Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 1 (CUỐN 1 - 10)

01-4

Hỏi : Thế nào là TỨ Y ?

Đáp : Đức Phật thường nói :" Người thường đối với Phật Pháp rất khó tin vì khó hiểu. Trong Kinh Duy Ma Cật có nói đến TỨ Y , ấy là :
1/ Y PHÁP BẤT Y NHƠN : Nhơn chỉ con người; mặc dù vị pháp sư đó rất danh tiếng, địa vị cao, danh dự tốt, nhưng hễ muốn y chỉ là phải y theo pháp chứ không được y theo người. Ví như gần đây có một vị đạo hữu đem cho tôi xem một bài kệ do một vị pháp sư dịch rằng :

" Trì giới và nhẫn nhục, được tội chẳng được phước,

muốn biết không tội phước, đừng trì giới nhẫn nhục".

Ấy là dạy người đừng trì giới nhẫn nhục, nếu không thì được tội chẳng được phước! Bài kệ này rất tác hại đối với người ta . Tôi bảo đạo hữu ấy cho tôi xem nguyên văn chữ Hán của bài kệ ấy là:

" Trì giới kiêm nhẫn nhục, chiêu tội bất chiêu phước,
nhược tri vô tội phước, phi trì giới nhẫn nhục" .
Thật ra ý của câu sau cùng là "Phi trì giới nhẫn nhục" , chữ PHI có nghĩa là không phải chứ không có nghĩa là ĐỪNG; ý của bài kệ rằng : "Người muốn thành Phật chẳng phải là do trì giới nhẫn nhục mà đạt được". Nhưng nếu một người nào có ý không trì giới thì nhất định người ấy chẳng thể thành Phật; chẳng những không được thành Phật, còn tạo tội phải đọa địa ngục nữa!

Ý nguyên văn bài kệ là siêu việt sự trì giới nhẫn nhục, ví như bình thường khi bị người khác đánh mắng, mình cũng biết hỗ thẹn khó chịu nhưng nhẫn nhục được, còn người siêu việt được sự nhẫn nhục thì việc đánh mắng ấy coi như gãi ngứa cho mình, chẳng hề thấy khó chịu. Đó là siêu việt trì giới nhẫn nhục chứ chẳng phải là không có trì giới nhẫn nhục, nếu bảo người đừng trì giới nhẫn nhục thì Phật pháp đâu còn tồn tại ! Nên phải "Y pháp bất y nhơn".

2/ Y NGHĨA BẤT Y NGỮ : Nghĩa là ý nghĩa, ngữ là lời nói. Đối với những lời Phật thuyết là phải y theo ý nghĩa của Phật chứ đừng y theo lời nói của Phật, nếu y theo lời là nghịch với ý. Tại sao ? Ví như trong TỨ CÚ : Cú thứ nhất CÓ, cú thứ nhì KHÔNG, cú thứ ba CHẲNG CÓ CHẲNG KHÔNG, cú thứ tư CŨNG CÓ CŨNG KHÔNG. Nếu chúng sanh chấp CÓ là thật thì Phật nói KHÔNG để phá sự chấp có , hễ chấp KHÔNG là thật thì Phật nói CÓ để phá cái chấp không ấy. Lúc Phật nói CÓ, ý của Phật chẳng phải là có; lúc Phật nói KHÔNG, ý của Phật chẳng phải là Không, chỉ là phá sự chấp của chúng sanh. Cho nên hễ chấp lời thì nghịch ý, phải y nghĩa bất y ngữ, chẳng được y theo ngôn ngữ, văn tự, lời nói.

3/ Y TRÍ BẤT Y THỨC : Trí là không có phân biệt, thức thì có phân biệt. Thời nay có nhiều người lấy cái thức phân biệt mà bình luận Phật pháp, là rất sai lầm, phải y theo trí chứ không được y theo thức.

4/ Y LIỄU NGHĨA BẤT Y BẤT LIỄU NGHĨA : Phật thuyết pháp chia làm 2 loại : Kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Chúng ta phải y theo kinh liễu nghĩa chứ chẳng được y kinh bất liễu nghĩa. Nay có một số người tự làm tài khôn, dùng ý thức của mình trở ngược lại, y kinh bất liễu nghĩa mà phỉ báng liễu nghĩa , y thức mà phỉ báng trí, y theo ngữ mà phỉ báng nghĩa, y theo người mà phỉ báng pháp, chẳng biết tội phỉ báng Tam bảo rất nặng, tự cho mình đúng theo Phật pháp ,còn trích dẫn kinh điển, lời của Phật, của Tổ để chứng tỏ, nhưng thật ra sự dẫn chứng ấy là sai lầm, lấy ý thức phân biệt để dẫn chứng, tạo tội địa ngục mà chẳng hay biết, Kinh Lăng Nghiêm nói "Hạng người này thật đáng thương xót".

Bậc tu sĩ thọ nhận sự cúng dường của mười phương, phải có bổn phận tự giác giác tha, phải quyết chí thành Phật để độ chúng sanh, tự giác rồi mới giác tha. Như ngài Bá Trượng nói đến bốn thứ ác dục mà người tu sĩ dễ mắc phải, ấy là :1/ Muốn thiên hạ đều qui y mình, làm đệ tử của mình.
2/ Muốn tứ chúng đều ở xung quanh mình, ủng hộ mình.

3/ Chẳng lấy Phật giáo làm trung tâm mà lấy tự kỷ làm trung tâm để làm Phật sự, làm từ thiện, ấy cũng là thiện nhân chiêu ác quả.

4/ Muốn thiên hạ đều biết mình hay, biết mình giỏi.
Tu sĩ phải phá ngã chấp, một khi đã lọt vào bốn thứ ác dục này thì ngã chấp rất nặng, làm sao có thể tự giác giác tha ? Cho nên phàm là chánh pháp , trước tiên phải PHÁ NGÃ CHẤP, nếu không thì chẳng thể ra khỏi sanh tử luân hồi.

Chẳng những không ra khỏi sanh tử luân hồi, nếu thọ nhận sự cúng dường của mười phương mà không phá ngã chấp, như Kinh Lăng Nghiêm nói "Hư tiêu tín thí, lạm dụng cung kính", tức giả mạo tu sĩ để được mọi người cung kính cúng dường , tạo tội rất nặng.

Cho nên tôi thường nói :" Các pháp môn trong Phật pháp, bất kể Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, cho đến Tối thượng thừa, đều phải phá ngã chấp, nếu không sẽ thiện nhân chiêu ác quả", vì tất cả việc làm đều xuất phát từ lòng ích kỷ, hễ mình còn chấp ngã thì làm sao dạy người phá ngã chấp ? Không phá được ngã chấp thì làm sao thoát khổ ? Sở dĩ tôi nói những lời trên , là vì trong Thiền thất này cũng có người phạm phải sai lầm này, nên đề xuất ở đây để đại chúng tự kiểm thảo. Người chơn tu phải tự mình giải thoát và giải thoát cho chúng sanh.

Hỏi : Tánh chúng sanh như thế nào ?

Đáp : Tánh chúng sanh với tánh Phật vốn chẳng phải là hai, nhưng hễ dùng ý thức để phân biệt thì có hai. Nên biết được tánh chúng sanh tức biết được tánh Phật. Phật dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, tất cả đều muốn cho mình biết tánh chúng sanh tức tánh Phật. Tám mươi bốn ngàn pháp môn qui tụ lại thành bốn đại loại : Tham Thiền, niệm Phật, trì chú, quán tưởng. Tôi là hoằng dương pháp tham Thiền, còn pháp môn Tịnh độ phải theo đúng tông chỉ của Tịnh độ; trì chú theo đúng tông chỉ Mật tông; quán tưởng phần nhiều thuộc về Giáo môn, mặc dù Tịnh độ cũng có cách quán tưởng niệm Phật.

Giáo môn ở Trung Quốc gồm bốn tông : Thiên Thai, Hiền thủ, Tam Luận, Duy Thức, mỗi mỗi đều tự có thiền quán.

