Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 4 (CUỐN 31 - 50)

04-1

Hỏi : Khi gặp cảnh khổ của chúng sanh , con không khỏi xúc động và nổi lòng từ bi, đúng hay sai ?

Đáp : Tổ Sư Thiền chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình tự động quét sạch tất cả, nay bất cứ nổi lên niệm gì đều chướng ngại sự giải thoát, nổi lên lòng từ bi là biệt niệm, cũng là chướng ngại.

Bác Sơn Hòa Thượng nói :" Bổn phận của bậc xuất gia là phải tu đến giác ngộ, kiến tánh thành Phật". Nếu bỏ bổn phận mà đi làm việc từ bi, thấy người bị chết đói, mình chịu chết đói thay; thấy người bị lạnh cóng, mình cởi áo đang mặc để chịu lạnh thay, người đời thì cho đó là từ bi, là Phật sống, nhưng đối với bổn phận là thiện nhân chiêu ác quả. Tại sao ? Vì thọ nhận sự cúng dường của mười phương, nay bỏ bổn phận đi giúp cho người khác, dù giúp cho hôm nay khỏi bị chết đói, thế còn ngày mai ? Dù nuôi đến già đến chết, người ấy cũng chẳng được kiến tánh, chẳng được giải thoát.

Bây giờ kể cả cha mẹ mình còn bỏ mặc để đi xuất gia, là phải giữ đúng bổn phận, tu đến kiến tánh thành Phật, mới độ được nhiều chúng sanh, mới có tư cách thọ nhận sự cúng dường của mười phương. Vì có bản ngã, để được người đời tán thán, khen là Bồ tát sống, là Phật sống, thật sự đối với đạo lại trái nghịch nhau, nên nói "thiện nhân chiêu ác quả".

Hỏi : Hành giả tham thiền gặp duyên làm việc bố thí, chẳng nghĩ thiện cũng chẳng nghỉ ác, như thế được không ?

Đáp : Nếu công phu miên mật thì tất cả niệm đều chẳng khởi lên được. Hễ có khởi lên biệt niệm tức công phu có kẻ hở, công phu miên mật là không biết có công phu miên mật, đến chỗ "Vô tham tức chơn tham", tham thiền còn không biết, còn biết đến cái gì nữa ? Có biết là chướng ngại.

Hỏi : Trường hợp trong nhà cần sử dụng thuốc ngừa mối mọt , nhưng rủi nó bị chết có mang tội không ?

Đáp : Có thể sử dụng những loại như long não, vừa giữ gìn đồ đạc vừa không sát hại đến các sinh vật. Cũng như Hoằng Nhất Luật sư, theo kinh nghiệm của Ngài đối với con chuột, muốn chuột không cắn phá đồ dùng là nuôi nó, đem cơm rải ở một nơi cho chuột ăn, lúc đầu chuột cứ cắn nát kinh sách , nhưng một tuần lễ về sau, chuột không cắn hư kinh sách nữa.

Hỏi : Con đang tham câu "Niệm Phật là ai", nay muốn đổi qua câu khác, được không ?

Đáp : Trước kia chưa tham câu "Niệm Phật là ai" có niệm Phật không ? Đối với câu này có thắc mắc không ? Nếu không thắc mắc thì không khởi nghi tình được, phải lựa câu thoại nào cảm thấy rất thắc mắc mới được.

Lại, mặc dù công phu tham đến tinh tấn lắm, đối với việc sanh tử phải thống thiết mới được. Tại sao ? Vì sự tinh tấn có thể chỉ kéo dài năm - ba tháng, hễ cảm thấy không mùi vị rồi sẽ lui sụt. Phải nghĩ rằng "Nay tuy còn sống, ngày mai chưa biết thế nào? Nếu chết sẽ ra sao ? Tại sao ai cũng sợ chết mà không tránh khỏi ? rồi chết đi về đâu ?" Bây giờ thừa lúc chưa chết phải giải quyết xong việc lớn sanh tử, muốn giải quyết phải tham Thiền đến kiến tánh.

Có thống thiết với sanh tử, tham thiền mới không lui sụt. Người thế gian thường lo cho sự sinh sống nhiều hơn, lo kiếm thêm nhiều tiền, nhiều chừng nào tốt chừng nấy; được nhiều tiền của rồi lo cho có thế lực mới bảo vệ được tài sản . Chẳng biết rằng dù tiền của thế lực bằng như vua chúa, cũng chẳng giải quyết được việc lớn sanh tử, cuối cùng cũng phải già, bệnh và chết. Chỉ có tham thiền mới giải quyết được khổ sanh lão bệnh tử mà thôi.

Hỏi : Tham thiền đến lúc mãnh liệt rồi phải làm sao ? Đúng hay sai ?

Đáp : Đừng có biết đến làm sao hay chẳng làm sao, mãnh liệt cũng hỏi tới , không mãnh liệt cũng hỏi tới; có nghi tình cũng hỏi tới, không có nghi tình cũng hỏi tới, có sợ là chướng ngại. Đức Phật đã nói " Vô thỉ vô sanh", nên người chứng quả gọi là "chứng vô sanh pháp nhẫn". Tịnh Độ Tông dù không có chứng ngộ, sau khi được sanh Cõi Cực Lạc, cuối cùng cũng ngộ pháp vô sanh, nên nói "Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh". Đã nói là vô sanh thì làm sao có pháp đúng hay không đúng ? Chỉ cần giữ nghi tình, có thắc mắc là đúng rồi, ngoài ra, bấc cứ khởi niệm biết đúng hay sai, đều là biệt niệm.

Hỏi : Con nghĩ rằng câu thoại đầu tức trí huệ, nên phải chăm chú nhìn vào và khiến cho miên mật, để sự tu đạt đến kết quả như ý muốn của mình, phải vậy không ?

Đáp : Ông đã khởi nghi tình được, đã thống thiết vì sanh tử, ấy là được rồi, cứ tiếp tục tham tới. Nhưng đừng cho câu thoại đầu là trí huệ, cũng đừng cho các thứ khác là huyễn hóa, vì trí huệ chẳng thật có trí huệ, huyễn hóa cũng chẳng thật có huyển hóa. Đức Phật đã nói :" Tất cả pháp đều bình đẳng, tất cả pháp đều chẳng tự tánh, tất cả pháp vốn vô sanh", nay muốn ngộ pháp vô sanh, phải cắt đứt tất cả ý thức phân biệt, hễ có tâm biết cái này trí huệ, cái kia chẳng trí huệ thì không bao giờ kiến tánh được. ( Sư phụ giảng về từ nghi đến ngộ, lượt qua ).

Hỏi : Lúc trước con tu theo pháp tri vọng, Thiền sư Tông Mật nói "Biết vọng là tu, khi vọng tưởng sạch hết tức chơn không Phật tánh hiện tiền". Sau khi tu được một thời gian thì con không vừa lòng với những kiến giải trên, con cho rằng "cho dù tri vọng , tri tịch hay thường tri đều từ vọng tâm sanh khởi mới biết". Khi gặp Sư phụ dạy pháp tham thoại đầu, con chỉ muốn biết được mình là cái gì, nên lúc công phu con không biết tới có đắc lực hay không, có nghi tình hay không, mục đích của con chỉ là "cầu giải thoát" và "Biết được mình là cái gì ", nhiều khi con mất câu thoại đầu nhưng vẫn còn hai thắc mắc trên, vậy có đúng không ?

Đáp : Thắc mắc chỉ có một, nếu có hai là không đúng. Giải quyết được một thắc mắc thì tất cả thắc mắc đều giải quyết. Phật pháp bất nhị, ngoài câu thoại đầu ra, nếu mống khởi cái gì khác, ấy là biệt niệm. Ông tham câu "Khi chưa có trời đất ta là cái gì?" , nếu tách câu "ta là cái gì" ra là không được. Vì có ta cũng không đúng, không có ta cũng không đúng, tất cả vạn vật đều như thế, có cũng không được, không có cũng không được, đều nằm trong tứ cú.

