DUY LỰC
NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 -
1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh
Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001
PHẦN 2
(CUỐN 11 - 20)
02-1
Hỏi : Xin
Sư phụ kể qua vấn đề dịch Kinh như thế nào ?
Đáp : Ở Trung Quốc, vấn
đề dịch kinh từ chữ Phạn sang chữ Hán, dịch tràng trên ba trăm đến
năm trăm người, người chủ dịch thường là người kiến tánh, thấu suốt
Phật pháp, còn người dịch phụ phải qua sự ấn định của Chủ dịch.
Ở Việt Nam thường do một người dịch, cũng tùy theo ý của người dịch,
người dịch thường tự chẳng có tu chứng, hễ không có tu chứng thì
không thể hiểu nổi ý của Phật, của Tổ, vì ý Phật, ý Tổ chẳng phải
là sự suy nghĩ thông minh của thế gian có thể hiểu được.
Lai Quả Thiền sư nói
:" Thông minh của thế gian chẳng phải là trí huệ của Phật
pháp", Tổ sư gọi là "Thế trí biện thông". Lại, theo Phật
giáo, xem những người thế trí biện thông, bậc tri thức khoa học là hạ
căn, vì họ chấp thật những kiến thức khoa học của mình chẳng chịu
buông, còn người đầu óc đơn giản, nơi Phật pháp lại cho là thượng
căn, tu hành dễ đắc đạo hơn. Nên Phật pháp là nghịch với pháp thế
gian.
Trong Niên Phổ của
ngài Hư Vân có kể đến câu chuyện "Bá Trượng và con chồn"; chỉ
vì đáp sai một chữ phải đọa làm con chồn năm trăm kiếp, nên Phật
pháp chẳng phải là muốn nói thế nào cũng được, ấy chẳng phải chuyện
chơi. Đối với Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, tội đại vọng ngữ là tội Ba La
Di, là tội cao nhất, bằng như tội tử hình của thế gian. Hễ Tỳ Kheo phạm
coi như Tỳ kheo ấy đã chết, Tỳ Kheo Ni cũng vậy, muốn khôi phục lại
chức danh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni , phải đợi đến kiếp sau mới được. Như
Bá Trượng Thiền sư nói :" Nếu pháp sư chỉ giảng được nghĩa hai câu
thì pháp sư ấy phải đọa địa ngục; nếu pháp sư giảng thấu ba câu
mà người nghe hiểu sai lầm thì lỗi tại người nghe, người nghe đọa địa
ngục chứ không quan hệ đến pháp sư, vì pháp sư đã giảng hết ý rồi.
Hỏi : Thầy
giảng những cái đó còn nằm trong ngũ ấm hay đã ra ngoài ngũ ấm ?
Đáp : Không có nằm trong
ngũ ấm, cũng chẳng ở ngoài ngũ ấm. Tôi thường nói hai chữ "BẤT
NHỊ", hễ có trong có ngoài là nhị, chính cái ngũ ấm chẳng phải là
thật, làm sao có trong có ngoài ?
Hỏi : Cái
biết mà mình không khởi niệm, không tác ý phân biệt để biết, đó có
phải là tri tịch không ?
Đáp : Kinh Lăng Nghiêm
nói rõ "Tri giác nãi chúng sanh", đã lập tri rồi, mặc dù cái tri
ấy không rõ ràng, nhưng cũng là tri. Nếu không khởi ý để biết thì làm
sao biết đó không rõ ràng ? Biết là "không rõ ràng" đã là biết
rồi ! " Tri tri " là căn bản vô minh, từ nguồn gốc ấy sinh ra sở
tri. Dù yên lặng chẳng có vọng tưởng gì, nhưng năng sở đã rõ ràng,
thì chẳng phải cái tri của Tự tánh. Đợi đến biết cái "mờ mờ
không rõ ràng ấy" thì trở thành bụi bậm , là sở tri rồi.
Tại sao nói "Cái tri
của Tự tánh" ? Đáng lẽ không có cái tên gọi là TRI, ấy chỉ là thế
lưu bố tưởng, thế gian đã gọi là tri thì phải gọi cái tri đó thế
gian mới hiểu, nếu không thì gọi bằng cái gì ? làm sao diển đạt ? Nên
mới có phân biệt thế lưu bố tưởng và trước tưởng. Do đó, nói chữ
"TRI" đã là có sự chấp thật; chấp cái năng tri là thật, là căn
bản vô minh vậy.
Hỏi : Cái
"tri" ấy đã là bất đắc dĩ mà nói, nói cái trạng thái đó là
"biết" cũng không được ư ?
Đáp : Trong Thiền Thất
Khai Thị Lục đề cập khi tham thiền đến trạng thái đó là " Vô
tâm không cho hữu tâm biết". Ví như có người hỏi ông tên gì, nếu
còn trả lời được tức còn biết, chưa phải là vô tâm. Ví như nói
"tri" và "vô tri", VÔ TRI tức chẳng còn biết gì, nếu còn
biết là vô tri ấy là tri. Nếu thật vô tri, ai biết vô tri ? "Cảm thấy
" cũng là biết .
Hỏi : Vì
sao không được tiếp tục ngồi khi trên thân khó chịu ?
Đáp : Theo kinh nghiệm của
tôi, khi kinh hành chớ nên vừa đi vừa vận động thì máu lưu thông,
không sanh ra bệnh. Cũng như ngồi thiền, ngồi lâu thành bệnh, nhiều người
chấp vào cái ngồi nên sanh ra bệnh. Lúc nghi tình nặng, ảnh hưởng đến
nhức đầu, tức ngực ,khó thở,, nếu có vận động, thì máu lưu thông
đều , vẫn tiếp tục kinh hành được, hễ ngồi thì không có sự lưu thông
về máu nên dễ sanh bệnh, đôi khi bị chết giấc mà chẳng ai hay biết,
nên tôi thường khuyên mọi người không nên chấp ngồi là vậy.
Hỏi : Thế
nào là nghi tình phát khởi được và nghi tình phát chẳng khởi ?
Đáp : Trong Tham thiền
Cảnh Ngữ của ngài Bác Sơn nói rõ "nghi tình phát chẳng khởi"
là chỉ cái chơn nghi, nay chúng ta đều chưa đến chỗ chơn nghi, cũng gọi
là nghi tình phát chẳng khởi. Sở dĩ nay ta gọi là "nghi tình" ấy
chỉ là tập tham để đến chơn nghi phát khởi nghi tình, Phát được chơn
nghi cũng tương ưng với Pháp thân rồi. Trong Niên Phổ của ngài Hư Vân
nói "Khi chơn nghi phát khởi, ấy là sự thình lình đột phát", chơn
nghi phát lên là nghi tình gần thành khối vậy.
Nay chúng ta tham thiền
thì chưa có ai phát được chơn nghi, nên gọi là "nghi tình phát chẳng
khởi" chứ không phải không có nghi tình. Chúng ta tham thiền đến chỗ
thuần thục thì thình lình phát lên chơn nghi, tương ưng với cái lý pháp
thân như trong Tham Thiền Cảnh Ngữ nói, thì biết đó là chơn nghi.
Hỏi : Khi
ngủ mê làm sao biết có tham thiền ?
Đáp : Nay có những người
đang ngủ mê mà biết mình tham thiền, ấy là những người không biết
mình đang ngủ, nhưng người khác thì thấy họ đang ngủ mê. Chính người
ấy có nghi tình và lúc sáng thức dậy vẫn đầy đủ tinh thần, ban ngày
làm việc như thường, chẳng thấy mệt mỏi.