Tông Thiên thai là Chỉ Quán Thiền, tông Hiền Thủ là Pháp Giới Quán Thiền, tông Tam Luận là Tách Không Quán Thiền, tông Duy Thức là Tứ Tầm Tư Quán Thiền. Thừa Thanh Văn có Ngũ Đình Tâm Quán, cũng là quán tưởng. Phạm vi của quán tưởng rất rộng, nhưng bất cứ cách tu hành nào cuối cùng cũng sẽ biết được tánh chúng sanh , tức biết được tánh Phật của mình, gọi là kiến tánh thành Phật. Tất cả tông phái cuối cùng cũng sẽ đạt được mục đích đó, chỉ là tùy theo tâm chấp của chúng sanh phân biệt đủ thứ pháp môn, trong đó pháp tham Thiền rất dễ thực hành và cứu cánh.

Theo lịch sử Thiền tồng Trung Quốc, tính từ Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc, đến vua Khang Hy đời nhà Thanh, tổng cộng bảy ngàn Tổ kiến tánh, chẳng có tông phái nào đạt được thành tích như thế, chỉ có Thiền tông ra nhân tài nhiều nhất. Các tông phái khác đều phải nhờ nhân tài bên Thiền tông giúp cho sự hoằng pháp. Tông Tịnh độ có mười ba vị Tổ, gần đây có Ấn Quang Đại sư là Tổ thứ mười ba, trong đó có tám vị là các Thiền sư kiến tánh rồi qua tông Tịnh Độ để giúp cho sự hoằng dương Tịnh độ. Nói tóm lại, tùy theo căn cơ của chúng sanh, lựa chọn pháp thích hợp mình để tu, cách tu nào cũng được, nghĩa là chánh pháp thì sẽ biết được tánh chúng sanh, cũng là biết được tánh Phật .

Hỏi : Có pháp nào Phật chỉ dạy cho mau kiến tánh không ?

Đáp : Phật và Tổ sư chỉ hướng dẫn đường lối cho mọi người tự đi, chứ chẳng giống như việc buôn bán ngoài đời rằng :"Bảo đảm! " Nếu có sự bao thầu như thế thì hiện nay chúng sanh đều thành Phât hết rồi ! Không có bao, mà chỉ hướng dẫn đường đi cho mình tu, ai chịu đi, tinh tấn thì mau đến, lôi thôi thì chậm đến, không đi thì không đến.

Hỏi :Thế nào là "Tịnh địa hà tu tảo, không môn bất dụng quan "?

Đáp : Hai câu này còn bệnh chấp thật. Cái "KHÔNG MÔN" người thường cho là đại diện cho Phật giáo, vì hiểu lầm Phật giáo tức cái gì cũng không. Nhưng sự thật thì Phật giáo chẳng phải "Không môn", chẳng phải tất cả đều không.

Tôi thường nói KHÔNG là để hiển hiện sự dụng, người đời thường cho cái "Không môn" là tiêu cực, nhưng trái lại Phật pháp rất tích cực, chẳng phải khi thành Phật rồi thành một ông Phật chết hoặc chán đời rồi mới đi tu. Là tích cực mới đi tu, là muốn hiện ra cái dụng vô lượng vô biên. Ví như chánh điện này, nếu chẳng có cái KHÔNG trống rỗng thì chẳng thể dung nạp bao nhiêu người ngồi đây nghe pháp; cái tách này chẳng có cái Không thì chẳng thể đựng nước, đựng trà, đựng cà phê được. Tất cả muốn dùng đều phải có cái Không, KHÔNG lớn chừng nào thì sự dụng phát huy chừng nấy, "KHÔNG tới cực thì dụng tới cực", tức là Phật, nên hễ người nào cho rằng cái "Không" của Phật giáo là tiêu cực, ấy là sai .

Nói đến câu "Đất sạch khỏi cần quét"( Tịnh địa hà tu tảo) , theo Phật giáo lại khác, "Sạch" cũng phải quét luôn! Vì căn bản của Phật pháp là VÔ SỞ TRỤ, hễ trụ nơi "sạch" cũng còn là trụ, nên phải quét.

Nay tham Thiền nếu không có vọng tưởng cũng không có nghi tình, thanh thanh tịnh tịnh, chẳng có gì cả, ấy là lọt vào vô ký không, là thiền bệnh, cũng phải quét, chứ đừng nói đến "sạch rồi khỏi quét", sạch với dơ là tương đối, là lọt vào tứ cú, đều phải quét. Trong tứ cú : "dơ" là cú thứ nhất, "sạch" là cú thứ nhì, "chẳng dơ chẳng sạch" là cú thứ ba, "Cũng dơ cũng sạch" là cú thứ tư. Vô sở trụ; chẳng trụ nơi dơ, chẳng trụ nơi sạch, chẳng trụ nơi "Chẳng dơ chẳng sạch", cũng chẳng trụ nơi "Cũng dơ cũng sạch", vậy mới đúng với ý Phật là lìa tứ cú, không trụ nơi nào cả.

Hỏi : Tham Thiền chưa kiến tánh, rồi chết đi về đâu ?

Đáp : Câu "Chết đi về đâu" là câu thoại đầu để tham. Hồi đời xưa, những kiếp trước của Phật Thích Ca, vì nữa bài kệ dám thí mạng mình cho quỷ ăn để đổi lấy nữa bài kệ còn lại ! Nhà Nho cũng có câu rằng :" Hễ sáng gặp được đạo , chiều tối có chết cũng là đáng". Nay chúng ta tham Thiền, dù chỉ tham được một ngày , cũng đã gieo được cái nhân thành Phật, sau này ắt sẽ thành Phật. Nhân chánh quả sẽ chánh, chớ có lo cho sau này, cứ đi là sẽ đến.

Ví như từ Chợ Lớn đi Sài Gòn là một trăm bước, cứ bước được một bước còn chín mươi chín, hai bước còn chín mươi tám, rồi chín mươi bảy. Kiếp này chỉ đi được ba bước, kiếp sau chỉ còn chín mươi bảy bước, nếu kiếp này đi được năm mươi bước, kiếp sau còn lại năm mươi, chứ không cần bắt đầu lại một trăm bước. Tất cả hạt giống trong A Lại Da thức không bao giờ mất, cư sĩ tại gia đã thọ ngũ giới, giữ được ngũ giới là không mất thân người, kiếp sau cũng được đầu thai thành người tiếp tục sự tu. Nay chúng ta tham Thiền giữ được ngũ giới thì kiếp sau sẽ tiếp tục tu, đến chừng nào thành Phật mới thôi. Hễ giữ được ngũ giới chắc chắn sẽ thành người chứ chẳng phải làm con trâu con chó.

Hỏi : Người ở trong giải thoát cũng không ra ngoài giải thoát như thế nào ?

Đáp : Ấy là nghĩa bất nhị, chẳng có giải thoát và trói buộc. Nên trong Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lục Tổ nói " Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp". Lúc ấy Ấn Tông Pháp sư là vị pháp sư có tiếng tăm đương thời cũng phải hoảng sợ, tại sao ? Vì từ bao nhiêu năm ông vẫn dạy người tu thiền định giải thoát, sao Lục Tổ lại nói "Thiền định giải thoát chẳng phải là Phật pháp" ?! Vậy thế nào là Phật pháp ?

Lục Tổ nói :" Phật pháp là pháp bất nhị", Vì Ngài biết dù Ấn Tông Pháp sư đã giảng Kinh Niết Bàn mấy mươi năm nhưng chưa hiểu về Kinh, nên vẫn dùng Kinh Niết Bàn dẫn dụ cho hiểu :

" Trong Kinh Niết Bàn, Cao Quý Đức Vương Bồ tát hỏi Phật : Người tạo tội ngũ nghịch và Xiễn-đề (không tin Phật) có đoạn dứt thiện căn Phật tánh không ?

Phật bảo :" Thiện căn có hai, một là thiện, hai là bất thiện, Tự tánh chẳng phải thiện hay bất thiện , nên chẳng thể đoạn dứt. Một là thường, hai là vô thường, Tự tánh chẳng phải thường và vô thường nên chẳng thể đoạn dứt."

Cũng vậy, giải thoát và không giải thoát là hai, vì Thiền định và tán loạn là hai, có loạn mới có định, chẳng phải Phật pháp; có giải thoát thì có trói buộc, ấy là pháp đối đãi, chẳng phải Phật pháp, nên ngài Lục Tổ nói "Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp". Phật pháp bất nhị, hễ có đối đãi là nhị, nay nói ở trong giải thoát hay ở ngoài giải thoát đều là nhị, tại có vọng tâm phân biệt mới sanh ra tương đối, đối đãi vậy .