Lại, ông vừa nói đến Thiền sư Tông Mật, ngài là Tổ thứ năm Tông Hiền Thủ của Giáo môn, không phải Thiền tông, đối với Tổ Sư Thiền còn cách xa lắm. Trong Kinh Viên Giác, Phật nói :" Tất cả chúng sanh đều chứng viên giác", ngài lại nói : Chữ CHỨNG không được, ấy là người dịch sai, phải nói là ĐỦ, tức "chúng sanh đều đầy đủ viên giác nhưng chưa chứng" , lý giải như thế là do ý thức phân biệt, nên không thích hợp với Tổ Sư Thiền. Nếu căn cứ vào đó để tu, cũng như Lục Tổ quở Thần Hội :" Dẫu cho ngươi sau này ra hoằng pháp, cũng chỉ là một môn đồ tri giải mà thôi":

Lục Tổ hỏi chúng :" Ta có một vật, không đầu không đuôi, không tên không gọi, các người có biết là gì không ?"

Thần Hội ra đảnh lễ đáp :" Ấy là bản nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội".

Lời nói chẳng phải không đúng, nhưng vì dùng ý thức để lãnh hội, Tổ Sư Thiền là chấm dứt tất cả ý thức, hễ dùng ý thức để hiểu là vọng, là tương đối, là nhị.

Phật pháp bất nhị, nên ở Phẩm thứ nhất kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói với Pháp sư Aán Tông rằng :"Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp". Theo giáo lý của Phật, phải thiền định rồi mới giải thoát, nay nói thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp, mọi người cảm thấy khó hiểu, nhưng sự thật là vậy, vì hễ có định thì có loạn, có giải thoát thì có trói buộc, ấy là pháp tương đối. Do đó, ông nói có hai thắc mắc là không được.

Hỏi : Đang tham thoại đầu xen vào "Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ", được không ?

Đáp : Chín chữ VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ SỢ là khi nào tự cảm thấy muốn có sở đắc rồi, phải chợt nhớ là vô sở đắc, muốn cầu một điều gì thì chợt nhớ phải vô sở cầu, khi nổi ý lo sợ thì nhớ lại là vô sở sợ, ngoài ra cứ câu thoại đầu tham tới mãi, không cần xen vào khiến nghi tình bị kẻ hở

Hỏi : Con người sống để làm gì ?

Đáp : Vấn đề này phải tự hỏi. Nguyệt Khê Pháp sư trong cuốn Phật Giáo Nhân Sinh Quan nói :" Nay mình sanh ra làm người, gọi là vạn vật chi linh có ý nghĩa gì ? nếu như vì sự sống thì tất cả loài vật khác đều phải vì sự sống; nếu vì sanh con để cái thì các loài kia cũng như thế. Vậy ngoài những thứ này ra, còn có ý nghĩa gì ?

Nay muốn biết ý nghĩa sống là gì, trước tiên phải biết mình là gì, làm chủ cho bản thân rồi mới giải quyết được tất cả vấn đề. Bây giờ không biết sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ? Lại, không muốn già cứ phải già, không muốn bệnh cũng phải bệnh, không muốn chết cũng phải chết, tự làm chủ chẳng được. Nếu thật là "tôi" thì tôi phải tự chủ được, nên phải biết "tôi " là cái gì. Mục đích tham thiền là vậy, đến khi kiến tánh rồi mới biết mình là cái gì, mới được tự do tự tại, ra khỏi sự ràng buộc của chiêm bao.

Hỏi : Thế nào là niệm mà chẳng niệm ?

Đáp : Nói "Niệm mà chẳng niệm" , niệm trước là bản niệm, cũng gọi là bản tâm, bản tánh, Tự tánh, Phật tánh, Thật tướng, Bát nhã, Pháp thân v.v. mặc dù đủ thứ tên gọi, nhưng vẫn là bản niệm.

Bản niệm là luôn như thế, ngày đêm không gián đoạn, từ thân này sang thân khác, kiếp này sang kiếp khác. Niệm mà chẳng niệm là ngoài bản niệm ra chẳng còn niệm gì khác, bất cứ khởi lên niệm gì, từ niệm tham sân si cho đến niệm từ bi, bác ái. đều là vọng tưởng. Cho nên Lục Tổ nói " Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác". Nghĩ thiện nghĩ ác đều là niệm, hễ ở trong bản niệm nỗi lên niệm rồi, thì chẳng phải là "niệm mà chẳng niệm".

Bản niệm linh động, làm gì cũng được, Chư Phật Bồ tát làm mà chẳng niệm. Tại sao ? Vì không qua sự tác ý. Có tác ý là niệm, tự tánh tự động hiển dụng, không cần qua sự tác ý. Cho nên, dù không nỗi niệm, tất cả việc làm đều tùy cơ hóa độ chúng sanh, không qua tác ý, cũng chẳng phải là không biết như gỗ đá.

Hỏi :Thế nào là niệm trước chẳng sanh,niệm sau chẳng diệt ?

Đáp : Chư Phật chư Tổ đối với đương cơ tùy bệnh cho thuốc, nếu chấp vào những lời nói đó, là nghịch với ý Phật, ý Tổ, gọi là "tùy ngữ sanh giải", là con chó đuổi theo cục xương.

Bản niệm vốn bất nhị ,chẳng có trước sau, trước sau là nhị. Nói Tự tánh, thật tướng, Niết bàn cũng là nó; về con mắt thì gọi là bản kiến, về lỗ tai thì gọi là bản văn. đủ thứ tên gọi cũng là nó, chẳng phải mỗi mỗi khác nhau. Do người hỏi pháp chấp đến đâu thì phá chấp đến đó: Chấp Phật phá Phật, chấp Bồ tát phá Bồ tát, chấp chúng sanh phá chúng sanh, chấp tâm phá tâm, chấp tướng phá tướng.để khôi phục lại bản niệm. Nhưng hễ chấp vào lời phá chấp của chư Phật chư Tổ cũng là chấp, bệnh chấp vẫn còn, nên phải được ý quên lời, chớ có chấp lời nghịch ý.

Hỏi : Sư phụ nói cần phải có sự ngộ nhập để làm chủ cái thân ngũ uẩn này, vậy ngộ nhập cái gì ?

Đáp : Nói "ngộ nhập" là từ trong chiêm bao thức tỉnh. Trong chiêm bao, đủ thứ cảnh giới đều cho là thật, đến khi thức tỉnh mới biết tất cả đều chẳng thật, lúc đó tự mình chứng tỏ, không cần thiện tri thức giải thích nữa. Nên khi kiến tánh gọi là chứng ngộ, là ngộ nhập mở mắt chiêm bao chẳng thật.

Hỏi : Nay con biết tất cả đều giả tạo, không theo nó, vậy có đúng không ?

Đáp : Nay nói "giả tạo" là chấp vào sự giả tạo, nói không theo đã là theo rồi, đã chấp thật rồi. Bản niệm không có theo và không theo, cũng như căn nhà, vốn chẳng có xoay và không xoay, nói "ngưng xoay" là trước kia đã có xoay , nói "không theo" cũng vậy. Vốn là không có, cần gì theo hay không theo!

