DUY LỰC
NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 -
1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh
Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001
PHẦN 2
(CUỐN 11 - 20)
02-2
Hỏi :
Tại sao chúng sanh tạp dụng tâm ?
Đáp : Hàng ngày chúng ta
mặc áo ăn cơm là tạp dụng tâm, nhưng Tổ sư đã kiến tánh rồi thì mặc
áo ăn cơm không tạp dụng tâm. Tại sao nói mặc áo ăn cơm là tạp dụng
tâm ? Có một công án : Một ông quan hỏi một vị Thiền sư đã kiến
tánh:
- Ngài có tu hành không
?"
Đáp :" Có chứ
".
Hỏi : " Tu bằng cách
nào?"
- "Đói bụng thì ăn
cơm, buồn ngủ thì đi ngủ ".
- "Vậy thì ai ai cũng
tu hành rồi ! Ai lại chẳng đói ăn mệt ngủ !"
- " Khác ".
- " Khác ở chỗ nào
?"
- "Ta ăn cơm chỉ là
ăn cơm, còn quý vị ăn cơm chẳng chịu ăn cơm, cứ so đo đủ thứ; ta ngủ
chỉ là ngủ, còn quý vị chẳng chịu ngủ, trăm điều suy nghĩ " , ấy
là tạp dụng tâm.
Hỏi : Sao
gọi "câu thoại đầu của mình" và "Câu thoại đầu của người
ta"?
Đáp : Ý nói niệm thoại
đầu là câu thoại đầu của người ta; nếu chỉ ở trong bụng thầm niệm
câu thoại đầu mà không có nghi tình, là câu thoại đầu của người ta.
Còn câu thoại đầu của mình là hỏi , vừa hỏi vừa thắc mắc, không hiểu
nổi, đáp không ra, hỏi tiếp mãi, ấy là câu thoại đầu của mình.
Hỏi : Thế
nào là chánh tín ?
Đáp : Tin tự tâm là Phật
gọi là chánh tín, tin ngoài tâm có phật là tà tín. Tham thiền phải tin tự
tâm, nếu không tin tự tâm thì dụng công thế nào cũng không được kiến
tánh. Vì kiến tánh là kiến cái tự tâm, kiến tự tánh Phật, nếu không
tin tự tâm thì làm sao kiến ? Chỉ tin pháp môn, dù thực hành bao nhiêu năm,
cực khổ bấy nhiêu cũng không thể kiến tánh được, nên phải tin tự
tâm.
Hỏi : Thiền
tông giảng kinh có lọt vào kiến giải như Giáo môn không ?
Đáp : Sự giảng kinh của
tôi khác hơn các Pháp sư giảng kinh Giáo môn. Vì tôi giảng kinh là muốn mọi
người tăng trưởng lòng tin tự tâm, chứ không phải là giải thích giáo
lý cho người ta biết thêm về giáo lý cao siêu. Lúc tôi giảng kinh là
quét giáo lý, dù giáo lý cao siêu hơn Phật cũng quét luôn, chỉ lấy tất
cả tinh thần chú vào câu thoại đầu để được mau kiến tánh.
Hỏi : Sự
minh tâm kiến tánh của người tu và học thuyết khác nhau ở chỗ nào ?
Đáp : Minh tâm tức kiến
tánh, kiến tánh tức minh tâm. Bốn chữ "Minh tâm kiến tánh" với
sự thật thân chứng còn cách xa lắm, vì minh tâm kiến tánh là lời nói văn
tự, còn thật chứng của mình nói không được, ngôn ngữ tiếp xúc không
được, tư tưởng suy lường cũng tiếp xúc không được. Nói "Minh
tâm kiến tánh" là giả danh, chỉ là phương tiện đặt ra danh từ để
hiểu phần nào thôi, thuộc về lý luận, chẳng phải là thật chứng. Thật
chứng phải kinh nghiệm.
Hỏi : Tham
thiền có cần cố ý khởi nghi tình không ?
Đáp : Bắt đầu tập
tham phải cố ý khởi nghi tình, tập cho quen. Còn "dụng công ít phí sức"
của ngài Trung Phong nói, là phải lấy việc sanh tử làm thiết yếu; vì
không chừng ngày mai là mình chết rồi, chết thì chẳng biết đi về đâu,
nay còn mạnh khỏe, phải tranh thủ giải quyết cho xong. Cho nên lấy việc
sanh tử làm sự thống thiết, lâu ngày trở nên ít phí sức, ban đầu phải
từ lạ tập thành quen.
Hỏi : Làm
thế nào để tin tự tâm là Phật ?
Đáp : Ấy là do chấp thật
vào lời nói; lời nói chỉ là phương tiện tạm thời, dù là lời nói của
Phật, nhưng hễ chấp thât là sai . Phải ở trong lời nói hiểu ý Phật.
Đức Phật thường thí dụ rằng :" Lời nói chỉ là ngón tay chỉ mặt
trăng, nếu hiểu theo ngón tay là sai lầm, phải nhờ ngón tay chỉ mà ngó
thấy mặt trăng". Ý của Phật muốn chúng ta nhờ vào ngón tay chỉ mà
thấy được mặt trăng, chứ không phải muốn chúng ta hiểu về ngón tay.
Hỏi : Khi
nào chư Tổ dùng "khẩu đầu thiền" để khiến người khai ngộ ?
Đáp : Khẩu đầu Thiền
là nói những người không có ngộ, chỉ mượn nước miếng của người
khác để dạy người, nên gọi khẩu đầu thiền, chỉ là nói bằng miệng,
với kinh nghiệm thật tế chẳng dính dáng gì. Sự ngộ là do người tham
đến cảnh giới đó được ngộ, chứ chẳng phải là nhờ khẩu đầu thiền
được ngộ. Đến khi công phu thành khối rồi, gặp nhân duyên gì cũng có
thể được ngộ.
Hỏi : Theo
lẽ thường, Sa di theo thầy học đạo 15 năm, khi thầy xét thấy vị Sa di
đó có giữ giới, có đạo hạnh, thì thầy mới dạy Thiền. Nếu theo lời
Sư phụ dạy , có phải thi phần nào không ?
Đáp : Thầy đó không phải
là tôi. Tôi dạy pháp tham Tổ Sư Thiền, pháp thiền này ai cũng tu được,
bà lão 80 - 90 tuổi cũng tham được, con nít 6 - 7 tuổi cũng tham được,
chưa làm Sa di cũng tham được, huống chi đã là Sa di rồi ! Còn vị thầy
mà cô nói, thầy dạy thiền gì tôi không biết, cho nên không thể nói là
đúng hay không đúng. Theo giới luật thì con nít 7 tuổi là có thể làm Sa
di, trong giới luật gọi là Khu-ô Sa di, tức biết đuổi quạ là có thể
làm Sa di.
Hỏi : Khi
tham, câu thoại đầu bị lạc qua câu khác, có được không ?
Đáp : Không được, phải
trở về câu bổn tham, giữ câu bổn tham của mình, không được lạc qua câu
khác.
Hỏi : Thế
nào là hữu tình, vô tình thuyết pháp?
Đáp : Hữu tình là do
tâm tạo, vô tình cũng do tâm tạo. Nói "Vô tình thuyết pháp" là
khi người dụng công tham đến nghi tình thành khối rồi, gặp vô tình nào
cũng thuyết pháp cho mình ngộ được, chứ chẳng phải thật có vô tình
thuyết pháp.
Hỏi : Thế
nào là thấy bản lai diện mục ?
Đáp : Thấy bản lai diện
mục tức kiến tánh. Ngộ có chứng ngộ và giải ngộ, kiến tánh là chứng
ngộ, còn giải ngộ chẳng phải chứng ngộ, đối với sanh tử chẳng dính
dáng gì cả.
Hỏi : Làm
sao phá bỏ năng tri và sở tri ?
Đáp : Không cần phá bỏ.
Tôi dạy mọi người không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè
nén vọng tưởng. Không được phá trừ, cũng không cần tác ý phá trừ,
chỉ đề khởi câu thoại đầu tham tới mãi, nghi tình là cây chổi tự động
quét sạch.
Về vấn đề năng tri và
sở tri: Lục căn là dùng để tri, phải không ? Nhưng trong Tâm Kinh nói
"Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý", chữ VÔ là cây chổi để phá lục
căn, vì cái tri do lục căn tiếp xúc lục trần, sanh ra lục thức, ấy là
vọng tri. Trong quyển 2 của Kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ rằng do con mắt
bệnh nên thấy hoa đốm trên không, thật ra trên không chẳng có hoa đốm
! Cũng như thấy có núi sông đất đai, có quốc độ chúng sanh, có Phật,
Bồ tát v.v. tất cả đều do con mắt bệnh từ vô thỉ, do có biết mới
thấy như thế.
Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm
nói "Tri giác nãi chúng sanh". Có tri giác tức thành chúng sanh. Chư
Phật chẳng phải không có tri giác như gỗ đá, nhưng tri giác của Phật
chẳng năng sở đối đãi, không có năng tri sở tri, năng giác sở giác,
vì năng sở đối đãi là do tâm tạo, là vọng.
Trong Kinh Lăng Nghiêm còn
nói " Dẫu cho diệt hết tất cả kiến,văn, giác, tri, trong giữ u
nhàn, vẫn là bóng phân biệt của pháp trần ", huống là lấy cái tri
của lục căn tiếp xúc lục trần! Có cái tri rõ ràng, cũng là cái vọng
rõ ràng.
Hỏi : Tham
thiền có cần kiến giải không ?
Đáp : Về Giáo môn là phải
tìm hiểu giáo lý, nhưng giáo lý chỉ thuộc về lý luận, theo Giáo môn là
tín, giải, hành, chứng, bất cứ pháp môn nào, trước tiên phải tin, giải
là hiểu, hiểu được giáo lý rồi phải thực hành, có thực hành mới chứng
theo từng cấp bậc. Còn Thiền môn cũng có tín, có giải, nhưng sau khi bắt
đầu thực hành thì mọi sự hiểu biết, kiến giải phải cắt đứt, gọi
là hành khởi giải tuyệt. Nên đã thực hành tham Thiền rồi còn đi tìm
hiểu, ấy là hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.
Hỏi : Tu
thiền một thời gian được phát huệ, sau đó lại trở nên khờ khạo, vậy
có mâu thuẫn không ?
Đáp : Đó không phải là
mâu thuẫn, mà là tùy theo căn cơ trình độ của mỗi người có khác, nên
có sai biệt. Có người phát huệ được tiểu ngộ, tức trải qua nhiều
giải ngộ, đó đối với những người ham tri giải có thể được, nhưng
không phải cần thiết, vì có một số người sau khi phát huệ tiểu ngộ
rồi, lại bị cái huệ đó chướng ngại, chẳng được tiến tới nữa.
Đối với những người không cầu tri giải thì khỏi cần tiểu ngộ mà
trực chứng đại ngộ, ấy là tốt hơn.
Thật ra việc phát huệ
không phải có ích mà là có hại, bởi vì thường do được phát huệ rồi
lại tăng thêm ngã chấp, Phật pháp phải phá ngã chấp, nếu không phá
được ngã chấp lại còn tăng thêm là có hại. Nhưng vì lúc ban đầu chỉ
có một mình tôi hoằng dương pháp Tổ Sư Thiền, do muốn tăng trưởng lòng
tin cho mọi người, nên đưa ra sự thật về việc phát huệ của Phật tử
cho người ta dễ tin, sau này lòng tin của mọi người vững rồi, thì tôi
nói với Phật tử rằng sự phát huệ đó không cần thiết. Nếu như phát
huệ mà không khởi chấp thì còn được, nhưng hễ chấp vào đó thì bị
chướng ngại vô cùng.
Bên Giáo môn muốn phát
huệ mà không được, còn Thiền môn đạt được phát huệ là phải quét,
chẳng những giải ngộ phải quét, chứng ngộ cũng phải quét! Sau khi phá
được Sơ quan xong không quét sạch là chẳng thể tiến đến Trùng quan;
phá được trùng quan mà không quét thì chẳng thể tiến đến mạt hậu
Lao quan. Do đó, chứng đại ngộ rồi cũng còn phải quét, chứ chẳng phải
chỉ quét tiểu ngộ mà thôi.
Hỏi : Học
thuyết của Lão Trang có giống tông chỉ pháp môn Tổ Sư Thiền không ?
Đáp : Khác. Học thuyết
Lão Trang còn ngã chấp; chấp chỗ thanh tịnh vô vi là tốt, còn đối với
Tổ Sư Thiền thì thanh tịnh gọi là thiền bệnh. Tổ Sư Thiền lấy Vô Sở
Trụ làm căn bản, chẳng lọt vào bên động, chẳng lọt vào bên tịnh, cũng
chẳng lọt vào trung đạo, chẳng lọt vào chỗ nào cả.
Hỏi : Mình
nhờ người khác cứu độ được không ?
Đáp : Trồng bí được bí,
trồng đậu được đậu, nếu không trồng bí mà mong cầu Phật cho mình
quả bí, có được không ? Có nhân mới có quả, không gieo nhân muốn có
quả, ấy thành chẳng có nhân quả rồi. Nếu không có nhân quả tức
không có Phật pháp.
Nói đến vấn đề "Cầu",
có cầu là phá hoại nhân quả, tức phá hoại Phật pháp. Nếu khỏi cần
nhân mà có quả là không có nhân quả, không có nhân quả thì làm ác cũng
chẳng sao, làm ác nhân rồi cầu Phật cho mình thiện quả cũng được vậy
! Vả lại, cầu là thuộc về mê tín, Phật pháp là chánh tín, chánh tín
phải phá trừ mê tín mới có thể giải thoát sanh tử, đạt đến tự do
tự tại vĩnh viễn, nên phải tự độ độ tha.
Hỏi : Thế
nào là ác kiến ngoại đạo?
Đáp : Theo Giáo môn, ác
kiến có năm thứ : Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ , giới cấm
thủ:
Thân kiến là chấp cái
thân ta là thật, tất cả đều qui về thân ta trên hết.
Biên kiến là chấp về tương
đối, chẳng chấp có thì chấp không, chẳng chấp thường thì chấp đoạn,
chẳng chấp chơn thì chấp giả v.v.
Tà kiến là chấp không
có nhân quả, hễ có sở cầu là lọt vào tà kiến, vì không cần nhân mà
mong cầu được quả.
Kiến thủ là chấp vào
ý kiến nào cao nhất, ví như nói vũ trụ là do một vị chúa tể nào tạo
ra.
Giới cấm thủ : Ví như
ở Aán Độ có phong tục không ăn thịt heo, vì cho rằng ăn thịt heo không
được giải thoát, nay dám phá giới cấm ấy, gọi là giới cấm thủ
Hỏi : Thiền
tông lấy tâm truyền tâm, tại sao lại có truyền y bát ?
Đáp : Về việc truyền y
bát, bởi trước khi Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc, người Trung
quốc chưa biết pháp môn Tổ Sư Thiền, nên có việc truyền y bát để làm
vật tin cho người. Đến đời Lục Tổ thì việc truyền y bát trở thành
sự tranh giành, và lòng tin của mọi người đã vững, nên không cần truyền
y bát nữa.
Còn về vấn đề truyền
tâm ấn, nói là truyền, kỳ thật không phải có tâm ấn thật để truyền,
chỉ là trò kiến tánh rồi thầy ấn chứng cho, gọi là truyền tâm ấn.
Nhưng đến đời sau này thì dù trò chưa kiến tánh, thầy vẫn ấn chứng,
khiến việc truyền tâm ấn bị gián đoạn, tức sự ngộ bị gián đoạn.
Thời nay, nói đến chữ "truyền" chỉ là truyền thừa sự thực
hành đúng theo chánh pháp mà thôi. Như ngài Hư Vân đã ngộ, nhưng thầy của
ngài chưa kiến tánh; Lai Quả Thiền sư đã ngộ mà thầy của ngài cũng
chưa ngộ
Cũng như tôi chưa kiến tánh,
chưa được truyền tâm ấn, nhưng vì tôi may mắn biết được cách thực
hành tham Tổ Sư Thiền, nên tôi chỉ truyền lại cho quý vị về cách thực
hành Tổ sư Thiền. Về cách thực hành, nếu siêng năng, quyết tử tham sẽ
được ngộ, còn lôi thôi thì chẳng được ngộ. Trong lịch sử Thiền tông,
cũng có trường hợp trò được ngộ mà thầy chưa kiến tánh, thầy lễ
trò trởï lại làm thầy, còn tâm ấn thì không có truyền nữa.
Hỏi : Tham
thiền đến đầu sào trăm thước thế nào ?
Đáp : Tham Thiền đến đầu
sào trăm thước vẫn còn nằm trong ý thức, công phu thành khối vẫn nằm
trong ý thức, phải lìa ý thức mới kiến tánh. Nói KIẾN TÁNH, nếu chấp
"thật có Phật tánh" ấy là thêm, nếu chấp "không có Phật
tánh" ấy là bớt, tự tánh chẳng thể thêm bớt, nên không thể dùng
ngôn ngữ văn tự diễn đạt được, phải tự ngộ tự biết.
Hỏi : Tu
hành đến một lúc nào đó sẽ có thần thông, phải không ?
Đáp : Theo pháp môn khác
như Mật tông thì tôi không biết rõ, nhưng theo pháp môn Tổ Sư Thiền rất
kî thần thông. Lịch đại Tổ sư kiến tánh rồi đều có thần thông nhưng
không cho ai biết, có khi sơ hở lộ ra cho người biết rồi liền thị tịch.
Thần thông là bản tánh mọi người sẳn có, chứ không phải do học mà
được, nhưng cái thiết yếu là cần phải đạt đến tự do tự tại, giải
thoát vĩnh viễn, còn về thần thông, theo trong Kinh Lăng Nghiêm, tà ma ngoại
đạo cũng có thần thông, nhưng chỉ khiến tạo thêm tội địa ngục chứ
chẳng thể giải thoát. Cho nên Tổ Sư Thiền rất kî thần thông.
Hỏi : Thế
nào là "Bọt nước hư không trong biển giác" ?
Đáp : Trong Kinh Lăng Nghiêm
có thí dụ :" Giác tánh của mình là một biển lớn, hư không chỉ là
một bọt nước trong biển, còn các thế giới như thế giới Ta Bà, thế
giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly v.v.thì kiến lập ở trong bọt nước đó.
Hễ bọt nước bể là hư không tan nát, qui về biển Giác, không có hư không
thì thế giới còn không ? Thế giới kiến lập ở đâu? Nếu đã hiểu
Kinh Lăng Nghiêm thì vấn đề này không cần hỏi nữa.
Hỏi : Kiến
tánh rồi có thành Phật không ? Như vậy là có sở cầu, có sở đắc không
?
Đáp : Kiến tánh không phải
có Phật để đắc, Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói :" Nếu ta có thật
chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thì Phật Nhiên Đăng đã
không thọ ký cho ta thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, vì vô sở đắc nên
Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni". Sau
khi ngộ rồi mới biết trước kia chưa từng mê, tức sự ngộ ấy chỉ
là biết mình là cái gì, biết mình đã saün có thôi, chứ không phải có
đắc thêm cái gì từ bên ngoài.
Hỏi : Trước
kia đề lên câu thoại đầu khó khởi nghi tình, nay tham được dễ dàng rồi
lại khởi vọng niệm muốn giúp cho người này, người kia, ấy là thế
nào ?
Đáp : Ấy là do thói quen từ
xưa nay, đừng nên để ý, cũng đừng nổi niệm muốn giúp hay không muốn
giúp, nói "muốn giúp" cũng không được, nói "không muốn
giúp" cũng không được, chỉ để ý câu thoại đầu. Tham Thiền chỉ
là một câu thoại đầu, ngoài nghi tình ra, không được nổi thêm một niệm
nào, cũng đừng có nói là quyết tử hay không quyết tử. NGOÀI CÂU THOẠI
ĐẦU RA, HỄ NỒI LÊN MỘT NIỆM KHÁC LÀ BIỆT NIỆM, LÀ THIỀN BỆNH.
Cho dù nổi niệm muốn độ hết tất cả chúng sanh cũng là biệt niệm, muốn
hiểu thiền hiểu đạo cũng là biệt niệm.
Hỏi : Dụng
công cách nào khi thân thể có bệnh ?
Đáp : Chẳng có phương
tiện gì khác, chỉ có một câu thoại đầu: Hôn trầm cũng đề câu thoại
đầu, tán loạn cũng đề câu thoại đầu, chỉ để ý câu thoại đầu,
ngoài ra bất cứ hôn trầm, tán loạn, vọng tưởng, thanh tịnh v.v.cũng chỉ
là đề câu thoại đầu. Lúc vọng tưởng nhiều, không biết tới; lúc
không có vọng tưởng, được yên tịnh, cũng không biết tới, đừng có sợ
hôn trầm, vọng tưởng, tất cả đều không biết tới.
Hỏi : Phạm
tứ trọng giới, tu lại có thành Phật không ?
Đáp : Trong Đại Tạng
Kinh và Chứng Đạo Ca đều nói: "Tất cả chúng sanh đều được thành
Phật". Tỳ kheo Dũng Thí phạm hai giới Ba la Di: Sát và dâm, sau khi phạm
ăn năn sám hối, muốn tự tử và nhảy từ trên cao xuống, nhưng được cứu
sống, sau đó quyết tử tu nên nay đã thành Phật.
Ý nghĩa của hai chữ sám
hối : SÁM là diệt tội phá giới, HỐI là sau này không được tái phạm
. Nếu còn tái phạm thì sự sám lần trước không tác dụng, tội còn nặng
thêm. Có người buổi sáng sám hối, buổi chiều lại tái phạm, vậy làm
sao diệt tội ?
Sám hối diệt tội chỉ
có thể diệt tội phá giới, còn tội nhân quả thì chẳng thể diệt được,
cho nên, khi phạm tứ trọng giới Ba La Di của Tỳ kheo, nếu triệt để sám
hối, quyết tử tham thiền có thể thành Phật.
Hỏi : Tham
thiền đến khi phát khởi chơn nghi, sự khai ngộ có bằng với chư Tổ không
?
Đáp : Nếu đã đạt đến
chơn nghi thì có thể khai ngộ bằng với chư Tổ, bằng Phật nữa. Nói
Tham thiền kiến tánh thành Phật, ấy là cái lý, còn về sự, do tập khí
lâu đời, nên khi kiến tánh thì sự ngộ bằng Phật, nhưng sức dụng so với
Phật còn xa lắm, phải dứt sạch hết tập khí thế gian, tập khí xuất
thế gian.
Hỏi : Khi
tu pháp môn Tổ Sư Thiền, kiến tánh rồi có còn tiếp tục tu nữa không ?
Đáp : Nói "Kiến
tánh" là tự tánh tự hiện, gọi là kiến tánh thành Phật. Tổ Sư Thiền
có ba lớp : Sơ quan, trùng quan, mạt hậu lao quan.
- Phá sơ quan rồi cũng gọi
là kiến tánh, nhưng chưa rốt ráo,thấy thì thấy nhưng rất mơ hồ, phải
tiến thêm .
- Đến khi phá được trùng
quan, cũng gọi là kiến tánh, thấy thì thấy rõ, nhưng chính vì còn ghi nhớ
cái thấy rõ ấy, còn giữ cảnh giới ngộ, không tan rã được; hễ còn
ngộ tức sự mê chưa hết, vì mê với ngộ là tương đối, mê là bệnh,
ngộ là thuốc, cảnh giới ngộ còn ghi nhớ trong lòng là không được triệt
để cứu cánh.
- Đến chỗ mạt hậu lao
quan, cái ghi nhớ, rõ ràng ấy tan rã hết, là đến mạt hậu lao quan, nên
nói "Ngộ rồi đồng như chưa ngộ".
Mặc dù đến đó, Phàm
phu ngộ cũng đến đó, Thập Địa Bồ tát ngộ cũng đến đó, sự ngộ bằng
nhau, nhưng sự dụng thì khác xa nhiều. Tại sao ? Vì phàm phu dù ngộ triệt
để nhưng tập khí thế gian và xuất thế gian còn nguyên, Thập Địa Bồ
tát ngộ triệt để, tập khí thế gian đã sạch, tập khí xuất thế gian
còn chút ít, rất vi tế. Nên sức dụng của Thập Địa Bồ tát mạnh hơn
sức dụng của phàm phu.
Phàm phu nếu ngộ triệt
để rồi tập khí cũng sẽ tự hết dần, cuối cùng cũng bằng với Thập
Địa Bồ tát, bằng với Phật, thần thông biến hóa, vô lượng vô biên,
tất cả đều sẳn có.
Hỏi : Ơn
cha mẹ lớn hay ơn Phật lớn ?
Đáp : Ở trong Phật giáo
có Tứ Ơn : Ơn Phật, ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh, tứ ơn đều
bằng nhau, không có lớn nhỏ cao thấp. Cho nên, Đức Phật hy vọng mọi
người đều thành Phật, chứ không có Phật phải cao hơn, chúng sanh phải
thấp hơn. Lại, nói đến tứ ơn thì tất cả chúng sanh; Phật, cha mẹ, sư
trưởng, cũng là ở trong chúng sanh, nên hễ báo đáp ơn của chúng sanh là
báo đáp hết tứ ơn.
Hỏi : Làm
thế nào để đền ơn cha mẹ ?
Đáp : Nay chúng ta sanh ở
kiếp này thì kiếp này có một cha một mẹ, nếu muốn đền đáp công ơn
cha mẹ, phải khiến cha mẹ đạt đến tự do tự tại, vĩnh viễn giải
thoát tất cả khổ, ấy mới là triệt để. Nếu chỉ nuôi dưỡng cha mẹ
thì khổ của cha mẹ không thể hết được. Cho nên, người xuất gia không
có nuôi dưỡng cha mẹ, theo thế gian là bất hiếu, nhưng ở trong Phật pháp
gọi là đại hiếu. Sao gọi đại hiếu ? Dù ở nhà phụng dưỡng cha mẹ
, cha mẹ cũng phải già, phải bệnh và cuối cùng phải chết, chết rồi
tùy theo nghiệp báo chịu khổ sanh tử luân hồi, không được giải thoát.
Còn người xuất gia, nếu
tự chẳng làm tròn bổn phận, tự chẳng giải thoát được là phụ ơn
cha mẹ; phải tận bổn phận của mình, tự giác giác tha, tự mình giác ngộ
thành Phật rồi, giác ngộ tất cả chúng sanh. Trong tất cả chúng sanh có
cha mẹ của mình, chẳng những cha mẹ kiếp này, kể cả cha mẹ từ vô lượng
kiếp cũng bao gồm trong đó. Cho nên, Phật pháp gọi là đại hiếu, hiếu
ấy mới triệt để.
Nay chúng ta tham Thiền, nếu
siêng năng quyết tử tham đến kiến tánh thành Phật thì được viên mãn
đại hiếu vậy.
Hỏi : Phật
Quan Âm có ngàn tay, ngàn mắt nghĩa như thế nào ?
Đáp : Ấy là hình dung
cái dụng của Phật tánh, tức dụng của tự tánh. Phật tánh của mọi
chúng sanh đều sẳn đủ sự dụng, vô lượng vô biên, mắt thấy khắp tất
cả vi trần vô lượng vô biên thế giới, tay có thể lấy tất cả vật
trong tất cả thế giới, đâu có hạn chế bởi ngàn tay ngàn mắt ! Vì
nói vô lượng vô biên thì mọi người khó hiểu, nên lấy ước số một
ngàn, chứ chẳng phải một người có ngàn tay ngàn mắt.
Hỏi : Tham
thiền có chướng ngại việc làm không ?
Đáp : Tham Thiền đâu có
cấm người đi kiếm cơm ăn việc làm ! Chẳng những không chướng ngại
đời sống của mình, còn có giúp ích cho đời sống; người nào làm nghề
gì cứ chiếu theo nghề cũ, vẫn nuôi nấng cha mẹ, Tổ dạy là phải ở
trong lao động mà tham, lúc đang làm cũng là lúc đang tham, đâu có chướng
ngại ! Nên tôi thường nói "Tham Thiền đệ nhất, đời sống đệ nhị",
vì nhất thiết do tâm tạo, sinh sống là có nhân quả, còn tham thiền có
thể sửa đổi nhân quả, khi tâm lực mạnh rồi nhân quả có thể sửa lại
được.
Hỏi : Cầu
siêu cho cha mẹ bằng cách nào tốt hơn ?
Đáp : Mục đích cầu
siêu cho cha mẹ là muốn cha mẹ giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự
do tự tại, phải không? Vậy tụng kinh lễ sám có thể đạt đến mục đích
này không ? Nếu không được thì phải có cách khác. Ví như Lai Quả Thiền
sư nói :" Chỉ có câu thoại đầu mới được giải thoát tất cả khổ,
đạt đến tự do tự tại", nếu muốn cầu siêu cho cha mẹ, tự mình
phải quyết tử tham thiền, ấy mới là thật tế. Còn về tụng kinh lễ
sám, cũng như Lai Quả Thiền Sư nói :" Chỉ gieo trồng được thiện nhân,
để muôn ngàn kiếp sau, khi thiện nhân chín mùi mới bắt đầu tham thiền".
Như vậy nay ta bắt đầu tham thiền có phải mau hơn không ?
Hỏi : Kiếp
này chết rồi, kiếp sau làm sao biết có nhân duyên hay không ?
Đáp : Về vấn đề sanh
tử, trước mắt chúng ta thấy có sanh tử rõ ràng, nhưng kỳ thật ấy là
do vọng tâm của mình ngày đêm hoạt động chẳng ngừng, sanh ra cảm giác
sai lầm, mới thấy có sanh tử luân hồi. Tự tánh xưa nay vẫn như thế, vốn
chẳng có sanh tử. Hạt giống nhân duyên nằm trong thức thứ tám, cũng
như hạt lúa trong kho, dù cất giữ mười năm, trăm năm, vẫn là hạt lúa,
không có mất, khi nào gặp trợ duyên, khởi lên hiện hành rồi mới tàn.
Hạt lúa là nhân, nhân công trồng trọt, nước tưới, phân bón, nắng mưa.
ấy là trợ duyên giúp cho hạt lúa trưởng thành, nên gọi là nhân duyên.
Hỏi ; Người
tham Thiền đối với tình cảm vợ chồng như thế nào ?
Đáp : Theo ngũ giới của
bậc cư sĩ chỉ cấm tà dâm, không cấm chánh dâm, vợ chồng chính thức
thuộc chánh dâm. Còn theo Tổ Sư Thiền thì không để ý những vấn đề
đó, chỉ để ý câu thoại đầu. Nếu đã tập trung tinh thần về câu thoại
đầu thì những vấn đề trên đều quét sạch. Nay có nhiều Phật tử, xưa
kia thích đi chơi, xem phim, mặc áo đẹp, tham thiền một thời gian sau không
thích nữa. Đối với tình vợ chồng cũng thế, khi đi đến cảnh giới đó
rồi tự nhiên quét sạch. Lại, nếu muốn chứng quả thì tất cả tình cảm
cha mẹ, anh em, bạn bè đều dứt, không chỉ riêng tình cảm vợ chồng.
Vì hễ tình sanh thì trí cách .
Kinh Lăng Nghiêm nói
:" Tất cả sát, đạo, dâm đều lọt vào ma đạo, không có sát, đạo,
dâm thì lọt vào Cõi Trời, vẫn chưa ra khỏi luân hồi, vì còn ở trong tương
đối." Nên trong Tổ sư Thiền có và không đều quét sạch.
Hỏi : Về
công án " Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi" như thế nào ?
Đáp : Công án và sự
tích của Tổ sư rất nhiều, một ngàn bảy trăm Tổ, sau này đến bảy ngàn
công án. Nói tóm lại, Huyền Sa qua núi, đá nhằm cục đá liền ngộ; Động
Sơn qua cầu, thấy bóng trong nước cũng ngộ. Bóng nước, cục đá v.v. chỉ
là trợ duyên cho sự ngộ, chứ cái ngộ chẳng phải do những thứ đó.
Cái chính là do công phu của mình đã tới mức rồi, gặp gì cũng có thể
làm trợ duyên khiến ngộ. Nên công án chỉ là trợ duyên, nếu giải
thích công án chỉ làm chướng ngại cho sự tham Thiền chứ chẳng có ích
lợi gì. Như những sách thiền thời nay, đem công án ra giải thích, là nghịch
với ý Tổ, làm chướng ngại người tham thiền. Ý của Tổ là muốn
chúng ta nghi, hễ giải thích ra thì hết nghi, hết nghi là hết ngộ, Thiềân
tông gọi là "Lắp bít cửa ngộ của người tham thiền".
Hỏi : Tham
câu thoại đầu đề lên câu hỏi, khoảng cách giữa câu hỏi lần thứ nhất
với lần thứ nhì có sự kéo dài, vậy đúng không ?
Đáp : Câu thoại đầu là
câu hỏi, có hỏi thì có đáp, hỏi thầm trong bụng "Khi chưa có trời
đất ta là cái gì ?" không hiểu, đáp không ra, phải hỏi liền, vẫn
đáp không ra, hỏi tiếp. trong đó không có kể hở, không có gián đoạn.
Nếu có kẻ hở, cũng như Lai Quả Thiền sư nói " Thai trâu bụng ngựa
cũng ở trong kẻ hở đó nổi lên". Có kẻ hở thì Diêm La Vương thấy
được, có thể sai quỷ sứ đến bắt, còn không có kẻ hở thì vô tướng,
hễ vô tướng thì Diêm La Vương chẳng thể thấy.
Hỏi : Con
học Phật cứ quên hoài, vậy có phải là cái nghiệp không ?
Đáp : Không phải là nghiệp.
Nếu cô vì muốn giải quyết vấn đề sanh tử mà xuất gia, thì nay tham
thiền là đi đúng con đường giải thoát, nên mới được quên, quên là
đúng với đường lối giải thoát, quên thì chẳng bị dính mắc, còn ghi
nhớ là dính mắc.
Trong bài Pháp môn An Tâm
của Tổ Đạt Ma có nói :" Phân biệt ghi nhớ là việc bên chảo dầu
sôi lò lửa than, không phân biệt ghi nhớ là sự Niết bàn giải
thoát". Hiện nay chùa nào cũng thờ Tổ Đạt Ma, tại sao thờ Tổ Đạt
Ma? Vì Tổ dạy cho người tu giải thoát. Nay nhiều người lấy dòng Lâm Tế,
tự nhận là con cháu của Tổ Đạt Ma, nhưng lại trái ngược với Tổ, Trái
ngược với Tổ Đạt Ma tức trái ngược với Phật Thích Ca, thế thì xuất
gia làm chi ?! Chẳng thà ở ngoài đời, học theo pháp thế gian, được hưởng
thụ như người đời, đâu cần cực khổ bỏ cha mẹ, anh em gia đình mà
không được giải thoát, lại mắc thêm tội của bên chảo dầu sôi lò lửa
than , sau này chịu những khổ báo !
Sư phụ
giảng về đại ý PHỒ MÔN (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa )
Tạo sao gọi là PHỒ MÔN
? vì tự tánh của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ
Môn. Kinh này do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.
Sao gọi Tam Tạng ? Tam tạng gồm Kinh, Luật, Luận, nếu thông suốt kinh điển
gọi là Kinh sư; thông suốt giới luật gọi là Luật sư, thông suốt luận
gọi là Luận sư. Ngài Cưu Ma La Thập thông suốt cả kinh, luật, luận,
nên gọi Tam Tạng Pháp sư. Pháp sư chuyên về dịch kinh, sự dịch kinh rất
đúng với ý Phật, được nhà Vua đương thời kính trọng. Sư đã nói trước
rằng :" Nếu tôi dịch kinh sai ý Phật thì hãy đem lưỡi tôi cắt đi;
còn nếu tôi dịch đúng ý Phật, sau khi tôi mất, tất cả đều có thể
hoại, ngoại trừ cái lưỡi". Sau khi Sư tịch, đem đi trà tỳ, tất cả
đều thiêu rụi, chỉ còn lại cái lưỡi. Chứng tỏ các kinh do Ngài dịch
không sai.
Chánh văn :
Lúc Phật đang thuyết pháp,
Vô Tận Ý Bồ tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch tay áo bên phải, quỳ
gối chân phải , bạch Phật rằng :
- Thế tôn, do nhân duyên gì
mà Quán Thế Âm Bồ tát được gọi là Quán Thế Âm ?
Phật bảo :" Nếu có
vô lượng vô biên chúng sanh , đã chịu tất cả khổ, nghe được Quán Thế
Âm Bồ tát, nhất tâm xưng danh, thì Quán thế Âm Bồ tát sẽ quán được
âm thanh khiến giải thoát".
Theo thế gian thì âm thanh
phải dùng tai nghe, chẳng thể dùng mắt thấy, nhưng người kiến tánh triệt
để rồi lục căn hổ dụng, tức dùng mắt nghe được, dùng lỗ tai xem thấy.
Chữ QUÁN là dùng con mắt để nghe âm thanh, ấy là sự dụng của tự
tánh, nên ba chữ QUÁN THẾ ÂM là chỉ về tự tánh của mình, chứ chẳng
phải thật có một vị Bồ tát tên Quán Thế Âm.
Quán Thế Âm Bồ tát,
nghe được xưng danh đến cứu giúp: chẳng những thế giới này, kể cả
hằng hà sa số vô lượng vô biến vi trần thế giới, , hễ chúng sanh nào
cầu cứu cũng sẽ được cứu, Ví như đài phát thanh hiện nay có làng
sóng mạnh, dù máy radio nhỏ, nếu bắt đúng theo làn sóng cũng có thể
thâu được. Sức dụng Tự tánh của mình cũng vậy, khắp hư không pháp
giới, nếu sự tu của chúng ta quét trống rỗng tất cả, ngũ uẩn giai không,
đến cái Không tướng hiện ra, tự tánh tự hiện, tức tự tánh mình cứu
mình, chứ chẳng phải Quán Thế Âm Bồ tát hay một người nào đó.
Phải biết Quán Thế
Âm Bồ tát là dùng con mắt để nghe chứ không phải dùng lỗ tai, nếu
chúng ta dùng con mắt nghe được mới là Quán Thế Âm, đạt đến cảnh giới
này tất cả khổ đều được giải thoát.
Ở trên đã nói , ba chữ
Quán Thế Âm là tự tánh của mình, mọi người đều saün đủ, sức dụng
thần thông biến hóa chẳng kém hơn Phật, nên gọi Phật tánh, Sở dĩ Phật
phát huy ra hết mà chúng ta chỉ có thể phát huy được một ít, chưa bằng
một phần triệu, do phát huy chậm nên gọi là nghiệp lực; nếu được phát
huy hết, gọi là thần thông lực.
Sự biến hóa hiện nay
của chúng ta chậm đến chính mình cũng chẳng thể biết được; ví như tóc,
móng tay, tế bào. mỗi giây phút biến đổi, thân thể mỗi giây phút biến
đổi, ngày đêm chẳng ngừng, nhưng tự mình chẳng hay. Hễ biến đổi một
chặng thì nhân quả bằng tam thế : Kiếp trước tạo kiếp này, kiếp này
tạo kiếp sau, Vì nhất thiết duy tâm tạo, do tâm lực tạo ra nghiệp lực.
Ví dụ tâm lực đến
tột đỉnh là một triệu độ, nay tâm lực chúng ta chỉ có một độ,
tham Thiền mãi tăng lên mười độ, rồi trăm độ, ngàn độ.. Hễ tâm lực
tăng đến năm trăm ngàn độ ( phân nữa tâm lực ), lúc ấy có thể biến
cái này cái kia, ấy gọi Thần thông lực. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói : "
Tâm như họa sĩ tài ba, khéo họa đủ thứ thế giới, họa ra thiên đàng,
địa ngục".
Ở trong này nói đến
"trì danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ tát" ; chữ TRÌ này nhiều người
lầm tưởng cho tụng là trì, mỗi ngày tụng Kinh Phổ Môn nói là trì kinh
Phổ Môn, mà chẳng biết trì là phải hành trì. Ví như hàng Tăng ni chúng
ta phải trì giới, mỗi nửa tháng bố tát (tức tụng giới) một lần, nếu
cho tụng giới tức trì giới là không đúng, phải theo giới thực hành mới
gọi là trì. Trì kinh cũng vậy.
Hễ hành trì đúng pháp
thì đạt đến sự dụng như Quán Thế Âm Bồ tát , Sức dụng của tự
tánh automatic, không qua tác ý, đã đạt đến cảnh giới này thì vào lửa
chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, muốn gì được nấy, bởi do nhất tâm
mà thần lực được hiện ra, tất cả tai nạn đều được giải thoát.
Do nhân duyên này nên gọi là Quán Thế Âm.
Nếu thực hành đúng
pháp môn, khi tự tánh hiện ra sức dụng thì bị dao chém đầu mà đầu chẳng
bị đứt, dao lại gẫy từng khúc; (Trước kia khi đọc đến đây, do chưa
hiểu nghĩa này, cho rằng ấy là gạt trẻ con, nhưng nay thì tin được. Việc
này giải thích ra thì vô lý, nhưng sự thật như thế.) Những ma quỷ,
la sát muốn ăn thịt người, hút tinh khí người, đều chẳng thể hại,
Chẳng những không thể hại được, kể cả con mắt chẳng thể ngó thấy.
Trong Thiền tông có một sự tích như sau :
Một vị Tổ sư đã kiến
tánh, làm Trụ Trì ở chùa hơn ba mươi năm mà Già Lam Bồ tát không thể
thấy mặt vị Trụ trì ấy, vì Sư luôn có một hào quang bao phủ. Một
ngày kia, Bồ tát hỏi vị Chủ sự trong chùa :
- Tôi muốn chiêm ngưỡng
chân dung của Sư Trụ trì, ông có cách nào không ?
Đáp :" Dễ thôi,
ngày mai, lúc ăn quả đường, ông làm đổ thùng cơm thì thấy được."
Già Lam bồ tát làm
theo lời của vị Chủ sự, Hòa Thượng Trụ trì thấy vậy liền mắng :
Cơm của thí chủ cúng dường,
sao bất cẩn như thế !"
Ngay lúc la mắng, hào
quang bị giảm xuống, Già Lam Bồ tát mới có dịp đảnh lễ, nhưng sau đó
hào quang của Sư lại phủ kín, chẳng thể thấy được nữa.
Mỗi người chúng ta đều
có hào quang, chỉ cần tâm lực mạnh. Nên khi sức dụng của tự tánh hiện
ra, Bồ tát còn chẳng thể thấy được, nói chi quỷ thần ư !
Chánh văn :
Bất kể người có tội, bị
gông cùm xiềng xích, tất cả khủng bố, tai ương, do nhất tâm xưng danh
hiệu của Quán thế Âm Bồ tát, đều được tan rã, được giải thoát.
Muốn đạt đến nhất
tâm thì bình thường phải tu tập, lúc niệm phải nhất tâm, chẳng có một
tạp niệm nào. Ví như tham Thiền, chỉ có một câu thoại đầu, không có
biệt niệm, thì dụng của Tự tánh được hiển hiện.
- Vô Tận Ý Bồ tát, nếu
chúng sanh ham dâm dục sẽ được hết dâm dục; ham sân giận cũng sẽ được
hết, kẻ ngu si được trí huệ.
Nay đã có sự thật chứng
tỏ , nhiều Phật tử sau một thời gian tham Thiền, đối với những ham thích
trước kia như ăn mặc đẹp, đi chơi, ca hát v.v. đều tự nhiên bỏ. Tự
tánh của mọi chúng sanh saün đủ tất cả, chẳng kém hơn Phật, do bị
tham sân si che lắp nên chẳng thể phát huy, như bụi che lắp ánh sáng của
chiếc gương, nếu quét sạch bụi bậm thì ánh sáng của gương được hiện
ra, quét trống bao nhiêu hiện ra sự dụng bấy nhiêu, tức dụng tức
không, tức không tức dụng,không tới cực, dụng tới cực, hoạt bát vạn
năng, vô lượng vô biên. Ánh sáng gương vốn saün đủ, chẳng phải do chùi
mới thành gương, , Tự tánh của chúng ta vốn saün thần thông biến hóa
như Phật, chẳng phải do tu mới thành,
Dụng của Tự tánh có
đại uy thần lực như thế, nên mới có thể lợi ích cho tất cả chúng
sanh, và tất cả chúng sanh đều phải hướng vào tự tánh mà ngộ, phải
quét sạch tất cả chấp tâm của mình. Lúc tự tánh hiện ra, chẳng cần
dụng cũng được, vì đã tự do tự tại rồi ! Nên muốn cầu nam được
nam, cầu nữ được nữ, muốn gì được nấy, hễ còn một chút khổ là
chẳng tự do tự tại vậy.
Phật bảo : Nếu có người
thọ trì 62 ức hằng hà sa số Bồ tát, công đức của người ấy, với
phước đức của người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát bằng
nhau không khác.
Tại sao nói số 62 mà
chẳng phải 61 hay 60 ? Vì kiến chấp của chúng sanh có 62 thứ : Aáy là : Tứ
cú x ngũ uẩn = 20. 20 x tam thế = 60. 60 + Hữu & vô = 62. Tất cả kiến
chấp đều không ngoài 62 thứ này, nên lấy ước số 62 để đối trị 62
kiến chấp, chỉ cần một Quán Thế Âm là đủ rồi. Như trên đã nói, Tự
tánh vốn đầy đủ tất cả, , cùng hư không, khắp pháp giới, tất cả
đều chẳng ở ngoài tự tánh. Nói "Tâm bao gồm hư không pháp giới"
vẫn chưa đúng, vì cho tâm là tâm, hư không pháp giới là hư không pháp giới,
là nhị; tự tánh bất nhị, hư không pháp giới tức tâm, tâm tức hư không
pháp giới; tự tánh tức tâm, tâm tức tự tánh, chẳng hai chẳng khác. 62
ức, nói ra rất nhiều, nhưng gom lại chỉ là bất nhị, chỉ là tự tánh
Quán Thế Âm mà thôi, cho nên công đức với phước đức bằng nhau.
Công đức và phước
đức của thế gian dù có số lượng nhiều, nhưng lâu ngày cũng hết, còn
công đức của tự tánh thì chẳng thể hết, vì bất sanh bất diệt, bất
tăng bất giảm. Cho nên, chư Phật chư Tổ chỉ muốn chúng ta được ngộ,
khi ngộ rồi sức dụng của tự tánh phát huy, nên phải thọ trì. Thọ
trì là muốn quét cho sạch, nay quét chưa sạch thì năng lực ấy chỉ có
thể gọi là tiềm năng, tức tiềm ẩn nơi tự tánh.
- Nói 32 ứng thân của
Quán Thế Âm Bồ tát độ chúng sanh; chúng sanh nào cần Phật thân để độ
thì hiện Phật thân, cần thân Bồ tát để độ hiện thân Bồ tát v.v.
nói tóm lại chỉ là tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà độ như ngài
Lục Tổ nói : "Tự tánh tự độ", Quán Thế Âm Bồ tát tự tánh
tự độ,, chúng sanh cũng tự tánh tự độ; tự tánh tự độ tức Quán Thế
Âm Bồ tát, chứ chẳng phải là người khác độ. Nếu người khác độ
được thì Đức Phật đại từ đại bi, đã độ hết chúng sanh rồi, đâu
cần cực khổ mà tu !
Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý
Bồ tát muốn cúng dường QuánThế Âm Bồ tát bằng sâu chuổi Anh-Lạc
quý báu, lúc đầu Quán Thế Aâm Bồ tát không chịu nhận, và Vô Tận Ý Bồ
Tát nói rằng :
- Hãy thương xót chúng
tôi mà nhận lấy sâu chuổi.
Khi ấy Đức Phật cũng nói
với Quán Thế Âm Bồ tát rằng :" Hãy thương xót Vô Tận Ý Bồ tát
và tứ chúng cùng các cõi trời, người, A Tu La v.v. mà nhận lấy" Vì
thế, Quán Thế Âm Bồ tát đã nhận và chia sâu chuổi thành hai phần, một
phần cúng dường Phật Thích Ca, một phần kia cúng dường Tháp Phật Đa-
Bảo.
Đây là hình dung cho
Pháp Thí, nếu như chẳng nghe được pháp bố thí thì chẳng biết tu hành,
chẳng thể lìa khổ, Vô Tận Ý Bồ tát vì muốn chúng sanh cung kính Tam Bảo,
vì ngài là đại diện đương cơ, thay mặt cho tất cả người nghe pháp, gồm
tứ chúng : Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam nữ cư sĩ và thiên long bát bộ, cúng dường
cho Quán Thế Âm Bồ tát.
Tự tánh thần lực của
Quán Thế Âm Bồ tát khắp thế giới Ta bà và vô lượng vô biên thế giới.
Khi ấy, Vô Tận Ý Bồ tát hỏi Phật :
- Bạch Thế Tôn, Phật tử
do nhân duyên gì, hiệu Quán Thế Âm?
Phật bảo : Đức hạnh của
Quán Thế Âm Bồ tát khắp mười phương thế giới, tất cả Phật, Bồ tát
đều có đại nguyện sâu như biển cả, chẳng bị thời gian, số lượng
hạn chế, chẳng thể dùng trí suy lường. Nay ta nói qua cho biết : Do nghe
danh hiệu chẳng bỏ qua cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua , đến khi tự tánh
được hiện ra thì tất cả khổ đều diệt.
Ở đây nói "nghe
danh hiệu thấy cái thân ,tâm chẳng bỏ luống qua", cũng như Kinh Lăng
Nghiêm nói đến "NGHE" là phản văn tự tánh, chứ chẳng phải thật
nghe cái danh hoặc thật thấy cái thân, Tự tánh chẳng có hình tướngn,
như Kinh Kim Cang nói :" Không có thân mới là đại thân", nếu có
hình tướng thì chẳng phải đại thân. Ví như hiện nay chúng ta tham thiền,
nếu chẳng có vọng tưởng cũng chẳng có nghi tình là lọt vào vô ký
không, tức là bỏ luống qua , đối với sự tu hành vô ích.
- Giả sử có người muốn
hại mình, xô vào hang lửa, do sức dụng tự tánh sẽ hóa hầm lửa thành
nước cam lồ, tất cả tai ương, ác thú, binh lửa v.v. đều do sức dụng
tự tánh mà được hóa giải, tất cả khổ sanh lão bệnh tử, địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh. đều được tiêu tan.
- Đạt đến cảnh giới
đó gọi là Chơn quán, không còn dính líu gì cả, không có vọng tưởng, tất
cả đều trong sạch, luôn cả trong sạch cũng không, gọi là Thanh Tịnh
Quán. Lúc đó, trí huệ ấy là Bát nhã, chẳng như trí huệ thế gian , chẳng
bị hạn chế bởi số lượng, gọi là Quảng đại Trí Huệ Quán. Quán
cái khổ của chúng sanh và đem lại sự vui mà tự tánh của mình tự
nhiên đạt đến vô-duyên-từ và đồng thể bi, tức chẳng có cái TA để
độ chúng sanh, chẳng có chúng sanh thọ nhận sự giúp đỡ của ta, ta và
chúng sanh đồng một thể, gọi là Bi Quán và Từ Quán.
Năm thứ quán : Chơn quán,
thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán và từ quán , đều là
sức dụng của tự tánh. Người thời nay thường nói "Từ bi bác
ái", tưởng từ bi và bác ái giống nhau, kỳ thật là khác nhau như trời
với đất; BÁC ÁI là chấp ngã, có cái TA để ban bố cho đại chúng ,
còn TỪ BI là chẳng có ngã,chẳng có tự và tha :Chẳng có ta cho đại chúng
và đại chúng thọ nhận sự từ bi của ta.
- Bây giờ, chúng ta chưa
đạt đến chỗ này, phải thường nguyện thường chiêm ngưỡng, ngày đêm
tu hành chẳng gián đoạn, khi cấu bẩn của tập khí quét sạch, ánh sáng
trong sạch của Tự tánh hiện ra, như mặt trời khiến tan rã mây đen, tất
cả tai ương, gió lửa bão táp đều tiêu, thế gian được sáng tỏ, mọi
chúng sanh đều được thọ nhận mưa cam lồ, những phiền não trước kia
được dập tắt. Aáy là do Diệu âm Quán Thế Âm, Phạn âm hải triều
âm, cho nên phải thường quán.
Phạn là thanh tịnh,
còn hải triều âm là ngày đêm chẳng gián đoạn. Tự tánh của mình cũng
thế, mặc dù hiện nay là chúng sanh, nhưng tự tánh từ xưa nay vốn như thế,
chưa từng gián đoạn, dù đầu thai thành con trâu con chó vẫn không gián
đoạn, nên phải quán Tự tánh của minh. Nay chúng ta tham thiền là trì về
tự tánh của mình vậy.
Trì Địa Bồ tát ở trong
chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng :
- Thế Tôn , nếu chúng
sanh nghe Phẩm Quán Thế âm Bồ tát , tự tại thần thông lực của Tự
tánh tự hiện khắp nơi mà công đức chẳng thiếu xót".
Lúc Phật thuyết xong Phẩm Phổ
Môn, trong chúng có tám mươi bốn ngàn chúng sanh được phát tâm Bồ đề.
Tâm bồ đề tức tâm giác ngộ,
tâm giác ngộ tức tâm vô sở đắc, tâm vô sở đắc mới đến giác ngộ
cao nhất, nếu còn sở đắc tức còn chấp ngã,, chẳng phải tâm Bồ đề,
sẽ không đạt đến giác ngộ cao nhất.
Mục Lục
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6