Hỏi : Thế nào là chánh pháp và mạt pháp ?

Đáp : Tổ sư Thiền tông không có nói về chánh pháp mạt pháp. Ngài Bác Sơn nói :" Có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp, chuyển hạ căn thành thượng căn", bởi do tâm chấp thật của chúng sanh nên Phật mới phương tiện nói chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Nếu như chẳng có tâm chấp thật thì như trên đã nói " Nhất niệm vạn niên, vạn niên nhất niệm" làm sao có chánh pháp và mạt pháp ! Chấp tâm đã quét sạch thì mạt pháp cũng là chánh pháp, hễ chấp tâm còn nguyên vẹn thì chánh pháp là mạt pháp .

Trích giảng về KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Hỏi : Thiền tông cần có nghi tình, tại sao trong Kinh Pháp Bảo Đàn ngài Lục Tổ chẳng dạy người phát khởi nghi tình ?"

Đáp : Nếu Ngài dạy người khởi nghi tình thì không đủ tư cách làm Tổ. Vì xưa kia trước đời nhà Tống, Tổ sư đều phải dùng thủ đoạn khiến người tu khởi lên nghi tình mà chẳng tự biết mình đã phát khởi chơn nghi, chẳng biết mình đang tham Thiền. Hễ Lục Tổ nói trắng ra thì không có tư cách làm Tổ . Như Tổ Hoài Nhượng lúc gặp Lục Tổ, bị Ngài hỏi :" Vật gì đến thế này ?" Trả lời không được, tự thắc mắc cho đến 8 năm sau mới ngộ, ấy là nghi tình .

...PHẨM BÁT NHÃ THỨ NHÌ

Lúc bấy giờ ông Vi Cừ là Tỉnh Trưởng ở Thiều Châu mời Lục Tổ đến chùa Bảo Lâm thuyết pháp,hôm sau lại thỉnh Sư thăng tòa, Sư nói với đại chúng rằng :

- Tất cả đều phải tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thiện tri thức, người thế gian vốn sẳn có trí huệ Bồ Đề Bát Nhã, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn mới được kiến tánh. Nhưng phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, do sự mê ngộ khác nhau nên có ngu có trí. Nay tôi thuyết pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này, khiến quý vị đều được trí huệ, hãy chú ý nghe.

- Thiện tri thức, người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát Nhã nhưng không biết Tự tánh Bát nhã, cũng như nói ăn mà không ăn thì chẳng no, miệng chỉ nói không, trải qua muôn ngàn kiếp chẳng được kiến tánh, thật là vô ích.

- Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa là Đại trí huệ, đến bờ bên kia, việc này cần phải tâm hành mà không phải dùng miệng niệm; miệng niệm mà tâm chẳng thực hành cũng như huyễn hóa,chẳng có thực tế, chẳng có ích lợi. Miệng niệm tâm hành thì tâm với miệng mới tương ứng nhau, mới đúng với bản tánh của mình là Phật, hễ lìa tánh thì chẳng có Phật khác ( Tự tâm là Phật, ngoài tâm chẳng có Phật )

- Sao gọi Ma Ha ? Ma Ha là lớn , cái lớn này siêu việt số lượng, ví như hư không, chẳng có số đếm , chẳng thể suy nghĩ, nên chẳng có bờ bến, chẳng vuông tròn lớn nhỏ, chẳng màu sắc xanh vàng đỏ trắng, chẳng trên dưới ngắn dài, cũng chẳng thị phi, buồn vui, thiện ác và đầu đuôi, tức chẳng có tất cả tương đối. (Như tôi đã giảng Bát Nhã Tâm Kinh, Bát nhã là cái dụng automatic của Tự tánh, Tất cả chư Phật, tất cả thế giới Phật đều như hư không, hễ lọt vào tương đối thì chẳng phải Bát nhã vậy ).

- Diệu tánh của người thế gian vốn là không, vốn chẳng có pháp nào cho mình đắc ( nên tôi thường dạy người tham Thiền là phải Vô sở đắc,) Tự tánh chơn không cũng vậy, chẳng có một pháp để đắc, hễ có sở đắc thì chẳng phải Bát Nhã, chẳng phải là kiến tánh thành Phật.

- Thiện tri thức, chớ có nghe tôi nói KHÔNG mà lại chấp trước cái không, trước tiên chớ chấp vào không, để tâm không tỉnh tọa tức lọt vào "Vô ký không", (Người tham Thiền chẳng thà có nghi tình có vọng tưởng, còn hơn là không có nghi tình cũng không có vọng tưởng, ấy là lọt vào vô ký không, là Thiền bệnh.)

- Thế giới hư không bao gồm tất cả vạn vật, sắc tướng, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cây cối biển sông, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đàng địa ngục. tất cả đều ở trong hư không, tánh không của người thế gian cũng vậy. Tự tánh của mình bao gồm vạn pháp, , ấy gọi là "Đại", là siêu việt số lượng. Tất cả vạn pháp ở trong tánh của người thế gian chẳng có thiếu sót một pháp nào cả, nay thấy tất cả người hoặc thiện hoặc ác đều không lấy không bỏ, không nhiễm trước, tâm như hư không, gọi là Ma Ha.

- Người mê thì miệng nói mà không thực hành, người trí dùng tâm thực hành. Còn có những người chấp ý của mình, tỉnh tọa mà trong tâm chẳng suy nghĩ gì cả, tự xưng là đại, bọn người này có tà kiến khó phá , vì đã chấp vào tà kiến, lọt vào vô ký không nên chẳng thể nói chuyện với họ. ( Như tôi thường nói, Phật pháp nói đến chữ "Không" là để hiển bày cái dụng, chứ chẳng phải cái Không tuyệt diệt chẳng có gì cả. Pháp tu của ngoại đạo hay pháp môn khác thường là muốn khiến tâm trống rỗng chẳng một niệm nào , nhưng pháp môn Thiền thì chẳng cho tâm không, chẳng cho dứt niệm. Nên trong Kinh này, ngài Lục Tổ nói :" Tâm lượng rộng lớn cùng khắp pháp giới, cái dụng rõ ràng minh bạch"; như căn nhà này chẳng có cái Không thì chẳng ở được, cái tách chẳng có cái Không chẳng thể đựng nước.bất cứ cái gì , phải có cái Không mới dùng được, chứ chẳng phải là ngoan Không. Hễ dùng thì rõ ràng, ứng dụng thì biết, tất cả là một, một là tất cả, khứ lai tự do. Tâm thể đã cùng khắp pháp giới rồi chẳng có chướng ngại, ấy tức là Bát Nhã.

- Thiện tri thức, tất cả trí Bát Nhã đều do tự tánh sanh khởi,chẳng những trí Bát nhã, tất cả vạn pháp cũng vậy, chẳng phải ở ngoài vào, đừng dụng ý sai lầm, mới gọi là chơn tánh tự dụng. Nói CHƠN thì một chơn tất cả đều chơn, một giả tất cả đều giả. Tââm lượng là việc lớn, chớ hành theo đường nhỏ, chớ có suốt ngày nói "Không" mà tâm chẳng tu hạnh này, như người thường dân mà tự xưng là vua thì chẳng được, những người này chẳng phải đệ tử của ta.

- Sao gọi là Bát Nhã ? Bát nhã dịch là trí huệ, bất cứ nơi nào, niệm niệm chẳng ngu si, thường hành theo trí huệ, tức hạnh Bát Nhã. Một niệm ngu si tức Bát nhã tuyệt, một niệm trí huệ thì Bát nhã sanh.

( Sao gọi là một niệm ngu si ? Hễ tâm có trụ nơi nào, chấp trước cái gì, là ngu. Vô sở trụ, chẳng chấp trước điều gì, chẳng lọt vào tương đối, chẳng lọt vào tứ cú, tức là trí. Vì Bát nhã chẳng thể lọt vào tương đối, nên Tổ Sư nói :" Không có Bát nhã chẳng phải Bát nhã, có Bát nhã cũng chẳng phải Bát nhã." Tại sao ? Nói "Không Bát nhã chẳng phải Bát nhã" thì mọi người hiểu, còn nói "Có Bát nhã cũng chẳng phải Bát nhã" thì người ta không hiểu.__Vì Có đối với Không là lọt vào tương đối, hễ tương đối thì chẳng phải Bát nhã rồi).