Hễ cho là "có lý" là chấp thật, có lý thì chướng ngại sự. Thông thường người thế gian cho là bị sự chướng ngại lý, cho là thế này hợp lý , thế kia không hợp lý, nhưng thật tế là lý chướng ngại sự. ‘Sự ‘ là gì ? Là Bản niệm; ‘lý‘ là gì ? Là từ Bản niệm sanh ra niệm, mới cho là có lý. Vốn cái bản niệm làm sao có lý? Tại sanh ra niệm khác, ví như cho sự từ bi là có lý; chấp thật chấp giả, cho cái này là vô minh, cái kia là trí huệ v.v. ấy là lýï chướng ngại sự. Kỳ thật, Phật nói hai chữ "Vô thỉ" đã là nói hết rồi : Vô thỉ làm sao có vô minh để bắt đầu ? Vô thỉ tức vô sanh, nếu tất cả pháp đều vô sanh thì làm sao có cái lý gì để cho là đúng ? Aáy là do lập ra cái lý chướng ngại đến sự.

Hỏi : Muốn lìa pháp đối đãi phải làm sao ?

Đáp : Phải tự ngộ. Nếu chưa tự ngộ tức còn nằm trong đối đãi, tự ngộ tức từ chiêm bao thức tỉnh, đã thức tỉnh rồi , không cần lìa cũng tự lìa; chưa thức tỉnh mà khởi niệm muốn lìa, cái niệm muốn lìa đó vẫn còn trong chiêm bao, lại càng trói buộc thêm. Cho nên chư Phật chỉ muốn chúng ta giác ngộ, ngộ rồi lấy gì để lìa ?

Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng đến văn tự. Kinh Lăng Nghiêm nói :" Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật", pháp môn Tổ Sư Thiền khác với Giáo môn, Giáo môn là hiểu bao nhiêu tu bấy nhiêu, còn Tổ Sư Thiền không cần gì hết, người ngu si dốt nát nhiều khi còn hơn người thông minh lanh lợi, vì chẳng bị lý lẽ, sở tri chướng ngại. Nay nếu không chịu ra ngoài chiêm bao, cứ ở trong chiêm bao học hết tất cả, vẫn còn ở trong chiêm bao mãi.

Cũng có người hỏi tôi :" Nay biết được là giả liền bỏ, bỏ riết cũng phải có ngày hết vậy!"

Tôi nói :" Làm thế nào hết được ? Ví như căn nhà, biết là giả, không theo nó, liền tháo bỏ, bỏ từ nhà này qua nhà khác, cho dù tháo hết tất cả nhà tại thành phố này, cho đến cả thế giới này, nhưng còn những thế giới khác, làm sao lìa ? Không gian chẳng bờ bến, thế giới vô lượng vô biên, làm sao bỏ hết được ?

Tổ Sư Thiền không cần buông bỏ, chỉ cần một nắm tay đập bể hư không, hư không tan nát rồi, tất cả nhà cửa cây cối ở đâu ? Nên Kinh Lăng Nghiêm nói :" Một người trở về tự tánh, mười phương hư không đều tiêu diệt", vậy có phải gọn không ? Chỉ cần có sức mạnh đập nát hư không, đâu cần lìa bỏ từng cái một ! Aáy là thí dụ, chỉ cần từ chiêm bao thức tỉnh, thế giới chiêm bao ở đâu tìm ?

Hỏi : Trí Bát nhã của con ở tại nơi con hay ở tại Đa Bảo Tháp ?

Đáp : Trong Kinh Pháp Hoa, Đa Bảo Tháp dụ cho tự tánh, vì tự tánh đầy đủ tất cả, gọi là Đa Bảo. Phải biết , Tự tánh bất nhị, khắp không gian và thời gian, nếu có chỗ nào không cùng khắp tức nhị, có một thời gian nào không cùng khắp tức nhị, cho nên, tự tánh chẳng phải chỉ ở nơi Đa bảo tháp, cũng chẳng phải chỉ ở nơi thân. Nếu chỉ ở trong Đa bảo tháp thì chỗ khác chẳng có sao ? ở trong thân ngũ uẩn cũng vậy.

Kinh Lăng Nghiêm nói :" Thân tâm thế giới, tất cả vạn vật đều là vật trong tự tánh"; Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Thân ngũ uẩn và tất cả hiện tượng thế giới, mỗi sắc tướng âm thanh, trong tự tánh đều bình đẳng nhau, đều như mộng huyễn". Sự thật từ những gì trước mắt cho đến khắp nơi đều là vậy.

Chứng Đạo Ca nói :" Bản thể tự tánh như hư không chẳng bờ bến, chẳng lìa trước mắt thường rõ ràng ( trạm nhiên ) hễ muốn tìm thì tìm không ra". Vì tìm được tức có chỗ, chẳng cùng khắp . Ví như đang ngồi tại chùa Huệ Quang thì đi đâu tìm chùa Huệ Quang nữa ! Làm sao trở về ? Từ hồi vô thỉ đâu có lìa , lìa đi chỗ nào ? Hư không đã là tự tánh rồi, chẳng lẽ còn có cái ở ngoài hư không sao ?
Tổ Sư có một bài kệ:

Xưa nay ở chung chẳng biết tên,

Tự do tự tại tự làm nên.

Bậc thánh còn chưa thể nhận thức

Phàm phu làm sao sáng tỏ được ?

 

Có lìa hồi nào đâu? Ở chung nhau mà không biết tên, bây giờ muốn sáng tỏ phải thức tỉnh, phải kiến tánh. Nếu còn trong chiêm bao, tìm hoài làm sao sáng tỏ ? Thức tỉnh rồi khỏi tìm nữa.

Hỏi : Để cho nghi tình vỡ, có cần gặp thiện tri thức không ?

Đáp : Trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Nếu tự mình không biết , phải nhờ thiện tri thức chỉ, nếu đã tự ngộ rồi, cứ chấp trước phải gặp thiện tri thức cũng không được". Tự tánh đã saün thiện tri thức, khi chưa có đường lối để đi, phải nhờ thiện tri thức chỉ, đường lối đã rõ ràng thì phải đi đúng. Nay nhiều hành giả tham thiền đã nghe tôi giảng nhiều, tự cho là mìnhø đi đúng, thật tế thì chưa, chỉ chín chữ "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" cũng còn làm không đúng, còn làm chưa được, nói chi cái khác ! Nếu đi đúng chín chữ trên, thì cứ tự đi, khỏi cần gặp thiện tri thức cũng được. Vì đến chứng ngộ rồi vẫn là vô sở đắc, nếu còn cho là mình đã chứng đã ngộ, tức có sở đắc, cũng còn chưa được.

Do đó, cần gặp thiện tri thức hay không là tùy người; người đã tin pháp môn, đã tin tự tâm, đi đúng đường lối rồi, có gặp hay không cũng có thể ngộ được. Trong Truyền Đăng Lục, có nhiều trường hợp phải gặp thiện tri thức, do thủ đoạn của thiện tri thức khiến ngộ, cũng có nhiều vị thấy người ta leo cây liền ngộ, đi đường bị vắp té cũng ngộ, bị người đánh cũng ngộ.

Có trường hợp một vị tăng đi ngang qua chợ, gặp người mua thịt hỏi người bán hàng : Hãy cắt cho tôi miếng thịt nạc kia.
Người bán thịt trả lời :" Chỗ nào chẳng phải thịt nac !"

Vị tăng đó liền ngộ.

Có một vị thì đi trên đường gặp hai người đánh nhau, ông A đánh cho ông B một bạt tai, quát rằng : "Ông không có mặt mũi hay sao ! " liền ngộ.

Tất cả đều là thiện tri thức, do công phu của mình đến mức rồi, gặp duyên liền ngộ, nếu không thì thiện tri thức nào khiến cho ngộ được ?

Hỏi : Trong Tham Thiền Phổ Thuyết có câu " Sanh diệt đã diệt, tịch diệt làm vui" là thế nào ?