Hỏi : Phát
khởi chơn nghi đã phá được sơ quan chưa ?
Đáp : Phát khởi chơn
nghi tương đương với nghi tình thành khối, chưa đến kiến tánh, chưa phá
được sơ quan, nhưng rất hy vọng được phá sơ quan.
Hỏi : Chúng
ta đang sống trong vọng thức thì làm sao y trí bất y thức ?
Đáp : "Y trí bất y
thức" là tiêu chuẩn và mục đích của mình, nhưng chúng ta đang suốt
ngày sống trong thức tâm phân biệt, hiện nay đang tu ấy là thức, tham thiền
đến một ngày nào đó kiến tánh rồi mới không còn phân biệt, mới chuyển
thức thành trí được, tức sự automatic của trí bát nhã đã hiện ra.
Hỏi : Ý
nghĩa của Qui y Tam Bảo như thế nào ?
Đáp : Có người hỏi
"Qui y Thiền Tông" và "Qui y Tịnh Độ" như thế nào ? Tôi
giải thích rằng Qui y là Qui y Tam Bảo, còn Thiền tông và Tịnh độ chỉ
là pháp môn chứ không phải qui y.
Qui y Tam bảo có hai : Một
là thường trụ Tam Bảo, hai là Tự tánh Tam Bảo. Nay chúng ta qui y là Thường
trụ Tam Bảo: Tượng Phật đại diện cho Phật Bảo, Kinh Phật đại diện
cho Pháp Bảo và Tăng ni xuất gia đại diện cho Tăng Bảo, nhờ Tăng Bảo
giáo hóa để ngộ nhập Tự tánh Tam Bảo tức giải thoát , biết được mình
là gì, tự làm chủ cho mình, đạt đến tự do tự tại. Mục đích để
qui y Thường trụ Tam Bảo là vậy, chứ chẳng phải như một số người
nghĩ rằng "Qui y để có giấy chứng minh, sau khi chết để trong hòm
làm giấy thông hành ở Âm phủ , ấy là sai lầm.
Chữ PHẬT là "Người
Giác ngộ" , gồm hai nghĩa Tự giác và giác tha, giác hạnh viên mãn, hễ
ai giác ngộ tức Phật. Tự ngộ rồi phải độ cho chúng sanh, tự mình và
chúng sanh đều được tự do tự tại, tức giác hạnh viên mãn. Nếu chỉ
tự giác mà chẳng giác tha thì giác hạnh chẳng thể viên mãn.
Chữ PHÁP là chỉ phương
pháp để đạt đến tự do tự tại, nay cách tham Thiền là Pháp Bảo để
đưa chúng ta đến chỗ tự do tự tại.
Chữ TĂNG tại sao gọi là
Bảo ? Vì nếu có Phật có pháp mà chẳng có Tăng để từng đời truyền
dạy thì Phật pháp cũng phải tiêu diệt. Nên ở trong Tam Bảo, Tăng Bảo là
quan trọng nhất, có Tăng Bảo mới giữ được Phật Bảo và Pháp Bảo.
Hỏi : Thiền
sư Nham Đầu là một vị đã kiến tánh, sao còn bị bọn cướp giết ? Nếu
nói là túc nghiệp phải trả, thì trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia
Đại sư nói "Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không", vị liểu
ưng tu hoàn túc trái". Lại, trong Kinh Kim Cang có câu :" Người nào
thọ trì đọc tụng Kinh Kim Cang mà bị người khinh miệt thì tội nghiệp
đời trước của người ấy đáng lẽ phải đọa tam ác đạo, do đời
nay bị người khinh miệt nên tội chướng được tiêu, và đắc Chánh đẳng
Chánh giác". Ấy thì giải thích thế nào về cái chết của Thiền Sư
Nham Đầu cho hợp lý ?
Đáp : Phật pháp luôn
luôn không rời khỏi nhân quả, có nhân ắt có quả: Thế gian có nhân quả,
xuất thế gian cũng có nhân quả. Nhưng nhân quả là duy tâm tạo, chẳng thể
chấp thật. Chúng sanh thì chấp đó là thật, Phật vì muốn độ chúng
sanh nên phải tùy thuận chúng sanh để độ. Cũng như Đức Phât đã kể về
câu chuyện "Vua Lưu Ly giết chết cả tộc Thích Ca" :
" Vì đời trước chủng
tộc Thích Ca sống trong một làng đánh cá, tiền thân Vua Lưu Ly là con cá
lớn, binh sĩ là cá con trong một ao lớn, dân làng ấy xả hết nước ao và
bắt con cá lớn và các cá con để ăn, duy chỉ có một đứa bé không bắt
không ăn mà chỉ gỏ ba cái vào đầu cá lớn . Đến đời Phật Thích Ca
thành Phật rồi, vẫn phải bị nhức đầu ba hôm."
Đó là muốn thể hiện vấn
đề nhân quả không thể tránh, nhưng ấy là đối với sơ cơ. Tôi có xem
qua một quyển Trụ Sứ Thập Hạnh, trong đó đức Phật bảo :"
Nói ta bị nhức đầu ấy chỉ là phương tiện mà thôi, thật tế thì ta
có bị nhức đầu đâu !"
Cho nên , chính hai câu
" Liểu tức nghiệp chướng bổn lai không, vị liểu ưng tu hoàn túc
trái" trong Chứng đạo Ca, có một người tham Thiền hỏi Tổ kiến tánh:
- " Thế nào là nghiệp
chướng ?"
Đáp :" Bổn lai
không."
Hỏi : "Thế nào là Bổn
lai không ?"
Đáp : "Nghiệp chướng".
Nghiệp chướng vốn chẳng
thật, bổn lai vốn không, thì theo nhân duyên nào cũng là nhân quả. Tổ độ
chúng sanh cũng có phương tiện độ và nghiệp độ, như Phât Thích Ca ở
quyển kinh này thì nói "Ta bị nhức đầu", ở quyển kinh khác thì
nói " ta có bị nhức đầu đâu! " Đã thành Phât rồi, cơ thể còn
không có, làm sao có nhức đầu ư ? Ai nhức ? Ấy chỉ là phương tiện để
độ chúng sanh mà thôi.
Hỏi : Có
người chẳng có qui y Tam bảo, chỉ ở nhà xem qua kinh Phật hoặc nghe được
câu thoại đầu mà ở nhà tự tu, vậy có kiến tánh hoặc ngộ đạo không
?
Đáp : Giả sử người
ấy chẳng biết có sự qui y mà chỉ tự nghe được câu thoại đầu để
tu thì có thể ngộ, nhưng nếu người ấy đã biết được sự qui y, có
người khuyên bảo giới thiệu qui y mà tự có ý không qui y Tam Bảo thì người
ấy sẽ không ngộ được. Tại sao ? Vì người ấy còn có chấp , hễ chấp
thật thì chẳng thể ngộ được.
Hỏi : Nếu
như người ấy do quá nghèo mà không có phương tiện qui y ?
Đáp : Qui y Phật pháp rất
bình đẳng, chẳng có sự phân biệt giàu nghèo, đến chùa qui y không hạn
chế giàu nghèo, có tiền hay không có tiền vẫn qui y được.
Hỏi : Con
phát nguyện trong 49 ngày phải kiến tánh, như thế đúng không ?
Đáp : Tôi đã nói là phải
VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ SỢ, tự nhiên mong cầu trong 49 ngày phải
kiến tánh, ấy là cái tâm bức bách, quá gấp thành bệnh. Gặp trường hợp
này phải biết cách đối trị : Câu thoại đầu đề cho thật chậm để
cho điều hòa lại,như"Niệm__Phật__là__ ai?" . Nên nhớ rằng hễ
có sở cầu là không được. Vã lại, trong Thiền tông có thể trải qua mấy
lần tiểu ngộ, thình lình được ngộ cái gì chớ có vui mừng quá, e sẽ
thành bệnh. Ngộ được cũng phải quét, hễ có ngộ được một cái gì
đó thành có sở đắc, nên phải quét .
Hỏi : Khi
nghi tình thành khối sẽ như thế nào và làm sao đập bể ?
Đáp : Lai Quả Thiền sư
thí dụ "Khối này lớn lắm, siêu việt số lượng, bao hàm hư không,
nếu như lấy cây đập nó một cái, thì cây đó cũng ở trong khối; lấy
chân đá một cái cũng ở trong khối, bất cứ làm cách nào cũng ở trong
khối". Lúc đã thành khối rồi thì nghi tình 24 giờ chẳng giây phút
gián đoạn mới được gọi là thành khối, nếu có một giây phút gián
đoạn cũng không được gọi là "thành khối", chính giây phút
gián đoạn ấy khiến sanh tử nổi lên, khiến vọng tưởng từ đó nổi
lên, khiến Diêm La Vương thấy được, tiểu quỷ bắt được .
Lúc nghi tình thành khối
thì câu thoại tự mất, chỉ còn nghi tình, khi ấy muốn tự ý buông bỏ
nghi tình, buông bỏ chẳng được; cố ý muốn nổi lên một vọng tưởng
nào cũng chẳng được, cảnh giới ấy gọi là "nghi tình thành khối",
là đứng trước đầu sào trăm thước, hễ tiến lên một bước, lìa khỏi
ý thức là ngộ, chẳng đại ngộ cũng tiểu ngộ, phá được Sơ quan.
Cái tiểu ngộ mà tôi thường
nói ấy chỉ là giải ngộ, chẳng phải chứng ngộ, chưa phá được Sơ
quan. Vì giải ngộ còn nằm trong ý thức, chưa lìa ý thức, còn đại ngộ
là đã lìa ý thức rồi.
Hỏi : Trong
năm câu hỏi để tham Thiền, nếu như tự tìm ra giải đáp cho câu hỏi
có được không ?
Đáp : Ấy là lấy tâm
đi tìm hiểu, lọt vào hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.Tham Thiền chỉ
cho chánh nghi, không cho lọt vào hồ nghi. Lại, lấy tâm đi tìm là
"ta"; phân biệt chẳng phải là "ta", là tứ đại giả hợp.
cũng là giải thích thêm để tìm ra câu đáp án, đều là hồ nghi, chẳng
phải tham Thiền.
Hỏi : Tướng
của nghi tình thế nào ? Muốn phá vỡ nghi tình bằng cách nào ?
Đáp : Không đươc nổi
ý phá nghi tình, nếu khởi ý muốn phá nghi tình ấy là hồ nghi, chẳng phải
chánh nghi, là dùng ý thức đi tìm hiểu, vĩnh viễn phá không được. Chúng
ta cứ tham mãi, tham liên tục và miên mật, đến nghi tình thành khối rồi,
gặp nhân duyên thuần thục sẽ tự phá. Như quá khứ chư Tổ, có vị bị
đập một cái được phá, có vị thình lình thấy con khỉ leo cây cũng
được phá v.v. Ấy là thình lình tự phá chứ chẳng phải khởi tâm tìm
cách muốn phá. Nếu đến được chỗ đầu sào trăm thước rồi , đó là
cửa vô minh, chưa có phá được, chưa có qua được, ngoại đạo đến chỗ
này , thấy phía trước thanh thanh tịnh tịnh, chẳng còn đường đi, tưởng
là cứu cánh, cho là đến cứu cánh Niết bàn, nhưng sự thật thì chưa,
cũng còn dính líu ý thức. Đến đây nếu buông nghi tình xuống, không tiếp
tục nữa, vẫn còn nằm trong ý thức, là nguồn gốc của ý thức . Như Cõi
trời Phi tưởng Phi phi tưởng, mặc dù vọng tưởng không nổi lên trong nữa
đại kiếp, nhưng sau đó vọng tưởng vẫn nổi lên.
Hỏi : Trong
lúc tham Thiền, giữa tình trạng không phải thức cũng không phải ngủ, thường
thấy những cảnh giới khác nhau, vậy có phải là nghiệp không ?
Đáp : Ấy gọi là cảnh
giới. Cảnh giới tốt cũng không vui thích, cảnh giới xấu cũng không để
ý, chỉ cần giữ cái không biết, chỉ biết có câu thoại đầu, có nghi
tình, ngoài ra đều không biết tới. Cho dù Phật Thích Ca đến xoa đầu thọ
ký cũng phải quét luôn, nhưng cũng không được nổi ý quét, có nghi tình
thì tự động quét, chỉ là không để ý, không biết tới. Vọng tưởng nổi
lên bao nhiêu đều mặc kệ, chẳng những có vọng tưởng không biết tới,
kể cả không có vọng tưởng cũng không biết tới, không cần đối trị,
chính câu thoại đầu đối trị tất cả.
Hỏi : Sư
phụ dạy "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ", nhưng Phật tử
đa số là mong cầu giải thoát, vậy có phải là sở cầu không ?
Đáp : Khi bắt đầu tham
Thiền nhưng chưa thực hành thì khởi ý cầu giải thoát, đã thực hành
tham Thiền là đi trên con đường giải thoát rồi, không được cầu giải
thoát nữa, có cầu là vọng. Cầu ngộ cũng là vọng, cầu thành Phật thì
cái vọng ấy càng lớn nữa ! Đã đi tất sẽ đến, đâu cần cầu! Ví như
chúng ta đang ở Chợ lớn, xin cha mẹ cho đi Sài gòn, nếu cha mẹ chưa cho
thì phải cầu xin, cha mẹ đã cho rồi thì cứ đi, dọc đường mà nói
" Ta cầu đi Sài gòn", ấy có phải là vọng không ?
Hỏi : Một
người không xem sách vì sợ kiến giải mà chỉ một mực chú tâm tham thiền,
với một người vừa tham thiền vừa nghiên cứu sách, cái nào tốt hơn ?
Đáp : Tốt nhất là
chuyên tâm tham Thiền.Tôi thường lấy việc ăn cơm để thí dụ: Người
xem sách Thiền, hiểu biết kỹ về thiền, cũng như người thông minh tài
giỏi, nhà bác học mà nghiên cứu trong chén cơm có bao nhiêu chất bổ, bao
nhiêu Vitamine, lại phân tích có bao nhiêu Vitamine A, Vitamine C. biết rất nhiều
nhưng không ăn cơm. Còn người kia dốt nát, không biết gì cả, chỉ biết
ăn cơm mà thôi. Người không biết gì cả, chỉ biết ăn cơm thì người
ấy được no, còn người thông minh bác học kia biết đủ thứ, nhưng không
ăn cơm thì người ấy chịu đói vậy.
Mặc dù người dốt nát
kia chẳng biết Vitamine là gì, nhưng đã ăn cơm, đã được tiêu hóa rồi,
thì nhổ ra nước miếng cũng là Vitamine.
Hỏi : Đối
với người biết tham thoại đầu lại chưa có lòng tin thì sao ?
Đáp : Hàng tuần thuyết
pháp tôi vẫn thường nói:" Tôi chẳng phải giảng giáo lý cao siêu để
cho người nghe biết thêm về giáo lý, chỉ là tăng trưởng lòng tin cho mọi
người".
Lòng tin rất cần, nhưng
không phải chỉ tin pháp môn là đủ. Trong Tham Thiền Cảnh Ngưõ có
nói :" Nếu chỉ tin pháp môn tham Thiền này, cho dù tin 100% vẫn chưa đủ.
Tại sao ? Vì chỉ tin theo pháp môn, chưa tin tự tâm". Người tham Thiền
phải tin rằng "tự tâm mình là Phật". Trong cuốn Tín Tâm Minh Tịch
Nghĩa Giải có nói :" Nếu tin tự tâm là Phật, gọi là chánh tín;
nếu tin ngoài tâm có Phật, ấy là tà tín". Nên cần nhất phải là
tin tự tâm và sau đó mới ø tin pháp môn.
Do đó, nếu chuyên tâm thực
hành thì trong một- hai tuần lễ sẽ nổi được lòng tin, vì thấy mình đã
có tiến bộ. Có một vài cụ già sau khi thực hành vài tuần thì cảm thấy
phiền não bớt đi nhiều, tự nhiên tăng trưởng lòng tin. Tự tạo được
lòng tin thì lòng tin ấy mới mạnh, nếu chỉ dựa vào sách vỡ, kinh nghiệm
của người khác là vô dụng.
Trung Phong Thiền sư có
thí dụ về "Con dấu vàng" : Con dấu thể hiện sự tín nhiệm,
nhà vua có con dấu vàng của vua, quan chức có con dấu của quan chức, người
buôn bán cũng tự có con dấu riêng. Có con dấu thì được mọi người tin
cậy, nhưng con dấu đó phải là của chính mình mới được, giả sử cho
ông lượm được con dấu bằng vàng, nếu không phải của mình thì rốt
cuộc xài chẳng được".
Con dấu dụ cho cái gì ?
Dụ cho sự ngộ của Phật, của Tổ. Lời nói của Phật , của Tổ thì mọi
người tin, nếu lượm được lời của Phật của Tổ mà cho là của mình
thì chẳng những không xài được, còn mắc tội nữa ! nên coi sách cho nhiều
cũng chẳng ích lợi gì, Tự ngộ rồi mới là của mình.
* Cảm tưởng của Sư Bà
Huê Lâm : Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch Thượng Tọa Thiền
Sư, Hôm nay là ngày viên mãn Thiền thất, con xin đại diện cho tất cả
chư hành giả hiện diện, nói lên lời cảm nghĩ của con:
- Qua 7 ngày dự đạo tràng
tu tập tham Thiền, vừa ngồi thiền và kinh hành trong tám giờ đồng hồ,
Thượng tọa Thiền sư chẳng màng lao nhọc, dìu dắt chúng con, chỉ dạy
phương pháp tham Thiền, cả giáo lý lẫn thực hành, rất là kỳ diệu.
- Theo con được hiểu,
tham Thiền chẳng phải là giáo lý thiển cận, mà là phô diễn giáo lý tột
đỉnh của tất cả tư tưởng Phật giáo, một lý thuyết trực chỉ, có
thể đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ, giải thoát viên mãn. Con có cảm
nghĩ toàn thể bí mật của sự tu tập tham Thiền nằm trọn trong bản
giác bình dị, nhưng rất cùng diệu chỉ.
- Kính bạch Thiền Sư, đây
là lần đầu tiên con tham dự Thiền thất, nhưng đã cởi mở những điều
thắc mắc trong bốn mươi năm qua. Con đã xuất gia hơn bốn mươi năm, tu tập
theo pháp môn Mật tông, hôm nay, lần đầu tiên con tham dự Thiền thất do
Thiền sư dẫn dắt một cách siêu việt, khiến tâm hồn con thiết tha vô
cùng. Con cảm niệm trong sự dạy dỗ của Thiền Sư đối với tất cả chúng
con, con cảm động khi thấy sức khỏe của Thiền Sư rất yếu, nhưng từ
bi vô lượng. Thiền Sư đã không nài cực nhọc giảng dạy cho chúng
con.Vì thế, nên từ đây về sau, con nhiệt thành tham cứu Thiền, và luôn
nỗ lực dụng công tham Thiền, đạt đến giác ngộ, để đền đáp tứ
trọng ân, trong đó có ơn huệ của Thiền Sư chỉ dạy cho chúng con.
- Chúng con được yên
tâm tu tập là nhờ quí Đàn na tín thí giúp đỡ, giờ đây, con xin đại
diện toàn thể đại chúng trong Thiền đường, thành tâm cầu chúc Thiền
Sư pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, để dẫn dắt chúng sanh đến bờ
giải thoát.
- Chúng con xin lễ tạ Thiền
Sư, ngưỡng mong Thiền Sư chứng minh cho toàn thể đại chúng trong Thiền
đường.
Đáp : từ của Sư Phụ :
- Lời khen tặng của Sư
bà Huê Lâm, tôi tự cảm thấy rất hổ thẹn. Bởi vì xưng tôi là Thiền
Sư thì thật ra tôi chưa đủ tư cách làm Thiền sư.Trong giải thất kỳ
trước, tôi có kể sơ qua về quá trình ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền, chưa
kiến tánh mà ra hoằng pháp ấy là sự bất đắc dĩ, vì Hòa Thượng đã
tuyên bố, nếu không thực hiện, e làm mất sĩ diện của Hòa Thượng.
Nhưng đã bắt đầu hoằng pháp thì tôi phải tận bổn phận của tôi, biết
bao nhiêu nói bấy nhiêu, giới Tỳ kheo là có chức nguyện hoằng pháp. Ở
trong Thiền tông cũng có lịch sử rằng "Thầy chưa kiến tánh, trò đi
tham học ở ngoài trở về , thầy biết đệ tử ấy đã kiến tánh, nên mời
đệ tử lên tòa, lễ bái đệ tử làm thầy, sau đó thầy cũng được kiến
tánh", tôi cũng hy vọng như thế. Tôi thì chưa kiến tánh, nhưng tôi hy
vọng quý vị mau kiến tánh hơn tôi, mặc dù tôi dạy tham thiền, nhưng nếu
có vị nào kiến tánh rồi, tôi sẽ trở lại lạy thầy đó để tôi được
kiến tánh.
Hỏi : Núi
Tu-di là chỉ cho pháp thân và hạt cải là chỉ cho tứ đại, phải không ?
Đáp : Không phải. Ay là
chỉ cho cái lớn nhỏ tương đối: Núi Tu-di là lớn, hạt cải thì nhỏ, lớn
nhỏ tương đối là lọt vào tứ cú, chướng ngại cho sự dụng của Tự
tánh. Kinh liễu nghĩa dạy chúng ta vô sở trụ, cũng là nghĩa lìa tứ cú,
tức chẳng trụ cú thứ nhất, nhì, ba hoặc bốn.
Hỏi : Trong
thời mạt pháp này, áp dụng pháp tu nhĩ căn viên thông của Quán Thế Âm
Bồ tát, có được kiến tánh không ?
Đáp : Trong Kinh Lăng Nghiêm
có nói đến nhĩ căn viên thông và giải thích rất rõ. Bây giờ nhiều người
chấp lời nghịch ý, không hiểu Kinh Lăng Nghiêm, chỗ này ngài Hư Vân đã
có nói rõ :" chúng ta tham câu thoại đầu tức phản văn tự tánh, tức
nhĩ căn viên thông rồi". Nếu dùng lỗ tai đi nghe, lấy lỗ tai để phản
văn thì vĩnh viễn phản văn không được, bất kể nghe trong nghe ngoài đều
là nghe vọng, chẳng nghe động thì nghe tịnh, trong ngoài động tịnh đều
là nhị.
Nay tôi sẽ dẫn chứng
Kinh Lăng Nghiêm, vì dùng kinh để chứng kinh mới rõ. Kệ rằng :
Dùng nghe giữ lời Phật,
đâu bằng nghe bản văn ?
Nghe chẳng tự nhiên sanh,
do tiếng có tên nghe.
Xoay nghe thoát khỏi tiếng,
đặt tên NGHE cho ai ?
Lấy nghe trì danh hiệu Phật,
không bằng tự nghe cái nghe. Nhưng cái nghe đó chẳng phải tự nhiên sanh
ra, là vì âm thanh mới lập cái tên "nghe", nay xoay cái nghe trở về
thì thoát khỏi âm thanh, đã thoát khỏi âm thanh thì đặt cái tên
"nghe" cho ai ? Tức không được gọi là nghe thì làm sao lại dùng lỗ
tai để phản văn ? Ấy là sai lầm. Nên ngài Hư Vân nói "Chiếu cố
thoại đầu tức phản văn tự tánh" .Nếu không tham thoại đầu, cứ
lấy lỗ tai nghe thì phản văn không được.
Trong cuốn Tín Tâm Minh
Tịch Nghĩa Giải, từ đầu đến cuối đều tỏ rõ không được chấp
lời mà nghịch ý. Tự tánh chẳng phải do mắt thấy được, chẳng phải
lỗ tai có thể nghe được, nếu dùng mắt thấy tai nghe, thì sao Kinh Kim
Cang lại nói :" Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn
hành tà đạo, bất nănh kiến Như Lai" . Bất năng kiến Như Lai tức không
thấy được Tự tánh Phật của mình, tức đi lầm đường, không đúng
chánh pháp, vĩnh viễn không được thấy Tự tánh Phật.
Hỏi : Cái
biết của lục căn trước khi dấy niệm phân biệt là chơn hay vọng ?
Đáp : Cái biết của lục
căn nếu lọt vào cái "biết" là vọng. Biết là cú thứ nhất,
không biết là cú thứ nhì, cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói :"Tri kiến lập
tri, tức vô minh bổn". Kiến văn giác tri hễ lập thì có chấp thật,
tức căn bản của vô minh, biết là "trước khi dấy niệm phân biệt"
ấy đã là vọng rồi.
Chữ "Biết" này,
như trong Kinh Niết Bàn, Phật gọi là thế lưu bố tưởng, thế gian đã lưu
hành, gọi biết là biết; còn phàm phu chấp cái biết đó là thật , lọt
vào trước tưởng, gọi là điên đảo tưởng. Cho nên, tri kiến lập tri,
tức vô minh bổn, nếu tri kiến không kiến lập, không chấp là thật tức
Niết bàn. Hễ có biết là lọt vào điên đảo tưởng, mặc dù cái biết
đó chưa khởi lên ý phân biệt.
Hỏi : Ngồi
Thiền mà niệm danh hiệu Phật, có được coi là tham thoại đầu không ?
Đáp : Không được. Tham
thoại đầu là phải khởi nghi tình, niệm danh hiệu Phật không phải là
câu hỏi. Câu hỏi là dấu hỏi, nên niệm danh hiệu Phật chỉ là niệm Phật
chứ không phải tham thiền. Phải có nghi tình mới là tham thiền, nếu
không có nghi tình không được gọi là tham Thiền.
Hỏi : Xin
Sư Phụ giảng lại sự tích về ngài Văn Thù không thể làm cho cô gái xuất
định .
Đáp : Thủ đoạn của
chư Phật chư Tổ là muốn chúng ta khai ngộ kiến tánh mới được giải
thoát. Ấy là muốn chúng ta nghi, nghi là không hiểu; không hiểu nhiều chừng
nào tốt chừng nấy. Nếu giải thích ra rồi thì không nghi, nghi là nhân,
ngộ là quả, không nhân thì không quả.
Ngài Văn Thù Bồ tát là
bậc cao, còn cao hơn Phật Thích Ca, lại thị hiện để giúp Phật hoằng
pháp, còn Dõïng Minh Bồ tát là bậc thấp, muốn hiểu ý đó, phải tham đến
kiến tánh mới được.
Thủ đoạn của Tổ rất
nhiều, và rất vô lý. Ví như "Con trâu qua song cửa sổ, đầu và tứ
chi đều qua được, tại sao cái đuôi không qua được ?" Có nghĩa lý
gì đâu ? Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi vào chỗ đó. Tại sao cái đuôi
qua không được ?
Thường thường, đối với
thủ đoạn của Tổ sư, người ta hay lọt vào tình giải ý thức, như Tổ
Hoài Nhượng độ Mã Tổ: Vì Mã Tổ chấp ngồi có thể thành Phật, Hoài
Nhượng Thiền sư bèn đem mài cục gạch, Mã Tổ hỏi :
-"Mài gạch để làm
gì ?"
Đáp : " Mài gạch để
làm gương."
Hỏi :" cục gạch làm
sao thành gương được ?"
Hoài Nhượng Thiền sư hỏi
lại :" Thế thì tọa thiền làm sao thành Phật ư ?"
-" Vậy thì phải làm
sao ?"
Đáp :" Ví như bò
kéo xe, xe không chạy, phải đánh xe hay đánh bò ?"
Theo lẽ thường tình thì
dĩ nhiên là phải đánh bò mới đúng, nhưng nếu hiểu theo như vậy là sai
lầm, ấy là tình giải, là theo ý thức phân biệt , đâu phải tư tánh. Chỉ
là vọng thôi. Mã Tổ nếu hiểu như thế thì chẳng thể kiến tánh vậy.
Cho nên, chỉ cho tâm nghi chứ không cho tâm đi tìm hiểu, tâm tìm hiểu là
hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.
Hỏi : Xin
hỏi trong đạo tràng này có ai không kẹt vào chấp lời nghịch ý hay
không ?
Đáp : Nay tôi hỏi thầy
trước : Thầy có lọt vào chỗ này hay không ? Nếu có người nào ôm chặt
câu thoại đầu tham tới nghi tình thành khối thì người ấy mới thoát khỏi
được. Nếu chưa đến chỗ đó, vẫn thoát không khỏi, vẫn còn có cái
chấp. Đừng nói là trong đạo tràng này, chính tôi vẫn còn. Cho nên, nếu
muốn biết qua ai là người không lọt vào cái chấp này thì phải hỏi từng
người một, như mỗi lần cuối thất, lúc giải thất, người chủ thất
vẫn phải hỏi từng người một mới biết, mặc dù là Thiền sư kiến tánh
như Lai Quả Thiền sư, Hư Vân Thiền sư v.v.
Hỏi : Ai
tạo ra vũ trụ này ?
Đáp : Ý nói ở trong vũ
trụ có một vị cao nhất ư ? Ấy là tư tưởng của ngoại đạo. Theo Phật
pháp thì chẳng có ai là cao nhất, tất cả chúng sanh đều là Phật, chứ
chẳng phải là Phật có cao hơn. Tại ông có tư tưởng chấp thật mới
đưa ra câu hỏi này. Nếu vũ trụ đã chẳng phải thật, thì có ai thật tạo
ra ? Nên Phật nói là vô thỉ, tức không có bắt đầu.
Nếu có người thật tạo
ra vũ trụ, thì thử hỏi người ấy ai tạo ra ? Nếu cho là tự nhiên, thì
pháp nào cũng phải bình đẳng, người nào cũng tự nhiên được, đâu thể
chỉ một người đó được tự nhiên, ngoài ra chẳng ai được ?
Phật pháp bình đẳng, nếu
một người tự nhiên được thì mọi người đều tự nhiên được; đời
xưa tự nhiên được đời nay cũng tự nhiên được.
Đối với vũ trụ vạn vật,
Phật pháp nói là "Nhất thiết duy tâm tạo", do vọng tâm hoạt động
mới biến hiện ra, chứ không phải có một vị nào cao nhất để tạo ra.
Bây giờ thân của ông rõ ràng do cha mẹ sanh, và cha mẹ của ông cũng có
cha mẹ sanh, rồi cha mẹ đầu tiên có không ? Giã sử có, từ vô lượng vô
biên kiếp có một đôi nam nữ, là cha mẹ đầu tiên của ông, thì tôi xin
hỏi : Cha mẹ đầu tiên đó có cha mẹ không ? Nếu ở trên còn cha mẹ
thì không được gọi là cha mẹ đầu tiên, nếu không có thì hai vị đó
từ đâu sanh? Nếu nói là do Thượng Đế tạo ra, ai tạo ra Thượng đế ?
Cho nên tìm mãi vẫn không tìm ra sự bắt đầu, nên Phật nói là "Vô
thỉ". Nếu có ai chấp thật phải có người tạo ra, ấy là ngoại đạo,
chẳng phải Phật giáo.
Hỏi : Vạn
pháp duy thức như thế nào ?
Đáp : Nói về Duy thức,
Phật pháp cũng có tông phái Duy Thức. Như tôi đã nói "Nhất thiết
duy tâm tạo", duy tâm thì duy thức. Bốn câu kệ ở Kinh Hoa Nghiêm :
Nhược nhơn dục liễu
tri, tam thế nhất thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,
nhất thiết duy tâm tạo.
Phật cũng là duy tâm tạo,
vũ trụ pháp giới, chẳng có cái nào không phải duy tâm tạo. Nói do ý thức
biến hiện tức duy tâm tạo, bất kể là do độc đầu ý thức biến hiện
nhắm mắt chiêm bao, hay do đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm
bao, đều là do ý thức biến hiện. Do tâm tạo thì chẳng thật, hễ chấp
thật là sai lầm, ngoại đạo chấp nhắm mắt chiêm bao là giả, cho mở mắt
chiêm bao là thật, cũng là sai lầm.
Hỏi : Trong
Kinh Kim Cang có nói "Tu Đà Hoàn còn biết mình chứng quả Tu Đà Hoàn
thì chẳng phải Tu Đà Hoàn", như vậy, trong kinh Phật còn thừa nhận
có quả vị để chứng đắc, thế có trái với tinh thần Thiền tông
không ?
Đáp : Tôi đã nói "
Người tham thiền mà tự nói ta tham thiền thì không phải người tham thiền
. Tham thiền sẽ được ngộ, nhưng nếu có tâm muốn cầu ngộ, chờ ngộ
lại chẳng phải rồi, vĩnh viễn không được ngộ.
Tu Đà Hoàn là Sơ quả ,
còn có cái chấp là chưa được chứng. Ví như từ Chợ lớn đi Sài gòn,
hễ đi thì sẽ đến, chứ đâu cần dọc dường cứ phải la lên rằng
"Ta đi Sài Gòn, ta đi Sài gòn " đâu !
Trung Phong Thiền sư ở
trong Trung Phong Pháp Ngữ khai thị rằng :" Người tham thiền đề
câu thoại đầu khởi nghi tình, biết câu thoại đầu thuần thục là
không được, biết câu thoại đầu không thuần thục cũng không được",
biết có chứng quả Tu Đà Hoàn hay chưa chứng quả đều không được, biết
và không biết là đối đãi, là lọt vào tứ cú, là vọng; biết là vọng
biết, không biết là vọng không biết, đều là vọng.
Trong Phật pháp phải phá
ngã chấp, bất cứ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, đều phải phá
ngã chấp, chứ chẳng phải bỏ bên đây mà chấp qua bên kia, ấy là biên
kiến, cũng là lọt vào năm thứ ác kiến.
Hỏi : Theo
Thiền tông, chưa phá được Sơ quan mà khối nghi đã bùng vỡ, thì làm sao
nghi tiếp để tiến đến Trùng quan ?
Đáp : Đến Sơ quan phá
được bổn tham thì bổn tham mất đi, nhưng theo công án của Tổ, có chỗ
thấu được và có chỗ chưa thấu được, chỗ chưa thấu được vẫn phải
nghi nữa, bởi vì nghi căn chưa cắt dứt, còn phải nghi tiếp cho đến triệt
ngộ.
Hỏi ; A
La Hán có kiến tánh không? Nếu không, làm sao xuất luân hồi? Vì còn căn
bản vô minh. Nếu có,Tiểu thừa không có nghi tình, làm sao kiến tánh? Vì
như lời thầy nói "Có nghi mới có ngộ, không nghi thì không ngộ".
Đáp : Theo lời của Tổ,
A La Hán chưa phá được căn bản vô minh, chưa kiến tánh, nhưng vì phá
được nhơn ngã chấp, nên được ra khỏi sanh tử luân hồi. Sanh tử có
hai thứ : Phần đoạn sanh tử và Biến dịch sanh tử. A La Hán phá được
ngã chấp, dứt được phần đoạn sanh tử , nhưng vì chưa kiến tánh, chưa
phá được pháp chấp, nên chưa dứt Biến dịch sanh tử, cần phải tiến
tu thêm. Do chấp quả A La Hán là thật, tưởng đã đến Cứu cánh Niết
bàn, nên bị Phật quở là ngu si.
Hỏi : Theo
Bát Nhã Tâm Kinh, quét tri kiến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cho đến Phật.
Vậy nếu đã vào hàng Thanh Văn, đã vào hàng Thánh , sao chưa đạt đến
trí huệ Bát Nhã mà còn kẹt vào tri kiến ?
Đáp : Lời Phật ở Bát
Nhã Tâm Kinh là muốn quét sự chấp của chúng ta, không được chấp cái
nào là thật, tức vô sở trụ; không được trụ ở bất cứ nơi nào, trụ
nơi tri kiến phàm phu cũng không được, trụ nơi tri kiến thừa Thanh văn,
thừa Duyên giác, Đại thừa Bồ tát, kể cả tri kiến Phật cũng không
được. Lời Tổ có nói :" Hễ trụ nơi tri kiến Phật thì bị Phật
trói buộc , trụ nơi Bồ tát thì bị Bồ tát trói buộc, chẳng phải là
cái nghĩa Vô sở trụ."
Nghĩa Vô sở trụ là hoạt
bát vạn năng, nếu có sở trụ thì tánh hoạt bát vạn năng bị mất. Hễ
có trụ là chưa có tư cách thành Phật, nên tri kiến Phật cũng phải quét.
Đại tâm vô y", vô y
tức vô trụ. Nên Bát Nhã Tâm Kinh quét sạch tất cả chấp, phá tất cả
chấp; cao nhất là chấp Phật, cũng không được. Đến chỗ "Đại tâm
vô y" thì sự dụng hoạt bát vạn năng mới phát huy khắp hư không
pháp giới.
Lời của Phật, của Tổ,
tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là để trị bệnh chấp của chúng
ta. Nhưng nói "chấp thật" chẳng phải là không chấp cái Có mà lại
chấp cái Không; chẳng chấp cái Chơn lại chấp cái giả, nếu chấp
không, chấp giả, chấp vọng thì bệnh chấp ấy càng nặng hơn, càng khó
trị, chấp huyễn cũng vậy. Hễ chấp huyễn trụ nơi huyễn, chấp vọng
trụ nơi vọng, đều là chấp cả. Tri kiến Phật còn chấp không được,
huống là chấp huyễn chấp vọng ! Chấp vào chỗ nào là chướng ngại chỗ
đó.
Hỏi : Bài
kệ của ngài Trung Phong Thiền sư tặng cho Thái tử nước Hàn như thế nào
?
Đáp : Bài kệ ấy là :
Đời người giống như huyễn trung huyễn
Trần thế gặp nhau ai là
ai ?
Cha mẹ chưa sanh ai là ta
?
Một hơi không vào ta là
ai ?
Đời người cũng như huyễn
ở trong huyễn, huyễn đã chẳng phải thật rồi, lại huyễn ở trong huyễn,
bây giờ ở ngoài thế gian gặp nhau, tự mình còn chưa biết mình, biết ai
là ai ? Chỉ biết việc ở ngoài mà chẳng biết mình thì làm chủ cho mình
chẳng được, chẳng làm chủ cho mình được thì chẳng thể tự do tự tại,
phải luôn chịu khổ. Tấm thân này khi cha mẹ đã sanh là ta, lúc cha mẹ
chưa sanh ai là ta? Một hơi thở chẳng hít vào thì ta lại là ai ? Thai trâu
bụng ngựa cũng không biết, làm chó làm mèo cũng không biết.
Hiện nay chúng ta đang khỏe
mạnh, nếu không y theo lời của Tổ, của Phật để tham cứu , chỉ biết
ở ngoài, chỉ biết người khác mà chẳng biết mình là cái gì, khổ sẽ
còn mãi mãi, không biết chừng nào hết.
Hỏi : Khi
tham thiền, vọng tưởng nổi nhiều phải làm sao ?
Đáp : Không cần để ý
đến vọng tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, đừng biết tới,
chỉ chú ý câu thoại đầu, hỏi thầm trong bụng, có hỏi thì có đáp, hỏi
không hiểu, đáp không ra, cứ hỏi tới mãi , khi thoại đầu quen thuộc rồi
vọng tưởng tự nhiên nổi không lên. Vì nghi tình là cây chổi automatic,
khỏi cần tác ý muốn quét, nó tự động quét sạch.
Hỏi : Tại
sao nói "Sanh tử là việc lớn" ?
Đáp : Trung Phong Pháp
Ngữ nói "Phải xem sanh tử là việc lớn", trong Thiền Thất
Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói :"Tự mình có bệnh lớn mà không
hay, cứ cho rằng mỗi ngày ta ăn ba tô cơm thì làm sao có bệnh ư ? Ấy là
bệnh gì? Là bệnh sanh tử vậy". Bệnh sanh tử này từ vô thỉ đến
bây giờ, cứ bệnh hoài, chưa dứt. Tại sao ? Nay chúng ta được cái thân
người này, không biết trải qua bao nhiêu kiếp trong thai trâu bụng ngựa,
con chó con heo. mới được thân người, nếu mất thân này rồi, không biết
lại phải trải qua bao nhiêu kiếp mới được trở lại làm người nữa .
Nên phải biết đến bệnh sanh tử và rất cần trị cho hết, mới được
tự do tự tại, không bị sanh tử trói buộc, khiến mình lại phải chịu
khổ.
THAM THOẠI ĐẦU LÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC SANH TỬ. Lai Quả Thiền sư nói :" Bệnh sanh tử chỉ có
thuốc thoại đầu mới trị được", nay chúng ta tham thoại đầu là
trúng thuốc trị bệnh sanh tử . Đời xưa ngộ đạo được thì đời nay
cũng ngộ đạo được, xưa với nay vốn chẳng khác, khác là do cái chấp
tâm phân biệt của mình.
Hồi thời Phật Thích Ca,
khi Ngài đưa lên một nhánh bông mà chẳng nói gì cả, trong hội có hơn
triệu người, chỉ một mình Ca Diếp ngộ được, ngoài ra một ngàn hai trăm
năm mươi vị Tỳ kheo, chỉ chứng quả A La Hán, là đi ở nữa đường ,
chưa về đến nhà. Còn ở Trung Quốc, dưới Mã Tổ có một trăm ba mươi
chín người kiến tánh, thế thì chứng tỏ xưa với nay chẳng khác. Nói mạt
pháp chuyển thành chánh pháp, hạ căn chuyển thành thượng căn, ấy là do
quyết tâm của mình, chứ chẳng phải do đời xưa hay đời nay. Đời nay
ít người ngộ đạo vì đuổi theo vật chất, ham hưởng thụ vật chất,
chứ chẳng phải người đời nay không bằng người đời xưa.
Hỏi : Thế
nào là "Tức tâm là Phật "?
Đáp : Lời nói của Phật,
của Tổ chỉ là phương tiện tạm thời đối với đương cơ lúc đó,
nên Kinh Lăng Nghiêm nói "Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa"
. Trong Kinh Lăng Già, Phật tự nói :" Lời nói của ta chỉ là ngôn ngữ
vọng tưởng, đừng có chấp thật", tức bệnh của chúng sanh là bệnh
giả, lời nói của Phật là thuốc giả, lấy thuốc giả để trị bệnh
giả, bệnh giả hết thuốc giả cũng vô dụng, chứ chẳng phải có thuốc
thật.
Nói đến "Tức tâm
là Phật", trong Thiền tông có một công án :
Ngài Mã Tổ là một vị
Tổ rất danh tiếng, dưới ngài có một trăm ba mươi chín người kiến tánh,
từ đời Phật Thích Ca đến nay chưa ai bằng. Có người hỏi Mã Tổ :
- "Tại sao nói tức tâm
là Phật ?"
- "Tại muốn gạt con
nít nín khóc"
- Hỏi : "Sau khi nín thế
nào ?"
- " Chẳng phải tâm chẳng
phải Phật".
Nên biết, ấy chỉ là phương
tiện tạm thời để gạt con nít nín khóc thôi. Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng
thực hành, rất kî lý luận ,chỉ muốn người tham thiền thực hành đến
ngộ, , lý luận là sở tri chướng, cho nên không cho tâm đi tìm hiểu ; muốn
hiểu thiền hiểu đạo cũng còn không cho, nói gì đến lý!
Hỏi :
" Ngoài bặt các duyên, tâm như tường vách", có phải là công
phu không?
Đáp : Nói "Ngoài bặt
các duyên, làm sao bặt được ? Nay người đời cứ hễ niệm Phật thì lấy
câu danh hiệu Phật trừ vọng tưởng, trì chú thì lấy câu chú để trừ
vọng tưởng, quán tưởng lấy cái sở quán trừ vọng tưởng, ấy là sai
, nhưng tham câu thoại đầu chẳng phải vậy. Tham thoại đầu không được
trừ vọng tưởng, không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè
nén vọng tưởng. Tại sao ? Vì nếu lấy đó làm chánh, mặc dù không có vọng
tưởng, vẫn là bệnh, những người khác cho không có vọïng tưởng là tốt,
nhưng ở Tổ Sư Thiền thì vẫn là thiền bệnh.
Lại, khỏi cần trừ vọng
tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, chỉ đề câu thoại đầu
khởi lên nghi tình, nghi tình là cây chổi tự động quét; không những có
vọng tưởng cũng quét, không có vọng tưởng cũng quét, . Như tôi đã nói
ở trên, cái chánh là trị bệnh sanh tử chứ không phải trừ vọng tưởng,
tại chấp vọng tưởng là thật, nên mới có sanh tử.
Hỏi : Xin
Sư Phụ giải thích những việc thông thường trong Thiền thất.
Đáp : Nói "Thiền thất"
là tham thiền liên tục trong bảy ngày. Nhiều người tưởng "thất
là căn nhà, ấy là sai. Cũng như nhiều người Việt cho "bế quan"
là nhập thất, kỳ thật, ý nghĩa hai chữ "Nhập thất" ở tiếng
Hán là : Vị bổn sư cho phép mấy đệ tử sắp kiến tánh được tự do vào
Trượng thất để tham hỏi, tức trong cả ngàn người đệ tử, chỉ có
vài chục người được quyền tự do ra vào phòng của Hòa thượng Trụ trì
để tham vấn, nên gọi là "Đệ tử nhập thất", chứ không phải
ø đi vào một căn phòng để bế quan.
Ở chốn tòng lâm hay Thiền
đường Trung Quốc, chỉ có tu sĩ, không có người tại gia, khi cử hành
Thiền thất, cũng như đi vào trường thi, phải thi đậu kiến tánh chứ
không phải để tập tham thiền. Bây giờ ở đây cử hành Thiền thất là
để cho tập tham, cách ngồi tự do, không nhất thiết phải ngồi kiết
già, sở dĩ ngồi vì đi mỏi thì ngồi, ngồi mỏi thì đi, chứ không phải
cần sự ngồi.
Khi xưa không có đồng hồ,
người ta đốt lên một cây nhang, ngồi hết cây nhang thì đi, đi hết cây
nhang thì ngồi, nên gọi tọa hương và đi hương, bảo hương thì phải chạy
như bay. Trong thiền đường có người tuần hương, hễ ai nói chuyện, cười
giỡn, là phạm qui củ, bị đánh hương bảng. Lai Quả Thiền sư lúc mới
vào Thiền đường, một ngày bị đánh bốn trăm hương bảng, nhưng Ngài
hai mươi tám tuổi đã kiến tánh.
Hỏi : Xin
thầy cho biết con người không sanh tử như thế nào ?
Đáp : Muốn biết con người
không sanh tử phải đề câu thoại đầu lên tham, rồi mới biết được.
Bây giờ tôi nói cho ông biết, ông làm sao biết được ? Ví như tôi đã
ăn đường thì biết vị ngọt như thế nào, ông chưa từng ăn qua, dù tôi
giải thích chữ "ngọt" từ sáng đến chiều, ngày này qua tháng
kia, năm này qua năm kia cũng chẳng thể hiểu. Nay chỉ cần cho ông nếm thử
một miếng đường thì "Ổ" , hóa ra đường là như thế ! Cho nên,
chỉ có tự mình tham tự mình ngộ, nếu nói ra được là không cần tham rồi
! Chỉ cần Phật Thích Ca nói cho chúng ta biết là được, đâu cần tu chi
cho cực khổ ! Nếu nói ra, cho biết được, ấy là tri giải, chẳng dính
dáng đến sự sanh tử.
Pháp môn Tổ Sư Thiền này
rất kî sự tri giải, nay không học tham thiền mà cầu tri giải, là nghịch
ý của Tổ sư. Tri giải là của người khác, chẳng phải của mình, như
ngài Trung Phong Thiền sư thí dụ "con dấu", Con dấu là gì ? Là lời
nói của Phật, của Tổ, do Phật tự ngộ, Tổ tự ngộ rồi nói ra. Nếu
lượm những lời nói của Phật, của Tổ mà cho là của mình thì là giả
mạo, vì đó chẳng phải của mình, của mình phải tự ngộ mới được.
Hỏi : Cách
thức trong khi dụng công tham thiền như thế nào ?
Đáp : Lúc tán loạn phải
nhắm mắt tham, hôn trầm phải mở mắt tham. Nếu không bị tán loạn và
hôn trầm thì mắt hơi mở, không nhắm hẳn. Người tham thiền chẳng cần
biết có nghi tình hay không, cứ hỏi tới hoài, nhưng hỏi từ từ, đừng
nên hỏi gấp quá, không được để ý vọng tưởng, hơi thở, cảnh giới
tốt xấu. tất cả đều không được để ý. Hễ hôn trầm quá thì lấy
nước lạnh rửa mặt, hoặc kiếm công việc khác để làm, vừa làm việc
vừa tham là tốt. Tổ sư là muốn chúng ta ở trong động hạ thủ công
phu, chứ không muốn chúng ta tìm nơi vắng vẻ để tham. Ở trong động tập
tham lâu nhập nhưng mau kiến tánh, còn ở nơi vắng lặng tập tham mau nhập
nhưng lâu kiến tánh, ba trăm năm không được kiến tánh, muốn mau lại
thành chậm, nhiều người sơ cơ cứ cho là ở trong động khó tập, mặc
dù khó nhưng lâu ngày cũng có thể thâm nhập được.
Hỏi : Sao
tham thiền hay quên những việc ở ngoài ?
Đáp : Có quên là tiến bộ,
quên là quên việc ở ngoài, còn câu thoại đầu thì không quên. Việc ở
ngoài quên nhiều chừng nào tốt chừng nấy, như ngài Lai Quả nói :"
Sau cùng phải quên cả thế giới, quên đi thân tâm, mới đạt đến cảnh
giới chơn tham". " Vô tham tức chơn tham", vô tham tức không biết
mình đang tham, quên cả việc đang tham thiền, nhưng nghi tình vẫn còn, lúc
đó đã đến thoại đầu rồi, nên những gì thông minh lanh lợi xưa nay trở
nên khờ ngốc, nhưng thật tế là tiến bộ.
Muốn đạt đến cảnh giới
chơn tham, như Lai Quả Thiền sư nói :" Hễ người ta gọi tên tuổi của
mình, vẫn biết trả lời được tức chưa phải chơn tham; người khác hỏi
mà mình quên cả tên gọi, mới là chơn tham".
Hỏi : Khi
tham thiền quên hết, gặp việc thì thế nào ?
Đáp : Chẳng có sao cả,
ví như ngài Hư Vân, hai ba tháng quên ăn cũng chẳng sao, lại sống đến
120 tuổi. Chỉ cần giữ được căn bản "Vô sở đắc, vô sở cầu,
vô sở sợ", thì sự dụng của Tự tánh mau được hiện ra, tự động
chứ không cần phải lo sợï. Cái gì cũng phải quên, chỉ có thoại đầu
là không được quên.
Hỏi : Sao
câu thoại đầu có lúc đề lên rõ ràng và có lúc không rõ ràng ?
Đáp : Nếu không rõ ràng phải
đề chậm một chút, từng chữ một, rõ ràng phân minh, hễ đề gấp quá
thì không rõ ràng.Đối với một số người, tâm quá gấp bách, cứ muốn
đề mau, dễ khiến thần kinh căng thẳng, ấy cũng không được, phải đề
chậm lại, nếu quá căng thẳng phải đề cho thật chậm.
Mục Lục
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6