- Người thế gian ngu mê chẳng thấy Bát nhã, mặc dù suốt ngày miệng niệm Bát nhã nhưng tâm thường mê muội chấp trước, lại thường tự xưng là tu Bát nhã, trong miệng nói "Không" mà chẳng biết chơn không, chơn không vô sở trụ, hễ có sở trụ thì chẳng phải Bát nhã, giải như thế gọi là Trí Bát Nhã.

- Sao gọi Ba La Mật ? Ba La Mật là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa là đến bờ bên kia, là lìa sanh diệt. Hễ chấp cảnh -Bất cứ chấp cảnh gì thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, gọi là bờ bên đây. Hễ lìa cảnh, chẳng chấp trước cảnh thì sanh diệt chẳng nổi lên, như nước chảy im lìm, tức bờ bên kia, nên gọi là Ba La Mật. ( Như tôi giảng Bát Nhã tâm Kinh, bờ bên đây là trước cảnh nổi lên sanh diệt, nên có phiền não và khổ, chẳng được tự do tự tại; bờ bên kia không có trước cảnh, bệnh chấp đã hết, tự do tự tại, chẳng có phiền não và khổ )

-Người mê dùng miệng niệm, lúc niệm trong tâm có vọng có quấy, chẳng chấp trước cái này thì chấp trước cái kia, niệm niệm vô sở trụ mới là chơn tánh. Ngộ được pháp này gọi là Pháp Bát Nhã, tu theo hạnh này là hạnh Bát Nhã; chẳng tu là phàm, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.

( Tại sao một niệm tu hành là tự thân bằng Phât ? Cũng như nay chúng ta tham Thiền, ngày đêm đề khởi câu thoại đầu khởi lên nghi tình, chính nghi tình này không lọt vào tương đối, không lọt vào tứ cú, một niệm tu hành, niệm niệm tu hành, lúc nghi tình thành khối, chẳng có sanh diệt, phiền não và khổ, lại được hiện ra cái dụng automatic của Tự tánh cũng như Phật vậy. Nên Lục Tổ nói :" Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề, chẳng phải là hai, gọi là bất nhị.Tiền niệm mê tức phàm phu, hậu niệm ngộ tức Phật" . Ở đây, những người y văn giải nghĩa có thể hiểu lầm; vì lời nói mới có tiền có hậu, có trước có sau, ở trên đã nói :" Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề", là bất nhị chẳng có đối đãi. Nếu chẳng đối đãi thì sao lại nói Tiền niệm mê tức phàm phu, hậu niệm ngộ tức Phật ? " Bởi do tâm chấp của chúng sanh hay phân biệt mê ngộ, phàm phu và Phật, nên ngài Lục Tổ mới nói như thế. Thật ra niệm chẳng có trước sau, nếu có trước sau thì Kinh Kim Cang nói "Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc", có trước sau, mê ngộ ấy là nhị, Như tôi vừa nói, cứ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, chẳng cần nghĩ tới trước sau mê ngộ hay là lìa cảnh, vì nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả, cho nên mới nói " phàm phu tức Phật , phiền não tức Bồ đề", vì nghi tình chẳng biết gì cả nênkhông có phân biệt.)

- Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chư Phật đều từ đó sanh ra. Nên phải dùng đại trí huệ của Bát Nhã đập tan ngũ uẩn phiền não trần lao, tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật. ( Ở đây nói "Đập tan ngũ uẩn phiền não trần lao" chẳng phải là nổi ý muốn đập tan, có nghi tình thì tự động quét và đập tan, tu hành như thế, nhất định sẽ thành Phật.)

- ( Ngài Huệ Năng là Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc, Thiền tông rất chú trọng nghi tình, tu hành là phải có nghi tình. Trước đời nhà Tống, thủ đoạn của Tổ Sư khiến người phát khởi nghi tình mà chẳng tự biết, đến đời nhà Tống mới có tham thoại đầu để khởi nghi tình, nhưng trước sau cũng là nghi tình. Phật Thích Ca ngồi dưới gốc cây Bồ đề cũng nhờ có nghi tình mới được ngộ, chính nghi tình này đầy đủ giới định huệ , biến tam độc tham sân si thành giới định huệ. Tại sao nghi tình có thể biến tam độc tham sân si thành giới định huệ ? Vì nghi tình chẳng biết gì cả, chẳng biết nghĩ tới thiện hay ác; thiện còn chẳng nghĩ, nói gì đến ác ư ! Nếu chẳng nghĩ tức là giới. Nghi tình miên mật, liên tiếp thì vọng tưởng nổi lên không được, tâm chẳng tán loạn, ấy là định. Chính cái nghi tình chẳng lọt vào tương đối, chẳng lọt vào tứ cú tức vô sở trụ, nên gọi là huệ. Hễ có nghi tình là giới định huệ đầy đủ , nên hay biến tam độc tham sân si thành giới định huệ .)

- Thiện tri thức, pháp môn của ta ( Tức pháp môn Tổ Sư Thiền. Ở đây mặc dù không dạy pháp môn nào, nhưng thủ đoạn của Tổ khiến người tu tự sinh nghi tình mà không biết, đã là pháp môn rồi chứ chẳng phải tham thoại đầu công án sau này mới là Pháp môn.) từ một Bát nhã sanh tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tại sao ? Vì người thế gian có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu chẳng có trần lao thì trí huệ thường hiện ra. ( Sự dụng của Tự tánh nếu bị trần lao nhét đầy , chẳng có chỗ trống thì sức dụng của Tự tánh Bát nhã chẳng thể hiện ra , nên tôi thường nói "quét không chừng nào thì sức dụng hiện ra chừng nấy, quét tới cực thì dụng tới cực, tức bằng với Phật. Cái dụng tức trí huệ, trí huệ của người thế gian khi dùng phải qua tác ý, còn sức dụng của trí Bát nhã khi dùng là tự động, không qua bộ não, chẳng cần tác ý. Trí huệ chẳng lìa tự tánh, Lục Tổ thuyết pháp đều chẳng lìa Tự tánh ), hễ lìa Tự tánh thuyết pháp tức là tướng thuyết. Ngộ được pháp này tức vô niệm vô ức, quá khứ chẳng ghi nhớ, vị lai chẳng sắp đặt, hiện tại vô trụ, gọi là vô trước, chẳng khởi lên cuồng vọng thì tự tánh tự động hiện ra khắp nơi. Dùng trí huệ quán chiếu tất cả pháp ( Đây chẳng phải là pháp quán chiếu của Giáo môn, quán chiếu ở đây nghĩa là nghi tình chẳng lấy chẳng bỏ, là nghi tình tự quán chiếu mà chẳng phải quán chiếu, cũng như nói "tọa thiền" là tâm tọa chứ chẳng phải thân tọa) thì cuối cùng sẽ được Kiến tánh.

- Nay chúng ta muốn nhập vào thậm thâm pháp giới ( Hai chữ "Thậm thâm" nghĩa là siêu việt số lượngvì nghĩa của pháp giới rộng hơn vũ trụ), muốn được chánh định của Bát Nhã phải tu hạnh Bát nhã. Thực hành theo Kinh Kim Cang sẽ được Kiến tánh. Phải biết công đức của Kinh này vô lượng vô biên, chẳng thể kể xiết.

- Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người đại trí thượng căn mà thuyết, người tiểu căn tiểu trí có nghe được cũng không tin. Tại sao ? Ví như trời mưa to, khiến thành phố, thôn quê đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nhưng mưa lớn xuống biển cả thì nước biển chẳng thêm chẳng bớt. Người Đại thừa, người Tối thượng Thừa nghe được Kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ.

- Nên biết tự tánh của mình vốn sẳn có trí Bát nhã, trí huệ tự tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa , chẳng do trời có mà do khí trời làm nên , khiến tất cả chúng sanh, tất cả cây cỏ, hữu tình vô tình đều được lợi ích thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn , hợp thành một thể, cái trí Tự tánh Bát nhã của chúng sanh cũng vậy. Người tiểu căn nghe được pháp môn đốn giáo này , cũng như cây cỏ gặp mưa bão, bị đổ ngã chẳng sanh trưởng được.