Đáp : Do con mắt bệnh mới thấy hoa đốm trên không, nay thấy có sanh có diệt là tướng bệnh, tướng bệnh hết rồi tướng mạnh hiện ra, bệnh thì không vui, mạnh là vui. Nhưng, lúc bệnh chỉ hiện ra tướng bệnh, muốn tướng mạnh hiện ra phải hết bệnh, chứ đi tìm không được. Sanh diệt diệt rồi là hết bệnh, tịch diệt là tướng mạnh, bản thân tướng mạnh không có vui hay không vui, nhưng đối với tướng bệnh mà nói thì tướng mạnh là vui.

Kinh nói :" Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật", nghĩa thật thì lời nói chẳng thể đến, suy nghĩ chẳng thể diễn tả, phải tự ngộ mới được. Muốn ngộ thì đừng nên tìm hiểu nữa.

Hỏi : Trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Một niệm trí huệ thì Bát nhã sanh, một niệm ngu muội Bát nhã diệt", làm sao biết là một niệm trí huệ hay một niệm ngu muội ?

Đáp : Một niệm trí huệ tức chẳng chấp thật, một niệm ngu muội là chấp thật; chẳng chấp thật là Bát nhã sanh, chấp thật thì Bát nhã diệt. Bất cứ chấp thật cái gì, chấp có chấp không, chấp chơn chấp giả, đều là chấp thật. Hễ chấp tâm thì phá tâm, chấp Phật thì phá Phật.

Tiền niệm bất sanh là tâm, có sanh là vọng tâm sanh, chẳng phải bản tâm. Bản tâm vốn chẳng sanh diệt, Phật tánh cũng vậy, nên nói :"Hậu niệm bất diệt tức Phật", hễ có diệt là chẳng phải.

Nói "Phật tánh" cũng là bản tâm, không sanh không diệt tức tịch diệt, tịch diệt hiện tiền là Niết bàn. Niết bàn cũng do sanh tử mà có, sanh tử đã chẳng thật thì Niết bàn cũng chẳng thật, nếu còn trụ nơi Niết bàn tức còn thọ giả tướng, là ngã chấp vi tế, gọi là mê trí.

Hỏi : Bài Vô Tướng Tụng trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Muốn ngộ Đại thừa thấy tự tánh, kính lễ tri thức chí tâm cầu", Sư phụ giải thích là "cầu nơi chẳng cầu gọi là chí tâm cầu". Vậy thế nào là cầu nơi chẳng cầu ?

Đáp : Đối với hai chữ "Kiến tánh", nhiều người cho là có cái năng kiến để thấy Phật tánh, như thế thành có năng sở, còn là tướng bệnh, chẳng phải kiến tánh. Nói KIẾN TÁNH là tự tánh hiện ra, nay tự tánh bị phiền não vọng tưởng che khuất, chẳng hiện ra được, tức tướng mạnh bị tướng bệnh che lắp, khi nào trị hết bệnh thì tướng mạnh tự hiện, chứ chẳng phải là có một người năng thấy, và tướng mạnh là sở thấy, ấy là sai, là nhị.

Tự tánh bất nhị, làm sao có cầu và chẳng cầu ? Nếu chấp vào "cầu" là không thấy tánh, chấp vào "chẳng cầu" cũng không thấy tánh. Người thường ham chấp có sở cầu, tham thiền cầu kiến tánh cũng là cầu. Không được nổi niệm muốn cầu, hễ có sở cầu là tham mãi không kiến tánh được. Do đã có sở cầu rồi, nên nói "cầu nơi chẳng cầu". Nếu thật cầu pháp, là phải "Ưng vô sở cầu", tức cầu nơi chẳng cầu; cầu giải thoát cũng vậy. Vì tự tánh có trói buộc đâu mà cầu giải thoát !

Hỏi : Đối với pháp tham thiền và việc làm hàng ngày, làm thế nào tâm vô sở đắc ?

Đáp : Tổ Sư Thiền rất giản dị và triệt để, chỉ cần đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình hỏi tới hoài, tham liên tục và miên mật, tự nhiên tâm vô sở đắc. Nếu mống lên một niệm "không muốn đắc" cho là vô sở đắc, mặc dù nghĩ như thế, cái "không muốn đắc" đó đã làm không được rồi, ấy là biệt niệm, là tâm trộm cắp. Nay không cần khởi niệm muốn đắc hay không đắc, chỉ đề câu thoại đầu tham tới mãi, tự nhiên tất cả thân tâm thế giới đều quên, luôn cả tên tuổi cũng quên, tham thiền cũng quên, làm gì có đắc hay không đắc ?

Hỏi : Trong bài Vô Tướng Tụng nói :" Nếu người thật chơn tu, chẳng thấy lỗi thế gian, nếu thấy lỗi của người, trái lại thành tự quấy. Người quấy ta chẳng quấy, thấy quấy thành tự lỗi . Nếu bỏ tâm chấp quấy, phiền não đều tan rã". Vậy làm sao bỏ được tâm chấp quấy ? Ấy là do tự tu mà được hay do học được ?

Đáp : Muốn bỏ tâm chấp quấy, chẳng phải do hiểu hay do học mà được. Nói "bỏ tâm chấp quấy" là bỏ ngã chấp của mình, "thấy lỗi của người" là chấp ngã. Ngã và người là tương đối, là bệnh chấp đã thành từ vô thỉ, muốn bỏ cũng bỏ không được, nên Đức Phật mới dạy đủ thứ phương tiện. Bây giờ mình tu Tổ Sư Thiền, chỉ cần đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, không bỏ nó tự bỏ, nếu không tu mà cố ý muốn bỏ là bỏ không được, cho nên Lục Tổ nói là phải tự tu, tự chứng, tự ngộ.

Hỏi : Tại sao Lục Tổ đã tự ngộ, còn phải gặp Ngũ Tổ giảng đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" rồi ngộ thêm một lần nữa ?

Đáp : Ngài Lai Quả thí dụ : Như đã đến trước cửa thiền đường, nhìn vào trong thấy được tất cả, nhưng chỉ rõ phần trước, phần sau thì mờ. Phá được Trùng quan là vào trong nhà, nhìn thấy rõ hơn lúc đứng ở ngoài. Nhưng đối với Tổ Sư Thiền, nói diệt Phật thì dễ, diệt ma thì khó, phải phá được Mạt hậu lao quan rồi, cả Phật lẫn ma đều quét sạch, lúc đó làm gì cũng chẳng chướng ngại. Dù Lục Tổ đã ngộ, có thể chỉ là Sơ quan, sau khi nghe Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang đến câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm", liền ngộ triệt để.

Hỏi : Thế nào là đắc Bồ đề tâm ?

Đáp : Bồ đề tâm là vô sở đắc, đắc tâm vô sở đắc, mới tương ưng với pháp. Nếu khởi tâm muốn đắc là có sở cầu, có sở cầu ắt có sở sợ.

Hỏi : Tại sao nói giáo điển là việc hôm nay ?

Đáp : Mục đích Phật pháp của Phật Thích Ca là muốn độ hết tất cả chúng sanh, khiến đều giác ngộ thành Phật. Thành Phật chẳng phải là trở thành một vị thần, mà là từ chiêm bao thức tỉnh, dứt hết khổ trong chiêm bao. Phật pháp mặc dù phổ biến khắp tất cả chúng sanh, nhưng thực hành thì mỗi chúng sanh tự đi đến chỗ giác ngộ.

Muốn đạt đến giác ngộ cuối cùng phải nhờ tự lực, Kinh Pháp Bảo Đàn nói "từ nghi đến ngộ", tự ngộ mới là kinh nghiệm của chính mình, còn tam tạng giáo điển, tất cả Phật pháp là sự ngộ của Phật Thích Ca.

Tôi thường thí dụ : Ví như ăn đường, từ nhỏ chưa ăn qua, chỉ nghe người nói vị ngọt của đường như thế nào, có bao nhiêu calory. tự cho là mình đã biết đường là gì rồi, thật tế thì chưa nếm qua. Nay dù đem hết sự hiểu biết của mình , viết thành cuốn sách về vị ngọt của đường, cuối cùng chẳng biết ngọt là thế nào. Đến một ngày nào, cơ duyên chín mùi, có người mang đến cho ăn thử một phen, lúc đó mới thật biết như thế nào.

Đường là vật chất, còn phải qua kinh nghiêm thực tế mới biết, huống là tự tánh vô hình vô tướng ! Làm sao có thể ở trong Tam tạng giáo điển tìm thấy được ? Chỉ càng tìm càng xa, vì đó chỉ là lời của người khác, chẳng phải do tự chứng. Nếu chấp vào đó, chẳng những che khuất bản lai diện mục của mình, vĩnh viễn không được kiến tánh.

Cho nên, Tổ sư có một bài kệ :

Gió động tâm thổi cây, mây sanh tánh nổi trần.

Nếu rõ việc hôm nay, che khuất mặt bổn lai.

Giải : Thấy gió động là tự tâm thổi cây, chứ chẳng phải gió, thấy mây sanh là tánh nổi bụi trần, nếu thấu rõ hết việc hôm nay thì mặt mũi bản lai của mình bị che khuất.Từ gió thổi mây bay, nhà cửa cây cối, cho đến Phật pháp kinh điển, đều là việc hôm nay, bây giờ tham thiền là muốn ngộ biết mặt bản lai, phải dẹp hết tất cả việc hôm nay.
Hỏi : Đến Thập Địa Bồ tát, phá được một phần vô minh thì chứng được một phần pháp thân, vậy từ cảnh giới này sang cảnh giới khác, có phải còn pháp chấp vi tế ?
Đáp : Giáo môn có hai thứ sanh tử : Phần đọan sanh tử và biến dịch sanh tử. Dứt hết phần đoạn sanh tử rồi còn biến dịch sanh tử, tức pháp chấp chưa hết, cho đến Thập Địa Bồ tát, còn những tập khí xuất thế gian vi tế, phải đến Đẳng Giác, bước qua Diệu Giác mới hết.

Hỏi : Người hạ căn làm sao khỏi bị trận mưa lớn, mới tiến dần lên trung căn, thượng căn ?

Đáp : Đối với các pháp môn khác mới có phân biệt thượng, trung, hạ căn, còn Tổ Sư Thiền không phân biệt căn khí, sơ tham lão tham, già, trẻ, thông minh hay ngu si dốt nát đều bằng nhau. Sở dĩ có thí dụ "trận mưa lớn" trong Kinh Pháp Bảo Đàn, là vì Lục Tổ từ bi, muốn cho chúng ta biết : Người tiểu căn quá chấp thật, nên bị mưa lớn cuốn trôi. Nếu chẳng chấp liền trở thành thượng căn.

Cho nên Bác Sơn Hòa Thượng nói :" Hạ căn có thể chuyển thành thượng căn, mạt pháp chuyển thành chánh pháp", vì tất cả đều do tâm tạo. Lại, Lục Tổ nói : Một niệm trí huệ thì Bát nhã sanh, một niệm ngu mê thì Bát nhã diệt" . Bát nhã sanh là thượng căn, Bát nhã diệt là hạ căn. Tại sao gọi là trí ? Chẳng chấp thật là trí, chấp thật tức ngu muội. Ngoài ra, ngài sợ người chấp vào lời nói của ngài, nên nói :" Nay ta gượng nói ra, khiến ngươi bỏ tà kiến. Chớ hiểu theo lời nói, mới cho biết ít phần".

Hỏi : Tại sao nói kiến tướng phi tướng mới thấy Như Lai ?
Đáp : Kinh Kim Cang nói " Phàm tất cả tướng đều là hư vọng, nếu thấy tất cả tướng chẳng phải tướng, mới thấy Như Lai"; tướng có là tướng, tướng không cũng là tướng, tướng chẳng có chẳng không, cũng có cũng không cũng là tướng. Chớ cho là chỉ cần lìa tướng có, còn tướng không thì khỏi cần lìa, nếu chấp vào tướng không, bệnh càng thêm nặng. Tại sao ? Vì hễ chấp CÓ thì dùng KHÔNG để trị, còn chấp KHÔNG thì khó dùng tướng CÓ để trị, do mọi người đều coi đó như là bệnh rồi.

Nói "Lìa tướng", nay nhiều người nghiên cứu kinh điển, hay hiểu lầm chữ ‘lìa’, nếu thật sự có lìa là nhị, có ta năng lìa, có tướng sở lìa thì chưa được lìa, vì năng sở rõ ràng. Như Kinh Viên Giác nói " Tri huyễn tức lìa, lìa huyễn tức giác", đều chấp thật có huyễn có vọng để lìa, chẳng biết chỉ có "không chấp thật" đã là lìa , đã là giác. Nếu chẳng chấp huyễn là thật thì tức huyễn tức chơn; nếu chấp huyễn là thật thì chơn cũng là huyễn .

Kinh Lăng Nghiêm nói :"Vọng với chơn là hai thứ vọng", chẳng chấp vọng, chơn là thật, ấy tức lìa. Nếu chấp cho là thật mà muốn lìa, là đuổi theo lời nói, bị huyễn dính mắc, chẳng hiểu nghĩa chữ lìa.

Hỏi : Con người từ đâu đến ? Chết đi về đâu ? Tu kiếp này chưa giải thoát, sau khi chết quên hết rồi, kiếp sau làm sao tiếp tục ?

Đáp : Tham Tổ Sư Thiền chính là phải giải quyết việc này trước khi chết. Người thường chấp thân ngũ uẩn này là ta, sau khi chết đem đi thiêu thành tro, chôn thành đất, nếu thật là ta, chẳng lẽ đống tro, cụt đất là ta sao ? Nếu tro đất chẳng phải ta thì thân này chẳng phải ta, vậy ta chơn thật là gì ? Từ đâu đến ? Đi về đâu ? Phải tự ngộ mới được.

- Còn nói đến sự tu tâp từ nhiều kiếp hay tu trong một kiếp rồi sau đó sẽ quên, thức thứ tám còn gọi là hàm tạng thức, tức như một hạt giống giữ trong kho tàng, chẳng kể bao lâu, khi khởi lên hiện hành rồi mới mất. Khi còn bé khởi lên một niệm, tưởng chừng đã quên mất, nhưng sự thật là không quên, đến khi lớn lên, thình lình gặp cảnh duyên rồi nhớ lại, gọi là hàm tạng. Ví như tham Thiền, dù chỉ tham có một ngày rồi chết, , cũng tạo được cái nhân vô vi, kiếp sau hay nhiều kiếp sau, cơ duyên chín mùi, sẽ được quả vô vi.

Nay chúng ta chưa ngộ, đâu thể biết được đã tu nhiều kiếp hay không, nhưng nếu nhiều kiếp chẳng tu thì đại chúng làm sao có nhân duyên cùng hội tụ ở đây nghe tôi giảng về pháp môn Tổ Sư Thiền ? Lục Tổ có nói : " Các người hôm nay đến đây nghe tôi thuyết pháp, đã gieo trồng thiện căn từ bao nhiêu kiếp rồi ". Nếu không gieo trồng thiện căn, như bà lão ở thành Đông hồi đời Phật, dù sanh cùng giờ, cùng ngày, cùng năm với Phật cũng chẳng thể gặp được. Do đó, Kinh Kim Cang nói là :" Đã gieo trồng thiện căn từ vô lượng Phật", mới có thể tin vào pháp môn này, tu theo pháp môn này.

Hỏi : Người tham Thiền chúng con, đa số sai phạm vào đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiền, vậy xin Sư phụ từ bi chỉ dạy thêm .

Đáp : Trong cuốn Đường lối thực hành tham Tồ Sư Thiền nói : Người tham thiền phải chú ý đến 10 điều, điều thứ nhất là PHÁ NGÃ CHẤP, VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ SỢ. Phật pháp là chánh pháp, phải phá ngã chấp mới có thể đạt đến tự do tự tại, thoát khỏi sanh tử luân hồi. Ngoại đạo mặc dù thiền định rất cao, cũng tu có thần thông, do không phá ngã chấp, nên không được giải thoát.

Ngoại đạo cũng có năm thứ thần thông, nhưng không được lậu tận thông, phải tu theo chánh pháp, ngã chấp phá hết rồi mới đạt được. Khi phá hết ngã chấp, vọng tưởng sạch rồi, tự tánh vốn saün thần thông, biến hóa vô lượng vô biên, chẳng bị thời gian, không gian, số lượng hạn chế.

- Nếu hạ quyết tâm vì giải thoát khổ sanh tử, phải tham đúng tông chỉ của Tổ Sư Thiền, nhất là điều thứ nhất, nếu vi phạm chín chữ này, sẽ lọt vào tà ma ngoại đạo. Nay có một số hành giả, sau khi tham dự thiền thất năm, bảy lần tại Chùa Từ Ân, tự cho là đã hiểu thấu, tự làm tài khôn lãnh đạo người khác tham thiền, thuyết pháp dạy người tìm hiểu thêm, chẳng những không phá được ngã chấp, lại tăng thêm ngã chấp, ấy là nghịch với ý chỉ Tổ Sư Thiền. Những người như thế sau này chắc chắn sẽ đọa địa ngục.
-Trong Kinh Lăng Nghiêm nói có bốn thứ địa ngục :
1. Phỉ báng Đại thừa, 2. Phá Phật luật nghi, 3. Cuồng vọng thuyết pháp, lấy ý mình thay cho ý Phật. 4. Hư tiêu tín thí.
Chẳng có chơn thật tu hành, tự giác giác tha mà lãnh thọ sự cúng dường của mười phương, thọ nhận Phật tử cung kính lễ bái, chẳng biết điều đó rất nguy hiểm, chẳng phải là phước báo đâu. Tín đồ bố thí mà tự mình chẳng có sự chơn tu, không biết tự giác giác tha, đọa địa ngục chịu hết khổ báo xong, còn phải đầu thai thành trâu ngựa trả nợ thí chủ.

- Trong Tam Bảo, tại sao bậc tu sĩ được gọi là Tăng Bảo? Vì nếu có Phật Bảo, Pháp Bảo, chẳng có Tăng Bảo , không ai thay Phật trực tiếp giáo hóa chúng sanh thì Phật pháp phải tiêu diệt; do có Tăng Bảo truyền thừa, Phật pháp mới thường trụ nơi thế gian. Đã được thế gian tôn xưng là Tăng Bảo rồi, phải có tư cách làm Tăng , nếu không tức là hư tiêu tín thí, tạo tội địa ngục.
- Tôi nói như thế chẳng phải là ai ai cũng phải biết thuyết pháp, cũng biết dạy chúng sanh. Không biết thuyết pháp, nhưng thân này giữ đúng luật nghi, làm gương mẫu cho người đời nương theo, khiến cung kính Phật pháp, cũng là giáo hóa chúng sanh. Do đó, trong Giới luật nhà Phật qui định : Tỳ kheo phải học mười năm mới được xa thầy, Tỳ Kheo Ni mười hai năm, sau đó mới được tự lập, thu nhận đệ tử. Suốt đời chỉ được nhận ba người đệ tử, cũng chẳng được thu nhận một lúc, phải nhận từng người một, dạy cho thấu hiểu Phật pháp rồi, mới được nhận tiếp người thứ hai, rồi người thứ ba. Nếu nhận đệ tử mà không biết dạy, đệ tử tạo tội địa ngục là do lỗi của người thầy, hai người cùng đọa địa ngục. Nếu thầy đã dạy mà đệ tử cố sai phạm , lỗi tại người đệ tử, chứ thầy không phải chịu trách nhiệm.

Hỏi : Tại sao tham thiền có một thời gian rất buồn ngủ, không thể cưỡng lại được. Mà trong Đường lối tham thiền thì nói là không được đè nén vọng tưởng, vậy phải làm sao ?

Đáp : Giai đoạn buồn ngủ đó , hành giả nào cũng phải trải qua. Bước đầu tham thiền, thấy vọng tưởng nổi lên nhiều hơn lúc chưa tham, kế đó, vọng tưởng bớt rồi sẽ cảm thấy rất buồn ngủ, có thể trải qua mấy tháng hoặc một năm mới qua khỏi giai đoạn này. Đến giai đoạn này, nếu hành giả ráng thức được thì thức, không cố được thì ngủ, ngủ dậy rồi tham tiếp. Một thời gian sau sẽ hết.

Hỏi : Trong quá trình tập tham, con thường có những nỗi lo âu và thắc mắc, nhưng không biết đó là gì ? Xin Sư phụ từ bi chỉ dạy.

Đáp : Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục và Thiền Thất Khai Thị Lục nói : Người hành giả tham thiền đến một mức độ nào, sẽ có những cảm giác như sư vừa trình bày; thấy trong lòïng không yên nhưng không biết tại sao. Đối với người đời thì đây là do sự lo âu vì cuộc sống, còn đối với hành giả tham thiền, cảm thấy bức rứt không yên, là vì chưa được kiến tánh, chưa thể giải thoát. Nói tóm lại, sự không yên của thế gian là đuổi theo ngã chấp, còn hành giả tham thiền là chưa phá được ngã chấp, chưa phá hết ngã chấp nên không yên. Nhưng không cần lo âu, cứ giữ mãi câu thoại đầu tham tiếp, hễ có đi là sẽ đến nơi.

Hỏi : Tại sao Minh Bổn Thiền sư trong cuốn Trung Phong Pháp Ngữ về bài Khai Thị cho Thượng nhơn Mục nói : " Câu thoại đầu mình tham là bệnh, hễ mắc vào tất cả kiến văn giác tri là bệnh", lại, ở đoạn sau Ngài nói : "Muốn trị dứt các bệnh, chẳng có cách nào hơn, chỉ có thiết tha tham câu thoại đầu". Vậy, ngài nói về câu thoại đầu ở đoạn trước là kiến văn giác tri, đoạn sau thì chẳng phải kiến văn giác tri ư ?

Đáp : Trong Kinh Lăng Nghiêm , có một đoạn ở trước nói về kiến văn giác tri như sau :
Phật nói với A Nan : "Nay ngươi thấy ta, thấy núi sông đất đai, nhà cửa cây cối. đều là kiến bệnh đã thành từ vô thỉ"

Ở đoạn sau Phật lại nói :" Tất cả kiến văn giác tri là Như Lai Tạng" tức tự tánh. Hai đoạn khác nhau, vậy làm sao phân biệt giữa kiến văn giác tri bệnh và kiến văn giác tri tự tánh ?

Cũng chính ở Kinh Lăng Nghiêm nói :" Kiến văn giác tri của tự tánh chẳng sanh diệt, còn kiến văn giác tri bệnh thì có sanh diệt". Tại sao nói có sanh diệt ? Vì hễ thấy là sanh , không thấy là diệt; có nghe là sanh, không nghe là diệt.còn kiến văn giác tri của tự tánh, từ vô thỉ đến bây giờ, luôn luôn như thế, chẳng gián đoạn, chẳng sanh diệt, thấy hoặc không thấy cũng luôn luôn như thế. Do đó, chẳng có sự thấy hay không thấy, nghe hay không nghe, tri giác hay không tri giác v.v. phân biệt ở chỗ có sanh diệt và không sanh diệt.
Bây giờ tham thoại đầu, chỉ là tạm mượn câu thoại đầu để khởi lên nghi tình, như hai chân yếu không đi được, phải tạm mượn cây gậy để đi. Câu thoại đầu là cây gậy, nghi tình là đi. Khi nào đến nơi rồi cây gậy phải bỏ, nếu chấp vào cây gậy là bệnh. Cho nên, hễ tìm hiểu câu thoại đầu là bệnh, phải nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình, đi đến chỗ chẳng có bệnh.

Hỏi : Lúc trước con bắt đầu công phu từ ba giờ khuya, nhưng gần đây mới chỉ mười hai giờ hoặc một giờ khuya là con đã thức giấc rồi, vậy có sao không ?
Đáp : Tham thoại đầu là hai mươi bốn giờ không gián đoạn, chứ không phải là bắt đầu từ ba giờ khuya. Nói ‘ba giờ mới bắt đầu’ ấy là sự bất đắc dĩ, bất cứ giờ nào, bất cứ nơi nào đều phải có công phu. Do công phu của mình chưa đến thoại đầu, chưa thành khối, nên có sự gián đoạn. Ví như ngủ quên, ấy là bất đắc dĩ, khi công phu thuần thục rồi, thành khối rồi ,ngủ quên cũng có thoại đầu.

Hỏi : Tạo tất cả tội, làm sao được kiến tánh ?

Đáp : Tại sao tạo tất cả tội ? Tại chấp ngã, chấp thân này là ta, do ngã chấp mới tạo tất cả tội, vì có TA mới phải chịu tội, nếu không có ta, ai chịu tội ? Hễ phá được ngã chấp là kiến tánh. Tất cả tội ác là việc trong chiêm bao, bây giờ tướng bệnh hiện hành thì tướng mạnh ẩn, nếu tướng mạnh hiện ra tức tướng bệnh hết, thấy được Pháp Vương của mình, từ chiêm bao thức tỉnh, nhân quả trong chiêm bao đi đâu tìm ? Làm sao còn khổ và phiền não? Không giải thoát cũng phải giải thoát.
* Có người hỏi Tổ Đạt Ma : Người thế gian đủ thứ tu tập, tại sao chẳng đắc đạo ?

Tổ sư Đáp : Tại thấy có TA nên chẳng đắc đạo. Nếu chẳng thấy có ta thì tự nhiên đạt đạo. Vì "ta" còn quên thì có gì không quên ư ?

Hỏi : Nếu pháp đã không thì ai cần tu đạo ?

Đáp : Có "ai" mới phải tu đạo, nếu không có "ai", đâu cần tu đạo ! Kỳ thật, sanh tử, Niết bàn, giải thoát, Bồ đề v.v.. đủ thứ tên gọi đều do chấp tâm của mình đặc ra, cũng như do chấp tâm mới có câu hỏi này, cho là có sự nhất định. Không biết tất cả đều chẳng thật, chẳng có tự tánh, chẳng có sự nhất định: Tạo phước cũng chẳng có sự nhất định, tạo tội cũng chẳng có sự nhất định. Nếu có nhất định thì là một thế giới chết, chẳng có biến đổi, chúng sanh vĩnh viễn là chúng sanh, Phật vĩnh viễn là Phật. Thế thì khỏi cần tu tập, tu cũng chẳng thể thay đổi, chẳng thể giải thoát. Vì nếu tự tánh vốn là chúng sanh thì tu cách mấy cũng không thể thành Phật; nếu tự tánh vốn là Phật thì không thể biến thành chúng sanh. Tại ông bệnh chấp quá nặng, chấp có chúng sanh thật để tạo tội, có Phật thật để giải thoát, nên trí huệ bị che khuất.
 

Hỏi : Tín tâm bất nhị, nếu tự tánh chẳng xứ sở thì dựa vào đâu ? Làm sao phát khởi tín tâm ?

Đáp : Nói "Bất nhị" là chẳng phải vật chất, chẳng có nơi chốn. Bất nhị thì làm sao có năng sở ? Làm sao có ai tin hay không tin ? Chẳng có năng tin và sở tin. Tại chấp mới có tin tâm. Do đó, tất cả tôn giáo đều bắt nguồn từ hai chữ "Tín ngưỡng", hễ không có tín ngưỡng thì không có tôn giáo.

Còn Phật giáo là xóa bỏ tín ngưỡng. Tại sao ? Tự tánh bất nhị, nếu có tín ngưỡng là nhị; có ta tín ngưỡng Phật, tín ngưỡng Thiên Chúa v.v.Tôi nói Phật giáo xóa bỏ tín ngưỡng, mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên, nay chưa kiến tánh thì nói là phải tin tự tâm, đến khi kiến tánh rồi, tự động sự "tin tự tâm" cũng không còn. Tại sao ? Vì chẳng còn năng tin sở tin, chẳng phải có mục tiêu để cho mình tin. Nói "xóa bỏ tín ngưỡng" không phải có cái năng xóa và sở xóa, vì tánh vốn như thế, do có câu hỏi nên phải trả lời như thế; vốn là chẳng có tín ngưỡng để xóa bỏ, thì làm gì có cái năng tin sở tin mà khởi lên tín tâm ? Chẳng có AI thì lấy gì để tu đạo ?

Hỏi : Phạm vi ngã chấp rất rộng, làm sao lấy chín chữ " Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" để phá ?

Đáp : Ngã chấp là ta, có ta thì phải có sở đắc. Nay gặp được chánh pháp, phát tâm tu hành cầu giải thoát, tham thiền cầu đắc đạo, tâm cầu giải thoát ấy là có sở cầu, là muốn chứng đắc, dể lọt vào năm mươi thứ ngũ ấm ma hoặc tà ma ngoại đạo. Vậy tại sao nói tham thiền được kiến tánh ? Sự kiến tánh đó chẳng phải là có sở đắc sao ?

Đối với người chưa kiến tánh thì cho là mình sẽ được kiến tánh; người chơn thật kiến tánh không cho mình đã được kiến tánh, người thật đã giác ngộ thành Phật, mới biết là chẳng có Phật để thành, làm sao có sở đắc ? Nếu có sự chứng đắc, tức chưa giác ngộ, chưa thấy tánh, chưa thành Phật, vì còn có ngã, bất quá là ngã chấp vi tế thôi.

Nếu vô sở đắc thì trong tâm chẳng có cái "đạo" để đắc. Nói như thế không phải là không đắc đạo, không chứng đắc, chỉ là hết ngã chấp thôi. Đã không có cái TA thì ai cầu ? ai sợ ?

Nói tóm lại, nếu làm được chín chữ "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" tức phá được ngã chấp, không những mê thức tứ tướng của phàm phu, kể cả mê trí tứ tướng của bậc Thánh đều phá sạch.

Hỏi : Thiền sư Minh Bổn trong cuốn Trung Phong Pháp Ngữ có dạy :" Ngoài thoại đầu ra không riêng có sanh tử, ngoài sanh tử ra không riêng có thoại đầu" là thế nào ?

Đáp : Tự tánh bất nhị, Lục Tổ nói :" Thuyết pháp chẳng lìa tự tánh ". Tham thoại đầu khởi lên nghi tình , nghi tình mịt mù không biết gì cả là bất nhị, hể có sự biết thì không có nghi tình, lọt vào tứ cú là nhị. Nếu không lọt vào tứ cú thì nghi tình tức tự tánh, tự tánh tức nghi tình, chẳng những như thế, sắc thân tức pháp thân, pháp thân tức sắc thân, ở ngoài sắc thân không có pháp thân, ở ngoài pháp thân không có sắc thân. Tại do tâm chấp thành nhị.

Hỏi : Có một hành giả đang công phu đắc lực, được mọi người khen ngợi, khiến ngã chấp nổi lên, phiền não ập đến, đánh mất công phu, lại đổ lỗi cho mọi người xung quanh chướng ngại công phu của mình. Ghét luôn cả chính mình, muốn trốn đi một nơi hẻo lánh để bỏ thân xác này. Nhân sự việc kể trên, xin Sư phụ khai thị thêm cho chúng con.

Đáp : Phật pháp khác với ngoại đạo là phải phá ngã chấp; muốn giải quyết việc sanh tử , muốn tu giải thoát , phải phá ngã chấp, nếu không sẽ thành ngoại đạo. Cho dù làm bao nhiêu phước thiện, sau khi hưởng hết phước báo cũng phải bị đọa.

Nếu lấy sự phá ngã chấp làm căn bản, dẫu cho người xung quanh có trực tiếp chướng ngại, cũng là thiện tri thức của mình. Nếu không phá ngã chấp thì không có chướng ngại cũng thành chướng ngại.

Hỏi : Làm sao "hữu tình vô tình đồng thành Phật đạo "?

Đáp : Tất cả duy tâm tạo, đâu có cái nào ở ngoài tâm ? Hữu tình do tâm tạo, vô tình cũng do tâm tạo; nếu tâm chẳng tạo thì hữu tình cũng không , vô tình cũng không , tức đã thành Phật, làm gì có sự khác biệt giữa hữu tình và vô tình ? Do tâm có tạo mới thành đủ thứ sai biệt : Hữu tình cũng muôn ngàn sai biệt, vô tình cũng muôn ngàn sai biệt.

Hỏi : Hư Vân Thiền sư có nói :" Thiền và Tịnh là một; tham thiền cũng là câu thoạïi đầu, niệm Phật cũng là câu thoại đầu", nghĩa là thế nào ?

Đáp : Ngài Hư Vân chỉ nói :" Niệm Phật là niệm, tham thiền là tham, nếu không có tham thoại đầu mà chỉ niệm thoại đầu, tức thành thoại vĩ, chi bằng niệm Phật". Đâu có nói Thiền và Tịnh là một ? Nhưng kết quả thành Phật là một, chứ chẳng phải đường lối thực hành là một.

Hỏi : Thế nào là nghi tình tức tự tánh, tự tánh tức nghi tình ?

Đáp : Chẳng những nghi tình tức tự tánh, tất cả đều là tự tánh, ấy mới thật sự bất nhị. Nếu có cái gì khác hơn tức là nhị .

Hỏi : Làm thế nào khiến nơi nào cũng thiền đường, ở đâu cũng thiền thất, để công phu được đắc lực ?

Đáp : Trong bài kệ Kinh Hoa Nghiêm :" Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán Pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo" Tất cả đều do tâm tạo, khắp không gian thời gian, tất cả đều chẳng ở ngoài tâm. Thiền đường cũng là do tâm tạo, do người đời chấp tâm quá nặng, nên Tổ Sư mới lập ra thiền đường , tạo điều kiện cho mọi người tham thiền.

Người chơn thật tu hành muốn giải quyết việc sanh tử thì nơi nào cũng là thiền đường, bất cứ đang lao động, đang làm nghề gì cũng tham được, chẳng phải ở nơi vắng lặng mà tham. Đó là tùy theo căn cơ trình độ của mỗi người, dĩ nhiên có thiền đường sẽ dễ thực hành hơn, tăng trưởng lòng tin. Như Lục Tổ nói :" Tất cả đều chẳng chướng ngại", nếu quyết tử tham thiền thì không có phân biệt, cứ tùy duyên mà tu tập.

Hỏi : Có thể biết thêm kinh nghiệm của chư Tổ để tăng trưởng lòng tin ?

Đáp : Muốn biết về kinh nghiệm của chư Tổ, hãy xem Truyền Đăng Lục : Ban đầu chỉ có một ngàn bảy trăm công án, về sau là bảy ngàn công án. Công án mặc dù nhiều, nhưng kinh nghiệm mỗi người mỗi khác, nếu chấp vào đó thì chướng ngại sự tham của mình.

Chứng Đạo Ca nói :" Chớ nên hướng vào chỗ đường đi của Phật mà đi". Đường đi của Phật là của Phật, chẳng phải của mình, Tổ Sư Thiền không phải là học, mà là thực hành, tự tánh bất nhị, phải là của chính mình, chứ không được của người khác.

Giáo môn nói :" Ngoài tâm chẳng Phật, ngoài Phật chẳng tâm; ngoài tâm chẳng pháp, ngoài pháp chẳng tâm", tâm, Phật và chúng sanh không sai biệt. Hành giả tham thiền chỉ để ý đến câu thoại đầu của mình, chứ không biết tới người khác.

Hỏi : Tại sao Kinh nói "Vô tướng mới thấy tánh, vô niệm mới thấy tâm"?

Đáp : Tự tánh vốn chẳng khác, tướng là tánh, tánh là tướng , nếu phân biệt tánh tướng khác nhau, như Giáo môn nói :" Tướng có thay đổi, tánh thì không" , ấy là nhị. Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Sắc thân tức pháp thân, pháp thân tức sắc thân, ngoài sắc thân không có pháp thân, ngoài pháp thân không có sắc thân". Giáo môn thì có phân biệt tánh với tướng, tham thiền không cần biết tới, chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình tham tới mãi, luôn cả thân mình và thế giới đều quên.

Một vị tăng trình lên công phu của mình và hỏi : . Sau một thời gian công phu, khi có người hỏi về điều gì, tự nhiên tuôn trào những thơ kệ, rồi có lúc tham đến không biết giờ ăn giờ ngủ. Mấy lần đem công phu trình hỏi Sư phụ, Sư phụ không trả lời cũng không gật đầu. Lúc đầu con nghi đó là thủ đoạn của Sư phụ, nhưng đến nay thì hết nghi. Đối với những kinh kệ và ngữ lục của chư Tổ , bây giờ phát sáng lên, và biết đó là tự tánh saün có, khi vô minh phai mờ thì con được tự tại. Đối với sự chẳng hứa khả của Sư phụ, con lĩnh hội rằng :" Kiến sắc phi chơn sắc, văn thinh phi thị thinh", vậy có đúng không ?

Đáp : Tất cả những gì sư nói, toàn là tu theo ngã chấp, vì có sở đắc, nên lọt vào ma ngũ ấm mà chẳng hay, còn tự tung ra thơ kệ, thêm nhiều chướng ngại. Aáy là có sở đắc, có sở cầu, có ngã chấp , nếu nói như thế là công phu miên mật, là có nghi tình thì không đúng. Vì hễ công phu miên mật, đâu còn tâm sở đắc ? Hãy về xem kỹ lại cuốn 50 thứ ngũ ấm ma sẽ tự rõ.

Tăng nói : Nay con đã bỏ hết tất cả những thơ kệ trong khi tiếp chuyện, con trình công phu là để thể hiện do công phu nên đối với những cảnh nghịch duyên, lăng mạ của người khác, con chẳng những không sanh tâm sân hận, trái lại rất tự tại và thấy thương cho họ.

Đáp : Nói tự tại thì chẳng phải tự tại, nếu công phu không mất , thơ kệ làm sao nổi lên được ? đã có thơ kệ là vọng, là bị gián đoạn rồi. Lại, biết thương và ghét cũng là vọng, nói tóm lại, nếu còn tu theo ngã chấp, mặc dù có thiền định cao, cuối cùng không lọt vào tà ma cũng lọt vào ngoại đạo, chẳng thể giải thoát.nay cứ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, đừng có biết tới nữa, biết là tai họa.


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang