ làm gốc.
Hỏi : Làm
thế nào để phân biệt Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền ?
Đáp : Như Lai Thiền có
đẳng cấp, Tổ Sư Thiền thì chẳng có đẳng cấp, chẳng cần trải qua
đẳng cấp, từ địa vị phàm phu thẳng đến quả Phật. Nay tất cả Giáo
môn đều thực dụng Như Lai Thiền. Giáo môn ở Trung Quốc chia làm bốn
tông : Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức. Thiền quán của Tông
Thiên Thai là Chỉ QuánThiền, Tông Hiền Thủ là Pháp Giới Quán Thiền,
Tông Tam Luận là Táùch Không Quán thiền, Tông Duy Thức là Tứ Tầm Tư Quán
Thiền. Thiền quán của quán tưởng chia ra từng cấp bậc, như trong kinh
Lăng Nghiêm nói có năm mươi bảy cấp, có nơi là năm mươi lăm cấp, thường
là : Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng
giác, Diệu giác, Càn Huệ Địa và Tứ Gia Hạnh. Còn Tổ Sư Thiền thì
không có đẳng cấp, địa vị phàm phu hễ ngộ triệt để là Phật.
Hỏi : Tại
sao không có nhân quả là Tà kiến ?
Đáp : Không có nhân quả,
không thừa nhận nhân quả là tà kiến. Còn biên kiến là chấp vào một
bên. Tất cả vũ trụ vạn vật, hễ nói ra được, dùng tâm suy nghĩ ra
được đều có đối đãi. Ví như CÓ và KHÔNG : Chấp có là thật, ấy
là biên kiến, chấp không là thật cũng là biên kiến; chấp CHƠN là thật,
là biên kiến, chấp VỌNG là thật cũng là biên kiến. Bất cứ chấp vào
một bên nào đều là biên kiến.
Giới cấm thủ cũng là một
thứ ác kiến: Ví như ở Ấn Độ là cấm ăn thịt heo, nếu có người thách
thức hễ dám ăn thịt heo là cao nhất; tức là cho dám làm một thứ giới
cấm nào cao nhất gọi là giới-cấm-thủ.
Hỏi : Có
được cái dụng của Tự tánh có phải là kiến tánh không ?
Đáp : Có được cái dụng
của Tự tánh chưa phải kiến tánh. Nay cũng có nhiều Phật tử khi nghi
tình nặng cũng có thể phát huy được sự dụng của Tự tánh, ví như
trường hợp của Trương Quốc Anh, hoặc nhiều người đi xe máy đang tham
thiền, chẳng để ý đến xe cộ bên cạnh mà vẫn an toàn, không bị xe đụng
phải, ấy cũng có thể nói là sức dụng của Tự tánh. Có người đang
tham thiền tính toán sổ sách không bị sai, ấy cũng là sức dụng của Tự
tánh. Cái dụng automatic của Tự tánh không qua bộ óc, hễ qua óc là có
suy nghĩ thì chẳng phải là cái dụng automatic của Tự tánh rồi.
Nhưng hiện ra sức dụng
của Tự tánh chưa phải kiến tánh, chỉ có thể nói là nghi tình nặng, đạt
đến đại nghi thôi. Sự kiến tánh là ngộ được mình là cái gì rồi,
làm chủ được mình, thoát khỏi sanh tử luân hồi và cắt đứt quan hệ
với Diêm La Vương.
Hỏi : Thầy
nói không được lấy vọng đè nén vọng, thế thì biết được đó là vọng
mà mình không theo nó, có được không ?
Đáp : Không được. Không
được biết vọng, chẳng những có vọng tưởng không biết được, nếu
đã biết được vọng là không phải rồi, đừng có biết đến nó. Hãy mặc
kệ nó : Vọng tưởng nổi lên bao nhiêu không biết tới; chẳng những có
vọng tưởng không biết tới, không có vọng tưởng cũng đừng biết tới.
Biết cũng không được, hễ biết là kẹt.
Hỏi : TRI
VỌNG có phải là chánh niệm không ?
Đáp : TRI tức là VỌNG.
Kinh Lăng Nghiêm nói :" Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn", cái tri
ấy là căn bản vô minh; " Tri giác nãi chúng sanh", chẳng những tri
là vọng, bốn bài kệ của ngài Vĩnh Gia Thiền sư " Nhược dĩ tri tri
tịch, thử phi vô duyên tri", tịch là tịnh, tịnh thì chẳng có vọng
rồi, nhưng vẫn còn là vọng, chẳng phải là vô duyên tri của Tự tánh. Sự
tri của Tự tánh chẳng nhờ nhân duyên, không có đối đãi, nay có cái tri
để tri tịch, tri là năng tri, tịch là sở tri, có năng sở tức là vọng,
ấy là đã cao hơn vấn đề tri vọng. Vì tri vọng chưa phải tịch, tịch
là hết vọng nhưng vẫn còn năng sở, như người dùng tay cầm cây như ý,
chẳng phải là tay không có cây như ý. Tay cầm cây như ý rồi thì lấy
cái khác không được, chướng ngại sự dụng của Tự tánh, nên phải
quét. Tri tịch còn phải quét, nói gì tri vọng !
- Bài kệ thứ hai : "
Nhược dĩ tự tri tri, diệc phi vô duyên tri", tức tự biết mình có
cái tâm tri ở trong. Động tịnh là ngoại cảnh, nay không tri ngoài mà tự
biết mình có cái tri, tức cái năng tri ở bài kệ thứ nhất trở thành sở
tri ở bài kệ thứ hai, mặc dù chẳng đối với ngoại cảnh động hay tịnh,
nhưng cái "Tự biết có cái tri" đó cũng là sở tri, nên vẫn chẳng
phải vô duyên tri không có đối đãi của Tự tánh. Ví như tay chẳng cầm
cây như ý (ngoại vật) mà tự nắm thành quyền, chứ chẳng phải ø tay
không có nắm lại, như thế vẫn chướng ngại sự dụng hoạt bát vạn năng
của Tự tánh, không thể sử dụng được. Nên ông nói " tri vọng là
chánh niệm" ấy là sai.
Trên đây nói đến ba thứ
: Tự tri, tri tịch và tri vọng. Tự tri là căn bản của vô minh, trong Kinh
Lăng Nghiêm " Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến, tư
tức Niết Bàn". Bây giờ tôi dẫn dụ lời Phật để giải thích thêm
:
TRI KIẾN LẬP TRI; hai chữ
TRI KIẾN, Phật gọi là thế lưu bố tưởng; lưu là lưu hành, bố là phổ
biến. Trong kinh Niết Bàn, ngài Ca Diếp hỏi Phật : " Tại sao bậc
Thánh có điên đảo tưởng mà chẳng có phiền não? "
Phật bảo :" Sao nói
bậc Thánh có điên đảo tưởng ?"
Ca Diếp nói :" Bậc
Thánh thấy con trâu vẫn gọi là trâu, thấy con ngựa cũng gọi là ngựa,
ấy chẳng phải là điên đảo tưởng ư !"
Phật bảo : " Tưởng
có hai thứ: Một là thế lưu bố tưởng, tức thế gian đã lưu hành phổ
biến, hai là trước tưởng. Phàm phu ở nơi thế lưu bố tưởng sanh ra
trước tưởng, nên mới gọi là điên đảo tưởng, bậc Thánh chỉ có thế
lưu bố tưởng, không có trước tưởng nên chẳng sanh điên đảo tưởng
".
Hai chữ "Tri kiến"
là thế lưu bố tưởng, nhưng hễ lập TRI tức là trước tưởng. Lập tri
cũng là tự tri, là căn bản vô minh, từ căn bản ấy mới sanh ra tri tịch,
mặc dù cái tri ấy chưa phải là vọng, là yên tịnh, tức cái vọng vi tế.
Cho nên, cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng trong nữa đại kiếp không có vọng
tưởng, tức tịch tịnh được nữa đại kiếp __Một đại kiếp gồm bốn
trung kiếp, một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, một tiểu kiếp có mười
sáu triệu năm. Nữa đại kiếp tức có bốn mươi tiểu kiếp __ Hãy tính
thử thời gian đó là bao nhiêu triệu năm ? Biết cái tịch tịnh ấy trong
một thời gian dài như thế vẫn chưa được ra khỏi luân hồi, huống là
tri vọng ! Tự tri vẫn còn không được, nói gì tri vọng ! Nên biết tri vọng
là không đúng .
- Trong Pháp Bảo Đàn Kinh
nói về vấn đề " Chánh niệm" rằng "Vô niệm niệm tức
chánh", vô niệm mới là chánh niệm. Lại, ngài Lục Tổ sợ người hiểu
lầm hai chữ VÔ NIỆM thành niệm đoạn diệt, nên giải thích thêm :"
Hễ niệm đoạn diệt tức là chết, phải đầu thai đổi lấy thân
khác", nên vô niệm chẳng phải là niệm đoạn diệt. Ngài lại giải
thích :" Lục thức ra cửa lục căn, ở ngoài lục trần, chẳng nhiễm
chẳng trước ấy mới là vô niệm" chứ chẳng phải đoạn diệt, đoạn
diệt tức là chết. Chẳng sanh ra trước tưởng mới là vô niệm, hễ sanh
ra trước tưởng tức có niệm; chẳng sanh ra trước tưởng chứ chẳng phải
không có thế lưu bố tưởng. Trong kinh Pháp Bảo Đàn không cho giữ
"Niệm chánh", tà chánh đều phải quét, bởi chánh với tà là tương
đối. Ở Thiền tông là không cho giữ bất cứ cái gì, luôn cả chánh niệm
cũng phải quét.
Hỏi : TRI
HUYỂN TỨC LY như thế nào ?
Đáp : Câu sau của
"Tri huyển tức ly" là " Bất tác phương tiện" , tức không
cho làm phương tiện. Nay lấy câu "Tri huyển tức ly" làm phương tiện
để buông bỏ vọng là sai, là không được. Tiếp theo đó là câu " Ly
huyển tức giác, diệc vô tiệm thứ". Nay muốn lấy cái tri để trừ
bỏ vọng, thì ấy có phải là phương tiện không ? Hễ là phương tiện thì
chẳng được vậy, là vi phạm lời của Phật, của Kinh rồi ! Nên Kinh
Viên Giác ở đoạn sau có hai mươi lăm thứ thiền quán, chỉ là tu thiền
quán, chẳng biết về vọng tưởng mới có thể lìa được, nếu muốn lìa
vọng tưởng là không được. Chẳng những cái tri là vọng, vô tri cũng là
vọng. Trong Pháp Bảo đàn Kinh, ngài Lục Tổ mắng Thần Hội rằng :"
Dẫu cho sau này ra hoằng pháp cũng chỉ là bọn tri giải ", nên vấn đề
tri giải ở bên Thiền tông rất kî, phải quét sạch.
- Trong quyển hai của Kinh
Lăng Nghiêm, Phật cũng giải thích rất rõ về hai chữ "Kiến Kiến".
Vấn đề này nhiều người cũng giảng sai : Có người cho chữ KIẾN trước
là năng, KIẾN sau là sở, nhưng sự thật thì "Kiến kiến" là kiến
tánh, là cái kiến không có bệnh, nay nếu dùng cái tri kiến có bệnh để
thảo luận vấn đề này thì hết kiếp này qua kiếp khác cũng không giải
được.
- Tri kiến của chúng sanh
là cái bệnh từ vô thỉ đến nay, do con mắt bệnh mới thấy hoa đốm trên
không, cho nên nói "Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do
ly kiến, kiến bất năng cập". Hai chữ KIẾN KIẾN là tự tánh tự hiện,
là kiến tánh, chứ chẳng phải có người dùng cái năng kiến để kiến cái
sở kiến.
- Kinh Kim Cang nói :"
Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất
đắc kiến Như Lai". Chữ TÀ ấy chẳng phải nói ngoại đạo tà ma,
mà là không đúng với chánh pháp, nên gọi là tà. Do có chánh nên có tà,
chánh còn phải quét, nói chi đến tà ! Như ở lập trường của Tổ Sư
Thiền thì pháp nào chẳng đúng theo tông chỉ của Tổ Sư Thiền thì gọi
là tà. Cũng như nói đến hai chữ "ngoại đạo" vốn chẳng phải
có ý khinh khi, vì đối với bổn đạo mà nói, nếu không thuộc phạm vi của
bổn đạo gọi là ngoại đạo, cũng như chẳng phải bổn quốc thì gọi
là ngoại quốc. Chư Phật rất sợ chúng sanh chấp vào văn tự lời nói ,
hễ chấp lời thì nghịch ý .
Hỏi : Tại
sao ngài Lục Tổ dạy người dùng ba mươi sáu pháp đối khi có người hỏi
pháp ?
Đáp : Ấy là thủ đoạn
của Phật của Tổ để phá chấp chúng sanh, bởi vì "Nhất thiết duy
tâm tạo", tâm tạo vốn chẳng có thật, do bệnh của chúng sanh ham chấp
thật nên hễ chấp vào cái đen thì Tổ nói là trắng; hễ chấp vào cái
trắng thì Tổ nói là đen. Nhưng lúc Tổ nói "Trắng", ý của Tổ
chẳng phải là trắng; lúc Tổ nói "đen", ý của Tổ chẳng phải
là đen, chỉ là phá cái chấp của chúng sanh, trị bệnh chấp thật của
chúng sanh mà thôi. Do bệnh của chúng sanh là bệnh giả, nên thuốc của Tổ
cũng là thuốc giả, nếu chấp vào lời Tổ là sai lầm.
Hỏi : Sư
phụ nói đến ba thứ tri vọng, tri tịch và tự tri; tri vọng và tri tịch
dễ dẹp, còn tự tri thì đối trị như thế nào ?
Đáp : Kinh Lăng Nghiêm
nói "Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn", cái "Lập tri"
ấy tức là tự tri. Thế gian nói "Tri", nói "kiến" ấy là
thế lưu bố tưởng, Phật cũng nói là tri là kiến , nhưng không có chấp
cái tri ấy là thật, nên chẳng có lập tri, nên nói "Tri kiến vô kiến,
tư tức Niết bàn". Nay do tập khí từ lâu đời, chúng ta việc gì cũng
muốn tri, muốn kiến, Phật muốn thuyết pháp độ chúng sanh cũng phải tùy
thuận chúng sanh,cũng phải nói tri, nói kiến, nhưng không chấp đó là thật;
hễ chấp thật tức tự lập cái tri, là căn bản của vô minh, nếu không
kiến lập tức Niết bàn. Trong Kinh Lăng nghiêm nói "Tại sao và khi nào
phát sinh cái vô minh ? Ấy là bởi cái giác có minh, chính cái
"minh" đó là tri. Từ sở minh lập ra năng minh, do tri đó mới sanh
ra tri tịch và tri vọng; từ minh đó sanh ra năng minh sở minh, năng chiếu sở
chiếu, hễ năng sở lập thì tánh chiếu bị đánh mất.
Tự tánh chẳng phải tri,
chẳng phải vô tri, chẳng thể dùng lời của thế gian diễn tả , nhưng vì
lời của thế gian nói tri nói kiến là thế lưu bố tưởng, nên Phật phải
nói tri nói kiến. Thật ra Tự tánh chẳng thể kiến lập cái tri, hễ có
kiến lập tức là chúng sanh, tức là bệnh. Nói chữ "vọng" cũng
chỉ là thế lưu bố tưởng, nếu chấp thật có vọng thì sanh ra trước
tưởng, nếu vọng chẳng phải thật thì buông bỏ cái gì ? Có tâm muốn
buông bỏ đã là chấp cái vọng là thật rồi! Nên trong Thiền tông, Tổ sư
kiến tánh có bài kệ rằng :
Nhược nhơn kiến huyển
bổn lai chơn,
Thị tắc danh vi kiến Phật
nhơn".
Ý nói nếu người nào thấy
huyển vốn là chơn thì người ấy tức đã thấy Phật vậy.
Hỏi : Người
tham Thiền cần lấy nghi lễ giới luật để tu không ?
Đáp : Lai Quả Thiền sư
thí dụ rằng :" Tự tánh của mình vốn minh" ; Kinh Lăng Nghiêm
nói:" Tại sao có vô minh ? Tại do tự mình kiến lập cái
"minh", minh đã kiến lập thì phải có sở minh, có năng có sở
thì minh của Tự tánh mất đi, thành cái vọng minh, sự thông minh trí tuệ
của thế gian đều là vọng minh, chẳng phải cái minh automatic của Tự
tánh không qua sự tác ý. Nếu dùng nghi lễ giới luật để tu cũng có thể
dần dần tập cho thành thói quen và tập đến giải thoát nhưng rất chậm;
nay dùng phương pháp tham thiền thì tác dụng nhanh, nhưng cũng không được
rời bỏ giới luật, vì đó là pháp căn bản. Bất cứ tông phái nào cũng
không được rời bỏ giới luật. Như Hòa thượng Bác Sơn Đời nhà Minh,
Ngài là Tổ Sư của phái Tào Động đồng thời làm Tổ của Luật tông,
Thiền Luật đi song song, Lai Quả Thiền sư, Hư Vân Thiền sư cũng vậy.
Hỏi : Tham
Thiền như từ lớp một nhảy vọt lên lớp mười hai thì căn bản làm sao
vững được ?
Đáp : Nói từ lớp một
nhảy vọt lên lớp mười hai" ấy là theo quan niệm chấp thật của thế
gian, là phải theo thứ lớp. Nhưng Tự tánh vốn bất nhị, chẳng những bất
nhị, một cũng chẳng thể kiến lập. Vì hễ kiến lập số một là lọt
vào số lượng, rồi thành hai, ba v.v... Nếu không chấp thật thì thứ lớp
từ đâu ra ? Tại chấp tâm của mình phân biệt nên có đủ thứ sai biệt.
Ý của Bát Nhã Tâm Kinh là muốn làm cho muôn ngàn sai biệt đạt đến chỗ
chẳng có sai biệt, là bất nhị.
Nay tham Thiền là muốn đạt
đến Tự tánh bất nhị, chứ không có thứ lớp cấp bậc. Bởi do chúng
sanh có bệnh chấp thật nên mới đặt ra cấp bậc trong Giáo môn. Lại,
tùy theo bệnh chấp của chúng sanh mà Phật thuyết cấp bậc trong các kinh
có kinh nhiều có kinh ít., còn Thiền tông thuộc giáo ngoại biệt truyền,
trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật, nên quét sạch tất cả, chỉ
cho tự mình ngộ nhập tâm mình chứ chẳng cần theo cấp bậc.
Hỏi : Thế
nào là kiến tánh ?
Đáp : Nói KIẾN TÁNH chẳng
phải là "Ta thấy được Phật tánh của ta", nếu như thế chẳng
phải là kiến tánh, vì có cái TA là năng và PHẬT TÁNH là sở, có năng sở
thì chẳng phải kiến tánh. Kiến tánh là chấp tâm đã quét sạch, như tấm
gương vốn sẳn chiếu soi , chứ chẳng phải nhờ quét sạch bụi bậm mới
thành tấm gương. Ánh sáng tự chiếu soi của tấm gương đã sẳn, chỉ
vì bụi bậm nên chẳng thể hiện ra ánh sáng thôi. Cũng vậy, nay chúng ta
tu hành, chẳng phải nhờ sự tu mới thành tấm gương, vốn đã sẳn có,
chỉ nhờ quét sạch bụi bậm mới hiển hiện sự dụng thôi. Mặc dù nay
ở địa vị phàm phu, nhưng diệu dụng chẳng kém hơn Phật Thích Ca một
tí nào, cũng chẳng kém hơn chư Phật một tí nào cả, đều bằng nhau,
nhưng của chư Phật thì được phát huy ra hết, của phàm phu do bụi bậm
che lắp nên chưa được phát huy.
Hỏi : Vì
sao nói là "Đợi thời tiết nhân duyên để ngộ" ?
Đáp : Nói "Thời tiết
nhân duyên" không phải có sự tác ý muốn sắp đặt thời tiết, muốn
tạo ra nhân duyên, chỉ là đề lên câu thoại đầu phát khởi nghi tình.
Như tôi thường nói, sự gián đoạn từ hai mươi bốn tiếng rút dần còn
hai mươi ba tiếng, rồi hai mươi hai tiếng. bớt dần đến lúc không còn
gián đoạn, sẽ thành khối, lúc ấy là thời tiết và nhân duyên thuần thục,
là tự động chứ không do mình tác ý sắp đặt. Có tác ý sắp đặt là
chướng ngại cho nghi tình của mình, không được ngộ.
Khi công phu được thành
khối, thời tiết đã đến, bị người đánh một bạt tai cũng ngộ, hoặc
bị đánh một cái liền ngộ, hoặc có người nghe tiếng hát liền ngộ,
có người vấp té liền ngộ,, thình lình thấy con khỉ leo cây cũng ngộ,
ấy là nhân duyên, chứ chẳng phải do đánh bạt tai hoặc do mình sắp đặt
mà ngộ.
Hỏi : Tham
thiền có bị năm mươi thứ ngũ ấm ma quấy phá không ?
Đáp : Không. Giáo môn
chú trọng về ngồi thiền, nhiều người đi không đúng theo tông chỉ của
Phật dạy, không phá ngã chấp. Ví như nhiều người cho trì chú là tu Mật
tông, kỳ thật chẳng phải, chẳng đúng theo tông chỉ của Mật tông,, chỉ
lấy câu chú đè nén vọng tưởng mà không phá ngã chấp, chẳng khác gì lấy
đá đè cỏ, đè nén lâu ngày phản lực mạnh, đến một ngày nào đó
tham sân si nổi lên là vô phương trị.
Nhiều người niệm Phật
cũng vậy, không tu đúng theo tông chỉ Tịnh độ, chỉ lấy câu hồng danh
Phật hiệu đè nén vọng tưởng. Cũng có người tu Sổ tức; Sổ tức vốn
là chánh pháp, chỉ vì không phá ngã chấp, chỉ lấy sổ-tức- quán đè
nén vọng tưởng, khi tu đến bậc cao, có thần lực rồi thì bị ma dựa.
Hễ ma dựa rồi lúc đầu thường khiến người đó thân tâm vui vẻ , cảm
thấy khinh an, ma thường biết trước tâm trạng người ấy, ví như biết
được người ấy thích viếng chùa nào, sẽ đến báo trước cho mọi người
rằng "ngày nào giờ nào sẽ có Phật sống đến thăm, mọi người phải
cúng dường sẽ được phước. " Khi được mọi người cung kính cúng
dường, người ấy tự cho mình là Phật sống, lâu ngày tham dục nổi lên
chẳng thể kềm chế, phá giới mất thần thông, sau cùng hóa điên hoặc
ói máu mà chết.
Cho nên, bất cứ muốn tu
theo tông phái nào đều phải đúng theo tông chỉ của tông phái đó, và
luôn luôn phải phá ngã chấp; nếu chẳng phá ngã chấp thì càng tu cao chừng
nào càng nguy hiểm chừng nấy.
Tôi thường nói:Tham Thiền
phải phá ngã chấp, vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ. Sở dĩ ma có
thể dựa vào, là bởi mình có sở cầu, có sở đắc, có sở sợ. Nếu thực
hành đúng theo chín chữ " vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ"
thì ma đâu có cơ hội để dựa vào ! Chẳng những ma không có cơ hội,
theo kinh nghiệm của tôi, trước kia cũng có mấy người bị tẩu hỏa nhập
ma, tôi dạy họ tham thiền, sau đó ma cũng chẳng thể nhập được.
Hỏi : Ngài
Trí Giả Đại Sư nói " ba thứ ngoại đạo " như thế nào ?
Đáp : Trí Giả Đại sư
nói đến ba thứ ngoại đạo :
1/ Ngoại đạo chính thức
: Là sử dụng đúng theo bảng hiệu của ngoại đạo. Hễ tu đúng pháp ngoại
đạo , mặc dù không được ra khỏi sanh tử luân hồi, cũng có thể sanh
cõi Trời.
2/ Hạng ngoại đạo dùng bảng
hiệu Phật giáo để tu pháp ngoại đạo, mặc dù làm việc phước thiện,
cũng phải đọa địa ngục. Phật giáo là tu đúng theo chánh pháp thì được
giải thoát, còn nếu dùng bảng hiệu Phật giáo tu pháp ngoại đạo thì chẳng
thể giải thoát, khiến người đi lầm đường, nên phải đọa địa ngục.
3/ Hạng thứ ba là học Phật
pháp thành ngoại đạo, họ cũng y theo kinh điển, cũng tự nói là chánh
pháp, nhưng hiểu lầm ý Phật, lấy ý mình thay thế ý Phật để dạy chúng
sanh, khiến người sai lầm, tội ấy còn nặng hơn loại ngoại đạo thứ
hai nữa ! Phật gọi họ là "Con trùng sư tử tiêu diệt Phật
pháp". Con sư tử là chúa tể ở rừng, tất cả bách thú đều phải sợ,
khi con sư tử chết, các loài thú khác chẳng dám đến gần, đợi thịt của
sư tử thúi mụt rồi sinh ra con trùng, tự những con trùng đó ăn thịt sư
tử. Chính loại ngoại đạo thứ ba sau này tiêu diệt Phật pháp vậy.
Mục Lục
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6