- Trí Bát nhã của người tiểu căn và người đại trí vốn chẳng sai biệt, tại sao nghe pháp chẳng được ngộ ? Bởi do tà kiến chướng ngại, tà kiến càng nhiều thì phiền não càng sâu nặng, như mây lớn che khuất mặt trời, nếu chẳng được gió thổi thì ánh sáng chẳng thể hiện ra.

- Trí Bát nhã vốn chẳng lớn nhỏ, tại tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng giống nhau; tâm mê tu hành tìm Phật ở ngoài , chẳng tin tự tâm là Phật, chưa ngộ Tự tánh, nên gọi tiểu căn (Phật tử thời nay phần nhiều chẳng hướng vào tự tâm mà chỉ tìm Phật ở ngoài tâm, gọi là mê tâm ngoại kiến ). Nếu khai ngộ Đốn giáo, chẳng chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi lên chánh kiến, thì phiền não trần lao chẳng thể nhiễm được, tức là kiến tánh. ( Chánh kiến là gì? Có nghi tình là chánh kiến __vì chẳng trụ ở nơi nào cả. Hễ nghi tình miên mật thì vọng tưởng chẳng khởi lên được, cuối cùng sẽ kiến tánh ).

- Thiện tri thức, trong ngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. ( Ở trên Lục Tổ nói đến " Trong ngoài"; nội tâm ngoại cảnh, cũng là tương đối. Lục Tổ sợ người chấp vào lời của Tổ, nên nói "Trong ngoài chẳng trụ", vì bổn tánh của chúng ta vốn hoạt bát, khứ lai tự do, hễ trừ được chấp tâm thì chẳng có tất cả chướng ngại. Ấy là do nghi tình là cây chổi tự động quét sạch tất cả chấp tâm, thông đạt chẳng chướng ngại.) Nếu tu hạnh này, với kinh Bát Nhã vốn chẳng sai biệt, tất cả kinh điển, tất cả văn tự, Đại thừa Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều do con người đặt ra, do tánh trí huệ mới được kiến lập. Nếu chẳng có người thế gian thì tất cả muôn pháp vốn là không có, nên biết muôn pháp vốn do tâm người tạo ra, tất cả kinh sách đều vì con người mà nói. Vì trong loài người có ngu có trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn; kẻ ngu hỏi pháp người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu được ngộ với người trí chẳng khác biệt.

- Cho nên, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, hễ một niệm khai ngộ , chúng sanh tức Phật . Nên biết muôn pháp đều ở trong tự tâm mình, chẳng do bên ngoài mà có, vậy sao chẳng ở nơi tự tâm thấy được bản tánh chơn như, đạt đến kiến tánh? ( Muốn đốn thấy bản tánh chơn như của mình phải tham Thiền, nhưng nếu chỉ tin pháp môn tham Thiền mà không tin tự tâm là Phật cũng không thể kiến tánh được.) Nên Kinh Phạm Võng ( Bồ Tát Giới Kinh ) nói " Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu biết tự tâm mình là Phật, được kiến Tự tánh Phật của mình, tức thành Phật đạo". Kinh Duy Ma Cật nói :"Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm" .( Nếu tham Thiền đến nghi tình thành khối, gặp nhân duyên chín mùi, bị đánh một bạt tai liền ngộ, bị vấp té, mắng chửi. cũng ngộ, lúc ngộ thình lình được bổn tâm, bổn tánh ).

Ngoài sự dẫn chứng bởi kinh sách, ở đây Lục Tổ nói thêm về kinh nghiệm của chính mình:

- Lúc tôi ở nơi Hòa thượng Hoằng Nhẫn (Ngũ Tổ), vừa nghe giảng Kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" liền ngộ, đốn thấy Chơn như bản tánh, nên đem pháp môn Đốn giáo này hoằng dương nơi thế gian, khiến người học đạo được giác ngộ Bồ đề. Nay mọi người phải tự quán tâm tham Thiền để tự thấy bản tánh. Nếu chẳng được tự ngộ, phải tìm Thiện tri thức biết pháp Tối thượng Thừa để chỉ dạy đường lối chánh pháp . Vì Thiện tri thức có nhân duyên lớn, có thể giáo hóa dẫn dắt, khiến hành giả được mau kiến tánh, tất cả thiện pháp đều do Thiện tri thức mà được kiến lập.

- Tam Thế chư Phật, mười hai bộ kinh ở trong tánh người vốn đã đầy đủ chẳng thiếu sót. ( Chứ chẳng phải là học từng cuốn kinh, từng đoạn kinh, từng chữ, từ cuốn này qua cuốn khác mới biết được. Chính ngài Lục Tổ là người dốt nát không biết chữ, chẳng học quyển kinh nào, nhưng khi ngộ rồi thuyết ra Kinh Pháp Bảo Đàn này. Cái học được chẳng phải của mình vậy), nhưng nếu tự ngộ chẳng được , phải cầu Thiện tri thức chỉ dẫn mới được kiến tánh. Người tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác, chẳng cần cầu ở ngoài. Nếu cứ chấp rằng cần phải có Thiện tri thức ở ngoài mới được giải thoát là không đúng. Nay nhiều người chấp thật rằng phải có Thiện tri thức kiến tánh hướng dẫn mình mới tham Thiền được, mới kiến tánh được, ấy là sai lầm. Tại sao ? Vì trong Tự tánh sẳn có Thiện tri thức, sẳn đủ thiện tri thức khiến mình tự ngộ, nếu khởi lên tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, thì dẫu cho gặp được Thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được.

- Nếu chơn chánh khởi lên quán chiếu của Bát nhã (nghi tình), có thể trong một sát na vọng tưởng đều tiêu diệt, nhận được Tự tánh, đốn siêu Phật địa. ( Lúc ngộ tự tánh, có nhiều vị Tổ liền thấu tam quan, từ địa vị phàm phu trực đến quả vị Phật, đốn siêu địa vị Phật ).

- Trí Bát Nhã của mình khi dùng ra trong ngoài đều sáng tỏ chiếu soi, biết được tự tâm. Nếu biết được tự tâm tức vốn giải thoát ( chẳng phải trước đó là trói buộc), được giải thoát tức Bát Nhã Tam Muội, Bát nhã Tam muội tức vô niệm. Sao gọi là VÔ NIỆM ? Nếu thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước tức vô niệm; sự dụng của Tự tánh khắp pháp giới mà chẳng dính mắc nơi nào, lục căn tiếp xúc lục trần sanh ra lục thức chẳng nhiễm trước , ( Bát Nhã Tâm Kinh nói "Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp", vô nhiễm vô trước, khứ lai tự do, chẳng bị chướng ngại, gọi là Bát Nhã Tam Muội, tức chánh định của Bát Nhã ),tự tại giải thoát. Hành theo hạnh này gọi là hạnh Vô Nhiễm, chứ không phải trăm điều chẳng nghĩ, muốn cho niệm tuyệt, ấy là bị pháp trói buộc, gọi là biên kiến ( trong năm thứ ác kiến vì lọt vào chấp không. Ngài Lục Tổ sợ người hiểu lầm hai chữ VÔ NIỆM cho là không suy nghĩ gì cả; nếu chẳng một niệm, chẳng suy nghĩ, đành cho niệm tuyệt vậy.)

- Hễ ngộ pháp vô niệm này thì tất cả pháp đều thông suốt, ngộ pháp vô niệm thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp vô niệm được đến địa vị Phật.

- Thiện tri thức, nếu người đời sau được pháp của ta, hãy đem pháp đốn giáo này nói với những người đồng kiến đồng hành, phát nguyện cùng tu, như phụng sự cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định sẽ được vào thánh vị Phật. Từ trước đến nay, sự truyền thọ của các Tổ Sư đều không được ẩn dấu chánh pháp. Nếu chẳng phải người đồng kiến đồng tu, tức ở trong pháp môn khác thì không được truyền thọ, vì hễ truyền thọ e rằng sẽ hại người ấy, cuối cùng vô ích. Tại sao ? vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn này, khiến muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt chủng tử Phật.

- Thiện tri thức, nay ta có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG, tất cả người tham Thiền, bất kể tại gia hay xuất gia đều phải y theo mà tu, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta, cũng là vô ích.( Bài Vô Tướng Tụng này tỏ rõ pháp môn Tổ Sư Thiền ) .

Bài VÔ TƯỚNG TỤNG:

Thuyết thông lại tâm thông, như mặt trời giữa không

Người giảng kinh thuyết pháp hiện nay không thể nói là thuyết thông;Tâm chưa thông cũng thuyết thông được, thuyết thông chưa chắc tâm thông , nhưng tâm thông rồi thì thuyết tự nhiên thông. Thuyết thông với tâm thông, như mặt trời ở trên hư không. Tại sao lấy mặt trời để thí dụ ? Vì mặt trời chẳng dựa vào chỗ nào cả, chẳng có một sợi chỉ treo lên. Bởi nếu có sợi chỉ treo lên mặt trời thì chính sợi chỉ đó sẽ che tối và chẳng chiếu soi đến, sẽ có sở trụ. Tự tánh của mình cũng như mặt trời chẳng dính mắc gì cả, cho dù một sợi chỉ.

Chỉ truyền pháp kiến tánh, hoằng pháp phá tà tông :

Tông phái Tổ Sư Thiền này chỉ cần minh tâm kiến tánh, chỉ truyền pháp kiến tánh, tức là muốn mọi người được ngộ. Tổ sư ra đời là phá tất cả tà tông, tà tông là chẳng đúng với chánh pháp, còn chấp ngã : Hoặc chấp nhơn ngã, hoặc chấp pháp ngã, nên gọi tà tông.

Pháp vốn chẳng đốn tiệm, mê ngộ có nhanh chậm:

Theo pháp vốn chẳng có đốn tiệm, do mê ngộ có nhanh chậm nên nói có đốn tiệm : Đốn tiệm là do người chứ chẳng phải do pháp.

Pháp môn kiến tánh này, kẻ ngu chẳng thể biết :

Thiền tông Kiến tánh này người ngu chẳng thể hiểu được, vì họ quá chấp thật. Pháp môn này chẳng phân biệt thông minh hay dốt nát, hễ chấp thật là thấp, không chấp là cao. Nên Phật Pháp là càng chấp nhiều chừng nào càng hạ căn chừng nấy, càng chấp ít càng thượng căn, chứ chẳng phải người thông minh lanh lợi là cao .

Thuyết tuy muôn ngàn lối, đúng lý chỉ là một,

Nhà phiền não đen tối, thường nên sanh huệ nhật :

Nói về pháp môn thì nhiều, nhưng hợp lại chỉ là một. Do chúng sanh đang ở trong nhà đen tối, phải thường sanh ra trí huệ của mặt trời ( nghi tình miên mật ).

Tà khởi phiền não tới, chánh đến phiền não trừ.

Tà chánh đều chẳng chấp, thanh tịnh đến cùng tột :

Hễ khởi lên một biệt niệm tức là tà đến, phiền não đến; chỉ có chánh niệm ( tức khởi lên nghi tình ) thì phiền não trừ. Nhưng tà với chánh đều chẳng chấp mới có thể thanh tịnh đến cùng tột. Nếu người tham Thiền còn biết là mình đang tham Thiền thì chưa phải chơn tham; chơn tham là chẳng có phân biệt tà chánh, luôn cả tham Thiền cũng chẳng biết là đang tham, trước kia thủ đoạn của Tổ Sư hay khiến người đạt đến chơn tham.

Tự tánh vốn Bồ Đề, khởi tâm tức là vọng.

Tịnh tâm ở trong vọng, niệm chánh chẳng tam chướng :

Bồ Đề vốn là Tự tánh sẳn có, hễ khởi lên một niệm cho là Bồ đề, khởi niệm đi tìm Bồ đề tức là vọng. Nay nhiều Phật tử khi gặp mặt hay chúc nhau bằng câu " Bồ đề tăng trưởng", Bồ đề làm sao tăng trưởng được ? Tâm thanh tịnh của mình nay ở trong vọng, mặc dù tâm ở trong vọng, nhưng tự tánh vốn thanh tịnh chẳng bị vọng ô nhiễm , nên chỉ cần có chánh kiến thì chẳng có tất cả chướng ngại.

Người đời muốn tu đạo, tất cả đều chẳng ngại,

Thường tự thấy lỗi mình, với đạo tức tương ưng :

Người thế gian tu đạo này, tu pháp môn này thì tất cả đều chẳng chướng ngại, nhưng phải phá ngã chấp. Người thường hay thấy lỗi của người khác mà chẳng thấy lỗi của chính mình, ấy là do có ngã chấp. Phải thường tự thấy lỗi của mình, như thế mới phá được ngã chấp , tương ưng với đạo.

Muôn loài tự có đạo, mỗi mỗi chẳng ngại nhau.

Ngoài tâm đi tìm đạo, suốt đời chẳng thấy đạo .

Bôn ba qua một đời, sau cùng tự áo não :

Các loài chúng sanh đều tự có đạo và đều chẳng chướng ngại với nhau. Đạo ở trong tự tâm, nếu lìa đạo ở nơi tự tâm mà đi tìm kiếm đạo ở ngoài tâm thì suốt đời chẳng được thấy đạo, chỉ bôn ba qua một đời, cuối cùng tự áo não mà thôi.

Muốn được thấy chơn đạo, hạnh chánh tức là đạo,

Nếu tự chẳng đạo tâm, đen tối chẳng thấy đạo :

Muốn được thấy chơn đạo thì tâm hạnh chánh tức Đạo; nếu suốt ngày đêm giữ được nghi tình miên mật thì hạnh chánh, tức là đạo. Hễ tự mình chẳng có tâm đạo, ví như đi trong đen tối chẳng thể thấy được đạo.

Nếu là người chơn tu, chẳng thấy lỗi thế gian.

Nếu thấy lỗi của người, trái lại thành tự quấy.

Người quấy ta chẳng quấy, thấy quấy thành tự lỗi .

Hễ bỏ tâm chấp quấy, phiền não tự tan rã.

Thương ghét chẳng quan tâm, duỗi thẳng hai chân nằm :

Làm sao biết được người chơn thật tu hành ? Người chơn tu chẳng thấy lỗi của thế gian. Hễ thấy lỗi của thế gian tức còn ngã chấp; thấy cái quấy của người khác trái lại thành tự quấy. Người quấy ta chẳng quấy, ta quấy tự có lỗi, chỉ cần buông bỏ tâm quấy ấy, tự nhiên phá được phiền não, yêu ghét đều chẳng quan tâm, duỗi thẳng hai chân nằm.

Muốn hóa độ chúng sanh, tự phải có phương tiện.

Khiến họ hết nghi ngờ, tức là Tự tánh hiện :

Muốn hóa độ chúng sanh, tự mình phải có phương tiện. Chư Phật chư Tổ giáo hóa chúng sanh đều phải có phương tiện, chẳng pháp nào không có phương tiện mà tu được giải thoát. Nay chúng ta đối với vũ trụ vạn vật đều có nghi : Tại sao có ta? Tại sao có ngũ tạng lục phủ? Tại sao con mắt thấy lỗ tai được nghe? Tại sao có cây cối trời đất ? tất cả đều là nghi. Nếu muốn giáo hóa chúng sanh để mọi người tu đến hết nghi, như nay tham Thiền khởi lên nghi tình ,, tham đến nghi tình vỡ rồi thì sự nghi hết. Tổ Sư Thiền gọi là " Cắt đứt căn nghi", khi tự tánh hiện ra tức kiến tánh, chứ chẳng phải có cái TA năng kiến và có cái tánh là sở kiến. Nên ở đây nói là Tự tánh hiện.

Phật pháp tại thế gian, chẳng rời thế gian giác.

Lìa thế tìm Bồ đề, cũng như tìm sừng thỏ :

Phật pháp ở trong thế gian, chẳng thể rời thế gian mà giác ngộ; hễ lìa khỏi thế gian thì đâu cần tìm Phật pháp ! Nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, ví như tìm sừng thỏ vậy.

Chánh kiến gọi xuất thế, tà kiến gọi thế gian.

Tà chánh đều quét sạch, tánh Bồ đề rõ ràng :

Chánh kiến phải phá ngã chấp, tà kiến thì chấp ngã ( Hai chữ "tà kiến" ở đây là đối với chánh kiến, chứ chẳng phải tà kiến trong năm thứ ác kiến ). Mặc dù chánh kiến là xuất thế gian, tà kiến là thế gian, nhưng vẫn còn đối đãi, người tham Thiền phải tà chánh đều quét sạch mới không có đối đãi, tánh Bồ đề rõ ràng hiện ra.

Tụng này là đốn giáo, cũng gọi đại pháp thuyền.

Lúc mê tu nhiều kiếp, ngộ chỉ một sát na :

Bài Vô Tướng Tụng này là pháp môn Đốn giáo của Tổ Sư Thiền, cũng gọi là Đại Pháp Thuyền chở chúng sanh đến bờ bên kia. Người mê chẳng tin chẳng thực hành nên khổ tu nhiều kiếp, người tin theo pháp môn này để tu chỉ ngộ trong một sát na thôi.
Sư lại nói : "Tôi ở Chùa Đại Phạn thuyết pháp Đốn giáo này, phổ nguyện tất cả chúng sanh trong pháp giới nghe rồi liền được kiến tánh thành Phật" . Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, tứ chúng nghe lời thuyết pháp của Tổ đều được khai ngộ, lễ bái tán thán rằng :" Chẳng ngờ ở Lĩnh Nam lại có Phật ra đời".

Hỏi : Chỉ nhờ câu thoại đầu có đạt đến lý chơn không chăng ?

Đáp : Nói "NGỘ" là ngộ vào Tựï tánh chứ chẳng phải ngộ lý Chơn không. Thiền tông là giáo ngoại biệt truyền, tức ở ngoài giáo lý, quét sạch tất cả lý mới ngộ nhập Tự tánh. Nếu còn có cái lý thì chưa lìa được ý thức, hễ theo lý thì đòi hỏi phải hợp lý; muốn hợp lý (Logic) là còn nằm trong ý thức, không được kiến tánh. Lai Quả Thiền sư có quở chúng Tăng rằng "Các ngươi chứa đầy bụng các kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, nhưng ở Thiền đường này thì một chữ cũng xài không được".

Vừa rồi Ni Sư nói " Nghiệp chướng sâu trong xương tủy", là chẳng phải như thế; ví như căn phòng đen tối trong một ngàn năm hay mười ngàn năm, chỉ cần đốt lên một cây đèn thì sự đen tối trong muôn ngàn năm đều hết. Tổ sư nói "Đừng có đổ thừa nghiệp chướng nặng", cũng đừng tin là "La hán tái lai, Bồ tát chuyển thế", ấy là gạt người." Những lời này chính Lai Quả Thiền sư nói trong quyển thượng của Thiền Thất Khai Thị Lục.

Cho nên, Bác Sơn Cảnh Ngữ nói " Phải tin tự tâm là Phật"; tin tự tâm là Phật là chánh tín, tin ngoài tâm có Phật là tà tín, chớ đổ thừa nghiệp chướng nặng hoặc bảo rằng kinh có cao thấp. Trong Từ Bi Thủy Sám có bảy thí dụ, thí dụ thứ nhất nói :" Mình phải tự biết hổ thẹn, hồi xưa ta với Phật Thích Ca vốn cùng là chúng sanh, nay Phật Thích Ca đã thành Phật quá lâu mà ta vẫn còn là chúng sanh!" Do đó, chớ nên nói là "mình bị nghiệp chướng nặng, không dám sánh bằng Phật", mình với Phật đâu có khác! Nay chẳng thể bằng Phật nên phải hổ thẹn vậy. Tổ Sư Thiền này chẳng kể nghiệp chướng, chẳng kể sơ tham lão tham, thượng căn hạ căn v.v. Bởi Phật tánh của mọi người đều bằng nhau.

Hỏi : Vừa rồi Sư Phụ nói "Thiền Tông phải có niệm", ấy là niệm gì?

Đáp : Niệm đó là VÔ NIỆM. Vô niệm đó là chánh niệm, tức nghi tình. Nghi tình chằng phải là không có niệm, nhưng nghi tình không được gián đoạn, hễ gián đoạn tức chẳng miên mật vậy.

Hỏi : Dùng ba thứ quán chiếu để quán vọng quán huyễn của thế gian có phải là"Quán chiếu Bát Nhã" không? Có phải là trì kinh Bát Nhã không?

Đáp : Không phải. Cái huyển, cái vọng mà mình biết ấy, hễ chấp vào đó là nằm trong câu thứ hai của nghĩa ba câu trong Kinh Kim Cang. Nếu biết vọng là huyển hóa thì nằm trong câu thứ hai : Câu thứ nhất là chấp thật, câu thứ hai là biết được ấy là huyễn hóa, phá được cái chấp thật nhưng còn nằm trong câu thứ hai, chưa đến câu thứ ba. Mặc dù đến được câu thứ ba vẫn còn phải quét, nên chẳng phải Bát Nhã.

Hỏi : Có người cho rằng phải sử dụng quán chiếu Bát Nhã, sanh ra trí huệ để rãi công đức đến chỗ cùng cực thì thấy được vọng niệm khởi lên và rơi xuống, ấy tức ngộ đạo, phải không ?

Đáp : Ấy là tự mình bày đặt ! Nay thử hỏi "Cái niệm đó" là niệm gì? Ai rãi cái niệm đó ? Nếu có "ai" rãi thì cái rãi đó là năng, cái niệm là sở; có năng sở làm sao gọi là Bát Nhã? Bát nhã chẳng năng sở, nếu nói quán chiếu tức Bát Nhã thì quán chiếu có năng quán sở quán , còn là tương đối.

Hỏi : Vậy thì đến giai đoạn nào mới gọi là Bát Nhã và khởi dụng Bát Nhã để tu ?

Đáp ; "THAM THOẠI ĐẦU" mới là hành thâm Bát Nhã. Tham Thiền tức trì kinh, Bát Nhã vô sở trụ, chẳng có năng sở, chẳng lọt vào tương đối. Có Bát Nhã còn chẳng phải Bát Nhã, huống là năng sở !

Hỏi : Thế thì pháp quán chiếu của Giáo môn làm sao đạt đến thể tánh ?

Đáp : Giáo môn thì khác. Kinh Pháp Bảo Đàn là Thiền môn,Thiền môn thuộc giáo ngoại biệt truyền, khác với Giáo môn, phải có nghi mới được ngộ. Nay tham thiền tham đến chết chưa kiến tánh, ôm câu thoại đầu đến chết, kiếp sau cũng sẽ tiếp tục tham. Trong Truyền Đăng Lục có kể về một bé gái mười lăm tuổi, là cháu của Thừa tướng Tô Công Tụng, cũng do kiếp trước có tu, nên tham Thiền đến mười lăm tuổi đã kiến tánh, nhưng chẳng hề nói ra cho ai biết, vì tưởng rằng ai ai cũng vậy. Sau khi phá được Sơ quan, cha mẹ cho Cô lấy chồng. Do thiện căn Bát Nhã đã được gieo trồng, sau cùng cũng được gặp Thiền sư cho xuất gia, pháp danh Diệu Tổng Thiền sư. Xưa kia ở Trung Quốc, chức vị Trụ trì ở Tòng lâm đều là những vị tu hành đã kiến tánh và Diệu Tổng Thiền sư được ông Tỉnh trưởng mời đến chùa làm Trụ trì. Ngài Đại Huệ Thiền sư , thầy của Sư Bà nói " Sư Bà là người chẳng có tham thiền mà được ngộ ", nhưng kỳ thật là do tham Thiền mới được ngộ.

Hỏi : Như thế bên Giáo môn dùng pháp quán chiếu thì chẳng được ngộ ư ?

Đáp ; Lai Quả Thiền sư nói " Quán chiếu mặc dù có ngộ, nhưng không đến đỉnh núi Niết Bàn, chẳng triệt để". Nên trong Truyền Đăng Lục nói " Như lai Thiền khác hơn Tổ Sư Thiền", Như Lai Thiền có giai cấp, chia thành năm mươi bảy cấp, Quán chiếu thuộc Như Lai Thiền chứ không phải Tổ Sư Thiền.

Hỏi : Cái "Biết vọng" của ngài Khuê Phong như thế nào ?

Đáp : Ngài Khuê Phong là Tổ thứ năm của Tông Hiền Thủ, chẳng phải Tổ sư của Tổ Sư Thiền. Kinh Viên Giác nói " Nhất thiết chúng sanh giai chứng Viên giác", ngài cho là dịch sai, chữ GIAI phải đổi thành chữ CỤ, ấy là lý lẽ bên Giáo môn, Thiền tông thì biết chữ Giai là đúng. Ý của Tổ khuê Phong là " Tất cả chúng sanh chưa chứng viên giác, chỉ là cụ túc viên giác mà thôi", ấy là do còn chấp thật có chúng sanh, thật có viên giác . Bởi vì Bản tánh của mình đâu phải là chúng sanh ? Bản tánh của mình đâu phải là Phật ? Nay dùng trí huệ hiểu biết để suy diển cũng có thể suy ra được : Nếu bản tánh của mình là Phật thì sao nay lại thành chúng sanh? Hễ thành chúng sanh được thì tu thành Phật cũng vô ích, sau này cũng có thể trở thành chúng sanh. Hễ bản tánh là chúng sanh thì dù cho tu hành thế nào cũng chẳng thể thành Phật được, vì bản tánh đã là chúng sanh rồi ! Do Khuê Phong còn có chấp, nên chỉ có thể làm Tổ bên Giáo môn chứ chẳng thể làm Tổ bên Thiền môn.

Hỏi : Thấy tâm tán loạn có thể niệm câu "Nam Mô Định Tâm Vương Bồ Tát" được không ?

Đáp : Ở trong pháp môn Duy thức, tám thức nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý đều là tâm vương.

Hỏi : Có người nói "hết vọng tưởng tức kiến tánh", nhưng Sư lại nói :" hết vọng tưởng chưa phải kiến tánh, mong Sư giảng lại chỗ này ?

Đáp : Nếu không phá ngã chấp, hết vọng tưởng được sanh Cõi Vô Tưởng, cao nhất là Cõi Phi tưởng Phi phi Tưởng. Đức Phật từng thọ ký cho ông Uất Đầu Lam Phất "Sau khi hưởng xong phước báo cõi Trời, sẽ bị đọa súc sinh làm con chồn bay". Tu đến hết vọng tưởng, đừng nói là một đời chỉ có mấy mươi năm, cho dù là nữa đại kiếp không có vọng tưởng, vẫn còn bị đọa súc sinh! Cho nên, hễ không có nghi tình cũng không có vọng tưởng là lọt vào vô ký không, là Thiền bệnh. Tổ Sư Thiền gọi đó là "ngâm nước chết", hễ chấp vào đó thì vĩnh viễn chẳng được kiến tánh.

Hỏi : Câu " Tiền niệm bất sanh tức tâm, hậu niệm bất diệt tức Phật" trong Kinh Pháp Bảo Đàn như thế nào ?

Đáp : Ở trên đã nói, nếu chấp vào lời nói là nói hoài chẳng hết; hễ chấp vào thời gian thì có trước có sau, có mê có ngộ, là tương đối. Tâm niệm của chúng ta mặc dù thấy giống nhau nhưng mỗi giây đều khác, cũng như cây tim đèn, ngọn đèn của một giây trước chẳng phải ngọn đèn của một giây sau, phải không ?

Nay tham Thiền cần nghi tình miên mật, không để ý trước sau, không để ý mê ngộ, đến một ngày kia thình lình ngộ thì giây phút ấy, niệm ấy ngộ tức kiến tánh thành Phật. Khi chưa ngộ thì niệm niệm đều mê, nhưng lúc có nghi tình thì chẳng phải mê, mặc dù chưa kiến tánh. Như ngài Lai Quả Thiền sư nói "Nếu công phu được thành khối, hai mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng gián đoạn thì không kiến tánh cũng được" .Tại sao ? Vì hễ có tướng thì Diêm La Vương thấy và có thể sai tiểu quỷ bắt được; nghi tình chẳng hình tướng, chẳng lọt vào chỗ nào cả, chẳng có tướng thì Diêm La Vương chẳng thể thấy, chẳng thể sai quỷ sứ đến bắt. Sự thật thì công phu đến chỗ đó muốn không kiến tánh cũng chẳng được. Đối với chúng sanh chấp mê phải nói ngộ, nên nói "Niệm trước là mê, niệm sau là ngộ". Khi ngộ rồi mới biết chẳng có ngộ, vì trước có mê đâu mà nói là ngộ ?

Cho nên, hễ chấp vào lời nói là không hiểu ý của Tổ. Lời của Tổ, của Phật chỉ là phương tiện tạm thời, đối với căn cơ này thì thuyết pháp này, đối với căn cơ kia là thuyết pháp kia, thường thì pháp này với pháp kia mâu thuẫn nhau. Ý của Phật chẳng có mâu thuẫn, do người chấp có mâu thuẫn, thành ra nói pháp có mâu thuẫn. Nên nói bệnh của chúng sanh là bệnh giả, thuốc của Phật là thuốc giả, bệnh giả hết thuốc giả phải bỏ, nếu chấp thuốc ấy là thật thì sai lầm.

Hỏi ; Trong cuốn "Thiền Đạo Tu Tập" của ông Trương Trừng Cơ nói rằng Phái Tào Động là Mặc chiếu, phải không ?

Đáp : Trương Trừng Cơ là người tu theo Mật tông, chẳng có thực hành Tổ Sư Thiền, chỉ nghiên cứu sách Thiền mà tự cho Tào Động Tông là Mặc chiếu. Ông ấy cũng biết hễ có lý luận là nghịch với ý chỉ Tổ Sư Thiền, nhưng cũng bất giác lập ra lý luận đặc biệt về Tổ Sư Thiền, chia công án thành bốn loại , ấy là tại tác giả chẳng biết về Tổ Sư Thiền, chẳng thực hành Tổ Sư Thiền, tự lấy ý mình suy ra tưởng là đúng. Người tham Thiền chẳng thể căn cứ vào đó mà phải căn cứ Tổ Sư kiến tánh. Quyễn "Lá Thư Thiền" của ngài Đại Huệ nói " Mặc chiếu là tà thiền".

Hỏi : Thế nào là Năm tông bảy phái ?

Đáp : Thiền tông là một, tại sao lại chia thành năm tông bảy phái ? Aáy là do thủ đoạn của Tổ Sư có khác biệt. Ví như bảy người có bảy món ăn đặc biệt, ông A là món canh chua, ông B thì món xào, ông C thì món hầm v.v.. mỗi người một món đặc biệt ngon, mặc dù món ăn đó sáu người khác vẫn làm được nhưng không ngon bằng. Người thích món canh chua phải đến chỗ ông A, người thích món xào đến ông B, hễ người thích món xào mà đến với ông A thì giới thiệu ngay đến ông B. Tuỳ theo căn cơ , sở thích của người tu nên chia thành năm tông bảy phái. Đến khi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ra đời , thủ đoạn của Tổ sư chẳng xài ra được nữa.

Hỏi : Chẳng có vọng tưởng cũng chẳng chấp không, có phải là ý của " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" không ?

Đáp : ƯNG VÔ SỞ TRỤ là giữ cái hoạt bát vạn năng của Tự tánh, NHI SANH KỲ TÂM là dụng của tự tánh xài ra. Tôi thường lấy cánh tay để thí dụ: Sự dụng của tay hoạt bát vạn năng,lấy gì cũng được, hễ có sở trụ, chấp vào một vật gì thì đánh mất tánh hoạt bát vạn năng của tay, nên chư Phật chư Tổ dạy phải quét đi, khôi phục lại tánh hoạt bát vạn năng. Chấp vào một vật là CÓ, hay chấp vào cái KHÔNG, cũng là đánh mất sự hoạt bát vạn năng, nên cái không ấy cũng phải quét. Nếu chẳng có vọng tưởng cũng chẳng chấp không thì cái " chẳng có vọng tưởng" ấy có biết không ?


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang